![]() |
Phục Sinh - Chương 91 - 93
PHỤC SINH Chương 91 Về đến nhà, Nekhliudov thấy mảnh giấy của chị để lại trên bàn, bèn đi ngay đến chỗ chị ở. Lúc ấy vào buổi chiều chỉ có Natalia Ivanovna đón em, chồng nàng nghỉ ở phòng bên cạnh. Nàng mặc một chiếc áo dài lụa đen may vừa khít người; trên ngực có một dải băng đỏ, tóc mây chải bồng theo kiểu mới nhất. Rõ ràng là nàng đã phải dụng công tô điểm cho mình trẻ lại để làm vừa lòng một người chồng cùng tuổi. Trông thấy Nekhliudov, nàng nhổm ngay dậy khỏi chiếc đi-văng, vội vã bước lại đón em, tiếng váy áo lụa sột soạt. Hai chị em ôm hôn nhau và nhìn nhau mỉm cười. Trong khóe mắt nhìn nhau bí mật, khó nói nên lời nhưng chứa chan ý nghĩa ấy, tất thẩy đều chân thành. Nhưng những lời trao đổi tiếp theo thì không còn chân thành như vậy nữa. Hai chị em không hề gặp nhau kể từ khi bà mẹ từ trần. - Chị béo và trẻ ra đấy. - Nekhliudov nói. Cặp môi Natalia run lên vì sung sướng. - Còn cậu thì gầy đi. - Anh Ignati Nikiforovich có khỏe không chị? - Anh ấy đang nằm nghỉ, cả đêm qua, anh ấy không ngủ được. Hai chị em có nhiều điều cần nói với nhau, nhưng lời lẽ của họ không nói chi đến, song khóe mắt họ nhìn nhau lại nói lên hết những điều cần nói mà không nói ra. - Chị đã lại đằng cậu ở. - Có em đã biết… Em không ở đằng nhà cũ của chúng ta nữa vì thấy nó to rộng quá. Em ở đó một mình, cô đơn và buồn. Em không cần đến những thứ đó. Chị hãy nhận lấy tất cả đồ đạc và mọi thứ. Bà Agrafena Petrovna đã nói với chị rồi. Chị cảm ơn cậu, nhưng… Lúc bấy giờ, người bồi khách sạn bước vào, tay bưng một bộ đồ pha bằng bạc. Hai người im lặng khi người bồi đặt bộ ấm chén xuống. Natalia Ivanovna ra ngồi vào một chiếc ghế bành để trước bàn và lặng lẽ pha trà. Nekhliudov cũng nín lặng. - À, nầy, Dmitri, chị biết tất cả rồi, - Natalia vừa nói, giọng cương quyết, vừa đưa mắt nhìn em. - Chuyện gì vậy? Thế thì càng hay, chị ạ? - Cô ta đã qua một cuộc đời như vậy mà cậu còn hy vọng cải hoá được ư? Nekhliudov ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế dựa nhỏ, không tựa lưng vào đâu cả, chăm chú nghe chị nói, cố gắng hiểu thật rõ để trả lời được phân minh. Lần gặp gỡ vừa qua với Maxlova đã đem lại cho Nekhliudov một tâm trạng còn đang tràn ngập một niềm vui thanh thản và đầy thiện ý với tất cả mọi người. - Không phải em muốn cải hoá cô ta đâu, mà là cải hoá chính bản thân em, - chàng trả lời. Natalia Ivanovna thở dài. - Thiếu gì cách khác, cứ gì phải lấy cô ta mới được. - Em thì em tin rằng đấy là cách tốt nhất; ngoài ra nó còn mở cho em một thế giới, ở đó em có thể giúp ích được. - Chị không tin rằng làm như vậy sau nầy cậu có thể sung sướng được. Đây không phải là vấn đề hạnh phúc của em. - Tất nhiên là thế, nhưng còn cô ta, nếu cô ta là người có tâm địa tốt, cô ta cũng không thể lấy thế làm sung sướng được, ngay cả mong muốn được thế thôi cũng không được Cô ấy không hề mong muốn thế. - Chị hiểu, nhưng cuộc sống… - Cuộc sống, sao kia ạ? - Cuộc sống đòi hỏi một cái gì khác cơ? - Cuộc sống chẳng đòi hỏi một cái gì khác ngoài việc giúp chúng ta phải làm tròn bổn phận của chúng ta, - vừa trả lời, Nekhliudov vừa nhìn khuôn mặt chị, khuôn mặt vẫn còn xinh đẹp, mặc dù quanh khóe mắt và hai bên mép đã có những vết nhăn li ti. - Chị chịu không hiểu được, - nàng vừa nói vừa thở dài. "Chị yêu quý, tội nghiệp? Tại sao chị mình lại có thể thay đổi đến thế được nhỉ?" - Nekhliudov tự hỏi, chàng nhớ lại hình ảnh Natasa hồi còn con gái, và cảm thấy đối với người chị thân yêu, lúc nầy chàng có một tình thương êm đềm đúc kết bằng muốn vàn kỷ niệm thời thơ ấu. Vừa lúc đó, Ignati Nikiforovich bước vào. Điệu bộ vẫn như mọi khi, đầu ngẩng cao, ngực ưỡn ra, một nụ cười trên môi, hắn bước những bước nhẹ nhàng, mềm mại, đôi mắt kính, chiếc đầu hói và chòm râu đen nhẫy, tất cả đều bóng loáng lên. - Chào ông! Chào ông! - Hắn nói, giọng kiểu cách. Mặc dầu ngay từ ngày đầu khi Ignati Nikiforovich mới lấy Natalia, hắn và Nekhliudov, cả hai bên đều cố gắng gọi nhau bằng "anh em" nhưng rồi họ vẫn xưng hô với nhau bằng những tiếng trân trọng như đối với người ngoài. Họ bắt tay nhau. Ignati Nikiforovich nhè nhẹ ngồi lọt xuống ghế bành. - Tôi không làm cản trở câu chuyện của cả hai người chứ? - Không, những điều tôi nói và những việc tôi làm, tôi chẳng giấu giếm ai hết. Thoạt mới trông thấy bộ mặt và những bàn tay lông lá mới thoạt nghe cái giọng kẻ cả bao dung, tự đắc ta đây tức thì trong người Nekhliudov thấy không còn chút ôn hoà nào nữa. Natalia Ivanovna nói: - Vâng, hai chị em tôi đang nói chuyện với nhau về ý định của cậu ấy. Rót nước anh uống nhé? - Nàng nói thêm và cẩm lấy ấm chè. - Ừ cho anh một chén. Ý định gì vậy? - Ý định đi Siberi theo đoàn tù trong đó có một người phụ nữ mà với người đó, tôi đã có tội. - Nekhliudov nói. - Tôi đã được nghe nói không những chỉ đi cùng với người ấy, mà còn hơn thế nữa. - Phải, còn lấy người ấy nữa, nếu như người ta đồng ý! - À ra thế! Nhưng, nếu ông thấy không phiền, xin ông cho tôi rõ những lý do. Thực tôi không hiểu. - Lý do là người phụ nữ ấy… là bước đầu tiên của người ấy trên con đường truỵ lạc… - Nekhliudov bực với chính mình vì đã không tìm được những lời thích hợp. - Lý do là chính tôi là kẻ thủ phạm mà cô ta lại bị trừng phạt. - Nếu bị trừng phạt thì chắc không phải cô ta vô tội đâu? - Hoàn toàn vô tội. Và Nekhliudov thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vẻ xúc động không cần thiết. - Đấy là trường hợp sơ suất của viên chánh án do các bồi thẩm đã trả lời thiếu suy nghĩ. - Nhưng những trường hợp ấy đã cớ Khu mật viện. Khu mật viện đã bác đơn kháng án. - Nếu Khu mật viện bác đơn thì hẳn những lý do phá án không đầy đủ. - Ignati Nikiforovich trả lời, hiển nhiên y hoàn toàn cùng một quan niệm phổ biến cho rằng chân lý là một sản phẩm của những phán quyết của toà án - Khu mật viện không thể đi sâu thẩm xét lại thực chất của vụ án. Nếu quả thật có sai lầm thì phải đệ sớ kêu lên Hoàng thượng. - Tôi đã đệ sớ, nhưng chẳng hy vọng có kết quả gì đâu. Người ta sẽ tư hỏi bộ Tư pháp, bộ Tư pháp sẽ lại hỏi Khu mật viện, Khu mật viện sẽ nhắc lại lời phán quyết của mình và kẻ vô tội lại vẫn bị trừng phạt như trước. - Điểm thứ nhất: Bộ Tư pháp sẽ không hỏi Khu mật viện, - Ignati Nikiforovich nói, với một nụ cười khoan dung kẻ cả. - Họ sẽ tư hỏi toà án nộp hồ sơ và nếu phát hiện ra sai lầm, họ sẽ có những kết luận thích đáng. Điểm thứ hai: Những người vô tội không bao giờ, hay ít nhất thì cũng hiếm khi bị trừng phạt, chỉ những kẻ có tội mới bị trừng phạt thôi. - Ignati Nikiforovich vừa ôn tồn nói, vừa mỉm cười vẻ thoả mãn. - Tôi thì tôi tin chắc là trái hẳn lại. - Nekhliudov trả lời vẻ ác cảm ra mặt đối với người anh rể. - Tôi tin chắc rằng đa số những người bị kết án là vô tội. - Sao lại thế? - Họ vô tội, theo đúng nghĩa đen hai chữ ấy; vô tội như người phụ nữ nầy thì bị kết tội đầu độc; vô tội như người nông dân mà tôi mới biết gần đây, đã bị kết tội giết người mà thực ra anh ta không hề phạm, vô tội như hai mẹ con nhà kia bị khép vào tội đốt nhà, mà kẻ đốt nhà lại chính là tên chủ nhà, vậy mà suýt nữa họ bị kết án đấy. - Tất nhiên những sai lẩm của Toà án thì trước kia cũng đã có và sau nầy cũng còn có. Một cơ quan của người trần thì không thể nào mười phần hoàn hảo cả mười được. - Ngoài ra, đại đa số những người bị kết án đều vô tội Vì được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh nào đấy, họ không coi những hành vi họ đã làm là tội lỗi. - Xin lỗi, không đúng đâu. Bất cứ thằng ăn trộm nào cũng biết rõ rằng ăn trộm là xấu, rằng không nên ăn trộm, rằng trộm cắp là phi đạo đức, - Ignati Nikiforovich nói, vẫn nụ cười bình tĩnh, tự đắc, hơi khinh khỉnh một chút, khiến cho Nekhliudov rất đỗi bực mình. - Không, người ăn trộm không biết thế đâu; người ta bảo anh đừng có ăn trộm; nhưng anh ta trông thấy và biết rằng những chủ xưởng đã dùng cách khấu đầu khấu đuôi tiền công để ăn cắp của anh ta; anh ta đều biết rằng chính phủ với tất cả số viên chức của nó, không ngừng móc túi anh ta, dưới hình thức thuế khoá. - Đấy là chủ nghĩa vô chính phủ rồi đó, - Ignati Nikiforovich bình tĩnh giải thích những lời nói của ông em vợ. - Tôi không biết đó là cái gì, nhưng thực sự có thế nào tôi nói thế. Anh ta biết rằng chính phủ móc túi anh ta; anh ta biết rằng chúng ta, những người chủ ruộng đất, đã cướp bóc anh ta từ đầu, bằng cách chiếm đoạt phần ruộng đất của anh ta, mà ruộng đất đó lẽ ra phải là của chung tất cả mọi người. Thế rồi khi anh ta nhặt mấy cành củi khô trên đất đai đã bị chiếm đoạt đó để về nhóm bếp, chúng ta tống anh ta vào tù và bắt anh ta phải tin rằng anh ta là quân trộm cắp. Vậy mà anh ta biết rõ rằng quân trộm cắp không phải là anh ta mà là kẻ đã chiếm đoạt đất đai của anh ta, biết rằng đòi lại bất kỳ những cái gì đã bị cướp mất là một nhiệm vụ đối với gia đình anh ta. - Tôi không hiểu, hoặc nếu tôi không hiểu, tôi cũng không thể tán đồng ý kiến ấy được. Đất đai không thể không là tài sản của một người nào đó. Nếu ông đem chia nó ra. - Ignati Nikiforovich bắt đầu nói, hắn bình tĩnh và hoàn toàn tin chắc rằng Nekhliudov là người theo chủ nghĩa xã hội và yêu cầu của học thuyết xã hội chủ nghĩa là đem chia đều ruộng đất ra, nhưng chia đất đai như thế thì thật là ngu ngốc và hắn có thể rất dễ dàng bác bỏ. - Nếu hôm nay ông chia nó ra thành những phần đều nhau thì ngày mai nó sẽ lại vào tay những người làm ăn chăm chỉ nhất và những người có khả năng nhất. - Không ai nghĩ đến chia ra thành những phần đều nhau đâu! Ruộng đất không được thuộc về quyền riêng của một người nào đó, nó cũng không được đem làm đối tượng mua bán hoặc thuê mượn. - Quyền tư hữu tài sản là quyền bẩm sinh của con người. Không có cái quyền tư hữu ấy thì không còn hứng thú gì nữa trong việc cày cấy ruộng đất. Bỏ nó đi, chúng ta sẽ quay trở về trạng thái dã man. - Ignati Nikiforovich nói dằn từng tiếng, giọng kẻ cả; hắn nhắc lại cái luận điệu quen thuộc bênh vực quyền tư hữu tài sản, cái luận điệu được coi như là không gì bác bỏ nổi, mà thực chất chỉ là đem lòng ham muốn chiếm hữu của con người chứng minh cho sự tất yếu của quyền tư hữu. - Trái lại, chính chỉ khi nào ruộng đất không thuộc quyền sở hữu của ai, mới không còn ruộng đất bỏ hoang như bây giờ, bọn địa chủ khác nào như những con chó nằm giữ đống cỏ khô, bản thân chúng không khai thác nổi, nhưng chúng lại không cho những người có thể sử dụng ruộng đất được động đến. - Nầy, ông Dmitri Ivanovich ạ, ông nói thế thì hoàn toàn điên rồ ấy! Trong thời đại chúng ta liệu có thể thủ tiêu quyền sở hữu ruộng đất được không? Tôi biết, đó là vấn đề ông thích thú xưa nay. Nhưng hãy cho tôi nói thẳng với ông. - Ignati Nikiforovich mặt tái đi, giọng run run; rõ ràng là vấn đề nầy động chạm nhiều đến hắn. - Tôi khuyên ông hãy nghĩ kỹ về vấn đề đó trước khi đem ra thực hành. - Ông nói đến việc riêng của tôi đấy à? - Phải. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta sống trong một hoàn cảnh nhất định thì phải gánh vác những trách nhiệm do hoàn cảnh đó đề ra. Chúng ta sinh ra ở trong những điều kiện thừa hưởng được của tổ tiên thì chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn lấy những điều kiện đó và truyền lại cho con cháu ta sau nầy. - Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi là ở… - Ông để tôi nói, - Ignati Nikiforovich nói tiếp không để bị ngắt lời. - Tôi nói đây, không phải là để cho tôi, hoặc cho con cái tôi đâu. Tương lai của chúng nó đã được đảm bảo, và bản thân tôi kiếm cũng được tương đối đủ sống dễ chịu và tôi tin chắc rằng các cháu rồi cũng sẽ được như thế. Cho nên tôi có phản đối những việc làm của ông, xin phép ông mà nói, những việc làm đó chưa được suy nghĩ chín chắn, thì không phải xuất phát từ quyền lợi cá nhân mà là vì về nguyên tắc, tôi không thể nào đồng ý với ông được. Tôi đề nghị ông hãy suy nghĩ, hãy đọc… - Ờ! Thôi tôi xin ông hãy để tôi quyết định lấy công việc của tôi, và để tôi tự chọn lấy cái gì nên đọc, cái gì không nên đọc. - Nekhliudov nói, mặt tái đi. Chàng cảm thấy hai tay giá lạnh, chàng không làm chủ được mình nữa, nên nín lặng và bắt đầu uống trà. Chương 92 - Còn các cháu thế nào, chị - Nekhliudov hỏi chị sau khi đã nguôi nguôi. Chàng được chị cho biết hiện chúng ở nhà bà nội chúng. Rất sung sướng vì cuộc tranh luận giữa hai người đã kết thúc, chị chàng bắt đầu kể cho biết các cháu thích chơi cái trò du lịch, giống như ngày xưa chàng vẫn chơi với hai con búp bê: một con làm anh Ả-rập đen thui, còn một con chàng gọi là cô bé người Pháp. - Chị còn nhớ những chuyện ấy cơ mà? - Nekhliudov mỉm cười nói và cậu cứ hình dung là chúng nó lại chơi y hệt cậu ngày trước. Câu chuyện nặng nề chấm dứt. Natasa lúc nầy bình tĩnh hơn, nhưng muốn tránh nói trước mặt chồng những chuyện mà chỉ có hai chị em nàng hiểu và để mở đầu câu chuyện chung, nàng bèn lái sang nói về những tin tức từ Petersburg mới đưa đến, về nỗi đau đớn của bà Kamenxkaia đã mất đứa con trai độc nhất, bị giết trong cuộc đấu súng. Ignati Nikiforovich tỏ ra không tán thành một trật tự xã hội không liệt tội giết người khi đấu súng vào loại tội hình sự. Ý kiến đó bị Nekhliudov phản đối và cuộc tranh luận lại nổ ra về ngay đề tài ấy; trong cuộc tranh luận nầy, cái gì người ta cũng chỉ nói nửa chừng; hai đối thủ không nói hết ý nghĩ của mình, họ giữ vững ý kiến chống đối nhau. Ignati Nikiforovich cảm thấy Nekhliudov chê trách mình, khinh bỉ tất cả hành động của mình, và muốn chứng minh cho chàng biết những lời chê trách đó là sai lầm. Còn Nekhliudov không những vẫn giận người anh rể đã can thiệp vào công việc ruộng đất của mình (trong thâm tâm, chàng vẫn cảm thấy rằng anh rể và chị gái, cùng mấy đứa cháu, với tư cách là người thừa kế chàng, có cái quyền đó), mà chàng còn hết sức bực tức về con người thiển cận, dương dương tự đắc và điềm nhiên coi là hợp lý và hợp pháp một việc mà giờ đây chàng đã thấy rõ ràng là ngu xuẩn và tội lỗi. Cái tính tự đắc "ta đây" ấy làm cho Nekhliudov tức giận. - Thế liệu toà án sẽ làm gì? Nekhliudov hỏi. - Sẽ kết án khổ sai một trong hai anh đấu súng đó, như một tên sát nhân thường. Nekhliudov cảm thấy hai bàn tay lạnh đi chàng nóng mắt, hỏi tiếp: - Thế thì được tích sự gì? - Thế là công lý. - Cứ làm như công lý là mục tiêu hoạt động của toà án không bằng. - Nekhliudov nói. - Không phải thế thì còn gì nữa? - Là bảo vệ quyền lợi của giai cấp. Theo ý kiến tôi, toà án chỉ là một công cụ cai trị dùng để duy trì trật tự hiện hành có lợi cho giai cấp chúng ta mà thôi. - Đấy là một quan điểm hoàn toàn mới, - Ignati Nikiforovich cười nhạt, trả lời. - Thông thường, toà án có mục đích hơi khác một chút. - Đó là về lý thuyết, chứ không phải trong thực tế như tôi đã thấy. Mục đích duy nhất của toà án là duy trì xã hội ở tình trạng hiện tại. Để làm điều đó, toà án truy nã và bắt tội cả những người có trình độ ở trên mức chung và muốn nâng trình độ ấy lên những người bị gọi là chính trị phạm - lẫn những kẻ ở dưới trình độ chung của xã hội mà người ta vẫn gọi là những "điển hình phạm tội". - Điều thứ nhất, tôi không thể đồng ý rằng những tội nhân gọi là chính trị phạm ấy đã bị xử tội vì họ ở trên trình độ trung bình. Phần lớn chúng đều là cặn bã của xã hội, cũng sa đoạ - tuy rằng có khác đôi chút chẳng kém những tên "điển hình phạm tội" mà ông coi là ở dưới trình độ trung bình. - Thế mà tôi biết trong số đó có những người có trình độ cao hơn cả những quan toà xử họ tội đấy; chẳng hạn tất cả những tín đồ tông phái đều là những người đạo đức kiên nghị… Nhưng Ignati Nikiforovich với thói quen chẳng để ai ngắt lời mình, không hề chú ý nghe Nekhliudov nói, thái độ đó làm Nekhliudov rất giận hắn cùng nói một lúc với chàng. - Tôi cũng không thể nào thừa nhận được mục đích của toà án lại là duy trì trật tự xã hội hiện hành. Toà án có những mục tiêu riêng của nó: hoặc là cải tạo… - Cải tạo tốt đấy cải tạo trong nhà lao, - Nekhliudov chêm vào. - … hoặc là trừ khử, - Ignati Nikiforovich ngang nhiên nói tiếp, - những kẻ sa đoạ, chẳng khác gì thú vật, chúng đe doạ sự tồn tại của xã hội. - Sự thực thì toà án có làm theo hai cách đó đâu. Xã hội không có cách gì để làm như vậy. - Thế là thế nào? Tôi không hiểu, - Ignati Nikiforovich gượng cười, hỏi. - Tôi muốn nói rằng thực tế chỉ có hai hình phạt hợp lý những hình phạt nầy đã dùng từ thời xưa là nhục hình và tử hình. Nhưng nhờ phong tục thay đổi, ngày một ôn hoà dần lên nên hai hình phạt đó càng ngày càng ít dùng đến. - Đó mới là cái mới đấy; và ở ông nói ra nữa thì thật là lạ! - Phải, bắt một người phải chịu đau đớn để về sau người ấy đừng tái phạm cái điều vì phạm nó mà người ấy phải đau đớn nữa, cái đó là hợp lý; và chặt đầu một kẻ nguy hại cho xã hội cũng thật là hợp lý. Cả hai hình phạt đó đều có nghĩa hợp lý. Còn bỏ tù một người hư hỏng vì vô công rồi nghề, vì tập nhiễm theo gương xấu, đặt hắn vào hoàn cảnh được cung cấp ăn mặc và bắt buộc phải sống vô công rồi nghề, chung đụng với những kẻ hư hỏng sa đoạ nhất, như vậy là nghĩa lý gì? Hoặc chở họ đi - tiền phí tổn do Nhà nước chịu, mỗi người đến hơn năm trăm rúp từ tỉnh Tula đến tỉnh Irkusk, hoặc từ tỉnh Kursk đến… - Thế mà thiên hạ sợ những chuyến đi do Nhà nước trả tiền đó, và nếu không có những chuyến đi đó, không có những nhà tù thì ông với tôi, chúng mình sẽ không ngồi ở đây được, như chúng ta đang ngồi bây giờ đây. - Nhà tù không thể đảm bảo cho ta được yên ổn vô sự đâu bởi vì không thể giam cầm được vĩnh viễn những người bị bắt, có ngày họ sẽ được thả ra. Trái lại bắt giam họ là dồn họ tới chỗ xấu xa truỵ lạc nhất, nghĩa là càng làm tăng thêm sự nguy hiểm. - Ông muốn nói chế độ lao tù cần phải được cái thiện chứ gì? - Nó không thể cải thiện được. Cải thiện nhà tù tốn nhiều tiền hơn là số tiền chi phí hiện nay cho nền quốc dân giáo dục, và chỉ thêm một gánh nặng với nhân dân. - Những khuyết điểm của chế độ lao tù quyết không thể nào chứng minh rằng toà án là vô hiệu được, - Ignati Nikiforovich tiếp tục, không nghe em vợ nói. - Không thể bổ cứu được những khuyết điểm ấy đâu? - Nekhliudov cất cao giọng trả lời. - Nhưng, như thế thì làm thế nào? Giết chết họ ư? Hay là, như một chính khách đã đề nghị, đem khoét mắt họ đi? - Ignati Nikiforovich hỏi với một nụ cười thắng thế. - Đúng, làm thế thì tàn nhẫn đấy, nhưng còn có công hiệu. Những biện pháp hiện nay đang dùng thì tàn nhẫn, nhưng đã không có công hiệu lại còn ngu xuẩn, đến nỗi không hiểu sao những người thông minh nhanh trí lại có thể tham gia vào một việc ngu xuẩn và tàn nhẫn như việc làm ở toà đại hình kia được. - Thế mà tôi tham gia vào đấy, - Ignati Nikiforovich nói, mặt tái đi. - Đấy là việc của ông. Còn tôi, tôi không thể nào hiểu được điều đó. - Tôi nghĩ có nhiều điều ông không thể hiểu được, - Ignati Nikiforovich nói, giọng run lên. - Tại một phiên toà, tôi đã thấy một viên phó chưởng lý cố gắng hết sức mình làm cho một thằng bé con tội nghiệp bị kết án; mà đối với tất cả mọi con người không bị hư hỏng, thằng bé ấy chỉ có thể gợi lòng thương mà thôi. Tôi đã biết một tay chưởng lý khác, trong khi hỏi cung một tín đồ tông phái, đã cho rằng đọc kinh Phúc âm là một hành động phạm vào luật hình. Thì ra tất cả mọi hoạt động của các toà án đều chỉ là những trò ngu xuẩn và tàn nhẫn như vậy cả thôi. - Nếu tôi nghĩ như vậy thì tôi không làm việc nữa? - Ignati Nikiforovich vừa nói vừa đứng dậy. Nekhliudov để ý thấy một ánh sáng là lạ dưới mắt kính người anh rể. "Nước mắt chăng?" - chàng tự hỏi. Những giọt nước mắt thật, những giọt nước mắt của một người bị xúc phạm. Ignati Nikiforovich lại gần cửa sổ rút khăn mùi xoa và vừa hắng giọng vừa lau kính, sau nhấc kính ra lau mắt. Rồi quay lại chiếc đi-văng châm một điếu xì gà hút, y không nói nữa. Nekhliudov cảm thấy buồn và xấu hổ vì đã làm mếch lòng người anh rể và chị mình tới mức ấy, nhất là, ngày mai đã ra đi, chàng biết mình chẳng còn dịp nào gặp lại hai người nữa. Chàng ngượng ngùng cáo từ ra về. "Điều mình nói rất có thể là đúng. Ít ra thì anh ta cũng không thể cãi lại được mình. Nhưng lẽ ra mình không nên nói ra với anh ta như thế. Sự thay đổi trong con người mình hẳn còn hời hợt cho nên mình đã tệ, đi đến xúc phạm anh ta như vậy và làm cho chị Natasa tội nghiệp của mình đau lòng". Chàng nghĩ thế. Chương 93 Đoàn tàu chở tù trong đó có Maxlova sẽ rời ga vào hồi ba giờ chiều; Nekhliudov định sẽ tới nhà lao trước mười hai giờ trưa để kịp thấy đoàn tù khi rời nhà lao và theo họ đi đến ga xe lửa một thể. Lúc sắp xếp đồ dùng và giấy má, chàng để ý tới cuốn nhật ký của mình, đọc lại loáng thoáng đây đó vài đoạn ghi trong thời gian gần đây. Đoạn cuối ghi trước khi đi Petersburg viết như sau: "Katiusa không nhận sự hy sinh của mình, nhưng nàng lại muốn hy sinh. Nàng đã thắng mình và mình cũng thắng. Hình như nàng đang có sự chuyển biến trong nội tâm, điều đó làm mình mừng, nhưng mình vẫn sợ không dám tin. Mình sợ không dám tin, nhưng có cảm tưởng nàng đang sống lại". Liền sau đó, lại ghi tiếp: "Mình đã trải qua một điều thực sự đau khổ và cũng thực sự vui sướng. Được biết nàng đã làm điều chẳng ra gì ở bệnh xá, mình đột nhiên thấy đau lòng vô cùng. Mình không ngờ mình lại có thể đau đớn đến như vậy. Mình đã nói với nàng bằng một giọng giận hờn và khinh ghét; nhưng rồi, bỗng nhiên mình vụt nhớ tới bao nhiêu lần đã qua và ngay cả giờ đây nữa, dù là chỉ trong tư tưởng, mình đã phạm vào cái tội mà mình trách giận nàng; và đồng thời bỗng nhiên mình thấy ghê tởm chính bản thân mình và thương xót nàng, thế là lòng mình lại thấy vui sướng vô cùng. Con người ta chỉ cần lúc nào cũng kịp thời trông thấy cây gỗ trong con mắt mình, tức thì sẽ tốt hơn lên biết chừng nào". Và đề ngày tháng hôm đó, chàng viết tiếp: "Mình đã đến thăm chị Natasa, và chính vì tự mãn mà mình đã không hoà nhã và tỏ ra độc ác; điều nầy khiến lòng mình còn lại một cảm giác nặng nề. Nhưng làm gì được? Từ ngày mai trở đi bắt đầu một cuộc đời mới. Thôi xin từ biệt cuộc đời cũ vĩnh viễn từ biệt. Biết bao nhiêu là cảm tưởng dồn dập lại trong tâm, nhưng mình chưa thể thu nó vào một mối…" Sáng hôm sau, ngay lúc trở dậy, cảm giác đầu tiên của Nekhliudov là ân hận về chuyện đã xảy ra giữa chàng và người anh rể: "Mình không thể ra đi như thế nầy được, chàng tự nhủ, - phải đến xin lỗi anh chị ấy mới được". Nhưng khi nhìn đồng hồ, chàng thấy không còn thì giờ nữa, chàng còn phải đi gấp để khỏi chậm, không đến kịp lúc đoàn tù khởi hành: Chàng vội vã chuẩn bị các thức cho xong, cho người gác cổng và Taratx - chồng của Fedoxia và là người sẽ cùng đi với chàng - mang những gói đồ đạc của chàng đi thẳng ra ga. Nekhliudov thuê ngay một chiếc xe ngựa gặp đầu tiên bảo đưa mình tới nhà lao. Chuyến tàu chở tù khổ sai khởi hành hai tiếng đồng hồi trước chuyến trở hành khách mà chàng sẽ đáp đì, nên chàng thanh toán trả hết tiền thuê phòng, không nghĩ đến quay trở lại nữa. Trời tháng bảy, nóng hầm hập. Các phiến đá lát đường, các tảng đá trên tường, các phiến "tôn" trên mái nhà chưa kịp nguội đi sau một đêm nóng nực, đang toả nhiệt vào bầu không khí oi ả, trầm lặng. Trời không gió, thảng hoặc có được một hào gió nổi lên thì nó lại đem về một luồng hơi nóng vẫn đầy bụi, sặc sụa mùi sơn dầu. Phố xá gần như vắng vẻ không có ai, hoạ hoằn mới có một vài người qua đường, cũng đi nép dưới bóng các ngôi nhà. Chỉ có những công nhân lát đường, chân đi giầy cỏ, người đen sạm vì rám nắng là còn ngồi ở giữa lòng đường, dọi từng nhát búa lên những viên đá cho lún sâu vào trong cát nóng; mấy viên cảnh sát, nét mặt rầu rầu, trong bộ áo cổ đứng bằng vải mộc, dây đeo súng lục màu da cam chéo ngang người, đứng buồn rười rượi giữa phố, hết nhấc chân nầy lại nhấc chân kia; mấy cái xe ngựa chở khách chuyến, rèm cửa buồng che phía có ánh mặt trời, chuông giục leng keng, qua lại trong các phố, mấy con ngựa kéo khoác vải choàng trắng, tai để thò ra ngoài. Khi chiếc xe chở Nekhliudov tới gần nhà lao, đoàn tù vẫn chưa khởi hành; bên trong, việc điểm lại các tù nhân bắt đầu từ bốn giờ sáng còn đang tiếp diễn một cách khẩn trương náo nhiệt. Đoàn người có sáu trăm hai mươi ba người đàn ông và sáu mươi tư người phụ nữ. Phải kiểm tra họ theo danh sách, tách những người ốm và yếu ra thành nhóm riêng, rồi bàn giao tất cả lại cho viên sĩ quan áp giải. Viên giám mục mới cùng hai người tuỳ thuộc, viên bác sĩ với người y tá, viên sĩ quan áp giải và người thư ký, tất cả cùng ngồi bên một cái bàn giấy má và dụng cụ văn phòng, kê ở trong sân nhà lao dưới bóng một bức tường. Họ gọi tên các tù nhân, từng người một, xem xét vặn hỏi và ghi chép, ánh nắng lấn dần vào đến nửa bản; trời trở nên nóng bức và đặc biệt ngột ngạt phần vì thiếu không khí, phần vì hơi thở của đám tù nhân đứng gần đó. - Như vậy ra không bao giờ hết à? - Viên sĩ quan áp giải vừa kêu lên vừa rít một hơi thuốc lá. Hắn to béo, da dẻ hồng hào, hai vai nhô cao, hai cánh tay ngắn, luôn luôn hút thuốc, thở khói qua bộ râu mép phủ chùm cả mồm. - Mệt lử cả người rồi! Nhặt ở đâu về mà lắm thế? Còn nhiều không? Viên thư ký tra cứu tờ giấy, nói: - Còn hai mươi bốn người đàn ông và đàn bà. - Sao lại đứng ì cả ra thế? Lại gần đây mau lên - tên sĩ quan quát những phạm nhân chưa được điểm tên, đang đứng xít lại, người nọ sau người kia. Đã hơn ba tiếng đồng hồ, các phạm nhân đứng xếp hàng, không phải ở trong bóng râm mà là ngoài nắng đợi đến lượt mình. Trong khi công việc tiến hành ở bên trong nhà lao thì ở bên ngoài, một người lính gác cửa cầm súng đứng như thường lệ gần chiếc cửa lớn, có đến hai chục cỗ xe dành để chở hành lý của đoàn tù và những người tù quá yếu. Một đám những người thân thích và bè bạn của tù nhân đang đứng ở góc đường chờ đoàn tù đi ra; ai nấy đều muốn trông thấy thân nhân của mình và nếu có thể thì nói với họ một vài lời và giúi cho chút gì đó. Nekhliudov cùng nhập bọn với đám người nầy. Chàng đứng đợi gần một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, đằng sau chiếc cửa lớn, nghe thấy tiếng xích rung loảng xoảng, tiếng chân bước, tiếng người hô, tiếng ho hắng và tiếng ồn ào của một đám đông. Tất cả kéo dài đến năm phút, trong khi đó, mấy người cai ngục không ngừng ra ra, vào vào, qua chiếc cửa con. Sau hết là một tiếng hô vang. Chiếc cổng lớn mở ra, ầm ầm vang động, tiếng xích loảng xoảng, nghe rõ hơn và những người lính áp tải, áo chẽn trắng cổ đứng, súng cầm tay, bước ra. Họ dàn thành một vòng tròn vành vạnh ngay trước chiếc cổng lớn, một thao tác rõ ràng tập dượt đã quen. Khi họ đã yên chỗ, người ta lại nghe thấy tiếng hô khác, và từng đôi một các tù nhân bước ra, đầu cạo trọc đội mũ vải, vai đeo ba-lô; họ kéo lê đôi chân đeo xiềng, một tay vung vẩy còn tay kia nâng ba-lô ở sau lưng lên. Những tù khổ sai đàn ông đi đầu, cùng mặc quẩn dài và áo choàng xám như nhau, sau lưng có in một chấm đen to như hình một con "át" vuông trong cỗ bài. Trong bọn họ, trẻ có, già có, gầy, béo, xanh xao, hồng hào, rám nắng đều có, người để rịa mép, kẻ để râu dâi, hoặc không để râu; có cả người Nga, người Tarta, người Do Thái; tất cả bước ra trong tiếng xích loảng xoảng, hai tay vung vẩy mạnh dạn, tưởng chừng như đã chuẩn bị đi một mạch xa, nhưng mới bước được mươi bước, họ đứng ngay lại và ngoan ngoãn xếp hàng bốn người nọ sau người kia: Liền sau đó, từ cửa đi ra những người tù quần áo như thế, đầu cũng cạo trọc, chân không đeo xiềng, nhưng tay bị cùm; đây là những người bị đày. Họ bước ra cũng mạnh dạn, rồi cũng dừng lại và xếp hàng bốn. Rồi đến những người bị thôn xã phóng trục. Sau đến là tù phụ nữ, cũng xếp hàng thứ tự như vậy: đi trước là những người bị kết án tù khổ sai, mình mặc áo dài xám, đầu bịt khăn vuông, rồi đến những người bị đi đày và cuối cùng là người tự nguyện đi theo, họ ăn mặc, người lối tỉnh thành, kẻ lối quê mùa. Vài người phụ nữ mang theo con nhỏ còn bú, bọc trong vạt áo choàng. Đi theo đám phụ nữ còn có những đứa trẻ khác, con trai có, con gái có; như những con ngựa con trong đàn ngựa, chúng nép mình vào các nữ tù nhân. Những người đàn ông đứng lặng lẽ chỉ thỉnh thoảng mới ho, hoặc nói nhát gừng một vài tiếng. Đám phụ nữ ngược lại, chuyện trò liên miên không ngớt. Nekhliudov hình như đã thoáng nhận thấy Maxlova lúc từ trong cổng đi ra, nhưng sau đó lại mất hút ngay trong đám nữ tù nhân và chỉ còn trông thấy có một đám đông xam xám những người dường như đã bị mất hết cả đặc trưng của con người, đặc biệt là mất cả đặc trưng của nữ giới; họ dắt con thơ, đeo khăn gối, xếp thành hàng nôl sau bọn đàn ông. Mặc dù tù nhân đã được đếm ở trong sân nhà lao rồi, khi ra ngoài, những người lính áp giải lại đếm lại, đối chiếu với những bản danh sách. Lần kiểm tra nầy khá lâu, nhất là vì có vài người tù cứ đi đi lại lại đổi chỗ, làm cho mấy người lính rối cả lên, đếm không rành. Bọn lính mắng chửi, xô đẩy họ, và đếm lại, các tù nhân thì chịu nhịn, nhưng lòng đầy căm hận. Khi đếm lại xong, viên sĩ quan áp giải ra lệnh, đoàn người bỗng xôn xao nhốn nháo cả lên; những người tù ốm yếu, những phụ nữ và trẻ em, chen lấn nhau, chạy lại phía những chiếc xe tải, bỏ hành lý vào và trèo lên xe. Thế là cả phụ nữ bế con nhỏ khóc oe oe, cả những đứa trẻ vui đùa tranh nhau chỗ và những người tù buồn rầu ủ rũ cũng trèo lên và cùng ngồi. Có vài người đàn ông bỏ mũ ra, lại gần viên sĩ quan nói mấy câu yêu cầu một điều gì đó. Về sau Nekhliudov mới biết là họ xin được ngồi trên xe. Chàng trông thấy viên sĩ quan không những không trả lời, ngay cả đưa mắt nhìn họ, hắn cũng không thèm nữa, hắn vẫn tiếp tục hút thuốc. Chàng trông thấy viên sĩ quan bất thình lình giơ cẳng tay ngắn ngủi lên đánh một người trong bọn, và người tù rụt đầu lại đợi đòn, nhảy tránh sang một bên. - Mày thì tao sẽ phong tước cho mày để mày sẽ nhớ! Sức mày cuốc bộ(1) đến nơi được đấy, nghe chưa! - Viên sĩ quan thét. Chỉ có một ông già bước loạng choạng, chân bị xích, là được phép trèo lên xe. Nekhliudov trông thấy ông ta bỏ cái mũ to mỏng như cái bánh đa xuống, vừa làm dấu vừa đi về phía dãy xe; ông cụ loay hoay mãi không trèo lên được vì chân già yếu lại vướng xiềng; sau đó có một người phụ nữ đã ngồi ở trên cẩm tay ông cụ kéo lên giúp. Khi các xe đã đầy những bao bì và các tù nhân được đi xe đã ngồi đâu vào đấy, viên sĩ quan bỏ mũ ra, lấy khăn tay lau trán, lau cái đầu trần, cái cổ đầy đặn hồng hào và làm dấu. - Cả đoàn, đi! - Hắn ra lệnh. Súng của bọn lính va lách cách, những người tù bỏ mũ ra làm dấu, vài người làm dấu bằng tay trái. Có mấy tiếng kêu to trong đám người đi tiễn người thân, đám tù nhân gào lên đáp lại, tiếng than khóc nổi dậy từ đám phụ nữ; và đoàn tù, có lính mặc áo cổ đứng trắng vây quanh bước đi trong đám bụi mù mịt do những bàn chân đeo xiềng hất tung lên. Đi đầu là những người lính, tiếp đến những người tù khổ sai xếp hàng tư, xích xiềng loảng xoảng, rồi đến những người bị đi đày; sau đến những người bị thôn xã phóng trục đi hàng đôi, tay bị xích; rồi đến các tù phụ nữ. Cuối cùng, là những chiếc xe tải chở đầy hành lý và người ốm. Trên một chiếc xe, một phụ nữ ngồi ngất ngưởng, quần áo cộm lên, miệng không ngớt kêu la, nức nở. Chú thích: (1) Những tù chính trị dòng dõi quý tộc được quyền được đi bằng xe (Lời chú thích của bản dịch Pháp văn của E. Beaux) |
Phục Sinh - Chương 94 - 105
PHỤC SINH Chương 94 Đoàn tù dài đến nỗi khi những người ở hàng đầu đi đã xa, không trông rõ nữa, những chiếc xe trở đầy hành lý và người ốm mới bắt đầu chuyển bánh. Nekhliudov lên chiếc xe đứng đợi và bảo cho xe chạy vượt đoàn tù để xem có ai quen biết và để khi tìm thấy Maxlova trong đám phụ nữ thì hỏi xem nàng đã nhận được những thứ chàng gửi cho chưa. Trời nóng như thiêu như đốt. Không có hơi một ngọn gió, đám mây bụi từ hàng ngàn bàn chân bốc lên luôn luôn bao phủ lấy đoàn tù đang đi giữa đường. Họ đi rất nhanh và con ngựa chậm chạp kéo chiếc xe chở Nekhliudov khó nhọc lắm mới vượt qua được. Hàng nọ tiếp hàng kia, đám sinh linh lạ lùng, hình dạng ghê gớm đó kéo đi, hàng ngàn bàn chân đi cùng một loại giầy, cánh tay vung vẩy nhịp nhàng như thể tăng thêm dũng khí cho mình. Họ rất đông, hình dung dáng dấp giống nhau, lại cùng ở vào một tình trạng đặc biệt kỳ dị khiến cho Nekhliudov tưởng như họ không phải là những con người mà là những con vật gớm ghiếc, quái dị nào đó. Cái ấn tượng đó chỉ tan đi khi chàng nhận ra trong đám tù khổ sai, người phạm tội sát nhân Fedorov, và trong dám tù đi đày anh chàng Okhotin hay bông lơn và cả một gã lưu manh mới cách đây ít lâu đã yêu cầu chàng giúp đỡ. Hầu hết các tù nhân đều quay lại nhìn chiếc xe ngựa đang vượt lên và cái ông ngồi ở trên đang quan sát họ. Fedorov nghển đầu lên để cho Nekhliudov biết rằng hắn đã nhận ra chàng, Okhotin thì nháy mắt, nhưng cả hai không ai chào vì họ cho rằng cái đó bị cấm. Tới ngang đoàn phụ nữ, Nekhliudov nhìn thấy ngay Maxlova. Nàng đi ở hàng thứ hai. Người đi đầu hàng nầy là một người đàn bà trông thật gớm ghiếc, mặt mũi đỏ gay, người lùn, thấp, mắt đen, vạt áo choàng vén lên giắt ở lưng. Đấy là "Nàng Tiên". Đi cạnh chị ta là một phụ nữ có mang, bước đi nặng nề. Rồi đến Maxlova. Lùng đeo bọc hành lý, nàng đi, mắt nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt bình thản, kiên quyết. Người thứ tư là một thiếu phụ trẻ tuổi, có khuôn mặt dễ thương, mặc áo choàng ngắn, khăn vuông bịt đầu theo lối nông dân, bước đi mạnh dạn; đó là Fedoxia. Nekhliudov xuống xe, lại gần đám phụ nữ, định hỏi Maxlova xem nàng đã nhận được những thứ chàng gửi cho nàng chưa và nàng có khỏe không, nhưng viên hạ sĩ quan áp giải đoàn tù đang đi ở sườn bên đó trông thấy ngay và chạy lại: - Nầy, ông kia, không được lại gần đoàn tù! Cấm đấy! - hắn kêu lên khi đến lại gần. Nhưng khi nhận ra Nekhliudov (trong nhà tù ai cũng biết chàng) thì hắn đưa tay lên rìa mũ chào, đứng lại bên cạnh và nói với chàng. - Thưa ngài, bây giờ thì không thể được. Xin để ra đến ga, lúc bấy giờ thì có thể được, ở đây có lệnh cấm. - Rồi y quát tù nhân: Đừng chậm bước lại, đi nhanh lên! - Rồi cố lấy vẻ nhanh nhẹn, hắn chạy trở về chỗ cũ không kể trời nắng, chân đi đôi ủng lịch sự mới tinh. Nekhliudov quay lên vỉa hè bảo người đánh xe theo sau, còn mình đi bộ theo đoàn tù… Đi đến đâu đoàn tù cũng làm mọi người chú ý, vừa thương hại vừa kinh hãi. Những người đi xe thò đầu ra cửa đưa mắt nhìn theo cho tới khi đoàn tù đi khuất; người đi bộ dừng lại sợ sệt và ngẩn ra nhìn cảnh tượng khủng khiếp đó. Có người đến gần bố thí, được bao nhiêu lính áp giải lấy cả. Có người như bị thôi miên, đi theo đoàn tù rồi dừng lại và lắc đầu, chỉ đưa mắt trông theo. Đến đâu người ta cũng gọi nhau ra đứng ngoài cổng, bậc thềm hoặc cúi người trên cửa sổ và lặng lẽ, không nói câu gì, họ nhìn đoàn người ghê rợn. Đến ngã tư, đoàn người chắn mất đường của một cỗ xe ngựa sang trọng. Người đánh xe, mặt mày bóng nhẫy, mông đít lồng bàn, có hai hàng khuy áo cài ở sau lưng. Một cặp vợ chồng ngồi ở phía sau: người vợ gầy gò, xanh xao, đầu đội một chiếc mũ tươi sáng, tay cầm một chiếc dù sặc sỡ; người chồng đội chiếc mũ cao, mặc áo choàng lịch sự màu nhạt. Trước mặt họ là hai đứa con: một đứa con gái bé ăn mặc đẹp đẽ, tươi như bông hoa, những món tóc quăn vàng óng quăn vàng xoã xuống lưng, tay cũng cầm một chiếc dù sặc sỡ, và một thằng bé độ tám tuổi, cổ dài ngoẵng và gầy, xương quai xanh dô lên, đầu đội một chiếc mũ lính thuỷ có dải lòng thòng. Người bố giận dữ, quở anh xà-ích đã không kịp thời vượt trước đoàn tù; còn người mẹ thì cau có nheo cặp mắt ra bộ ghê tởm; giương chiếc dù lụa sát tận mắt để che bụi và ánh nắng. Anh xà-ích có đôi mông đít lồng bàn, chau mày cáu tức vì bị chủ quở mắng vô lý, bởi vì chính lão ta ra lệnh cho hắn đi theo con đường nầy. Hắn phải khó nhọc mới kỳm lại được những con ngựa nòi đen nhẫy, mồ hôi đầy mình, đang hục hặc đòi đi. Viên cảnh sát rất muốn chặn đoàn tù lại cho chiếc xe đi để chiều ý chủ nhân chiếc xe sang trọng, nhưng hắn cảm thấy dù có vì một người giàu sang như thế đi nữa, hắn cũng không thể phá cái không khí trang nghiêm buồn thảm của đoàn người đang đi kia được. Hắn đành đưa bàn tay lên mũ chào để tỏ lòng cung kính đối với những người giàu có và quàu quạu nhìn đoàn tù khổ sai, làm như hắn sẵn sàng bảo vệ những người ngồi trên xe, trong mọi trường hợp bất trắc không cho bọn kia phạm tới. Thế là cỗ xe buộc phải đợi cho đến khi tất cả đoàn tù đi hết; và khi chiếc xe tải cuối cùng chở hành lý cùng tù đàn bà cọt kẹt đi khỏi, cỗ xe mới chuyển được bánh. Người phụ nữ bị loạn thần kinh đã im lặng ngồi ở trong xe, nhưng khi trông thấy cỗ xe ngựa sang trọng nọ thì chị ta bắt đầu khóc nức nở và hét đến inh tai. Đến lúc ấy, anh xà ích mới khẽ chạm vào dây cương và những con ngựa ô lóc cóc nện móng sắt trên nền đường, kéo chiếc xe lắc lư nhè nhẹ trên đôi bánh cao su, chạy về biệt thự ở thôn quê: về đó vợ chồng, con gái, con trai - đứa con trai vai so, cổ ngẳng - sẽ cùng nhau vui thú nhởn nhơ. Cả cha lẫn mẹ, chẳng người nào giải thích cho con cái một tí gì về những điều chúng đã trông thấy trước mắt. Cho nên chúng buộc phải tự tìm hiểu lấy ý nghĩa của cảnh tượng chúng vừa được mục kích. Đứa con gái xét đoán sự việc theo sắc mặt của cha mẹ; nó cho rằng những người kia là một loại người hoàn toàn khác hẳn cha mẹ, họ hàng thân thuộc nhà nó, đó là những con người xấu xa, cần phải đối xử với họ đúng như người ta đang đối xử. Cho nên nó chỉ thấy ghê rợn và khi những tù nhân đã đi khuất hẳn, nó thấy mừng. Nhưng đứa con trai cổ ngẳng đã chăm chú nhìn đoàn tù đi qua không chớp mắt; nó đã hiểu khác con chị. Nhờ cảm thông trực tiếp lời Chúa dạy, nó biết chắc chắn, không một chút hoài nghi, rằng những con người đó cũng giống y như nó và bao nhiêu người khác, và nếu như có ai làm tình làm tội họ thì điều đó là không nên. Nó thấy thương hại cho họ và còn thấy ghê sợ cả những người bị cạo trọc đầu và bị cùm xích kia lẫn những kẻ đã cạo đầu họ, cùm xích họ. Vì thế cho nên môi nó mỗi lúc một dẩu ra, nó cố nén không khóc vì cho rằng khóc trong những trường hợp như thế nầy thật là xấu hổ. Chương 95 Nekhliudov bước nhanh theo đoàn tù. Tuy chỉ mặc quần áo mỏng, và khoác áo ngoài một chiếc áo choàng phong phanh, mà chàng vẫn thấy nóng ghê gớm, nhất là vì bụi bậm và cái không khí im lìm, nóng như thiêu như đốt của đường phố làm chàng ngột ngạt cả người. Đi được độ khoảng ba trăm thước, chàng lại lên xe vượt lên trước đoàn tù. Ngồi trong xe đi giữa đường, chàng lại càng thấy nóng hơn. Chàng cố nhớ lại những ý nghĩ của mình về cuộc nói chuyện ngày hôm qua với người anh rể, nhưng giờ đây, những ý nghĩ đó không còn làm chàng xúc động như ban sáng nữa. Nó đã bị lấn át vì những ấn tượng trước cảnh đoàn tù khởi hành và lũ lượt kéo nhau đi. Nhưng cái chính là vì trời nóng bức khó chịu quá. Chàng nhìn thấy ở cạnh một cái hàng rào, dưới bóng cây có hai cậu học sinh trung học, đầu trần, đứng trước mặt một người hàng kem rong đang quỳ xuống bán hàng. Một cậu ăn ngon lành, đang mút một chiếc thìa nhỏ bằng sừng, còn một cậu đang đợi cái cốc người bán kem đắp đầy lên quá miệng một chất màu vàng. - Gần ở đây có chỗ nào giải khát không nhỉ? - Nekhliudov hỏi người đánh xe, chàng thấy khát không chịu được. - Có một cái quán cũng tốt, ở gần ngay kia ạ, - anh đánh xe trả lời và đến góc phố, anh ta rẽ quặt sang, đưa Nekhliudov đến trước một cửa hiệu trên treo một tấm biển lớn. Người chủ quán béo húp híp, mặc áo sơ-mi trần, đang ở đằng sau quầy hàng; hai anh hầu bàn bận áo choàng màu cháo lòng, vì vắng khách nên đang ngồi chơi ở bàn; thấy người khách bất thường vào, họ tò mò nhìn rồi đứng dậy đón tiếp. Nekhliudov gọi một chai soda và ngồi vào một chiếc bàn nhỏ có phủ khăn bàn, ở xa cửa sổ. Có hai người đàn ông đang ngồi trước một bộ ấm chén uống trà, họ vừa lau mồ hôi lấm tấm trên trán vừa bình tĩnh tính toán với nhau. Một người da bánh mật và hói, đằng sau gáy có một đường viền tóc đen giống như đầu Ignati Nikiforovich. Cái điểm giống nhau đó gợi cho Nekhliudov lại nhớ tới cuộc nói chuyện với anh rể và ý định của mình muốn gặp lại hai vợ chồng chị ruột trước khi đi. "Có lẽ mình sẽ không có thời giờ trước khi tàu chạy, - chàng nghĩ; tốt hơn là ta viết một lá thư". Chàng hỏi mua giấy, một chiếc phong bì và một con tem và nhắp từng ngụm nước mát lạnh có hơi, vừa bắt đầu nghĩ đến điều chàng sắp viết, nhưng đầu óc rối tung, chàng thấy không thể nào viết nổi. "Chị Natasa thân yêu, em không thể ra đi mà trong lòng còn mang theo ấn tượng nặng nề của cuộc nói chuyện với anh Ignati Nikiforovich ngày hôm qua…" - chàng bắt đầu lá thư như vậy. "Nói gì nữa nhỉ? Xin lỗi ư? Nhưng mình chỉ có nghĩ thế nào nói thế. Hắn sẽ tưởng là mình chối lời đã nói chăng. Vả lại, còn cái chuyện hắn can thiệp vào những công việc riêng của mình nữa! Không, không thể được". Và chàng lại thấy dâng lên trong lòng một mối căm ghét con người xa lạ, tự đắc, không hiểu chàng. Nekhliudov đút lá thư mới bắt đầu viết vào túi, trả tỉền và ra khỏi nhà hàng để đuổi theo đoàn tù. Trời càng nóng nực bội phần. Tường nhà, hè phố như đổ lửa. Gan bàn chân cháy bỏng khi đặt lên trên mặt đường nóng nực; và khi đưa bàn tay vịn vào tai xe sơn bóng Nekhliudov có cảm giác như bị bỏng. Con ngựa uể oải nước kiệu, lóc cóc gõ đều những chiếc móng sắt trên con đường gồ ghề, đầy cát bụi, anh xà-ích lim dim ngủ, Nekhliudov đầu óc không nghĩ ngợi gì, hững hờ nhìn ra trước mặt. Đến cuối một phố, trước cổng một ngôi nhà lớn, thấy có một đám đông xúm lại, và có một người lính áp giải mang súng đứng cạnh, chàng bảo cho xe đỗ lại. - Có chuyện gì thế? - Chàng hỏi người gác cổng. Có một người tù làm sao ấy. Chàng bước xuống xe và lại gần đám đông. Trên mặt đường đá mòn, gồ ghề gần vỉa hè, có một người tù khổ sai nằm sõng sượt, đầu dốc xuống thấp hơn chân. Anh ta đã đứng tuổi, vai rộng, râu hung hung, mặt đỏ gay, mũi tẹt mình vận chiếc áo choàng và quần màu xám, hai bàn tay úp sấp lấm tấm vết tàn nhang. Bộ ngực vạm vỡ nở nang nhô lên, xẹp xuống đều đều, anh ta vừa thở nấc lên vừa trừng trừng giương cặp mắt đỏ ngầu những tia máu nhìn lên trời. Đứng xung quanh anh ta là một viên cảnh binh, lông mày nhíu lại, một người đưa thư, một người thư ký hiệu buôn, một bà lão đi ô và một thằng bé con tóc cắt ngắn cắp chiếc thúng không. - Họ đã bị yếu ở trong tù, yếu kiệt sức rồi, vậy mà dẫn họ đi dưới trời nắng như thiêu như đốt thế nầy còn gì? - Người thư ký hiệu buôn, giọng gay gắt, nói với Nekhliudov đang tiến lại gần. - Anh ta chắc chết mất thôi. - Bà cụ đi ô nghẹn ngào nói. - Phải cởi khuy áo cánh cho anh ta, - người đưa thư bảo viên cảnh binh. Viên cảnh binh đưa những ngón tay thô kệch, run rẩy, vụng về với những chiếc dải thắt quanh cái cổ gân guốc đỏ gay của người tù. Người ta thấy rõ là hắn cảm động và ngượng nghịu, nhưng hắn vẫn thấy cần phải lên giọng quát mọi người. - Xúm lại làm gì thế nầy? Trời nóng chết cha, các người còn chặn mất cả gió! - Lẽ ra phải để thầy thuốc khám tất cả đã. Rồi những ai yếu phải để lại. Vậy mà họ bắt cả những người đã ngắc ngoải như thế nầy đi, - người thư ký hiệu buôn lại nói, vẻ hãnh diện về sự hiểu biết pháp luật của mình. Sau khi đã cởi xong những dải áo cánh, viên cảnh binh đứng dậy liếc nhìn xung quanh. - Các người tản ra đi, tôi đã bảo rồi mà! Không phải công việc của các người. Có gì mà ngó nào? - Hắn vừa nói vừa quay lại nhìn Nekhliudov để tìm một sự đồng tình nhưng không thấy có chút nào, hắn liền nhln sang người lính áp giải. Nhưng anh nầy đứng lánh ra một nơi, đang mải xem xét cái gót giẩy của mình đã bị long ra, hoàn toàn không để ý đến sự bối rối của viên cảnh binh. - Những kẻ có trách nhiệm không trông nom gì đến… - Có phép nào để chết người như vậy không? - Người tù là người tù, nhưng họ cũng vẫn là một con người. - Có tiếng nói trong đám đông ngày càng ồn ào. - Nâng đầu anh ấy lên cho anh ấy uống nước! - Nekhliudov nói. - Có người đi lấy nước rồi, - viên cảnh binh trả lời, rồi hắn lấy tay nâng người tù dậy và khó nhọc lắm mới nâng được cao hơn một chút. - Xúm lại làm gì thề nầy? - Bỗng có một giọng nói đanh thép và hách dịch, và viên đồn trưởng cảnh sát, áo quần sạch trắng, đôi ủng bóng nhoáng, rảo bước lại gần đám người đang vây quanh nạn nhân. - Đi chỗ khác! Không việc gì đến các người ở đây - chưa biết chuyện gì hắn đã quát xua mọi người đi. Khi lại gần và trông thấy người hấp hối, hắn khẽ gật đầu làm ra vẻ hắn biết từ lâu rồi. - Làm sao lại thế nầy? Viên cảnh binh báo cáo là lức đoàn tù đi qua đây, người tù nầy ngã xuống và viện sĩ quan chỉ huy đã ra lệnh để người nầy lại. - Ừ thế thì sao? Phải chở nó về đồn cảnh sát. Gọi một chiếc xe lại đây. - Người gác cổng đã chạy đi gọi rồi ạ, - viên cảnh sát vừa nói vừa đưa tay lên mép mũ chào. Người thư ký hiệu buôn định bắt đầu nói về trời nóng nực. - Việc của anh đấy à? Đi đi! - Viên trưởng đồn quát lên và trợn mắt dữ dội nhìn người thư ký làm cho anh nầy tịt mất. - Phải cho anh ta uống nước mới được, - Nekhliudov nói. Viên trưởng đồn nghiêm mặt nhìn chàng nhưng không nói gì. Khi người gác cổng mang bình nước về, hắn bảo người cảnh binh cho người tù uống. Viên cảnh binh nâng cái đầu đã ngoẹo của người tù lên, cố đổ nước vào mồm, nhưng người tù không uống được. Nước trào ra ngoài chảy xuống râu làm ướt cả chiếc áo cánh và mảnh áo lót bằng vải gai đầy bụi. - Dội lên đầu cho nó, - viên trưởng đồn ra lệnh, và người cảnh binh trật cái mũ hình bánh đa ra, đổ cả bình nước lên cái đầu hói và mái tóc xoăn vàng hung hung. Mắt người bất hạnh mở to ra như khiếp sợ, nhưng người anh vẫn không động đậy. Trên mặt, nước lẫn cát bụi chảy ròng ròng, nhưng mồm vẫn tiếp tục thở ra những tiếng khò khè đều đều, toàn thân run bật lên. - Thế còn chiếc xe kia thế nào? Gọi nó lại dây! - Viên trưởng đồn vừa ra lệnh cho viên cảnh binh vừa chỉ vào anh đánh xe của Nekhliudov. - Ê! Thằng kia! Đánh xe lại đây! - Xe tôi có khách rồi, - anh đánh xe sẩm mặt lại, trả lời mắt không nhìn lên. - Xe tôi thuê đấy, - Nekhliudov nói, - nhưng ông cứ lấy đi! Tôi sẽ trả tiền anh! - Nekhliudov quay lại nói với người đánh xe. - Thế chúng bay còn đợi gì nữa? - Viên trưởng đồn quát lên. - Khiêng nó đi! Viên cảnh binh, người gác cổng và anh lính áp giải nâng người sắp chết lên, khiêng ra xe và vực anh ta đặt ngồi trên chiếc ghế. Nhưng anh ta không thể ngồi lấy một mình được, đầu thì ngoẹo ra đằng sau và toàn thân cứ tụt xuống khỏi ghế. - Để nó nằm xuống! - Viên trưởng đồn ra lệnh. - Bẩm quan, không sao ạ, tôi đưa về đồn như thế nầy được! - viên cảnh binh vừa nói vừa ngồi xuống cạnh người sắp chết và lấy cánh tay phải ôm xốc nách người anh ta. Người lính nhấc hai bàn chân không bít-tất xỏ trong đôi giầy nhà tù, lùa xuống ghế xe. Viên trưởng đồn liếc mắt nhìn quanh, hắn trông thấy cái mũ của người tù rớt ở dưới đường, liền nhặt lấy và chụp nó vào cái đầu ướt át, lả ngoẹo ra đằng sau xe. - Thôi, đi! - Hắn ra lệnh. Anh xà-ích cáu kỷnh ngoái lại nhìn quanh, lắc đầu và đánh xe đi bước một về đồn cảnh sát, người lính áp giải đi kèm bên. Viên cảnh binh ngồi bên cạnh người tù, luôn luôn phải xốc cái thây chỉ chực trườn xuống khỏi ghế, trong khi đó, cái đầu của nạn nhân lả bên nọ, lật bên kia. Người lính đi theo bên cạnh xe, chốc chốc lại đặt lại chân cho người tù. Nekhliudov bước theo sau xe. Chương 96 Chiếc xe tù chạy qua người lính cứu hoả(1) đứng gác ở cổng, vào trong sân đồn cảnh sát và đỗ lại trước bực cửa. Trong sân, mấy người lỉnh cứu hoả khác, tay xắn lên, vừa lau rửa một chiếc xe vừa nói cười ầm ĩ. Chiếc xe chở người tù vừa đỗ, đám cảnh binh xúm quanh ngay lại, họ xốc nách, nắm chân người tù và khiêng cái xác như không hồn ấy ra khỏi xe đang cọt kẹt dưới chân họ. Viên cảnh binh đi theo người tù nhảy xuống đất, vung vẩy bàn tay tê dại, trật chiếc mũ lưỡi trai ra và làm dấu. Người sắp chết được mang lên tầng gác trên, Nekhliudov đi theo sau. Trong căn phòng nhỏ bé, bẩn thỉu nơi người sắp chết được khiêng đến, có bốn chiếc giường con, hai chiếc đã có bệnh nhân: một người mồm méo xệch, cổ quấn băng, một người lao phổi. Người ta đặt người tù xuống một chiếc giường để không. Một người bé nhỏ, mắt sáng, lông mày luôn nhấp nháy, chỉ mặc quần áo lót và đi tất ngắn, bước đi nhanh nhèn, nhẹ nhàng; hắn lại gần nhìn người tù rồi nhìn Nekhliudov phá lên cười. Đấy là một người điên bị giữ lại ở trạm y tế đồn cảnh sát. - Chúng muốn doạ tôi? - Tên điên nói. - Nhưng không doạ được đâu? Viên sĩ quan trưởng đồn và một viên y sĩ cùng vào theo sau những người cảnh binh khiêng xác chết. Viên y sĩ lại gần người chết, nắn bàn tay có vệt tàn nhang vẫn còn mềm nhưng đã vàng ệch như sáp ong và lạnh toát. Ông ta cầm một lát rồi buông ra. Bàn tay rơi phịch xuống bụng người chết. - Đi đứt rồi, - viên y sĩ lắc đầu, nhưng rồi theo đúng thể thức, ông ta kéo tấm vải thô ẩm ướt của người chết lên, vén mớ tóc xoăn của mình ra khỏi vành tai, nghiêng đầu áp tai xuống bộ ngực vàng nhợt, nở nang và không còn động đậy của người tù. Tất cả mọi người im lặng. Ông ta ngồi thẳng lên, lắc đầu rồi lấy mấy ngón tay lần lượt vuốt hết mí mắt nọ đến mí mắt kia, đôi mắt tròng xanh cứ mở trừng trừng. - Tao không sợ đâu, tao không sợ đâu! - Người điên nói, miệng luôn mồm khạc nhổ về phía y sĩ. - Thế nào? - Tên sĩ quan hỏi. - Thế nào ư? Viên y sĩ nhắc lại. - Đưa hắn xuống nhà xác thôi. - Cẩn thận đấy, có chắc không? - Rõ quá đi còn gì, - viên y sĩ vừa trả lời vừa kéo vạt áo cánh che kín ngực người chết, không biết để làm gì. - Thôi cũng cứ cho tìm ông Matvey Ivanitch để đích thân ông ta khám. Petrov, anh đi tìm ông ấy đến ngay đây! - Người y sĩ nói rồi đi ra chỗ khác. - Thôi mang nó xuống nhà xác! - Tên sĩ quan nói. - Còn mày thì đến bàn giấy ký vào biên bản, - hắn quay lại với người lính áp giải, anh nầy từ nãy không rời người tù một phút… - Xin tuân lệnh, - người lính trả lời. Mấy người cảnh binh nhấc cái thây lên, khiêng đi; Nekhliudov định theo xuống thì người điên giữ lại, nói: - Ông không đồng loã với chúng nó chứ, vậy cho tôi xin điếu thuốc. Nekhliudov lấy bao thuốc lá, đưa cho anh ta một điếu. Người điên nhấp nháy đôi lông mày và nói rất nhanh, kể với chàng là người ta hành hạ anh ta bằng ám thị như thế nào. - Nghĩa là tất cả bọn chúng hùa nhau chống lại tôi, và đem bọn phù thuỷ của chúng ra hành hạ, giầy vò tôi. - Ông thứ lỗi cho, - Nekhliudov nói và không nghe tiếp chàng xuống sân, để xem người ta khiêng xác chết đi đâu. Mấy người cảnh binh khiêng cái xác lúc nãy đã đi qua sân vào đến trong cửa hầm. Nekhliudov muốn đi theo nhưng tên sĩ quan ngăn lại, hỏi: - Ông cần gì? - Tôi không cần gì cả. - Không cần thì ông hãy đi chỗ khác! Nekhliudov nghe theo và đi ra xe. Anh đánh xe đang ngủ. Chàng thúc hắn dậy và cả hai cùng quay trở lại ga. Chưa đi được một trăm thước thì họ lại gặp một chiếc xe tải cũng có một người lính áp giải mang súng đi kèm. Một người tù nữa đã chết hẳn rồi, để nằm trên xe. Anh ta nằm ngửa, cái đầu cạo trọc với chòm râu đen, đội chiếc mũ hình bánh đa lật úp xuống tận mũi, mỗi lần chiếc xe vấp phải cái gì lại nẩy tung lên. Người đánh xe tải đi đôi ủng to, cầm một dây cương đi theo bên cạnh con ngựa; theo sau là một cảnh binh. Nekhliudov khẽ vỗ vào vai anh xà-ích của mình. Anh xà-ích kỳm ngựa dừng lại, nói: - Ngài xem họ đang làm cái gì kỳa. Nekhliudov bước xuống và đi theo sau chiếc xe tải, chàng lại qua trước mặt người lính cứu hoả gác cổng vào trong sân đồn. Lúc đó mấy người lính cửu hoả đã rửa xe xong. Ở chỗ họ đứng ban nãy, bây giờ là một viên đại uý đội cứu hoả, người cao mà gầy, mũ lưỡi trai đính băng màu xanh; hắn thọc tay vào túi, cau có nhìn con ngựa nòi màu hạt dẻ cổ béo núc; một người lính cứu hoả dắt con ngựa đi cho nhanh trước mặt hắn. Con ngựa khập khiễng một chân trước và viên đại uý bực tức nói gì với viên thú y đứng bên cạnh. Khi nhìn thấy cái xác thứ hai, viên sĩ quan trưởng đồn cảnh sát, lúc đó cũng có mặt, lại gần người đánh xe tải hất hàm hỏi vẻ bực tức: - Nhặt được nó ở đâu đấy? - Ở phố Borbatovxkaia cũ ạ. - Một tù nhân à? - Viên đại uý hỏi. - Vâng ạ. - Đây là đứa thứ hai trong ngày hôm nay, - viên sĩ quan trưởng đồn nói. - Tổ chức gì lạ vậy? Mà sao trời nóng thế! - Viên đại uý đội cứu hoả nói rồi lại quay về phía người lính dắt con ngựa màu hạt dẻ đi tập tễnh, hắn quát - Cho nó vào ngăn buồng ở trong góc ấy. Còn mày, đồ chó đẻ, tao sẽ bảo cho mày biết cách làm què những con ngựa có giá trị hơn chúng mày, đồ súc sinh! Cũng như cái xác thử nhất, người chết được mang đến trạm xá. Nekhliudov như người bị thôi miên đi theo sau. - Ông muốn gì? Không trả lời, Nekhliudov đi theo đến chỗ người ta khiêng xác vào. Người điên ngồi trên giường hút lấy hút để điếu thuốc xin được của Nekhliudov. - A, ông lại trở lại à - Hắn nói và cười rộ lên. Trông thấy người chết, hắn nhăn mặt lại. - Lại nữa! Tôi chán lắm rồi. Tôi không phải là một đứa trẻ con, có phải không? Hắn vừa nói vừa quay lại mỉm cười như hỏi Nekhliudov. Trong khi đó, Nekhliudov nhìn cái xác người lúc nãy không gì che đậy và khuôn mặt, trước có cái mũ úp lên trên, giờ đây để phơi ra. Người tù khổ sai trước xấu xí bao nhiêu thì diện mạo và thân hình người nầy đẹp đẽ khác thường bấy nhiêu. Một người đang độ sung sức. Mặc dầu một nửa đầu đã bị cạo làm cho xấu xí, vừng trán không cao nhưng thẳng, hơi gồ trên đôi mắt đen đã lạc tinh thần, còn rất đẹp, cũng như cái mũi xinh xinh, sống mũi cong cong ở trên đôi ria mép tuấn tú. Đôi môi đã tím ngắt còn ngậm một nụ cười; một bộ râu lưa thưa bao quanh dưới cằm và bên nửa đầu để lộ ra một vành tai xinh xinh cứng cáp, đẹp đẽ. Vẻ mặt nom nghiêm trang, bình tĩnh và phúc hậu. Không kể là qua vẻ mặt người đó thấy rõ biết bao khả năng tinh thần đã bị huỷ diệt đi cùng với con người, mà qua hình thù nhỏ nhắn các xương tay và chân bị xiềng xích, nhìn vào những bắp thịt rắn chắc của chân tay thật cân đối, cũng thấy rõ anh ta trước kia chỉ với tư cách một sinh vật, là một người đẹp đẽ, khỏe mạnh, nhanh nhẹn nhường nào; so với con ngựa giống màu hạt dẻ mà vết thương đã làm viên đại uý đội cứu hoả giận dữ đến như vậy thì con người anh ta cũng còn hoàn hảo gấp bội. Thế mà người ta đã giết anh ta và không những đã chẳng có một ai thương xót anh là một con người, mà cũng chẳng có ai thương tiếc cho anh ở tư cách là một con vật hữu dụng đã bị giết vô ích. Tình cảm duy nhất mà cái chết của anh gợi cho tất cả những con người ở đó là sự bực mình và phải bận mang gấp cái thây sắp rữa nầy đi nơi khác. Bác sĩ, y sĩ và viên trưởng đồn cảnh sát vào trong phòng. Bác sĩ là một người to béo và lùn, mình bận chiếc áo đũi chiếc quần hẹp cũng bằng đũi bó chắt lấy cặp đùi chắc nịch. Viên trưởng đồn người nhỏ bé, mập mạp, mặt đỏ ửng, tròn như quả bóng, bộ mặt ấy càng tròn hơn khi hắn phồng mang lên lấy hơi - hắn có thói quen như vậy rồi lại từ từ thở ra. Bác sĩ ngồi xuống giường người chết và cũng y như viên y sĩ lúc nãy, ông ta nắm đôi tay người chết, nghe tim đập rồi vừa đứng dậy vừa xốc quần, nói: - Chết cứng ra rồi còn gì. Viên trưởng đồn ngậm hơi đầy mồm, từ từ phun ra. - Ở nhà tù nào đấy? - Hắn hỏi người lính. Người nầy trả lời và nhắc hắn về những vòng xích ở chân người chết. - Ta sẽ cho tháo ra. Lo gì, đã có thợ rèn, - tên trưởng đồn nói. Hắn phùng má lên và vừa đi về phía cửa sổ vừa thổi phù hơi ra. - Nhưng sao lại có thể thế được ạ? - Nekhliudov hỏi. Bác sĩ nhìn chàng qua mục kỷnh: - Ông hỏi tại sao lại thế ư? Sao họ lại chết vì trúng nắng ư? Bởi vì họ bị giam suốt cả mùa đông chứ sao, không vận động, không có ánh sáng và bỗng nhiên đi ra nắng, mà lại vào một hôm như hôm nay; hơn nữa lại đi thành đoàn, không thoáng khí. Thế là bị trúng nắng chứ còn gì nữa? - Nhưng sao lại đưa họ đi như vậy? - Ồ, cái đó ông đi mà hỏi người ta. Nhưng ông là ai mới được? - Một người qua đường. - A! Xin chào ông! Tôi không có thì giờ, - bác sĩ nói và bực dọc vuốt quần xuống đi về phía giường các bệnh nhân. - Thế nào? Anh dễ chịu chứ? - Ông ta nói với người đàn ông méo mồm, cổ quấn băng. Người điên lúc nầy đã hút thuốc xong, ngồi ở trên giường, khạc nhổ về phía người thầy thuốc. Nekhliudov xuống dưới nhà, ra sân. Chàng đi qua trước mặt những con ngựa của đội cứu hoả: và mấy con gà mái, rồi qua trước mặt người lính gác đầu đội mũ đồng, ra khỏi cổng; chàng lên xe và bảo người xà ích đánh xe ra ga, anh chàng đã ngủ gật. Chú thích: (1) Thời đó, cảnh sát và lính cứu hoả cùng đóng chung một chỗ. Chương 97 Khi Nekhliudov ra tới ga thì tất cả đám tù đã ngồi trong những toa xe có cửa sổ chấn song sắt. Trên sân ga, có vài người đi tiễn, nhưng họ không được lại gần các toa xe. Đám lính áp giải từ lúc nầy đặc biệt bận rộn. Trên quãng đường từ nhà lao đến ga, ngoài hai người đàn ông mà Nekhliudov đã chứng kiến, còn có ba tù nhân nữa bị cảm nắng chết. Một người trong bọn họ đã được đưa vào đồn cảnh sát gần nhất như hai người tù trước, còn những người kia đã chết ngay ở ngoài ga(1). Bọn lính áp giải không hề bận tâm đến việc năm người tù dưới sự áp giải của họ đáng lẽ ra có thể sống được mà lại chết. Điều đó họ không lo; họ chỉ lo làm sao thi hành cho thật chu đáo, những quy định của pháp luật trong những trường hợp như vậy: giao người chết, giấy tờ và đồ đặc của họ đến chỗ có trách nhiệm, và gạch họ tên họ trong danh sách những tù nhân giải đi Nizni Novgorod những công việc đó làm rất chật vật nhất là vào những hôm trời nắng thế nầy. Họ đang bấn vào những thủ tục ấy nên chừng nào công việc chưa xong thì họ không thể nào để cho Nekhliudov và những người khác tới gần các toa xe được. Nhưng Nekhliudov đã cho tiền một tên hạ sĩ quan áp giải nên được lại gần ngay; tên nầy để cho chàng đi qua, nhưng yêu cầu nói chuyện thật nhanh nhanh rồi đi, đừng để cho viên sĩ quan phụ trách trông thấy. Có tất cả mười tám xe, trừ một toa chở các nhà đương sự không kể, còn thì toa nào cũng chật ních những tù nhân. Đi dọc theo các cửa sổ toa xe, Nekhliudov lắng tai nghe: chỗ nào cũng chỉ thấy tiếng xích sắt, tiếng xô đẩy, ồn ào, xen lẫn những tiếng thô tục không tưởng tượng được tịnh không thấy ở đâu cỏ lấy một lời nói về những người bạn cùng đi đã gục chết ở dọc đường như ý chàng mong đợi. Trái lại, câu chuyện chỉ xoay quanh những vấn đề hành lý, nước uống và chọn chỗ ngồi. Ngó qua cửa sổ một toa, Nekhliudov trông thấy ở lối đi giữa toa có hai người lính đang tháo cùm cho tù. Những người nầy chìa tay ra: một người lính lấy chìa khoá mở khoá, gỡ cùm ra. Còn người kia thu lại số cùm. Sau khi lướt qua hết mấy toa đàn ông, Nekhliudov đến đám toa đàn bà. Chàng nghe thấy ở trong toa thứ hai có tiếng rền rĩ đều đều, tiếp theo là một tiếng kêu rên: "Ối, ối, ối trời đất ơi!" Nekhliudov không dừng lại, đi luôn và theo chỉ dẫn của một người lính, chàng lại gần toa thứ ba. Vừa mới đến bên cạnh một chiếc cửa sổ, chàng đã thấy một luồng hơi nóng nồng nặc mùi mồ hôi, từ trong xông ra, và nghe rõ thấy tiếng đàn bà léo nhéo. Trên chiếc ghế dài, ngồi chật những tù nhân mặc áo choàng với áo lót ngắn, mặt mày đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, họ đang chuyện trò ầm ĩ. Gương mặt Nekhliudov tiến lại gần chấn song khiến họ chú ý. Những người ngồi gần nhất bèn im lặng, xô đẩy nhau lại phía chàng. Maxlova bận áo trắng, đầu để trần, ngồi ở phía cửa sổ đối diện bên kia. Cạnh nàng cô thiếu nữ trắng trẻo và tươi cười Fedoxia. Nhận ra Nekhliudov, cô ta lấy khuỷu tay hích Maxlova và chỉ cho nàng thấy. Katiusa vội vã đứng dậy, choàng chiếc khăn lên mái tóc đen và vừa mỉm cười vừa bước lại gần cửa sổ, tay nắm lấy chấn song, mặt hớn hở ửng đỏ, lấm tấm mồ hôi. - Nóng ghê quá? - Nàng tươi cười sung sướng nói. - Cô đã nhận được các thứ chưa? - Đã, cảm ơn ông. - Cô có cần gì nữa không? - Nekhliudov hỏi, chàng cảm thấy cái hơi hầm hập từ trong toa xe bốc ra nóng như hơi lửa. - Tôi không cần gì nữa, xin cảm ơn ông. - Giá mà được uống nước nhỉ? - Fedoxia nói. - Ờ phải, giá được uống nước, - Maxlova nhắc lại. - Thế người ta không cho các cô nước uống à. - Họ có mang đến, nhưng uống hết cả rồi. - Tôi sẽ hỏi xin người lính cho. Từ đây cho tới Nizni Novgorod, tôi sẽ không được gặp các cô nữa đâu. - Vậy ông cũng đến đấy à? - Maxlova hỏi, làm như không biết việc đó, mắt nhìn chàng, vẻ sung sướng. - Tôi đi chuyến tàu sau. Maxlova không trả lời, chỉ sau đó một lát mới bật tiếng thở dài. - Thưa ngài, có thật là có mười hai tù nhân bị hành hạ chết dọc đường không ạ? - Một bà lão vẻ người xấu xí hỏi, giọng nói thô kệch quê mùa. Đó là bà Korableva. - Tôi không thấy nói là mười hai. Tôi trông thấy có hai. - Nekhliudov nói. - Người ta bảo có mười hai người bị chết. Thế mà chúng nó không bị trừng trị gì cả, phải không? Ôi, lũ ác quỷ! - Thế phụ nữ không ai bị ốm đau gì chứ? - Nekhliudov hỏi. - Đàn bà chúng tôi vững hơn ạ, - một nữ tù nhân, người nhỏ nhắn, vừa cười vừa nói. - Chỉ có mỗi một chị nảy ra ý kiến muốn ở cữ thôi. Ông nghe chị ta kêu đấy? - Vừa nói thêm, người ấy vừa chỉ sang toa bên cạnh, từ đấy văng vẳng đưa ra những lời rên rỉ. - Ông hỏi chúng tôi cần gì ư? - Maxlova vừa nói vừa cố nén một nụ cười vui vẻ, - Thế liệu có cách nào để người đàn bà đau đẻ ấy được phép ở lại không? Hay ông nói cho một lời với các nhà chức trách… - Được tôi sẽ nói. Còn việc nầy nữa, chị Fedoxia đây muốn gặp anh Taratx, chồng chị ấy có được không ạ? - Nàng vừa nói thêm vừa đưa mắt về phía Fedoxia. - Anh ta cùng đi với ông phải không? - Thưa ngài, có lệnh cấm không ai được nói chuyện với tù nhân - Một viên hạ sĩ quan lại gần nói. Hắn không phải là tên đã ăn tiền để cho Nekhliudov lại gần tàu. Chàng lui ra và tìm viên trưởng đoàn để nói hộ cho Taratx và người đàn bà đang giở dạ đẻ, nhưng mãi chẳng tìm thấy và hỏi thăm cũng không có tên lính nào trả lời. Tất cả họ đang bấn lên: một số bận giải một người tù đàn ông đi đâu đó, mấy tên khác mải chạy đi mua thức ăn và xếp lại đồ đạc của chúng lên các toa xe, còn một số nữa thì mắc giúp đỡ một mụ đi cùng với tên sĩ quan, cho nên chúng có trả lời chàng cũng là miễn cưỡng. Mãi sau hồi chuông hiệu(2) thứ hai cho tàu chạy, Nekhliudov mới trông thấy tên sĩ quan. Hắn đang lấy cánh tay ngắn ngủi chùi bộ ria mép trùm kín cả mồm, và đang nhún vai quở mắng viên thượng sĩ về chuyện gì đó. - Ông muốn cái gì? - Hắn hỏi Nekhliudov. - Ở trong toa xe có một người đàn bà đang giở dạ đẻ. Tôi nghĩ nên… - Ừ thì cứ để nó đẻ đi? Sau đó sẽ hay, - tên sĩ quan vừa nói vừa vung mạnh hai cánh tay ngắn ngủn, bước lên toa xe của hắn. Đúng lúc đó thì viên xa trưởng đi qua, tay cầm còi. Hồi chuông hiệu cuối cùng vang lên, tiếp theo là một tiếng còi. Trên sân ga, trong đám những người đi tiễn, và trong toa đàn bà, vang lên tiếng khóc lóc rền rĩ. Nekhliudov đứng với Taratx trên sân ga nhìn những toa tầu có cửa sổ chấn song sắt với những chiếc đầu cạo trọc của tù khổ sai, nối tiếp nhau diễn ra trước mắt. Rồi toa thứ nhất chở phụ nữ chuyển tới. Chàng nhìn thấy rõ những mái đầu tựa vào cửa sổ, người thì quấn tóc người bịt khăn vuông; rồi đến toa thứ hai, từ đó vẫn vọng ra những tiếng rên ri của người đàn bà đang giở dạ đẻ; cuối cùng đến toa trong đó có Maxlova. Nàng đứng ở cửa sổ cùng với nhiều người khác và nhìn Nekhliudov, nàng mỉm cười chua xót. Chú thích: (1) Đầu năm 1880 ở Moskva có năm tù nhân chết vì cảm nắng một ngày trong chuyến đi từ nhà lao Butieki đến ga xe lửa Nizni Novgorod (Chú thích của tác giả). (2) Hồi ấy ở nước Nga, tại ga đầu, thường thường 15 hay 20 phút trước khi tàu chạy có hồi chuông thứ nhất; trước 10 phút có hồi chuông thứ hai; ngay trước khi tàu chạy có hồi chuông thứ ba. Ở các ga trung tâm thì khoảng cách giữa hai lần chuông báo có ngắn hơn ít nhiều. (Theo bản dịch Hoa văn) Chương 98 Còn hai tiếng nữa thì chuyến tàu hành khách có Nekhliudov sẽ khởi hành. Thoạt tiên, chàng định tranh thủ trong thời gian đó đi gặp chị gái, nhưng sau những ấn tượng buổi sáng, chàng cảm thấy bị kích động và mệt mỏi quá đến nỗi khi ngồi xuống chiếc ghế tràng kỷ nhỏ trong quán ăn hành khách hạng nhất, chàng bỗng thấy buồn ngủ quá, liền xoay người sang một bên và ngủ thiếp ngay đi, má tì vào lòng bàn tay. Một anh hầu bàn quần áo tề chỉnh, đeo huy hiệu, ở tay vắt một chiếc khăn ăn, đánh thức Nekhliudov dậy. - Thưa ngài, có phải ngài là công tước Nekhliudov không? Có một bà tìm ngài. Nekhliudov bừng tỉnh dậy và dụi mắt; nhớ lại xem mình đang ở đâu, và những sự việc xảy ra sáng nay. Trong ký ức chàng diễn ra đoàn tù nhân: những xác chết, những toa xe với những chiếc cửa sổ chấn song sắt và những người đàn bà bị nhốt ở trong; một người đau đẻ không có ai giúp đỡ, còn một người nữa thì mỉm cười chua chát với chàng, từ phía sau hàng chấn song sắt. Nhưng thực tế trước mắt chàng lại là một cảnh tượng khác hẳn: một cái bàn đầy những chai, những bình, những đài cắm nến, những bộ đồ ăn và xung quanh là những anh hầu bàn đi lại nhanh nhẹn; ở cuối phòng, trước một cái tủ quẩy đầy những đĩa hoa quả và chai lọ là người bán hàng và lưng những hành khách đứng đợi. Khi Nekhliudov đã ngồi dậy và dần dần tỉnh lại, chàng nhận thấy tất cả những người có mặt ở đấy đang tò mò theo dõi một cái gì xảy ra và thấy một toán người đang kiệu một bà ngồi trong một chiếc ghế bành, đầu trùm một tấm khăn "voan" mỏng. Người đầy tớ kiệu đi trước, nhìn mặt. Nekhliudov thấy có vẻ quen quen. Người kiệu đi sau là một anh gác cửa đội mũ lưỡi trai có băng dải vàng, cũng quen mặt. Theo sau kiệu là chị hầu phòng tóc uốn xoăn, mình bận chiếc tạp dề xinh xinh, tay mang một cái gói nhỏ, một vật gì tròn tròn để trong một cái bao da và mấy chiếc dù. Sau đến công tước Korsagin môi dày, cổ béo núc ních, bộ ngực ưỡn ra, đầu đội mũ lưỡi trai kiểu du lịch. Và cuối cùng đến cô Mitxi và người anh họ cô tên là Misa, cùng nhà ngoại giao Oxten, cổ cò hương, lộ hầu, lúc nào cũng vui tính mà Nekhliudov quen biết. Anh ta vừa đi vừa nói một câu chuyện gì nghiêm trang nhưng rõ ràng vẫn vừa bông lơn với cô Mitxi luôn mỉm cười. Sau rốt là lão bác sĩ, vừa đi vừa hút lấy hút để một điếu thuốc lá. Gia đình Korsagin rời ấp của họ ở vùng ngoại ô Moskva để đến ấp người chị ruột bà Công tước, trên con đường đi Nizni. Đám những người kiệu ghế, chị hầu phòng và lão bác sĩ đi vào trong phòng đợi của phụ nữ; thấy họ vào tất cả mọi người ở đấy tỏ vẻ chú ý và kính nể. Còn lão công tước vừa ngồi vào bàn là gọi ngay hầu bàn, sai lấy cho mình một cái gì đó. Mitxi và Oxten cũng dừng lại ở phòng quán ăn; họ đang sắp sửa ngồi xuống thì thấy từ ngoài cửa đi vào một người quen, họ liền ra đón. Người đó là Natalia Ivanovna, có Agrafena Petrovna đi theo. Natalia vừa đi vào vừa nhìn xung quanh. Hầu như cùng một lúc, nàng nhìn thấy cả Mitxi và cậu em trai. Thoạt tiên, nàng lại gần người thiếu nữ, đồng thời gật đầu làm hiệu với em. Ôm hôn Mitxi xong, nàng liền nói với Nekhliudov: - Gớm, mãi bây giờ chị mới tìm thấy cậu. Nekhliudov đứng dậy chào Mitxi, Misa và Oxten và chuyện trò với họ vài câu. Mitxi kể cho chàng nghe chuyện vì ngôi nhà ở nông thôn bị cháy, nên gia đình nàng phải dọn đến ở nhà bà dì. Nhân câu chuyện ấy, Oxten kể một câu chuyện cháy nhà ngộ nghĩnh, Nekhliudov không nghe hắn kể, quay sang phía chị, nói: - Chị đến, em mừng quá! - Chị đã đến từ lâu, có cả bà Agrafena Petrovna cùng đi. Nàng vừa nói vừa chỉ về phía bà Petrovna; bà nầy đầu đội mũ, mình mặc áo đi mưa, vẻ dịu dàng, trân trọng, e lệ từ xa chào vọng lại, không muốn lại gần để khỏi phiền chàng. - Bà ấy và chị, cả hai tìm cậu khắp nơi. - Thế mà em thì lại ngủ chợp đi ở đây. Chị đến, thật em mừng quá! - Chàng nhắc lại. - Em đã bắt đầu viết cho chị một bức thư. - Thế à? Nàng nói, vẻ sợ hãi. - Về vấn đề gì thế cậu? Thấy hai chị em Nekhliudov sắp bắt đầu nói với nhau về chuyện riêng. Mitxi và mấy người bạn trai của cô liền đi ra chỗ khác. Nekhliudov cùng với chị ngồi xuống bên cửa sổ, trên một cái ghế tràng kỷ bọc nhung, trên ghế, ngay bên cạnh, có một tấm mền đi đường, một chiếc hộp giấy và đồ đạc của một người nào đó. Chiều hôm qua, sau khi từ biệt anh chị, em đã định trở lại xin lỗi, nhưng em không biết anh ấy sẽ cho là thế nào; em đã hơi quá lời với anh, điều đó làm em ân hận mãi. - Chị biết lắm, chị tin là cậu chẳng muốn… Cậu cũng biết rõ… Nước mắt rưng rưng, nàng đặt tay vào tay em. Câu nói của nàng tuy không rõ, nhưng Nekhliudov cũng hiểu và rất cảm động về ý nghĩa của nó. Ý nàng muốn nói là tuy nàng hết lòng yêu chồng, nhưng tình nghĩa chị em, nàng vẫn coi là quan trọng và quý giá, và mỗi điều xích mích giữa chồng và em đều làm cho nàng hết sức đau lòng. - Cảm ơn chị, cảm ơn chị… Ôi! Giá chị được mục kích những cảnh tượng mà em đã trông thấy trong ngày hôm nay, - chàng nói vì bỗng nhớ đến người tù bị chết thứ hai. - Hai người tù đã bị giết chết! - Bị giết chết thế nào hả cậu? - Vâng, bị giết chết! Người ta dẫn họ đi đang lúc trời nóng bức thế nầy, nên hai người đã bị cảm nắng mà chết. - Không thể thế được! Thế nào, ngày hôm nay à? Vừa mới đây thôi à? - Đúng, vừa mới đây thôi. Em đã trông thấy xác họ. - Nhưng tại sao mà người ta lại giết họ? Ai đã giết? - Natalia Ivanovna nói. - Những người đã bắt họ phải đi đã giết họ chứ ai - Nekhliudov bực tức trả lời, chàng cảm thấy nàng nhìn nhận việc nầy y như chồng vậy. - Ôi lạy Chúa tôi? Bà Agrafena Petrovna đã đứng lại gần, kêu lên. - Phải, chúng ta đã không biết một tí gì về người ta đã hành hạ những người bất hạnh ấy, thế mà, chúng ta có nhiệm vụ phải biết những cái đó! - Nekhliudov vừa nói thêm vừa nhìn lão công tước Korsagin ngồi trước một đĩa hoa quả, cổ buộc một cái khăn; và cùng lúc đó, ngẩng đầu lên lão nhìn thấy Nekhliudov. - Nekhliudov! - Lão gọi to. Anh có muốn uống một chút gì giải nhiệt không? Đi đường xa mà uống một chút thì tốt lắm. Nekhliudov từ chối và quay mặt đi. - Nhưng cậu định làm gì bây giờ? - Natalia Ivanovna hỏi tiếp. - Làm cái gì em có thể làm được. Hiện nay em cũng chưa biết là cái gì, nhưng em cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy. Và em sẽ làm việc gì em có thể làm được. - Phải, phải, chị hiểu. Nhưng với họ? - Nàng mỉm cười đồng thời đưa mắt về phía gia đình Korsagin. - Có thật mọi việc đã chấm dứt rồi không? - Dứt hẳn rồi, em nghĩ cả hai bên đều không có gì để luyến tiếc. - Thật là đáng tiếc. Chị tiếc lắm. Chị rất mến cô ta. Thôi, hãy cứ cho là như vậy, nhưng vì lẽ gì cậu lại muốn tự trói buộc mình lại? Cậu đi làm gì? - Nàng rụt rè hỏi thêm. - Em đi vì đó là bổn phận của em, - Nekhliudov nói, giọng trang nghiêm và lạnh nhạt như muốn chấm dứt câu chuyện. Nhưng chàng lại hối hận ngay về sự lạnh nhạt của mình. "Tại sao ta không nói với chị ta tất cả những điều ta nghĩ? Và để cho cả Agrafena Petrovna nghe nữa?" Chàng vừa tự nhủ vừa nhìn bà hầu phòng già nua. Sự có mặt của bà Agrafena Petrovna càng thôi thúc hơn nữa chàng nói ra điều quyết tâm của mình với người chị ruột. - Chị muốn nói đến việc em định cưới Katiusa phải không? Chị thấy đấy, em đã quyết định lấy, nhưng cô ta dứt khoát khăng khăng một mực chối từ, - chàng nói, giọng run lên như mỗi lần nói tới điều đó. - Cô ta không muốn nhận sự hy sinh của em, mà muốn chính mình lại hy sinh; trong hoàn cảnh của cô ta hiện nay thì hy sinh như vậy là hy sinh rất lớn. Em không thể nào nhận sự hy sinh đó nếu nó chỉ là do xúc động nhất thời. Và bây giờ em đi theo cô ta; cô ta ở đâu em sẽ ở đấy và đem hết sức mình ra làm cho số phận cô ta bớt đau khổ. Natalia không nói gì. Agrafena Petrovna lắc đầu và nhìn nàng, vẻ dò hỏi. Giữa lúc đó, từ phòng đợi của phụ nữ, toán người lúc nãy lại đi ra. Vẫn Filip, anh đầy tớ điển trai, cùng người gác cửa, hai người kiệu bà công tước Korsagin. Thấy Nekhliudov, bà ta đỗ kiệu, vẫy chàng lại gần vừa chìa bàn tay ra vừa lo lắng chờ đợi một cái bắt tay quá mạnh. - Thật kinh khủng? - Bà ta muốn nói về trời nóng nực. - Tôi không chịu nổi! Cái khí hậu nầy nó giết tôi mất? Khi đã nói xong về những cái khủng khiếp của khí hậu nước Nga và mời Nekhliudov đến nhà chơi, bà ra hiệu cho hai người kiệu bà đi. - Nhớ thế nào cũng lại đằng tôi chơi nhé! - Đi được một quãng rồi, bà ta còn ngoái cái gương mặt dài thưỡn lại nói với Nekhliudov. Chàng ra sân ga. Đám người kiệu bà công tước rẽ về bên tay phải, đi về phía những toa hạng nhất. Nekhliudov cùng một người phu vác hành lý cho mình và Taratx lưng đeo tay nải, rẽ về bên tay trái. - Đây là người bạn đường của em, - Nekhliudov chỉ vào Taratx, nói với chị, trước đây chàng đã có dịp nói với chị về anh chàng nầy. - Sao kia? Cậu đi toa hạng ba à? - Natalia Ivanovna hỏi khi thấy Nekhliudov dừng lại trước một toa xe hạng ba, và người phu vác hành lý cùng với Taratx trèo lên xe. - Vâng, đi thế nầy em thích hơn, em đi cùng với Taratx, - chàng nói. - À còn một việc nầy nữa, - chàng nói thêm. - Cho tới nay, ruộng đất ở Kuzminxkoie em chưa trao hẳn cho nông dân; như vậy, trường hợp em chết đi, các cháu sẽ là người thừa kế. - Dmitri, cậu đừng nói thế! - Nếu em có đem chỗ ruộng đất ấy cho đi, thì em chỉ có thể nói một điều là, tất cả chỗ tài sản còn lại sẽ về phần các cháu, vì không chắc gì em lấy vợ, mà nếu có lấy nữa thì cũng sẽ không có con. Cho nên… - Dmitri, chị van cậu, đừng nói với chị như thế! - Natalia nói. Tuy nhiên, Nekhliudov nhận thấy nghe chàng nói thế, nàng rất mừng. Ở phía đầu đoàn tàu, cạnh đám toa hạng nhất chỉ còn mấy người vẫn đứng ngắm toa xe trong có bà công tước Korsagin. Hầu hết các hành khách đã ngồi yên chỗ, chỉ còn một vài người đến chậm đang chạy vội, gót chân giẫm sầm sầm trên những tấm ván sàn sân ga; nhân viên hoả xa đóng cửa các toa xe lại, yêu cầu tất cả hành khách lên tàu và người ra tiễn đi về. Nekhliudov vào trong toa xe nóng bức và hôi hám, nhưng lập tức lại ra ngay ngoài sân cỏ, chỗ toa nối nhau. Natalia Ivanovna, đầu đội chiếc mũ hợp thời trang, mình khoác áo choàng ngắn, cùng với bà Agrafena Petrovna đứng đối diện toa xe. Nàng hẳn đang cố tìm một câu chuyện gì để nói với em, nhưng không tìm ra. Ngay cả cái câu "Viết thư nhé" nàng cũng không nói được nữa, vì từ xưa, hai chị em vẫn chế giễu cái câu cổ truyền người ta thường dùng khi chia tay đó. Mấy lời ngắn ngủi trao đổi với nhau về những vấn đề tiền bạc và gia tài phút chốc đã phá tan mối tình chị em thật là âu yếm vẫn có từ trước giữa hai người; bây giờ đối với nhau họ cảm thấy hững hờ xa lạ. Cho nên Natalia Ivanovna mừng thầm khi đoàn tàu chuyển bánh, nàng chỉ gật gật đầu vẻ mặt buồn rầu, thương cảm: "Chúc cậu đi mạnh khỏe nhé, cậu Dmitri!". Nhưng đoàn tàu vừa chuyển qua, nàng đã nghĩ ngay tới cách thuật lại thế nào với chồng câu chuyện vừa nói với em trai; vẻ mặt nàng lúc nầy nom nghiêm trang, tư lự. Nekhliudov cũng vậy, dù rằng từ trước, đối với chị chàng chỉ có những tình cảm hết sức thân thiết và không giấu chị một điều gì, giờ đây, chàng cũng thấy bứt rứt nặng nề và mong muốn chóng đi xa chị. Chàng cảm thấy người chị Natalia thân thiết xưa kia, nay không còn nữa; chỉ còn có một nô tỳ của một anh chàng khả ố, da ngăm ngăm đen, người đầy lông lá, xa lạ đối với chàng. Chàng đã nhận thấy rõ ngay như thế khi trông thấy gương mặt bà chị tươi hẳn lên lúc nghe chàng bắt đầu nói về cái điều chồng nàng đang quan tâm, tức là về việc đem ruộng đất cho nông dân và việc thừa hưởng gia tài. Và điều đó làm cho chàng rất buồn. Chương 99 Trong toa xe hạng ba rộng lớn chật ních hành khách lại bị mặt trời nung nấu suốt một ngày, hơi nóng ngột ngạt quá nên Nekhliudov không vào trong toa mà đứng bên ngoài, chỗ nối toa. Nhưng cả ở đấy nữa cũng không có lấy một chút hơi mát. Mãi khi đoàn tàu ra khỏi thành phố và có những luồng gió thổi qua, chàng mới thấy được thở căng lồng ngực. "Đúng, chúng đã giết họ" - chàng nhắc lại những lời đã nói với chị. Và trong trí tưởng tượng của chàng, trên tất cả những ấn tượng của ngày hôm đó, vụt hiện lên một cách sinh động khác thường cái khuôn mát đẹp đẽ của người tù thứ hai với nụ cười trên môi, với vẻ trang nghiêm trên vầng trán, với vành tai cứng cáp, xinh xinh dưới cái đầu trọc đã tím lại. "Và cái điều kinh khủng hơn cả là anh ta đã bị giết mà không người nào biết ai đã giết. Thế mà anh ta đã bị chúng giết. Theo lệnh của Maxlenikov, người ta đã dẫn anh đi như tất cả những người khác. Chắc hẳn Maxlenikov cũng chỉ đã ra lệnh như mọi bận, hắn nguệch ngoạc một chữ kí ngu ngốc trên một tờ giấy có tiêu đề và chắc chắn là hắn tuyệt nhiên không tự cho mình là kẻ có tội trong việc nầy. Còn bác sĩ khám sức khỏe tù nhân, thì lại càng không thấy có tội. Ông ta đã làm phận sự không sai một ly, đã lọc ra những người yếu sức; ông ta đoán trước sao được hôm nay trời lại nóng như thiêu như đốt như thế nầy và họ lại giải tù đi muộn như vậy, mà lại đông đến thế. Còn giám ngục? Viên giám ngục cũng chỉ là thi hành cái mệnh lệnh phải giao đi, vào ngày nào đó, một số là bao nhiêu tù khổ sai, bao nhiêu tù đi đày, bao nhiêu nam, bao nhiêu nữ, thế thôi. Cũng không thể nói viên sĩ quan áp giải là có tội được; nhiệm vụ của hắn là nhận một số tù nào đó, ở một nơi đã định và giao lại đủ số đó ở một nơi nào đó. Hắn đã giải đi như thường lệ và cũng không ngờ đâu rằng những con người khỏe mạnh, như hai người mà Nekhliudov đã trông thấy đấy, lại không chịu nổi và bị chết. Không ai có tội cả, thế nhưng lại đã có những người đã bị giết mà bị giết chính bởi ngay những kẻ không có tội lỗi gì về cái chết của họ?". "Sự thể nầy xảy ra, - Nekhliudov nghĩ, - chỉ tại chỗ tất cả những người đó - tỉnh trưởng, giám ngục, trưởng đồn, cảnh binh - đều cho rằng ở đời có những trường hợp mà trong quan hệ giữa con người với nhau, không bắt buộc phải có thái độ nhân đạo. Nhưng tất cả những người đó cả Maxlenikov, viên giám ngục, và viên sĩ quan áp giải nếu họ không phải là tỉnh trưởng, là giám ngục, là sĩ quan áp giải thì chắc họ phải suy nghĩ ít nhất đến hai mươi lần rằng: trời nóng như thế, có thể cho dẫn những người nầy đi đông như thế được không?. Dọc đường họ sẽ dừng lại đến hai mươi lần, và khi nhận thấy có một người lả đi,thở không ra hơi thì họ đã phải cho anh ta ra ngay khỏi hàng ngũ và dẫn anh ta vào chỗ có bóng râm, để cho anh ta uống nước, để cho anh ta nghỉ ngơi, và cuối cùng, nếu điều bất hạnh còn xảy ra, họ sẽ tỏ lòng thương xót. Điều đó chẳng những giờ đây họ sẽ không làm mà họ còn ngăn cản không cho người khác làm nữa, chẳng qua chỉ tại một điều là trước mắt họ, họ chỉ thấy chức vụ của họ và những yêu cầu của chức vụ ấy thôi; những yêu cầu đó họ đặt lên trên tất cả những yêu cầu của quan hệ con người với nhau. Tất cả là ở chỗ đó, - Nekhliudov tiếp tục nghĩ. - Một khi người ta thừa nhận, dù là chỉ trong một tiếng đồng hồ hoặc trong một trường hợp độc nhất tối đặc biệt nào đó thôi, là có một cái gì đó quan trọng hơn tình nhân loại, thì không còn có tội ác nào người ta lại không phạm được mà vẫn cho mình là vô tội. Nekhliudov đắm đuối suy nghĩ, nên không nhận thấy tiết trời thay đổi. Một đám mây đầu tiên tả tơi lan tới, thấp là là, che lấp cả mặt trời, rồi một đám mây dày dặc, mầu xám nhạt từ phương tây kéo nhanh đến: ở nẻo xa một trận mưa nặng hạt, xiên xiên đã trút xuống đồng ruộng, rừng cây. Hơi ẩm từ mây hoà vào không khí. Chốc chốc những tia chớp sáng loáng lại rạch xé mây đen. Tiếng sấm ầm ầm mỗi lúc một mau hoà lẫn với tiếng xe lửa chạy rầm rầm. Đám mây càng ngày càng lại gần; những giọt nước mưa xiên xiên, bị gió thổi bạt đi, bắt đầu lấm tấm rơi trên sàn chỗ nối toa và trên áo khoác ngoài của Nekhliudov. Chàng đổi chỗ sang phía bên kia, phồng ngực hít lấy hơi mát rượi, ẩm ướt và mùi lúa mạch ngọt ngào trên đồng ruộng đang chờ mưa; chàng nhìn những mảnh vườn, những khu rừng, những cánh đồng lúa mạch vàng hoe, những dải lúa kiều mạch xanh tươi và những luống khoai tây xanh thẫm đang nở hoa, lướt vụt qua trước mặt. Có thể nói là tất cả đều được phủ một lớp sơn bóng: màu xanh hoá ra xanh ngắt, vàng hoá ra vàng tươi, còn chỗ nào đen thì đen thẫm lại. - Mưa nữa đi, mưa nữa đi. - Nekhliudov nói, lòng khoan khoái thấy đồng ruộng, vườn tược sống lại dưới trận mưa phúc đức. Cơn mưa rào tạnh ngay. Đám mây lớn, một phần trút xuống thành mưa, còn thì bay tản mạn ra xa, và những giọt mưa cuối cùng đã rớt thẳng thưa thớt, nhỏ hạt xuống mặt đất ướt át. Mặt trời lại ló ra, làm cho muốn vật sáng loáng; đằng đông, trên đường chân trời, một cái mống cụt, không cao lắm, nhưng tươi sáng, đặc biệt có màu tím là thắm hơn ca. "Nhưng ta đã nghĩ gì thế nầy?" Nekhliudov tự hỏi mình khi tất cả những biến đổi trong thiên nhiên đó đã chấm dứt và đoàn tàu bắt đầu chạy vào trong một đường hẻm, hai bên sườn vách cheo leo. "Ừ! Phải, ta vừa nghĩ rằng tất cả những con người ấy giám ngục, sĩ quan, lính áp giải tất cả những viên chức đó, phần lớn vốn hiền lành, giờ đây, họ trở thành độc ác chỉ vì họ làm viên chức nhà nước thôi". Chàng nhớ lại thái độ lãnh đạm của Maxlenikov khi chàng kể cho hắn nghe những chuyện xảy ra ở trong nhà lao, nhớ lại sự khắc nghiệt của tên giám ngục, sự tàn nhẫn của viên sĩ quan áp giải từ chối không cho những người xin hắn được đi xe và chẳng đoái hoài chi tới người phụ nữ đau đớn, trở dạ đẻ ở trên tầu. "Tất cả những con người đó, rõ ràng là tim họ trơ như đá rắn như sắt, không một chút tình thương xót đơn giản nào thấm được vào lòng họ, chỉ vì họ là viên chức nhà nước: Tình yêu thương nhân loại không thấm vào được lòng họ - những viên chức nhà nước - cũng như nước mưa không thể thấm được vào vách đá kia, - chàng nghĩ vậy khi nhìn hai bên vách xây bằng đá màu sắc sặc sỡ, trên đó nước mưa chảy ròng ròng như suối, không thấm vào đất ở bên trong được. - Có thể việc xây những vách đá kia là cần thiết, nhưng nhìn cả dải đất trơ trụi, không cây cối ta không khỏi đau lòng, vì trên mặt nó cũng có thể mọc xum xuê đầy lúa mạch, cỏ xanh, um tùm cây cối như ở trên đỉnh vách kia. Đối với con người cũng như thế, - Nekhliudov nghĩ - có thể những viên tỉnh trưởng, giám ngục, cảnh binh kia là cần phải có, nhưng nhìn thấy họ trơ như đá, không còn bản chất chủ yếu của con người nữa, không còn tình thương yêu giữa đồng loại với nhau nữa, thì thật là đáng ghê sợ "Tất cả đều do ở chỗ những con người đó công nhận là luật pháp cái không phải là luật pháp và lại không công nhận là luật pháp cái luật pháp vĩnh cửu, bất biến, đương nhiên mà chính Thượng đế đã khắc sâu vào tâm khảm con người. Chính vì thế mà khi gần họ ta thấy khó chịu, chàng nghĩ. - Chỉ là ta sợ họ thôi. Những con người đó quả thật đáng ghê sợ, đáng ghê sợ hơn cả những tên trộm cướp. Tên trộm cướp dù sao đi nữa cũng còn có thể có từ tâm, chứ bọn họ thì không thể có được. Họ kỵ từ tâm cũng như những tảng đá kia kỵ cây cỏ. Chính vì thế mà họ đáng sợ. Người ta thường bảo là bọn Pugasev, bọn Razin là đáng sợ. Nhưng chính họ còn đáng sợ hơn gáp nghìn lần. "Giả sử người ta đặt một vấn đề tâm lý: làm thế nào để tạo những con người ở thời đại chúng ta, những người theo đạo Thiên Chúa, những người theo chủ nghĩa nhân đạo những người chất phác lương thiện, thành những người làm được những việc đại gian, đại ác mà không thấy mình là có tội, thì chỉ có một giải đáp là làm cho những con người ấy trở thành tỉnh trưởng, những sĩ quan, những giám mục, nghĩa là thứ nhất: họ tin chắc rằng có một loại công việc gọi là viên chức nhà nước nó cho phép người ta đối xử với con người như đối xử với đồ vật, không có tình nhân loại, nghĩa bác ái gì hết; thứ hai: những con người làm việc cho nhà nước đó phải liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào, để cái trách nhiệm về hậu quả những hành vi của họ sẽ không rơi xuống đầu riêng một người nào cả. Không có những điều kiện đó thì ở thời đại chúng ta, không thể nào có thể có được những hành vi ghê gớm như là ta đã chứng kiến ngày hôm nay. Tất cả là do người ta tưởng rằng có những trường hợp có thể đối xử với đồng loại không cần tình thương yêu. Nhưng làm gì có trường hợp như vậy. Người ta có thể đối xử không chút tình thương yêu đối với những vật vô tri vô giác; người ta có thể chặt cây, nung gạch, rèn sắt không chút tình thương; nhưng trong việc đối xử với con người không thể không có tình thương yêu được, cũng như người ta không thể nào chăm sóc ong mật lại không thận trọng. Bản tính của ong mật là như vậy. Nếu anh không cẩn thận với chúng thì anh sẽ làm hại chúng và làm hại cả chính bản thân anh nữa. Đối với con người cũng thế, không thể nào cư xử khác được, bởi vì lòng thương yêu lẫn nhau của con người là định luật cơ bản của đời sống loài người. Cố nhiên ta không thể buộc người khác phải thương yêu mình, như buộc người khác phải làm việc cho mình, nhưng không phải vì thế mà có thể đối xử với mọi người không có tình thương yêu, nhất là khí còn muốn đòi hỏi ở người khác một điều gì đó. Nếu anh không cảm thấy có tình thương yêu đối với mọi người, thì anh hãy ngồi yên đó, Nekhliudov tự nói với mình, - anh hãy chăm chút đến bản thân anh, trông coi đến những vật dùng của anh, đến tất cả những gì anh muốn, nhưng đừng động đến con người. Cũng như chỉ khi ta thấy đói cần ăn thì ăn mới có lợi mà vô hại, việc đối xử của con người cũng vậy nó chỉ có lợi mà không có hại khi anh yêu thương con người. Hãy thử đối xử với mọi người không chút tình thương yêu, như ta đã đối xử với người anh rể của ta hôm qua, thì sự độc ác tàn bạo trong cách ăn ở của mọi người sẽ không còn biết đâu là giới hạn nữa, như những sự việc chính mắt ta trông thấy trong ngày hôm nay, và nỗi đau khổ cho bản thân mình cũng không còn biết đâu là bến bờ nữa, như ta đã thấy rõ trong cả cuộc đời ta như vậy phải, phải, đúng là như vậy, - Nekhliudov nghĩ. "Đúng! Đúng lắm!" - chàng tự nhắc lại và cảm thấy hai niềm khoan khoái: một là vì người được mát mẻ sau cơn nóng bức; hai là vì đã hiểu thấu được rất rõ ràng minh bạch một vấn đề từ lâu chàng vẫn băn khoăn. Chương 100 Toa tàu Nekhliudov đi, một nửa đã chật người ngồi. Trong số hành khách có người đi ở, có thợ thủ công, có công nhân, có đồ tể, có người Do Thái, có thư ký hiệu buôn, có phụ nữ vợ công nhân, một người lính, hai bà mệnh phụ - một người còn trẻ, một người đã luống tuổi, tay để trần đeo vòng xuyến, - và một người sang trọng vẻ mặt nghiêm nghị, trên mũ lưỡi trai đen có đính chiếc phù hiệu. Sau một lúc ồn ào chọn chỗ, giờ đây mọi người đều đã yên vị, kẻ đang cắn hạt quỳ, người hút thuốc hoặc chuyện trò náo nhiệt. Taratx, vẻ mặt hân hoan, ngồi ở bên phải lối đi, vừa giữ chỗ cho Nekhliudov, vừa vui vẻ chuyện trò với một người đàn ông vạm vỡ, mặc áo choàng bằng vải, để hở ngực, ngồi đối diện. Về sau, Nekhliudov môi biết anh nầy là một người làm vườn, đáp tàu đến nơi làm việc mới. Trước khi tới chỗ Taratx, Nekhliudov dừng lại ở lối đi bên cạnh một ông già tốt lão, râu bạc phơ, mặc một chiếc áo choàng bằng vải Nam kinh, đang nói chuyện với một thiếu phụ ăn vận quê mùa. Ngồi bên cạnh người nầy là một cháu gái lên bảy tuổi, chân bỏ thõng xuống không tới sàn tàu; em bé mặc một chiếc áo ngoài mới, tóc như tơ trắng kết thành bím, miệng luôn luôn cắn hạt quỳ ông cụ quay lại nhìn thấy Nekhliudov, liền thu gọn cái vạt áo từ nãy để xoà trên chiếc ghế dài bóng loáng, và nói với chàng, giọng hiền từ: - Mời ông ngồi xuống đây. Nekhliudov cảm ơn ông cụ và ngồi xuống. Chàng vừa ngồi xong thì người thiếu phụ lại tiếp tục câu chuyện bị đứt quãng. Chị kể chuyện chị ra tỉnh với chồng và được anh ta đón tiếp như thế nào; giờ đây chị về quê. Lần trước tôi ra thăm anh ấy vào dịp tết Carnaval. Cho đến bây giờ, ơn Chúa tôi mới lại ra với anh ấy, - chị ta nói. - Sau nầy, được Chúa thương, đến Giáng sinh tôi sẽ lại ra. - Thế thì hay quá, - ông cụ vừa nói vừa nhìn sang Nekhliudov. - Thỉnh thoảng cũng nên ra thăm anh ấy, kẻo còn trẻ mà ở ngoài tỉnh thì dễ hư lắm. - Thưa cụ, không đâu ạ? Nhà con không phải hạng người như vậy đâu ạ? Anh ấy đứng đắn lắm, sống như con gái ấy. Tất cả tiền nong, từng đồng xu một, anh ấy cũng góp nhặt gửi hết về nhà. Nhìn thấy mặt con bé cháu đây, anh ấy mừng mừng là! Mừng quá không nói lên được nữa, - chị ta mỉm cười nói tiếp. Đứa con gái ngồi nghe mẹ nói chuyện vừa không ngừng cắn hạt quỳ và nhổ bỏ vỏ, đôi mắt bình thản và thông minh ngước nhìn Nekhliudov và ông cụ như để chứng minh những lời mẹ nó nói là đúng. - Nếu anh ấy khôn ngoan như thế thì càng hay, - ông cụ lại nói. - Thế cái món kia, anh ấy có ưa không? - ông cụ vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía một cặp, đúng hai vợ chồng cùng là công nhân, ngồi ở phía bên kia lối đi. Đưa miệng chai vodka kề môi, đầu ngửa ra đằng sau, anh chồng nốc một hơi, trong khi đó chị vợ hai tay ôm cái bị vừa lấy chai rượu ra, chăm chú nhìn chồng. - Không, nhà con không uống rượu, cũng không hút thuốc, - người đàn bà thừa dịp đó để ca tụng chồng một lần nữa. - Những người như anh ấy, cụ ạ, ở thế gian nầy không nhiều lắm đâu! Anh ấy như thế đấy. - Chị nói thêm và quay về phía Nekhliudov. - Thế thì còn gì hay hơn nữa! - ông cụ vừa nhắc lại vừa nhìn anh công nhân uống rượu. Anh nầy đưa chai rượu cho vợ, chị vợ cầm lấy vừa nâng lên gần môi vừa cười, đầu gật gù. Thấy Nekhliudov và ông cụ nhìn mình, anh công nhân quay lại phía chàng, nói: - Có gì đâu thưa ngài? Ngài nhìn chúng tôi vì chúng tôi uống rượu à? Lúc chúng tôi trần lực ra làm thì chẳng thấy ai ngó đến, nhưng khi chúng tôi uống rượu thì người nào cũng nhìn. Tôi kiếm được tiền thì tôi uống rượu, tôi khao vợ tôi, có thế thôi. - Phải, phải. - Nekhliudov nói, chẳng biết trả lời thế nào khác. - Có phải thế không ạ, thưa ngài? Vợ tôi là người nền nếp, đảm đang; tôi rất vừa ý, không phải phàn nàn gì cả vì nhà tôi biết thương tôi. Có phải thế không mình, Mavra? - Nầy, cầm lấy, em không uống nữa đâu, - người vợ, miệng nói, tay đưa trả lại chồng chai rượu. - Anh ba hoa gì thế? - Chị ta nói thêm. Đấy nhà tôi nó thế đấy, - anh công nhân nói tiếp, - nhà tôi tốt, tốt đáo để, có điều là lắm lúc bỗng không lại rít ken két như bánh xe không dầu ấy. Anh nói có đúng không hả, Mavra? Mavra cười, quờ quạng cánh tay, có vẻ hơi say. - Chà! Anh lại bốc lên rồi đấy… - Và nhà tôi là như vậy đấy, tốt lắm, nhưng không phải bao giờ cũng thế đâu, y như con ngựa ấy; chỉ cần luồn một dây cương xuống dưới khẩu đuôi nó, nó sẽ cho ngài thấy những chuyện không thể tưởng tượng được… - Tôi nói thực đấy. Xin ngài bỏ quá cho. Tôi hơi quá chén! Ờ, làm gì bây giờ? - Anh công nhân nói xong, gối đầu lên đùi vợ đang mủm mỉm cười, sửa soạn ngủ. Nekhliudov ngồi nán lại với ông cụ một lúc; nghe ông cụ kể chuyện về cuộc đời mình. Ông cụ làm nghề thợ xây bếp lò, cụ đã làm việc suốt năm mươi ba năm nay, và trong một đời cụ đã xây không biết bao nhiêu là lò. Bây giờ, cụ định nghỉ ngơi một chút, nhưng cũng chẳng có lúc nào được rảnh. Cụ vừa ra tỉnh kiếm việc làm cho mấy đứa con cháu, và bây giờ cụ trở về thăm quê nhà. Nghe xong câu chuyện, Nekhliudov đứng dậy trở về chỗ Taratx vẫn giữ cho chàng. - Ngài cứ ngồi xuống đi, chúng tôi sẽ để cái túi hành lý ra đây, - người làm vườn đối diện với Taratx, hoà nhã nói, mắt ngước lên nhìn Nekhliudov. - Càng chật càng vui, ông ạ - Taratx tươi cười nói với cái giọng trầm bổng của anh; anh đưa hai cánh tay chắc nịch nhất bổng cái túi nặng tới ba mươi cân coi như không, để ra phía cửa sổ. - Chỗ ngồi thì thiếu gì, mà có đứng một tí, hay thậm chí nằm xuống dưới gầm ghế cũng được cơ mà. Thế nầy, bọn mình dễ chịu chán. Việc gì phải tranh cãi nhau? - Anh ta nói, nét mặt đầy vẻ thân ái hiền hậu. Nói về mình, Taratx thường bảo khi không uống rượu, anh chẳng nói một lời, nhưng mà rượu vào là anh tìm ngay ra được những lời rất đúng và gì anh cũng nói được cả: Quả thật như vậy, khi tỉnh táo, Taratx thường hết sức trấm lặng nhưng khi đã uống rượu - rất ít khi và cũng chỉ trong những trường hợp đặc biệt thôi - thì anh hoá ra hay nói, vui vẻ, dễ thương lạ. Lúc đó, anh nói đã nhiều lại hay, rất giản dị, chất phác và đặc biệt là rất đáng yêu, - cái vẻ đáng yêu toả ra từ đôi mắt xanh lam hiền hậu, từ nụ cười cởi mở luôn luôn nở trên môi. Hôm nay, anh chàng đang vào lúc vui. Nekhliudov đến gần, anh ngừng câu chuyện đang nói; nhưng khi đã xếp đặt xong cái túi, anh lại ngồi xuống, đặt đôi tay khỏe mạnh lên đùi, nhìn thẳng vào mắt người làm vườn và tiếp tục kể. Anh kể với người bạn mới quen về vợ mình, vì sao vợ anh đi đày, và vì sao giờ đây anh lại đi theo vợ đi Siberi. Nekhliudov trước đó chưa được biết rõ chi tiết câu chuyện, nên chàng chú ý lắng nghe. Chàng đến vào lúc anh kể đến đoạn việc đầu độc thành sự đã rồi và gia đình biết Fedoxia là kẻ thủ phạm… - Tôi đang nói về nỗi đau khổ của tôi, - Taratx thành thực và thân mật nói với Nekhliudov. - Tôi may mắn được một người rất đỗi thông cảm với tôi, chúng tôi đã tâm sự với nhau và tôi đang kể cho anh ấy nghe hết câu chuyện. - Anh cứ kể tiếp đi, - Nekhliudov nói. - Như vậy, anh ạ, thế là câu chuyện được phát giác. Mẹ tôi cầm lấy cái bánh: "Tao ra đồn đây" - bà cụ nói. Bố tôi là một ông già rất đúng mực. "Khoan đã, bà nó, - ông cụ nói, - con bé còn non dại, việc nó làm chính nó cũng không biết mình làm gì đâu. Ta phải thương nó chứ. Sau nầy, nó có thể hồi tâm tỉnh ngộ". Nhưng, nói gì thì nói, mẹ tôi cứ khăng khăng không nghe. Bà cụ bảo: "Giữ nó trong nhà, để rồi mai nó giết cả nhà như lũ nhái ấy à?" và thế là bà cụ đi ra trình đồn, anh ạ. Lão trưởng đồn lập tức sục tới nhà tôi… và tức khắc lấy nhân chứng. - Thế còn anh thì thấy thế nào? - Người làm vườn hỏi. Còn tôi, anh ạ, lúc ấy bụng nó đau quặn lên, tôi lăn ra đất và nôn mửa. Ruột gan trong người cứ lộn cả lên, tôi không nói được một tiếng. Thế là bố tôi đóng ngựa vào xe, cho Fedoxia lên xe và đi lên đồn? Rồi đến nhà quan dự thẩm. Còn Fedoxia, anh ạ, ngay từ đầu, cô ấy thú nhận hết, trước mặt quan dự thẩm cô ấy cũng khai đầu đuôi rành mạch: cô ấy lấy thuốc độc ở đâu và đã pha vào bánh như thế nào. "Tại sao mày lại làm như vậy?" người ta hỏi cô ấy. Cô ấy trả lời: "Bởi vì tôi ghê tởm nó lắm, tôi thà đi Siberi còn hơn sống với nó", nghĩa là với tôi đấy! - Taratx tươi cười giải thích - Thế là cô ấy nhận hết mọi tội. Và dĩ nhiên là phải vào tù. Ông bố tôi về một mình… Nhưng mùa màng lại sắp tới. Ở nhà tôi chỉ có mỗi mình mẹ tôi là đàn bà thôi, mà bà cụ đã yếu rồi. Chúng tôi nghĩ: "Làm thế nào bây giờ, liệu xin bảo lĩnh cho cô ấy ra, có được không? Bố tôi liền đến ngay nhà một ông quan. Không ăn thua gì; lại đến một ông khác. Ông cụ chịu đi cầu cạnh đến năm người, tưởng đành chịu. May quá về sau có một ông lục sự, một con người rất tài, thật khó mà tìm được đến một người thứ hai như vậy. Ông ta bảo: "Đưa tôi năm "rúp" tôi sẽ chạy cho cô ta được ra". Về sau thoả thuận với nhau là ba "rúp". Thế rồi, anh ạ tôi đã mang cầm số vải chính tay cô ta dệt trước đây, lấy tiền đưa cho ông ta. Ông ta đặt bút viết đơn… - Taratx nói, kéo dài giọng như là nói về một phát súng vậy, - là thành ngay lập tức. Lúc đó tôi đã bắt đầu dậy được, tôi thân hành đánh xe ra tỉnh đón cô ta. Anh ạ, thế là tôi ra tỉnh. Tôi để gửi con ngựa ở quán trọ, cầm lá đơn đến nhà tù "Anh muốn hỏi gì?" - "Sự thể là, - tôi nói, - tôi có người vợ bị giam tại nơi các ông đây." - "Thế có giấy tờ gì không?". Tôi chìa lá đơn ra. Hắn ta liếc qua một cái: "Đợi đấy". Tôi ngồi xuống một cái ghế dài. Mặt trời đã hơi xế bóng. Một ông quan ra hỏi: "Mày là Vacgusov phải không?" - "Dạ chính tôi ạ" - "Thế thì nhận lấy người nhà." - ông ta nói. Tức thì người ta mở cổng đưa cô ta ra, mặc quần áo riêng của mình, vẫn đàng hoàng. "Thôi, ta đi về!" - Anh đi bộ à? - Không, có ngựa. Chúng tôi về đến nhà trọ, tôi trả tiền gửi ngựa và đóng ngựa vào xe. Tôi lót chỗ cỏ còn lại xuống dưới một mảnh vải thô để cô ta ngồi lên đó. Cô ta lấy khăn chùm kín cả người. Chúng tôi lên đường. Cô ta im lặng, còn tôi cũng không nói gì cả. Khi về gần đến nhà, cô ta mới hỏi tôi thế nầy: "Mẹ thế nào, vẫn còn sống chứ?" - Tôi bảo "còn sống" "Thế bố, vẫn còn sống chứ? - "Còn sống" - "Taratx, anh tha cho tôi đã chót dại nhé. Tôi cũng không hiểu việc tôi làm nữa". Tôi trả lời cô ta: "Cô nói nhiều quá, vô ích, tôi đã bỏ qua từ lâu rồi". Cô ta không nói gì nữa. Chúng tôi về tới nhà. Cô ta sụp xuống chân mẹ tôi. Bà cụ nói: "Chúa tha thứ cho con!". Còn bố tôi ông cụ chào và bảo cô ta: "Chuyện đã qua rồi nhắc lại có ích gì đâu. Hai vợ chồng mày, hãy ăn ở với nhau cho tử tế hơn con ạ, bây giờ không phải là lúc nói đến chuyện ấy nữa. Phải lo thu hoạch mùa màng đi thôi. Ở đồng Xkorodino, có một sào ruộng bón nhiều phân nên năm nay trời cho hắc mạch rất tốt, dùng liềm không được, lúa chằng chịt với nhau đổ nằm rạp như dải giường cả một lượt Phải gặt thôi. Hai vợ chồng mày, ngày mai đi mà gặt, con ạ!". Và từ lúc đó, anh ạ, cô ta bắt tay vào công việc, làm hăng lắm, đến nỗi mọi người phải ngạc nhiên. Năm đó, chúng tôi có ba mẫu ruộng thuê và, ơn chúa, hắc mạch cũng như yến mạch, đều tốt chưa từng thấy. Tôi gặt, cô ta bó, đôi khi cả hai chúng tôi cùng gặt. Làm ăn thì tôi thạo lắm, chẳng để hỏng việc gì, nhưng cô ta làm còn thạo hơn tôi nhiều. Cô ta đã đảm, lại trẻ, đang sức. Cô ta ham công việc đến nỗi, anh ạ, chính tôi phải ngăn cô ta lại. Về đến nhà, những ngón tay phồng cả lên, cánh tay mỏi rời, phải nghỉ ngơi chứ; ấy thế mà cô ta cơm cũng chẳng kịp ăn, còn chạy xuống nhà ngang sửa soạn dây dợ cho sáng hôm sau. Thật là khác hẳn xưa! - Thế đối với anh, cô ta có trở nên dịu dàng hơn không người làm vườn hỏi. - Chuyện đó thì khỏi phải nói? Cô ta cứ dính chặt vào tôi như sơn ấy, hai người như một. Tôi mới chớm nghĩ đến cái gì, là cô ta đoán ra ngay. Ngay cả mẹ tôi, trước bà cụ giận là thế, mà bây giờ cũng phải nói: "Như con Fedoxia nhà ta đã biến đổi thành một đứa nào khác hẳn, hoàn toàn khác". Một hôm, chúng tôi đánh hai xe đi lượm lúa: hai vợ chồng tôi cùng ngồi với nhau trên xe đi đầu. Tôi hỏi: "Fedoxia, làm sao em lại có thể nghĩ tới chuyện ấy được?" - "Làm sao em lại có thể nghĩ tới à? Lúc đó em không muốn ăn ở với anh. Em nghĩ thà chết còn hơn, sống như vậy không chịu được". – "Thế bây giờ?" - "Bây giờ ư? Bây giờ thì mình ở trong trái tim em rồi". Taratx ngừng lại, mỉm một nụ cười sung sướng và lắc đầu ngạc nhiên: - Gặt hái vừa xong, tôi đánh một xe gai đi ngâm, lúc trở về thì - anh ta lặng đi, không nói, - có trát đòi cô ta ra toà. Còn chúng tôi thì cả đến cái duyên do vì đâu mà vợ tôi phải ra toà, cũng đã quên rồi. - Cái đó là do ma quỷ nó xui nên thế thôi! - Người làm vườn nói. - Có thể nào một con người lại tự mình tính đến chuyện sát hại một con người khác không? Ở quê tôi cũng có một người… - và người làm vườn sắp sửa kể chuyện thì tầu đi chậm lại. - Như đến ga rồi thì phải? Phải đi uống cái gì đi chứ, anh ta nói. Thế là câu chuyện kết thúc và Nekhliudov đi theo sau người làm vườn, bước xuống những tấm ván ướt át trên sân ga. Chương 101 Lúc chưa ra khỏi toa tàu, Nekhliudov đã thấy ở ngoài trước cửa ga có mấy cỗ xe ngựa sang trọng thắng ba hoặc bốn con ngựa béo tốt, cổ đeo nhạc lắc leng keng. Ra đứng trên sân ga ẩm ướt, đen sẫm vì đẫm nước mưa, chàng nhìn thấy ở trước mặt những toa hạng nhất, một đám đông, trong đó nổi bật lên một bà cao lớn, béo tốt, mình mặc áo mưa, đầu độ; mũ có điểm những chiếc lông chim quỷ giá, và một anh thanh niên cao lênh khênh, đôi chân leo khoeo, mình vận bộ quần áo đi đua xe đạp, tay dắt một con chó to béo, cổ đeo một chiếc cổ-dề loại đắt tiền. Đứng sau lưng hai người là gia nhân đầy tớ có mang ô và áo tơi ngắn, và một anh xà-ích cũng ra đón. Ở tất cả bọn người ấy, từ người đàn bà to béo đến anh xà-ích tay giữ vạt áo dài đều tỏ cái vẻ thung dung, đĩnh đạc, giàu có phong lưu. Lập tức có một đám người hiếu kỳ thấy giàu sang thì khúm núm, xun xoe vây quanh lấy họ; thầy xếp ga đội mũ lưỡi trai đỏ, anh lính sen-đầm, một cô gái gầy gò mặc bộ y phục Nga, cổ đeo chuỗi hạt thuỷ tinh (cứ mùa hè là cô ta có mặt khi tàu đến), một thầy ký giây thép nhà ga và đông hành khách, cả nam lẫn nữ. Nekhliudov nhận ra anh thanh niên dắt chó là cậu học sinh trung học Korsagin: còn bà to béo là em gái bà công tước, gia đình nhà Korsagin sẽ đến ở nhờ ấp bà ta. Viên xa trưởng lon vàng lấp lánh, giầy bóng loá, mở cửa toa xe và cung kính giữ cánh cửa, trong khi đó thì Filip và một người phu mặc tạp dề trắng, thận trọng kiệu bà công tước mặt dài như mặt ngựa, ngồi trong chiếc ghế bành xuống. Hai chị em ôm lấy nhau hôn, người ta nghe thấy những cái tiếng Pháp trao đổi hỏi xem bà công tước sẽ đi xe mui trần hay xe mui kín; đoàn người tiến ra phía cửa ga, đi sau rốt là người nữ tỳ tóc uốn quăn từng món, mang mấy chiếc dù và cái túi bằng da. Nekhliudov không muốn gặp mặt họ để khỏi phải chào chia tay một lần nữa. Chàng dừng lại, không ra vội cửa ga, chờ cho đám người đó đi hết. Bà công tước cùng với cậu con trai, cô Mitxi, ông bác sĩ và người nữ tỳ đi trước, còn lão công tước già cùng bà em vợ theo sau. Nekhliudov đứng ở xa chỉ nghe lõm bõm thấy vài câu tiếng Pháp họ nói với nhau. Có một câu lão công tước nói, không hiểu vì sao-xưa nay vẫn thường xẩy ra như vậy - đã lọt vào ký ức chàng với cả âm thanh lẫn giọng nói: - Ồ ông ta ở giới thượng lưu chân chính, giới thượng lưu chân chính! - Lão nói về một người nào đó, giọng sang sảng, tự đắc, và cùng bà em vợ ra khói ga; một anh nhân viên kiểm soát nhà ga và mấy người phu khuân vác kính cẩn đi theo. Giữa lúc đó, từ một góc nhà ga, một toán thợ chân đi giầy cỏ, mình mặc áo da cừu: lưng đeo túi hành lý đi ra sân ga. Họ xăm xăm nhẹ nhàng đi tới toa xe đầu tiên và định lên tàu, nhưng liền bị người kiểm soát xe đuổi xuống. Họ vội vã xô đẩy nhau đi luôn đến toa thứ hai và sắp sửa leo lên, va cả bọc bị vào cạnh toa và thành cửa toa xe thì lúc đó một viên kiểm soát khác đứng ở cửa ga trông thấy, bèn quát mắng ầm lên. Mấy người đã vào trong toa rồi vội vã quay trở ra và họ vẫn xăm xăm nhẹ nhàng đi tới toa sau là toa có Nekhliudov. Viên kiểm soát định ngăn lại không cho lên. Họ đã đứng lại và sắp sửa đi xa nữa, nhưng Nekhliudov bảo cho họ biết toa còn chỗ có thể lên được. Họ nghe theo. Leo lên và Nekhliudov lên theo họ. Những người công nhân đã định dọn dẹp chỗ ngồi, nhưng cái ông đội mũ có huy hiệu và hai bà lớn kia lại coi việc những người công nhân nọ lên ngồi ở toa nầy là xúc phạm đến bản thân mình, bèn cương quyết phản đối và đuổi họ đi nơi khác. Tức thì cả toán thợ có độ hai mươi người, già có, trẻ có, mặt mũi người nào người nấy hốc hác mệt mỏi, da sạm nắng, lập tức lại dọc theo toa tầu đi tới chỗ khác va những bọc bị vào ghế, vào thành tầu vào cửa toa xe, họ rõ ràng cảm thấy như mình có lỗi, và sẵn sàng đi đến chân trời góc biển nào cũng được, ngồi xuống bất cứ chỗ nào thiên hạ bảo ngồi, dù là ngồi trên đám cọc. - Lại còn đi đâu nữa hả, lũ quỷ sứ? Ngồi đấy! - Một viên kiểm soát đi ngược lại gặp họ, thét to. - Đấy lại có chuyện! - bà trẻ nhất trong hai bà nọ nói, mụ ta tin chắc rằng cái tiếng Pháp mụ nói đúng giọng như vậy sẽ làm cho Nekhliudov phải chú ý, còn bà lớn đeo đầy vòng xuyến kia thì chỉ khịt mũi và nhăn mặt, nói một câu gì đó về cái thú vị được cùng đi tàu với bọn nông dân hôi hám. Còn những người thợ, họ vui sướng, yên tâm như thoát khỏi một bước hiểm nghèo ghê gớm. Họ sửa soạn ngồi, hất mạnh để bỏ những túi hành lý trên vai xuống và luồn vào dưới gậm ghế. Người làm vườn lúc nãy rời khỏi chỗ mình đến ngồi trước mặt Taratx nói chuyện với anh chàng Taratx nay đã về chỗ cũ, thành thử bên cạnh và trước mặt Taratx có ba chỗ bỏ không. Ba người công nhân liền ngồi vào đó. Nhưng đến khi Nekhliudov lại gần, trông thấy bộ quần áo sang trọng của chàng, họ hết sức bối rối, định đứng dậy đi chỗ khác; Nekhliudov bảo họ cứ ngồi, còn chàng ngồi ghé xuống chỗ tựa tay chiếc ghế dài gần lối đi. Trong bọn thợ có một người, tuổi trạc năm mươi cùng với một người trẻ hơn đưa mắt nhìn nhau, vẻ kinh ngạc, sợ hãi. Đáng lẽ ra cái ông nầy phải chửi mắng và đuổi họ đi theo đúng tính cách ông lớn của ông ta, thì đằng nầy lại nhường chỗ ngồi cho họ, điều đó khiến họ ngạc nhiên, họ ngại. Thậm chí, họ còn sợ cái đó sẽ gây cho họ điều chẳng lành nào đó. Tuy nhiên, khi thấy Nekhliudov nói chuyện rất bình thường với Taratx và chẳng có mưu mô thủ đoạn gì ở đó cả, thì họ yên tâm, họ bảo anh thợ trẻ nhất ngồi xuống cái túi hành lý của anh ta để cho Nekhliudov ngồi vào chỗ của chàng. Thoạt đầu, người công nhân có tuổi ngồi đối diện chàng khép nép thu mình, co đôi chân đi giầy cỏ lại để khỏi chạm vào ngài quý tộc, nhưng chỉ một lát sau ông lão chuyện trò với chàng và Taratx thân mật quá, thậm chí, gặp những chỗ ông lão muốn người ta đặc biệt chú ý, còn lấy tay đập cả vào đùi chàng. Ông lão kể về thân thế, và công việc mình làm ăn ở mỏ than bùn. Ông đã làm ở đó hai tháng rưỡi, bây giờ đem tiền công về nhà, được có mười "rúp", vì một phần đã lĩnh và tiêu từ khi mới vào làm. Theo như lời ông lão thì bọn ông phải lội nước tới đầu gối và làm suốt từ lúc mặt trời mọc cho tới lúc mặt trời lặn, chỉ được nghỉ có hai tiếng đồng hồ để ăn trưa. - Với những người không quen, dĩ nhiên là gay đấy, - ông lão nói, - nhưng một khi đã quen, và nếu được ăn kha khá một chút thôi thì cũng chẳng sao! Mới đầu ăn uống tồi lắm. Về sau người ta kêu ca dữ, thì có khá hơn và công việc làm cũng được nhẹ nhàng hơn. Rồi ông lão kể rằng từ hai mươi tám năm nay, ông ra đi tìm việc làm như thế nào và gửi về nhà tất cả chỗ tiền kiếm được ra làm sao,mới đầu gửi cho bố, sau gửi cho anh cả và bây giờ thì gửi cho đứa cháu hiện nay đang quán xuyến công việc gia đình; cái số năm chục tới sáu chục đồng bạc kiếm được hàng năm, ông lão chỉ giữ lại cho mình có vài ba đồng vừa đủ tiền diêm thuốc vặt vãnh thôi. Ông lão mỉm cười bẽn lẽn nói thêm: - Kể thì tôi cũng có cái hư hỏng, đôi khi mệt mỏi quá, tôi cũng uống ít rượu. Ông lão còn kể chuyện các bà vợ trông nom nhà cửa ra sao khi những người chồng đi làm vắng nhà; và cả chuyện sáng nay, trước khi ông lão và các bạn lên đường, đã được người cai thầu thết nửa thùng rượu mạnh; một người trong bọn ông lão trước đây bị chết và một người đang ốm phải đưa về nhà. Người nầy ngồi ở một góc toa tầu: một cậu bé, mặt tái nhợt, môi tím lại. Rõ ràng, cậu ta bị bệnh sốt rét nó hành và còn đang làm khổ. Nekhliudov đến bên cạnh, cậu bé nhìn chàng với con mắt quá đau đớn, quá nghiêm nghị cho nên chàng ngần ngại không muốn hỏi thăm nữa, sợ làm phiền nó, chàng khuyên ông già nên mua ký ninh cho nó uống. Chàng viết tên thuốc lên một mảnh giấy và định cho tiền mua thuốc, nhưng ông thợ già liền bảo là ông sẽ bỏ tiền của mình để mua. - Chà, tôi đi tầu đã nhiều, nhưng bao giờ gặp được những người như ông nầy; chẳng những ông ta không đuổi mình đi mà lại còn nhường chỗ cho mình ngồi nữa chứ. Như thế có nghĩa là trong số các ông cũng có nhiều hạng lắm. - ông lão vừa nói vừa quay về phía Taratx. "Phải, đây là một thế giới hoàn toàn mới, một thế giới khác hẳn" - Nekhliudov vừa nghĩ vừa nhìn những tay chân khẳng khiu gân guốc, những bộ quần áo vải to thô kệch may lấy, những bộ mặt sạm nắng, hiền lành, tuy mệt mỏi. Chàng cảm thấy bốn phía xung quanh mình đều là những con người hoàn toàn mới, họ có những mối lo âu chỉnh đáng, những niềm vui sướng, những nỗi nhọc nhằn của một cuộc sống chân chính, cần cù. Đây mới thật là giới thượng lưu chân chính! Nekhliudov vừa nghĩ vừa nhớ lại câu nói của lão công tước Korsagin, nhớ lại tất cả cuộc đời xa hoa, nhàn hạ của gia đình nhà Korsagin cùng với những thích thú nhỏ nhen, đê tiện của họ. Và chàng cảm thấy niềm vui sướng của một người du khách đã khám phá ra được một thế giới mới, chưa từng biết, một thế giới tuyệt đẹp. Chương 102 Maxlova cùng với đoàn tù đã đi được chừng năm ngàn dặm. Nàng cùng các tù nhân thường phạm khác đi bằng xe lửa và tàu thuỷ đến tận Perm. Đến đây, Nekhliudov mới xin được cho nàng chuyển sang cùng đi với tù chính trị theo lời khuyên của Vera Bogodukhovxkaia cũng ở trong đám nầy. Cuộc hành trình đến Perm, đối với Maxlova thật là vất vả cả về thể xác lẫn tinh thần; về thể xác, vì phải chen chúc, chật chội, bẩn thỉu và vì lũ rệp ghê tởm không lúc nào để cho yên; về tinh thần, vì lũ đàn ông, cũng đáng ghét như rận rệp, mặc dầu hết mỗi chặng lại đổi một bọn khác; ở đâu cũng vậy chúng bám lấy, quấy rầy không để cho nàng yên. Giữa tù nhân nữ và tù nhân nam cùng cai tù và lính áp giải, từ lâu vẫn có cái tệ nạn dâm ô bừa bãi, thành thử một người đàn bà, nhất là đàn bà trẻ, nếu không muốn lợi dụng nữ tính của mình, thì lúc nào cũng phải cảnh giác. Mà khi người ta lúc nào cũng sợ hãi và phải đề phòng thì thật là khổ; nhất là Maxlova lại đặc biệt hay bị tấn công, vì nhan sắc, và quá khứ của nàng ai cũng biết. Đối với những lời ve vãn của bọn đàn ông, bây giờ nàng cương quyết cự tuyệt; điều đó chẳng những khiến chúng phật lòng mà còn căm tức nữa. Nhưng tình cảm của nàng có đỡ gay đôi chút là nhờ nàng gần gũi với Fedoxia và Taratx; anh nầy được tin vợ thường bị trêu chọc nên đã tự nguyện xin được ở tù để có thể che chở cho vợ, và từ Nizni, anh ta đi cùng với tù nhân như một tội phạm. Từ khi Maxlova được chuyển sang bộ phận tù chính trị, tình cảnh của nàng về mọi mặt dễ chịu hơn nhiều. Không kể tù chính trị được ở những chỗ dễ chịu hơn, được ăn ngon hơn, bị hành hạ bớt thậm tệ hơn, Maxlova được chuyển sang đi với tù chính trị còn thấy dễ chịu hơn nhiều ở chỗ nàng không còn bị đàn ông quấy nhiễu và có thể sống không bị người ta luôn luôn nhắc đến quãng đời cũ của mình, quãng đời mà giờ đây nàng chỉ muốn quên phắt đi. Nhưng điểm ích lợi nhất trong việc di chuyến nầy là nàng được làm quen với một số người đã có ảnh hưởng quyết định, (mà là ảnh hưởng tốt nhất) đến tính tình của nàng. Maxlova được phép ở cùng với tù chính trị trong những trạm nghỉ dọc đường, nhưng vì khỏe mạnh, nên khi đi đường vẫn phải cùng đi với tù thường. Nàng đi như vậy từ thị trấn Tomxk, cùng với hai tù chính trị nữa là Maria Paplovna Settinina - người thiếu nữ đẹp có đôi mắt hiền như mắt cừu non làm cho Nekhliudov phải chú ý khi chàng đến nhà tù thăm Bogodukhovxkaia, - và một anh chàng Ximonxon nào đó, da ngăm đen, tóc bù xù, mắt sâu hoắm, bị đầy đi Irkusk. Nekhliudov cũng để ý đến anh ta lần đến thăm nhà tù hôm đó. Maria Paplovna đi bộ vì nàng đã nhường chỗ trên xe cho một nữ tù nhân có mang; còn Ximonxon thì cho hưởng cái đặc quyền có tính chất giai cấp ấy là không chính đáng. Ba người nầy đi bộ với tù thường phạm từ sáng sớm, xa cách hẳn đám tù chính trị đi xe nên đi muộn hơn. Đó là tình hình sắp xếp ở chặng cuối trước khi đoàn tù tới một thành phố lớn nào đó là nơi sẽ thay sĩ quan áp giải. Một buổi sáng sớm tinh sương tháng chín, trời mưa gió âm thầm. Mưa tuyết thay mau rơi, liên tiếp gió mạnh thổi từng cơn dữ dội. Cả đoàn tù gồm bốn trăm nam và gần năm mươi nữ tập trung ở ngoài sân trạm nghỉ: một số đứng xung quanh viên sĩ quan áp giải đương phát cho các cai nhóm tù tiền hai ngày ăn; một số khác đương mua thức ăn của những người đem hàng vào bán tận trong sân trạm nghỉ. Tiếng tù nhân đếm tiền mặc cả mua hàng ồn ào lẫn với tiếng những người bán hàng rao the thé. Katiusa và Maria Paplovna từ trong trạm nghỉ đi ra sân. Hai người đi giầy cao ống, mặc áo choàng lông, đầu bịt khăn, đi lại chỗ đám người bán hàng. Những người nầy ngồi nấp sâu một bức tường phía bắc cho khuất gió; họ tranh nhau mời khách mua hàng: bánh mì, dăm bông, cá miến, cháo kiều mạch, gan, thịt bò, trứng, sữa, có người bày ra bán cả một con lợn bột quay. Ximonxon đang đứng ở ngoài sân, đợi giờ đoàn tù khởi hành; anh mặc một áo ngoài bằng cao su và đi giầy cũng bằng cao su có dây buộc chặt vào bít-tất len (anh là người ăn chay nên không dùng đồ bằng da thú vật). Anh đứng cạnh cổng và đang ghi vào sổ tay một ý nghĩ vừa thoáng qua đầu. Ý nghĩa đó như sau: "Nếu những con vi trùng cũng biết nghiên cứu và phân tích cấu tạo của móng tay người thì có lẽ nó cho đó là một chất vô cơ. Cũng như khi ta xem xét vỏ trái đất và cho trái đất là chất vô cơ. Điều đó không đúng". Mua trứng, bánh bích qui, cá và bánh mì xong, Maxlova đang xếp tất cả vào túi, còn Maria Paplovna tính tiền trả nhà hàng, thì bỗng thấy đám tù nhốn nháo. Mọi người im lặng; ai về chỗ nấy. Viên sĩ quan tù trong nhà đi ra, hắn ra lệnh cuối cùng trước khi khởi hành. Mọi việc tiến hành theo thưởng lệ: điểm tù, khám xích chân và xếp tù đi thành từng cặp chung một chiếc cùm. Bỗng thấy tiếng viên sĩ quan quát tháo, vẻ cáu tức, tiếng đánh người thùm thụp và tiếng một đứa trẻ khóc. Im lặng một lát; rồi tiếng rì rẩm lại lan ra trong đám đông. Maxlova và Maria Paplovna lại gần chỗ có tiếng huyên náo. Chương 103 Khi tới nơi, Maria Paplovna và Katiusa thấy tên sĩ quan, một gã lực lưỡng, có bộ râu mép dài vàng hoe, đương cau có và lấy tay trái xoa lòng bàn tay phải bị đau vì hắn vừa đấm vào mặt một người tù, miệng không ngớt văng lời chửi bới tục tĩu thô bỉ. Trước mặt hắn là một người tù cao, gầy, đầu cạo trọc một nửa, mình mặc một áo choàng ngắn cũn cỡn và một manh quần còn ngắn hơn nữa; một tay anh ta lau mặt bị đánh vấy đầy máu còn một tay bế đứa con gái nhỏ quấn trong một chiếc khăn đang kêu thét lên. - Tao sẽ dạy mày (chửi tục tĩu) giở lý sự (lại chửi). - Quẳng con bé cho bọn đàn bà, - tên sĩ quan quát, - xích tay nó lại. Người tù nầy bị làng trục xuất đẩy đi. Đến Tomxk, vợ anh ta mắc bệnh chấy rận rồi chết, để lại cho anh một đứa con gái. Suốt từ Tomxk, anh phải ẵm con mà đi. Khi tên sĩ quan ra lệnh xích tay anh lại, anh nói nếu bị xích tay, anh không ẵm được con. Nghe những lý lẽ của những trình bày, tên sĩ quan gặp lúc có chuyện bực mình, ừ giao cho người ta. - Lại đây với chị nào, - Maria vừa nói vừa giơ tay định đón lấy đứa bé. Nhưng đứa bé trong tay người lính cứ nhoài về phía bố nó, miệng không ngớt kêu khóc. Nó không theo Maria. - Thong thả, chị Maria, - Maxlova vừa rút ở trong bọc ra một cái bánh, vừa nói - nó sẽ theo tôi cho mà xem. Đứa trẻ vốn quen Maxlova. Nhìn thấy người quen và cái bánh, nó theo ngay. Tất cả yên lặng. Người ta mở cổng, đoàn tù đi ra ngoài vội xếp hàng lại. Lại đếm một lần nữa. Hành lý xếp lên xe và buộc lại, tù yếu cũng được ngồi xe. Maxlova ẵm đứa bé, ngồi gần Fedoxia và đám phụ nữ. Suốt từ nãy, Ximonxon cứ đứng lẳng lặng nhìn mọi việc xảy ra, lúc nầy mới quả quyết bước lại gần tên sĩ quan; hắn ra lệnh xong xuôi đương định bước lên xe, Ximonxon nói: - Anh cư xử tồi tệ lắm! - Về chỗ, không phải việc của anh. - Việc của tôi là nói cho anh biết là anh đã cư xử tồi tệ và tôi đã nói. - Dưới hàng lông mày rậm; đôi mắt Ximonxon gườm gườm, nhìn thẳng vào mặt tên sĩ quan. - Tất cả xong rồi chứ? Cả đoàn, đi! - Tên sĩ quan hô to không đáp lại lời Ximonxon, và vịn vào vai người lính đánh xe, hắn nhảy lên xe. Đoàn tù bắt đầu đi, nó kéo dài ra khi đi vào quãng đường bùn lầy hai bên có rãnh nước. Con đường xuyên qua một khu rừng rậm. Chương 104 Mặc dầu hoàn cảnh của tù chính trị cũng cực khổ, song, sau sáu năm sống cuộc đời truỵ lạc, xa hoa, uỷ mị ở thành phố và hai tháng sống với tù thường phạm, Katiusa cảm thấy giờ đây sống với tù chính trị rất là sung sướng. Mỗi ngày đi hai, ba chục cây số với mức ăn uống khá hơn, lại cứ sau hai ngày đi, nghỉ một ngày, làm cho nàng khỏe ra; sống gần gũi những người bạn mới, nàng tìm ra được nguồn sinh thú mà nàng chưa hề biết đến. Những con người kỳ diệu (nàng nói thế) như những người hiện nay đang cùng sống với nàng, chẳng những trước kia nàng chưa hề gặp mà ngay đến tưởng tượng thôi nàng cũng chưa hề tưởng tượng ra được. "Thế mà khi tuyên án, mình lại khóc, - nàng nói. - Đáng lẽ ta phải cảm ơn Chúa suốt đời mới phải. Nhờ đó ta đã được biết những điều mà nếu sống trong hoàn cảnh khác, không bao giờ ta biết được". Nàng hiểu rất dễ dàng những động cơ hành động của những con người đó; vốn xuất thân từ quẩn chúng, nàng hoàn toàn thông cảm với họ. Nàng hiểu là họ vì nhân dân mà chống lại giai cấp trên; và tuy bản thân họ cũng thuộc về giai cấp trên, nhưng họ đã hy sinh quyền lợi, hy sinh tự do, đời sống của họ cho nhân dân, điều đó đặc biệt làm cho nàng kính trọng và khâm phục họ. Nàng khâm phục tất cả các bạn mới quen biết, nhưng đặc biệt nàng khâm phục Maria Paplovna, không những phục mà còn yêu Maria với một tình yêu đặc biệt, trân trọng và nồng nàn. Nàng rất ngạc nhiên là sao một cô gái đẹp, biết ba thứ tiếng, con gái một viên tướng giàu có lại có thể sống như một cô gái lao động bình thường, và đã đem cho người khác tất cả những gì mà anh cô - một người giàu có đã gửi cho cô; cô ta ăn mặc chẳng những giản dị mà còn nghèo nàn, không hề để ý đến bề ngoài. Maria không mảy may làm dáng, nét đặc sắc đó khiến Maxlova lấy làm lạ và vì thế lại thêm phần quý mến. Maxlova thấy Maria cũng tự biết mình đẹp và cũng lấy điều đó làm thích. Nhưng thấy sắc đẹp của mình làm cho nam giới say mê, chẳng những nàng không thích mà còn lấy làm sợ nữa. Đối với tình yêu, nàng chán ghét và ghê sợ. Các bạn trai của nàng đều biết thế và nếu có ai yêu nàng thì họ cũng không dám biểu lộ ra và chỉ cư xử với nàng như với một người bạn trai khác. Nhưng theo lời nàng kể lại, đối với người lạ hay quấy rầy thì sức lực mạnh mẽ của nàng (mà nàng đặc biệt tự hào) đã cứu nàng. Có lần nàng vừa cười vừa kể: có một anh chàng theo tôi ngoài phố, cứ bám nết không chịu rời. Tôi bèn tóm ngay lấy hắn và lay cho một trận, làm hắn phát hoảng và chuồn mất. Nàng đi làm cách mạng - theo lời nàng thuật lại - vì tự thuở nhỏ, nàng đã ghét cuộc đời của những kẻ quyền quý và ưa thích cuộc sống của những người bình thường. Nàng thường bị mắng là hay xuống chơi trong phòng các gia nhân ở, trong bếp hay trong chuồng bò, chứ không chịu ở phòng khách. Nàng nói: "Nhưng tôi thấy gần gũi những người nấu bếp, đánh xe lại thú hơn, còn ngồi với các ông lớn bà lớn thì chán ngắt. Rồi đến khi hiểu biết, tôi thấy cuộc sống của chúng tôi hoàn toàn xấu xa. Mẹ tôi đã mất, tôi chỉ còn cha, nhưng tôi không ưa, cho nên khi đến mười chín tuổi tôi bỏ nhà theo cô bạn vào làm thợ ở một công xưởng Về sau, thôi việc ở xưởng, Maria về sống một dạo ở quê rồi mới lại trở về sống ở tỉnh; trong gian buồng nàng ở có máy in bí mật. Nàng bị bắt ở đấy và bị kết án khổ sai. Chính Maria không kể lại gì, nhưng Katiusa nghe người khác nói sở dĩ Maria bị kết án khổ sai vì khi nhà bị khám, từ trong bóng tối, có một phát súng nổ do một đồng chí cách mạng khác bắn, nhưng Maria đã nhận chính mình bắn. Từ khi mới quen biết Maria Paplovna, Katiusa nhận thấy là bất kỳ ở đâu và bất cứ trong cảnh ngộ nào, Maria không bao giờ nghĩ đến mình, lúc nào cũng chỉ lo giúp đỡ người khác, trong công việc lớn lao cũng như trong công việc nhỏ nhặt hàng ngày. Một người bạn hiện nay của nàng là Novotvorov đã nói đùa là nàng chỉ thích chơi môn thể thao từ thiện. Quả đúng thế, nàng coi tất cả cái thú ở đời là ở chỗ tìm được cơ hội giúp đỡ người khác, như cái thú vui của người đi săn là tìm ra được muông thú để săn. Và môn thể thao nầy đã trở thành thói quen và sự nghiệp suốt đời của nàng. Nàng làm công việc đó một cách tự nhiên, khiến những người quen biết không những đã chẳng coi trọng sự giúp đỡ của nàng mà còn dòi hỏi nàng phải giúp họ. Khi Maxlova mới đến ở chung nhóm, Maria thấy ghét và khinh. Katiusa cũng biết thế, nhưng sau, nàng cũng thấy Maria đã cố gắng kiềm chế mình và tỏ ra đặc biệt niềm nở và tử tế với nàng. Tình thân và lòng tốt của một con người khác thường như vậy đã khiến Maxlova cảm kích, nàng hết sức quý Maria Paplovna và tự nhiên cứ suy nghĩ theo quan điểm của bạn và bắt chước bạn tất cả mọi điều. Còn Maria Paplovna cũng cảm động về lòng yêu trung thực của Katiusa và dần dẩn cũng yêu mến nàng. Cả hai người nầy còn hợp nhau ở chỗ cả hai đều ghét tình yêu xác thịt. Một người thì ghét vì bản thân đã chịu tất cả những nỗi cay đắng của nó, còn người kia tuy chưa nếm trải, nhưng coi nó như một cái gì không thể hiểu được và đồng thời, như một cái gì ghê tởm, xúc phạm đến phẩm giá con người. Chương 105 Ảnh hưởng của Maria Paplovna đối với Maxlova là một thứ ảnh hưởng tự Maxlova thuận tình đón nhận. Ảnh hưởng đó do Maxlova yêu Maria mà có. Ngoài ra nàng còn chịu ảnh hưởng của Ximonxon. Ảnh hưởng nầy lại do Ximonxon yêu Maxlova mà ra. Người ta ở đời đều sống và hành động một phần theo ý kiến của mình, một phần theo ý kiến của người khác. Một trong những điều căn bản phân biệt người nầy với người khác là mức độ họ sống theo ý kiến của mình và ý kiến của người khác đến đâu. Có những người thường coi sự suy nghĩ của mình như một trò chơi tinh thần. Họ dùng lý trí của họ như một cái tay lái tháo dây cua-roa, nên trong khi hành động họ thường làm theo ý kiến cửa người khác, theo tập quán, theo phong tục, theo luật pháp. Còn có những người khác thường lấy ý kiến của mình làm động lực chủ yếu cho mọi hành động, hầu như bao giờ họ cũng tuân theo yêu cầu của lý trí và phục tùng lý trí, chỉ thỉnh thoảng họ mới theo sự quyết định của người khác, nhưng là sau khi đã nhận định một cách có phê phán. Ximonxon thuộc vào loại người sau nầy. - Anh kiểm điểm sự việc, quyết định theo lý trí và một khi đã quyết định rồi thì nhất định làm theo. Hồi còn là học sinh, anh đã dứt khoát nhận định rằng sản nghiệp của cha anh, một cựu viên chức cao cấp sở Tài chính là của cải không lương thiện, và đã nói với cha nên đem nó trả lại cho nhân dân. Nhưng người cha không những đã chẳng nghe mà còn mắng chửi anh, anh liền bỏ nhà ra đi và cự tuyệt không dùng gì đến của cải của cha anh nữa. Anh đi đến kết luận là mọi tệ lậu của xã hội hiện đang tồn tại đều do sự dốt nát của dân chúng mà ra cho nên ở trường Đại học ra, anh vào đảng Dân tuý: rồi làm giáo viên ở một trường làng; anh dũng cảm truyền bá cả học sinh và nông dân những điều anh cho là đúng và công khai bài bác những điều anh cho là giả dối. - Anh bị bắt và đưa ra toà. Trong thời gian xét xử, anh kết luận là các thẩm phán không có quyền xét xử anh và anh đã bảo họ như vậy. Khi toà không nghe và cứ tiếp tục xét xử thì anh quyết định không trả lời, mặc họ hỏi gì anh cũng chỉ im lặng. Anh bị đày đến Arkhagen. Ở đấy, anh đưa ra một học thuyết có tính chất đạo giáo: học thuyết của anh xây dựng trên cơ sở coi mọi vật trên trái đất đều sống, không có cái gì chết, và những vật ta coi là không có sự sống, là vô cơ, chỉ là những bộ phận của cơ thể hữu cơ rất lớn mà ta không thể nắm được; vì thế nhiệm vụ của con người, những phần tử bé nhỏ của cái cơ thể lớn đó, là phải duy trì sự sống của cơ thể đó và tất cả các bộ phận sống của nó. Do đó, anh cho sát hại sinh linh là một tội ác: anh phản đối chiến tranh, phản đối án tử hình và mọi thứ giết chóc khác, không cứ đối với loài người, mà cả với loài vật nữa. Về hôn nhân, anh cũng có lý thuyết của riêng mình: anh cho sinh đẻ chỉ là một chức năng thấp hèn của con người mà chức năng cao thượng là phục vụ các sinh linh đã có. Anh căn cứ vào sự kiện trong máu có những bạch huyết cầu để chứng minh lý thuyết của mình. Anh cho những người độc thân cũng giống như những bạch huyết cầu trong máu; chúng có nhiệm vụ giúp đỡ cho những bộ phận ốm yếu của cơ thể. Từ khi nhận định như vậy, anh sống theo nguyên tắc đó, mặc dầu hồi còn trẻ, anh cũng đã có ăn chơi trác táng; và bây giờ, anh tự coi mình cũng như Maria Paplovna, là những "bạch huyết cầu" của loài người. Tình yêu của anh đối với Katiusa không phạm gì đến thuyết đó cả vì anh yêu nàng một cách lý tưởng; anh cho là tình yêu đó không những chẳng có hại gì cho hoạt động "bạch huyết cầu" giúp đỡ những người yếu đuối của anh mà trái lại, nó còn có tác dụng cổ vũ anh mạnh hơn nữa. Chẳng những anh quyết định theo cách suy nghĩ riêng của mình trong các vấn đề đạo đức mà còn cả trong số lớn những vấn đề thực tế. Với bất cứ một vấn đề thực tế nào, anh cũng có lý thuyết riêng của mình, anh tự quy định làm việc bao nhiêu giờ, nghỉ bao nhiêu, ăn thế nào, mặc thế nào, nhóm lò, thắp đèn ra làm sao. Ngoài ra, Ximonxon lại hay cả thẹn và nhũn nhặn. Nhưng khi quyết định làm một việc gì thì không gì có thể ngăn cản được anh và con người ấy vì yêu Maxlova nên có ảnh hưởng quyết định đến nàng. Với bản năng của người phụ nữ, Maxlova sớm thấy ngay là Ximonxon yêu mình; và khi biết mình có thể làm một người khác thường như thế yêu mình thì nàng cũng tự thấy giá trị của mình cao hơn. Nekhliudov ngỏ ý lấy nàng là vì lòng cao thượng và cũng vì câu chuyện xảy ra trước kia, còn Ximonxon yêu nàng là yêu trong hoàn cảnh của nàng hiện nay; và đơn giản chỉ vì yêu nàng mà thôi. Nàng còn cảm thấy Ximonxon coi nàng là một phụ nữ đặc biệt khác với mọi phụ nữ khác, có những đức tính cao quý khác thường. Nàng không rõ Ximonxon thấy ở nàng những đức tính gì nhưng, dù sao mặc lòng, để chàng khỏi thất vọng về mình, Maxlova hết sức phát huy mọi đức tính tốt mà nàng có thể quan niệm được. Điều đó buộc nàng phải cố gắng để thành một người hết sức tốt. Sự thể bắt đầu khi họ còn ở trong tù, vào một buổi gặp gỡ chung, các tù chính trị, nàng đã thấy Ximonxon nhìn mình chăm chắm với đôi mắt xanh hiền từ, hồn nhiên, dưới vừng trán dô và cặp lông mày rậm. Ngay khi đó nàng đã nhận thấy anh là một người khác thường; và nàng cũng nhận thấy trên khuôn mặt anh sự kết hợp vô tình, kỳ dị giữa vẻ nghiêm khắc toát ra từ cặp lông mày nhíu lại và mớ tóc rối bù với vẻ hiền lành, thơ ngây và vẻ hồn nhiên trong khóe mắt. Rồi đến Tomxk, nàng được chuyển vào đoàn tù chính trị và lại gặp anh. Tuy hai người chưa trao đổi với nhau một lần nào, nhưng hai cặp mắt nhìn nhau đều nói rõ là họ nhớ ra nhau và cả hai đều quý nhau. Cả sau đó, họ cũng chưa thực sự nói chuyện với nhau lần nào, nhưng Maxlova vẫn cảm thấy là những khi có mặt nàng, tuy Maxlova nói với người khác, nhưng lời nói của anh đều hướng vào nàng và anh nói là để nàng nghe, và anh cố gắng nói cho hết sức rõ ràng dễ hiểu. Chỉ đến khi Ximonxon đi bộ cùng với tù thường phạm thì hai người mới thật đặc biệt gần gũi nhau. |
Phục Sinh - Chương 106 - 118
PHỤC SINH Chương 106 Từ Nizni đến Perm, Nekhliudov chỉ gặp Katiusa được có hai lần. Một lần ở Nizni, vào lúc trước khi người ta chuyển tù nhân xuống một chiếc thuyền có chằng kín lưới thép, và một lần ở Perm, trong phòng giấy nhà tù. Cả hai lần gặp đó, chàng thấy Katiusa không niềm nở hoà nhã. Khi chàng hỏi nàng có cần gì không, hay có được dễ chịu không, nàng chỉ ừ hữ, lúng túng, và chàng cảm thấy ở nàng vẫn có cái vẻ thù hằn trách móc trước đây nhiều lần. Thật ra, tâm trạng nàng lúc đó buồn bực chỉ vì đương bị bọn đàn ông cùng sống quấy rầy. Tâm trạng ấy làm cho Nekhliudov đau đớn. Chàng sợ trong hoàn cảnh khổ sở và đồi truỵ ở dọc đường, nàng có thể lại rơi vào tình trạng ngày trước, mâu thuẫn với chính mình và mất hết hy vọng ở cuộc đời; chính tâm trạng ấy trước kia đã làm cho nàng căm giận chàng và đâm ra hút thuốc, uống rượu thật nhiều để quên đi. Nhưng Nekhliudov không thể giúp Maxlova được gì vì suốt thời gian đầu đi đường, chàng không được gặp, mãi đến khi nàng chuyển sang sống cùng với tù chính trị chàng mới thấy mối lo sợ của chàng là không có căn cứ, và trái lại, cứ mỗi lần gặp nhau, chàng lại thấy ở nàng sự chuyển biến bên trong điều mà chàng hết sức mong đợi càng trở nên rõ rệt. Lần đầu tiên gặp nhau ở Tomxk, nàng lại giống như trước khi khởi hành. Nàng không chau mày, cũng không tỏ vẻ ngượng ngùng khi trông thấy chàng, mà lại tiếp chàng một cách vui vẻ tự nhiên: nàng cảm ơn chàng đã giúp đỡ và đặc biệt tạo điều kiện cho nàng được sống với những người nàng đang sống hiện nay. Sai hai tháng trời đi bộ với đoàn tù, sự chuyển biến bên trong của Maxlova biểu hiện ra hình dáng bên ngoài. Nước da bị rám nắng, người gầy đi, trông già thêm mấy tuổi. Trên thái dương và quanh miệng đã điểm những nếp nhăn. Bây giờ, tóc không để buông xuống trán nữa, nàng lấy một chiếc khăn bịt đầu; trong cách ăn mặc, chải đầu tóc, cũng như trong cách đối xử với mọi người, không còn dấu vết làm duyên làm dáng như ngày trước. Sự thay đổi nầy đã diễn ra và còn đương tiếp diễn ở con người nàng làm cho Nekhliudov rất đỗi vui mừng. Chàng cảm thấy đối với nàng lúc nầy, chàng có một tình cảm mà trước kia chưa hề có. Tình cảm đó không giống một chút nào với tình yêu thơ mộng buổi ban đầu, lại càng không giống thứ tình yêu xác thịt về sai; thậm chí nó cũng không giống cả cái lòng thoả mãn vì đã làm tròn phận sự, trong đó không khỏi có lẫn chút lòng tự thán phục mình, và do đó sai khi toà tuyên án, chàng đã quyết định cưới nàng làm vợ. Tình cảm của chàng bây giờ chỉ đơn giản là tình thương xót và niềm xúc động mà chàng đã cảm thấy khi đến thăm nàng lần đầu tiên ở trong nhà giam và sai nầy khi nén được lòng khinh bỉ, chàng tha thứ cho nàng về câu chuyện dan díu tưởng tượng với viên y sĩ trong bệnh xá (nỗi oan nầy của nàng về sai đã tỏ rõ). Mối tình cảm của chàng bây giờ vẫn là tình cảm thương xót khi đó, chỉ có khác là trước kia tình cảm ấy có tròng chốc lát, còn bây giờ nó thành tình cảm thường xuyên. Bây giờ, dù nghĩ gì, làm gì chàng đều cảm thấy lòng tràn ngập một tình thương mến, không những chỉ riêng đối với Maxlova mà đối với tất cả mọi người. Tình cảm đó hình như đã khơi ra trong tâm hồn Nekhliudov một nguồn yêu thương, trước kia bị ứ tắc lại bây giờ tràn ra, lan đến tất cả mọi người chàng gặp. Suốt dọc đường, tình cảm trong con người Nekhliudov bị hết sức kích động khiến chàng bất giác chăm chú thiết tha đến tất cả mọi người, từ người đánh xe, người lính áp giải tù cho đến viên giám ngục và tỉnh trưởng mà chàng có việc phải tiếp xúc. Bây giờ Maxlova chuyển sang sống với các tù chính trị, tất nhiên Nekhliudov lại quen biết nhiều người trong bọn họ: lần đầu tiên ở Ekaterinburg là nơi họ được khá tự do sống chung trong một phòng giam lớn, lần sai là trên đường đi, chàng làm quen với năm người tù nam và bốn nữ cùng nhóm với Maxlova. Do sống gần gũi với tù chính trị bị đi đày, quan niệm của Nekhliudov về họ thay đổi hẳn. Từ ngày đầu phong trào cách mạng ở Nga, nhất là từ ngày 1 tháng 3(1), Nekhliudov thấy khinh ghét những người cách mạng. Chàng phẫn nộ trước hết vì thủ đoạn độc ác và ám muội họ đã dùng trong cuộc đấu tranh chống chính phủ, và nhất là những vụ ám sát tàn khốc họ đã làm; sai nữa, chàng cũng ghét cái vẻ tự cho mình là quan trọng, là nét chung nổi bật ở họ. Nhưng khi quen biết họ thân mật hơn và thấy được những nỗi đau khổ oan ức của họ do chính quyền gây ra thì chàng thấy họ không thể làm khác được. Tuy các hình phạt mà gọi là tù thường phạm vẫn phải chịu cũng đã rất là vô lý và kinh khủng, nhưng dù sao trước và sai khi xử án cũng còn có cái vẻ công lý. Đối với tù chính trị thì cả đến cái vẻ đó, Nekhliudov thấy cũng không còn nữa, như trong trường hợp Suxtova, và sai nầy ở trường hợp nhiều người khác anh mới quen. Những người nầy bị đối xử như cá mắc lưới, người ta kéo tuột cả họ lên bờ chọn bắt lấy những con lớn, còn những con nhỏ để chết khô, mặc xác. Có hàng mấy trăm người, không những hiển nhiên là vô tội, mà còn chẳng nguy hại gì cho Chính phủ đã bị bắt, bị giam, có khi hàng năm trong ngục; ở đó, họ mắc bệnh lao, phát điên hay tự tử, người ta giam họ chỉ vì không có cớ để thả họ ra; vả lại, người ta cho rằng cứ nhốt họ trong đấy để nắm họ sẵn trong tay để khi điều tra hay thẩm vấn một vấn đề nào đó có thể đem ra dùng làm nhân chứng. Ngay đến những kẻ cầm quyền cũng thấy số phận của những người vô tội đó thường là tuỳ thuộc ở tính dộc đoán, sự nhàn hạ, tính tình bất thường của viên sĩ quan hách dịch hoặc cảnh sát gã mật thám, viên chưởng lý hay thẩm phán, hay viên tỉnh trưởng, bộ trưởng. Có khi một viên chức nào đó thấy buồn hoặc muốn chơi trội, thế là hắn ra lệnh bắt bớ một loạt, rồi hoặc bỏ tù, hoặc thả ra, tuỳ theo ý thích của hắn, hay ý thích của cấp trên. Còn quan lại cấp cao hơn cũng vậy, tuỳ ở chỗ họ muốn tỏ ra xuất chúng hay vì quan hệ nào đó với một ngài bộ trưởng, họ đầy ải người sang tận đầu bên kia thế giới, hoặc giam vào ngục tối, hoặc phát vãng, hoặc xử khổ sai, xử tử hình, hoặc tha bổng theo yêu cầu của một bà nào đó. Tù chính trị bị đối xử như trong chiến tranh và dĩ nhiên, những người nầy cũng trả miếng lại như vậy. Cũng như quân nhân thường sống trong một không khí mà dư luận không những che lấp cái bản chất độc ác của những hành vi họ làm mà còn nêu những hành vi đó lên thành những công trạng anh hùng, những người tù chính trị cũng vậy, họ sống trong không khí mà dư luận của giới họ cho rằng những hành động tàn nhẫn họ làm, dù có phải mất tự do, thiệt tính mệnh, mất mọi thứ quý báu đối với con người, đều là những hành động chẳng những không xấu xa, mà còn anh dũng. Cái đó khiến Nekhliudov giải thích được hiện tượng kỳ dị sai đây: có những người rất hiền lành, chẳng những không đủ sức gây đau đớn cho ai, mà cả đến nhìn người khác đau đớn cũng không chịu nổi, vậy mà họ cứ bình tĩnh chuẩn bị giết người và hầu hết, họ đều cho rằng trong những trường hợp nào đó giết người là hành động hợp pháp và công bằng để tự vệ và đạt tới mục đích cao cả vì lợi ích chung. Những người cách mạng coi sự nghiệp của họ là quan trọng và do đó tự coi mình là quan trọng; điều đó cũng thật tự nhiên vì chính phủ vẫn gán cho họ và hành động của họ là quan trọng và đối với họ, đã dùng những hình phạt thật là tàn khốc. Họ phải có một quan niệm thật cao cả về bản thân mới chịu đựng nổi những điều họ phải chịu đựng. Sai khi Nekhliudov hiểu họ rõ hơn thì chàng tin chắc rằng các tù chính trị không phải là những kẻ cực kỳ gian ác như một số người vẫn tưởng, cũng không phải là những bậc anh hùng hoàn hảo mà chỉ là những người rất bình thường và bọn họ, như ở bất cứ đâu cũng vậy, cũng có người tốt người xấu, người trung bình. Có những người đi với cách mạng vì thành thực thấy nhiệm vụ của mình là phải chống lại những cái xấu xa đang hoành hành. Cũng có những người làm cách mạng do động cơ vị kỷ, hiếu danh. Song, đa số do ham thích những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, muốn thưởng thức cái thú đùa rỡn với tính mệnh mình như Nekhliudov đã từng biết rõ trong thời gian đi chiến trận, đó là một thử tình cảm hết sức thông thưởng của thanh niên đầy nghị lực. Họ khác và hơn những người thường là ở chỗ yêu cầu về đạo đức của họ cao hơn. Họ thấy có nghĩa vụ, hoặc chẳng những phải tự kiềm chế mình, sống kham khổ, ăn ở thành thực, chí công vô tư, mà còn phải sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả tính mệnh mình cho sự nghiệp chung. V thế, trong bọn họ những người ở trên mức trung bình thì vượt lên rất cao, họ là mẫu mực đạo đức cao quý hiếm có; còn những người ở mức trung bình thì lại quá thấp, thường là những kẻ bịp đời, đạo đức giả, đồng thời lại hợm mình và tự cao tự đại. Thành ra đối với những người mới quen biết ấy, có một số Nekhliudov không những kính trọng mà còn chân thành yêu quý, còn đối với một số khác, chàng có thái độ quá cả lãnh đạm. Chú thích: (1) Ngày Alexander II bị ám sát (N.D) Chương 107 Nekhliudov đặc biệt rất yêu quý Krinxov, một thanh niên mắc bệnh lao phổi, bị án khổ sai và ở cùng nhóm với Katiusa. Chàng làm quen với Krinxov khi ở thị trấn Ekaterinburg và sai đó, dọc đường còn gặp gỡ và nói chuyện với anh ta vài lần. Một lần vào mùa hạ, Nekhliudov ở với anh cả ngày ở trạm nghỉ; trong khi chuyện trò, Krinxov đã kể cho chàng nghe câu chuyện về cuộc đời của mình và đầu đuôi anh đã đi theo cách mạng ra làm sao. Quãng đời anh trước khi bị tù, chẳng có gì nhiều để kể. Cha anh là một điền chủ giàu có ở miền Nam nước Nga; ông cụ đã qua đời khi anh còn bé. Anh là con một, mẹ anh chăm nom nuôi dạy anh. - ở trung học cũng như đại học, anh học rất nhẹ nhàng; thi tốt nghiệp, anh đỗ đầu về toán. Họ định giữ anh ở lại trường và cho anh đi học nước ngoài. Nhưng anh còn chần chừ chưa nhận. Anh đã yêu một cô gái, anh định cưới vợ và về làm việc ở cơ quan hành chính tổng. Cả hai đàng anh cùng muốn, còn chưa biết quyết định chọn đàng nào. Giữa lúc đó, có mấy người bạn cùng là sinh viên đến quyên anh tiền, nói để làm một việc ích chung. Anh biết việc ích chung ấy là cách mạng, một việc lúc đó anh chẳng ưa thích gì, nhưng vì tình bạn và vì sĩ diện, không muốn để anh em cho rằng mình sợ, anh đã đưa tiền cho họ. Những người nhận tiền sai bị bắt với cả tờ giấy chứng nhận tiền do Krinxov cấp. Anh liền bị bắt, lúc đầu giam ở đồn cảnh sát, sai tống sang nhà lao. - Ở nhà lao tôi bị giam, - Krinxov kể tiếp (anh đương ngồi trên chiếc giường cao, chống khuỷu tay lên đầu gối, ngực thóp lại, thỉnh thoảng đưa đôi mắt đẹp, thông minh, dịu hiền nhìn Nekhliudov, đôi mắt long lanh, bừng bừng sáng trong cơn sốt). - Việc coi giữ cũng không nghiêm ngặt lắm, không những chúng tôi có thể đi dạo ở hành lang, cùng nhau trò chuyện, chia nhau thức ăn và thuốc lá; và thậm chí, buổi tối chúng tôi còn hát đồng ca với nhau. Tôi khá tốt giọng. Phải, giả thử không có mẹ tôi - bà cụ đau đớn héo hon vì tôi thì kể ra ở tù, còn rất thú vị nữa là khác. Trong tù, tôi làm quen với anh Petrov nổi tiếng và với mấy người khác nữa (về sau, bị giam trong pháo đài, Petrov đã dùng mảnh thuỷ tinh rạch cổ tự sát). Nhưng bấy giờ tôi vẳn chưa ngả theo cách mạng. Tôi còn làm quen với hai người bị giam ở khám bên cạnh. Họ cùng bị bắt, trong người mang những bản tuyên ngôn Ba Lan, và bị đưa ra toà xử vì tôi mưu trốn trên đường áp giải ra ga xe lửa. Một người tên là Lozinxki(1), người Ba Lan, còn người kia là Rozovxki(2), người Do Thái. Phải, Rozovxki còn ít tuổi lắm. Anh ta bảo là đã mười bảy tuổi, nhưng trông thì chỉ độ mười lăm. Người nhỏ nhắn, gầy, nhanh nhẹn, mắt đen láy và, như tất cả những người Do Thái khác, anh ta rất có nhiều khiếu về âm nhạc. Anh ta đang vỡ tiếng, nhưng hát rất hay. Phải, tôi đã trông thấy hai người sáng hôm họ bị đưa ra toà xừ. Đến chiều trở về họ nói là bị xử tử hình. Thật chẳng ai ngờ. Tội của họ không có gì là nặng, họ chỉ định trốn, không hề làm ai bị thương. Vả lại xử tử một đứa trẻ như Rozovxki thì còn trời đất nào nữa? Và tất cả chúng tôi đều cho là họ chỉ tuyên án thế để doạ hai người, chứ án ấy thế nào cũng bị bác. Lúc đầu chúng tôi còn xôn xao, nhưng về sai cũng yên dần, và cuộc sống lại trôi đi như trước. Phải, thế rồi một buổi chiều, người gác đến cửa phòng giam tôi và bí mật bảo cho tôi biết là đã có thợ mộc đến, họ đang dựng giá treo cổ. Thoạt đầu tôi không hiểu: "Thế là cái gì? Giá treo cổ nào?". Nhưng người gác già rất đỗi bối rối nên nhìn lão, tôi hiểu ngay là để cho hai bạn của chúng tôi. - Tôi muốn gõ vào tường báo cho các bạn tù biết tin nhưng lại sợ hai người nghe được. Các bạn tù cũng đều yên lặng. Rõ ràng là mọi người đều đã biết. Ngoài hành lang và trong khám: chiều hôm ấy im lìm, lặng ngắt như chết. Chúng tôi không gõ tường mà cũng không hát. Đến mười giờ, người gác lại đến và cho tôi biết tin là một tay đao phủ đã điều từ Moskva tới. Nói xong, lão ta đi. Tôi đang gọi lão lại thì bỗng thấy Rozovxki từ bên phòng của cậu ta gọi to sang bảo tôi: "Bên anh có chuyện gì thế? Anh gọi lão ta làm gì?" Tôi trả lời cho qua chuyện rằng lão ta đem cho tôi ít thuốc lá, nhưng chắc Rozovxki cũng đoán được nên hỏi lại tại sao hôm nay chúng tôi không hát, không gõ tường làm hiệu với nhau? Tôi không nhớ là tôi đã bảo gì cậu ta, chỉ biết là tôi lui nhanh vào để không phải nói chuyện với cậu ta nữa. Phải, thật là một đêm khủng khiếp. Suốt đêm, tôi lắng tai nghe từng tiếng động nhỏ. Bỗng nhiên, gần sáng, tôi nghe thấy mở cửa ở hành lang và có tiếng chân nhiều người đi. Tôi lại gần lỗ cửa phòng tôi. Trong hành lang có thắp một ngọn đèn. Người đi đầu là viên giám ngục, một thằng to lớn, thường ngày ra vẻ hợm hĩnh và quyết đoán, nhưng bây giờ mặt nó tái mét, phờ phạc như hoảng hốt. Theo sau nó là thằng phó, mặt quằm quặm nhưng có vẻ quả quyết; và sau cùng là bọn lính gác. Chúng đi qua phòng tôi rồi dừng lại trước cửa phòng bên. Tôi nghe thấy tên phó giám ngục gọi bằng một giọng rất kỳ lạ: "Lozinxki, dậy mặc quần áo sạch vào!". Phải. Rồi tôi nghe tiếng cửa rít lên. Chúng đi vào. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng chân Lozinxki đi ra phía bên kia hành lang. Tôi chỉ trông thấy tên giám ngục đứng đó, mặt xám ngắt, tay mân mê hết cài vào lại cởi ra một chiếc khuy áo, hai vai co nhún lại. Phái, rồi thình lình như sợ hãi cái gì, hắn đứng tránh sang một bên. Thì ra Lozinxki đi ngang qua mặt hắn, đến gần của phòng tôi ông phải biết, anh ta là một thanh niên đẹp trai, đẹp theo kiểu người Ba Lan, trán rộng, thẳng đứng: tóc vàng xoăn, óng như tơ, đôi mắt xanh thẳm rất đẹp. Thật là một thanh niên đang thời tươi trẻ, khỏe khoắn. Anh ta đứng lại trước lỗ mắt cáo phòng tôi nên tôi nhìn được rất rõ gương mặt anh ta lúc ấy; một bộ mặt ghê sợ, tiều tuỵ tái nhợt: "Krinxov, anh có thuốc lá không?". Tôi định đưa, nhưng tên phó giám ngục như sợ để chậm đã vội lấy một điếu. Tên phó đánh diêm, anh hút thuốc, vẻ suy nghĩ. Rồi như sực nhớ ra một điều gì, anh nói: "Thật là độc ác và bất công. Tôi không có tội gì cả. Tôi…". Mắt tôi nhìn cứ dán vào cái cổ họng trắng trẻo của anh, bên trong như có cái gì run bật lên. Anh nghẹn lời. Đúng, lúc ấy tôi nghe thấy Rozovxki hét lên, giọng Do Thái the thé. Lozinxki vứt điếu thuốc đi và bước qua cửa. Rồi Rozovxki tới trước mắt cáo phòng tôi. Khuôn mặt ngây thơ có đôi mắt đen ướt của anh, bây giờ đỏ lên và nhớp mồ hôi. Anh cũng mặc bộ quần áo sạch. Quần rộng quá, anh phải lấy hai tay kéo xốc lên, toàn thân anh run lẩy bẩy. Anh kề sát bộ mặt thảm thương gần lỗ của phòng tôi: "Anatoli Petrovich, có đúng là bác sĩ cho tôi thuốc ho phải không? Tôi ốm rồi, phải uống ít thuốc ho nữa". Không ai trả lời, còn anh hết nhìn tôi lại nhìn tên giám ngục để hỏi. Câu nói như vậy nghĩa là thế nào, thật tôi không rõ. Phải. Bỗng nhiên, tên phó giám ngục làm ra mặt nghiêm khắc quát lên, giọng the thé: "Nầy! Đùa gì thế? Đi đi!". Rozovxki hẳn không hiểu được cái gì đang chờ đợi mình; anh vội vã đi gần như chạy trong hành lang, vượt lên trước mọi người. Bỗng anh đứng sững lại và tôi nghe thấy có tiếng chân và tiếng xôn xao, xô sát; anh hét lên và khóc nức nở, tiếng mỗi lúc một xa, rồi tiếng cửa hành lang khép lại và mọi vật lại chìm trong yên lặng. Phải, họ đã treo cổ cả hai người, họ lấy dây thừng thắt cho cả hai tắc thở. Một người gác khác đã chứng kiến buổi hành hình kể lại là Lozinxki không chống cự; còn Rozovxki giãy giụa chống lại một hồi lâu, thành ra họ phải lôi anh lên giá treo, đút đầu anh vào thòng lọng. Phải. Người gác nầy là một anh chàng hơi ngớ ngẩn. Anh ta nói: "Ngài ạ, người ta cứ bảo tôi là trông khiếp lắm, nhưng thực ra cũng không có gì đáng khiếp cả. Khi hai người bị treo cổ, họ chỉ nhún vai có hai lần, như thế nầy thôi! - anh ta so vai, đưa lên đưa xuống. - Rồi người đao phủ rút thêm tí nữa, cho nút thòng lọng thít chặt lại, và thế là xong; người bị treo cứng đờ ra, chẳng còn cựa quậy gì nữa". Và Krinxov nhắc lại lời người gác: "Không có gì đáng khiếp cả" anh định mỉm cười, nhưng trái lại, anh đã oà lên khóc nức nở. Anh yên lặng một lúc lâu, hơi thở nặng nhọc, rồi nuốt những tiếng nức nở đương làm anh nghẹn ngào. Anh lấy lại bình tĩnh nói tiếp. "Từ đó, tôi theo cách mạng. Vâng". Và anh nói thêm ít câu để kết thúc câu chuyện. Anh vào đảng Ý Dân, và đứng đầu nhóm phá hoại có nhiệm vụ khủng bố chính phủ, để họ phải tự ý nhường quyền cho nhân dân. Để làm nhiệm vụ, anh đi Petersburg, Kiev, Odessa và ra cả nước ngoài; ở đâu anh cũng thành công. Về sau anh bị một người tâm phúc phản bội. Chúng bắt anh, đưa ra toà xử và sai hai năm bị giam, anh bị kết án tử hình, sai giảm xuống thành khổ sai chung thân. Ở tù anh mắc bệnh lao. Và trong điều kiện hiện nay, anh khó mà sống được vài tháng nữa. Anh biết thế, nhưng không hối tiếc gì và còn nói nếu anh được sống thêm một cuộc đời nữa thì anh lại sẽ cứ đi theo con đường anh đã đi: tiêu diệt cái chế độ hiện hành đã gây ra tất cả những điều anh đã nhìn thấy. Được nghe câu chuyện của Krinxov và sống gần gũi thân cận với anh, Nekhliudov hiểu được nhiều điều mà trước kia anh không hiểu. Chú thích: (1) Meletei Platonovich (1855-1880) nhà cách mạng bị treo cổ ở Kiev. (2) Iosif Isskovitch (1660-1880) nhà cách mạng bị treo cổ ở Kiev (Theo chú thích trong bản dịch Pháp văn của E. Becaux) Chương 108 Hôm tên sĩ quan áp giải có chuyện lôi thôi với tù nhân về đứa trẻ ở cổng trạm nghỉ thì Nekhliudov nghỉ đêm ở một quán cơm trọ trong làng. Vì dậy muộn, lại ngồi nán viết thư để khi đến thị xã lớn gần tới sẽ gửi bưu điện, thành ra chàng rời quán trọ trễ hơn mọi lần và không vượt được đoàn tù ở dọc đường như những lần trước; lần nầy, mãi đến nhá nhem tối, chàng mới tới cái làng ở gần trạm nghỉ của đoàn tù. Chàng vào trọ trong một quán ăn, hong quần áo cho khô. Chủ quán là một người đàn bà goá, cổ trắng ngần, béo núc ních. Chàng uống trà trong một căn buồng sạch sẽ có treo nhiều tranh ảnh tượng Thánh. Dùng trà xong, chàng vội vàng đến khu trạm nghỉ hỏi viên sĩ quan để xin phép vào thăm tù nhân. Ở sáu chặng nghỉ vừa qua, tuy rằng sĩ quan phụ trách thay đổi nhiều lần, nhưng không một người nào cho phép Nekhliudov vào trạm nghỉ, thành ra hơn một tuần nay chàng chưa gặp Katiusa. Sở dĩ họ khắt khe như vậy vì họ đang chờ đón một viên quan cao cấp phụ trách các trại giam sắp đi qua con đường nầy. Nay viên sĩ quan đó đã đi rồi, hắn không hề nhìn nhõi gì đến các trạm nghỉ, nên Nekhliudov hy vọng viên sĩ quan phụ trách đoàn tù sáng hôm nay sẽ cho phép chàng gặp tù nhân như trước kia. Mụ chủ quán muốn cho Nekhliudov mượn một cỗ xe bốn bánh để đi đến trạm tù nghỉ ở bên kia làng, nhưng chàng lại thích đi bộ. Một anh làm công trẻ, vai to rộng như lực sĩ, chân đi đôi ủng to tướng mới đánh xi, nhận dẫn đường cho chàng. Trời sương mù mờ mịt tối đen đến nỗi anh dẫn đường chỉ đi trước có ba bước, Nekhliudov cũng không nhìn thấy trừ những khi có ánh sáng từ một cửa sổ nào đó chiếu ra - mà chỉ nghe thấy tiếng giầy anh ta giẫm lép nhép trên lớp bùn dày quánh. Qua hết bãi đất rộng trước cửa nhà thờ và một phố dài có dãy cửa sổ sáng trưng, Nekhliudov theo người dẫn đường ra đến đầu làng, trời tối đen như mực. Nhưng chẳng mấy chốc qua bóng tối chàng đã nhận thấy cô những tia sáng leo lét trong sương mù. Đó là những ngọn đèn thắp quanh trạm nghỉ. Những vệt sáng đo đỏ, mỗi lúc một rõ hơn, rồi chàng nhìn thấy cả những cái cọc giậu cái bóng đen người lính gác đi đi lại lại, những cột quét sơn đen lẫn trắng và trạm canh. Hai người tiến đến gần, người lính gác thét to câu hỏi thường lệ: "Ai đó!". Khi nhận thấy là hai người lạ, anh ta tỏ ra rất nghiêm, không cho cả hai người được đứng đợi bên hàng rào. Nhưng anh làm công dẫn đường không vì thể mà lúng túng, rụt rè. "Nầy sao chú hắc thế? - Anh ta nói. - Làm ơn mời ông quản ra đây bọn mình có tí việc, bọn mình đứng đợi". Người lính không trả lời, gọi to vào phía trong cửa và đứng yên nhìn anh làm công vai rộng đương lấy một cái que cạo bùn dính ở giầy Nekhliudov, dưới ánh đèn. Từ sau bức rào vọng ra tiếng ồn ào, có cả giọng đàn ông và đàn bà. Sau vài phút, có tiếng kẹt cửa mở, một viên quản khoác chiếc áo choàng trên vai từ trong bóng tối tiến ra phía ánh đến, và hỏi Nekhliudov muốn gì. Nekhliudov đứa tấm danh thiếp trong viết xin gặp có việc riêng và nhờ đưa cho viên sĩ quan. Người quản nầy không ngặt như người lính gác. Nhưng anh ta rất tò mò, cứ nhất định muốn biết Nekhliudov hỏi viên sĩ quan về việc gì, và chàng là ai. Rõ ràng hắn ta đã đánh hơi thấy một món có thể kiếm chác được và quyết không chịu bỏ lỡ cơ hội. Nekhliudov nói là chàng có việc riêng, sẽ không quên ơn và đề nghị chuyển hộ tấm thiếp cho viên sĩ quan. Viên quản cầm giấy, gật đầu và quay lại. Một lát sai cửa lại lạch cạch mở và thấy mấy người phụ nữ cắp rổ, cắp bị, cầm hộp đi ra; qua cửa, họ nói chuyện bô bô với nhau bằng tiếng địa phương Siberi. Tất cả ăn mặc không phải theo lối thôn quê mà theo lối thành thị, có áo "măng tô", áo lông khoác ngoài, đầu bịt khăn vuông, váy xắn cao. Vẻ tò mò, họ chăm chắm nhìn Nekhliudov và anh dẫn đường đứng dưới ánh đèn. Khi một người trong bọn nhận ra anh làm công vai rộng thì tỏ vẻ vui mừng, mắng yêu anh ta bằng tiếng Siberi: - Ông mãnh! Đến đây làm trò gì thế? Sao ma quỷ nó chẳng bắt ông mãnh đi! - Tớ dẫn đường cho ông nầy, - anh làm công trả lời. - Còn đằng ấy mang gì lại đây thế - Sữa, và đến sáng lại mang sữa đến nữa. - Thế họ không giữ lại ngủ đêm à? - Cái anh phải gió nầy, chỉ nói nhảm, - người phụ nữ vừa cười vừa trả lời, - nầy, cùng về với bọn nầy đi. Người dẫn đường nói câu gì đó làm cho không những mấy người phụ nữ mà cả người lính gác cũng bật cười. Song anh ta quay sang Nekhliudov và nói: - Thưa ngài, ngài nhớ đường về một mình được chứ ạ? Ngài không lạc chứ? - Tôi nhớ đường rồi, không sao. Qua nhà thờ rồi, ngài đi đến cái nhà thứ hai ở bên phải sai cái nhà hai tầng là đúng. Mà nầy, ngài cầm cái gậy của tôi. - Anh ta nói và đưa cho Nekhliudov cái gậy đương cầm trong tay; chiếc gậy cao quá đầu anh ta. Rồi với đôi giầy to tướng, anh lội bùn, cùng mấy phụ nữ biến vào trong bóng tối. Tiếng anh ta xen với tiếng mấy người phụ nữ còn đang vọng lại từ trong sương mù thì cửa lại lạch cạch mở và viên quản ra mời Nekhliudov đi theo vào gặp viên sĩ quan. Chương 109 Trạm nghỉ chân nầy xếp đặt giống như tất cả các trạm to, nhỏ khác trên dọc đường đi Siberi. Trong một cái sân, xung quanh là hàng rào chông nhọn bao bọc, có ba cái nhà một tầng. Cái lớn nhất, cửa có chấn song, thì để cho tù, một cái cho lính áp giải, còn cái thứ ba có bàn giấy và là chỗ ở cửa viên sĩ quan, ở cửa sổ cả ba nhà đều có ánh đèn chiếu ra, và bao giờ cũng vậy - nhất là lại ở đây nữa những ánh đèn khiến người ta có ảo tưởng là bên trong ấm cúng yên vui. Trước thềm nhà có đèn thắp và còn năm chiếc treo dọc trên tường chiếu ánh sáng xuống sân. Viên quản dẫn Nekhliudov đi theo con đường lát ván đến ngôi nhà nhỏ nhất; bước qua ba bậc lên thềm, hắn ta để chàng đi trước vào phòng đợi, đầy khói, trong đó có thắp một ngọn đèn con. Bên cạnh một chiếc bếp lò, một người lính mặc quần đen, sơ mi vải to, cổ đeo cravat, dương cúi xuống thổi lò đặt ấm nước. Anh ta chỉ đi có một chiếc giầy ống màu vàng; còn một chiếc dùng làm quạt để quạt lò. Thấy Nekhliudov, người lính bên bỏ đấy, lại đỡ cho chàng cái áo khoác rồi đi vào phòng bên. - Bẩm quan, ông ta đã đến! - Thì cho vào, - một giọng cáu kỷnh lọt ra. - Mời ông vào qua cửa nầy, - người lính nói quay ngay trở lại tiếp tục quạt lò. Ở buồng bên có thắp một ngọn đèn treo, trên mặt một cái bàn có phủ khăn, còn để thức ăn thừa và hai chai rượu; ngồi bên bàn là một sĩ quan có râu mép vàng hoe, mặt đỏ gay, mình mặc chiếc áo ngoài may kiểu nước Áo, bó chặt lấy hai vai và lồng ngực rộng. Căn phòng ấm áp, sực mùi nước hoa rất hắc, thứ nước hoa rẻ tiền. Thấy Nekhliudov, người sĩ quan nhổm dậy và nhìn chàng, mép hơi nhếch vẻ nửa giễu cợt, nửa nghi kỵ: Ông cần gì? - Hắn ta hỏi. Và không đợi trả lời, hắn gọi to qua cửa - Bernov, mang nước vào đây! Đến bao giờ mới được? - Được ngay đấy ạ. - Tao sẽ cho mày được ngay một trận để mày nhớ! - Tên sĩ quan quát lên, mắt long lanh. - Tôi mang vào ngay đây ạ, - người lính nói to, và mang ấm nước vào. Nekhliudov đứng đợi trong khi người lính đặt ấm lên bàn. Sau khi đưa mắt - đôi mắt nhỏ và ác nhìn theo người lính đi ra, dường như muốn tìm xem nên đánh vào chỗ nào tốt nhất, tên sĩ quan pha trà rồi lấy ở trong hòm ra một bình rượu cognac nhỏ, hình vuông và mấy chiếc bánh bích quy Anbe. Hắn đặt tất cả lên bàn rồi quay lại nói với Nekhliudov: - Tôi có thể giúp ông được việc gì? - Tôi xin ông cho phép vào thăm một nữ tù nhân. - Nekhliudov nói, chàng vẫn đứng. - Tù chính trị à? Thế thì điều luật không cho phép rồi, - viên sĩ quan nói. - Người phụ nữ tôi xin gặp không phải là tù chính trị, Nekhliudov nói. Nekhliudov ngồi xuống. - Người đó không phải là tù chính trị, nhưng do tôi đề nghị, cấp trên đã cho phép đi với nhóm tù chính trị. - Ô tôi đã rõ người sĩ quan ngắt lời, - một người nhỏ nhắn, tóc đen chứ gì? - Được, người ấy thì có thể được. Ông hút thuốc? Người sĩ quan đẩy hộp thuốc lá về phía Nekhliudov rồi cẩn thận rót đầy hai cốc nước chè, đưa cho Nekhliudov một và nói: - Mời ông. - Cảm ơn. Tôi muốn gặp… - Đêm còn dài. Ông còn khối thời giờ. Tôi sẽ bảo người dẫn cô ta lên đây gặp ông. - Nhưng ngài có thể cho tôi đến gặp cô ta ở phòng giam có được không? Gọi cô ta lên làm gì cho mất công? - Nekhliudov nói. - Vào chỗ tù chính trị ấy à? Thế thì không được. - Tôi đã được phép vài lần đến đó rồi. Nếu ngài có ngại lỡ tôi có đưa cho họ cái gì, thì nói chuyện ở đây, tôi vẫn có thể nhờ cô ta chuyển cho họ được cơ mà. - Ồ, không, sẽ có người khám cô ta chứ. - Viên sĩ quan nói vậy và cười, tiếng cười nghe thật khó chịu. - Thế thì xin khám ngay tôi có được không. - Không sao. Không cần phải thế, - viên sĩ quan nói, và mở nút, đưa bình rượu về phía Nekhliudov - Sống ở cái đất Siberi nầy, gặp một người có học thức thật thích quá ông đã rõ, công việc của chúng tôi buồn tẻ vô cùng; và nếu đã quen sống một cách khác rồi mà làm công việc nầy thì thật là khổ. Người ta cứ nghĩ sĩ quan áp giải là thô bạo, vô học; sao họ không nghĩ rằng chúng tôi cũng có thể sinh ra để làm những công việc hoàn toàn khác. Nekhliudov thấy cái mặt đỏ lựng của hắn, cái mùi nước hoa ở con người hắn, cái nhẫn đeo và, đặc biệt, cái cười khả ố của hắn thật đáng ghét; nhưng hôm nay, cũng như trong suốt thời gian đi đường, chàng ở vào cái thế phải nghiêm túc, thận trọng, không được khinh suất hay tỏ ra khinh rẻ đối với bất cứ một ai, và thấy cần phải nói "tường tận" với mọi người, như chàng vẫn tự xác định thái độ cho mình. Nghe viên sĩ quan nói và cho rằng hắn đang nghĩ lấy làm khổ tâm phải hành hạ những con người trong tay mình, chàng nghiêm trang nói: - Tôi nghĩ ở cương vị ông, cũng có thể tìm thấy niềm vui trong việc làm giảm bớt đau khổ cho người khác. - Những người nầy, họ đau khổ gì? Ông không biết họ thế nào? - Họ đâu phải là hạng người gì đặc biệt? - Nekhliudov nói, - chẳng qua cũng như những người khác thôi. Và trong số đó có những người vô tội. - Vâng, họ thì đủ loại, và tất nhiên chúng tôi cũng thương hại họ. Người khác, họ hắc lắm. Tôi thì lúc nào có dịp là tôi tìm cách giảm bớt đau khổ cho họ ngay. Thà tôi chịu khổ còn hơn để họ khổ. Người khác hơi một tý là giở pháp luật, thậm chí còn bắn chết nữa, tôi thì thương… - Xin mời ông… ông uống đi chứ, - hắn nói và rót trà thêm cho Nekhliudov. - À, mà người phụ nữ ông muốn gặp là ai thế? - Hắn hỏi. - Một người đàn bà xấu số, phải rơi vào nhà chứa rồi bị kết tội oan là đã đầu độc giết người, nhưng thực ra chị ta là một người rất tốt. - Nekhliudov trả lời. Viên sĩ quan lắc đầu: - Đúng, có như thế đấy. Tôi có thể kể cho ông nghe về một cô tên là Emma, ở Kazan. Cô ta gốc tích là người Hungary nhưng có đôi mắt thực là Ba Tư, - viên sĩ quan nói tiếp, không nén nổi một nụ cười khi nhớ tới hình ảnh nầy. - Cô ta thật là sang, như một bà bá tước vậy… Nekhliudov ngắt lời viên sĩ quan và trở lại câu chuyện đang nói dở: - Tôi nghĩ là ông có thể làm giảm nhẹ đau khổ cho những người ở trong tay ông được; làm thế tôi chắc là ông sẽ thấy rất sung sướng, - Nekhliudov cố nói từng lời rành rọt, như khi nói chuyện với một người nước ngoài hay với một đứa trẻ. Viên sĩ quan mắt long lanh, nhìn Nekhliudov, vẻ nóng ruột đợi cho chàng nói hết, để hắn có thể tiếp tục kể câu chuyện cô gái Hungary có đôi mắt Ba Tư, rõ ràng là hình ảnh cô gái đang hiện lên rõ rệt trong đầu óc hắn và choán hết tâm trí hắn. - Phải, đúng như thế đó, - hắn nói. - Tôi rất thương họ. Nhưng tôi muốn kể ông nghe về cô Emma. Cô ta làm như thế nầy… - Tôi không thích nghe những chuyện đó, - Nekhliudov nói, - và xin nói thật với ông là trước kia quả thực tôi khác, nhưng nay thì tôi rất ghét cái thứ quan hệ với phụ nữ như vậy. Viên sĩ quan ngơ ngác nhìn Nekhliudov: - Ông không dùng thêm trà nữa ư? - Hắn nói. - Thôi, xin cảm ơn ông. - Bernov! - Hắn gọi to, - dẫn ông nầy đến gặp Vakulov và bảo hắn để ông ấy đến phòng riêng của tù chính trị, ông ấy có thể ở lại đến giờ điểm danh. Chương 110 Nekhliudov cùng người lính đi ra, ngoài sân sáng lờ mờ dưới ánh đến đỏ quạch. - Đi đâu đây? Một người lính gác gặp hỏi. - Đến buồng riêng, số 5. - Không đi đằng nầy được. Cửa đằng nầy khoá, anh phải đi vòng thềm đằng kia. - Sao thế? - Quan quản đã khoá rồi. Ngài đi vào trong làng. Người lính dẫn Nekhliudov men đường ván gỗ đến một cái bậc tam cấp khác. Hãy còn đi ở ngoài sân, Nekhliudov đã nghe thấy tiếng người nói lao xao và tiếng ồn ào ở bên trong như một tổ ong; nhưng khi lại gần và cửa mở ra thì tiếng lao xao đó tăng lên, ầm ĩ, những tiếng gọi, tiếng chửi, tiếng cười. Thỉnh thoảng lại thấy tiếng xích lạch cạch và mùi nồng nặc hôi thối quen thuộc, mùi cứt với hắc ín, bốc lên sặc sụa. Bao giờ cũng vậy, tiếng nói rì rầm lẫn với tiếng xích và cái mùi hôi thối kinh khủng kia hợp lại cũng tạo nên một cảm giác nặng nề gây cho Nekhliudov một thứ ghê tởm về tinh thẩn đến phát buồn nôn. Hai cảm giác đó xen lẫn vào nhau, kích thích lẫn nhau. Bước qua ngưỡng cửa, cái đầu tiên mà Nekhliudov trông thấy là một người đàn bà ngồi trên mép miệng một cái thùng phân to thối hoăng và đứng trước mặt chị ta là một người đàn ông, chiếc mũ bánh đa đội lệch trên cái đầu hói. Họ đương nói chuyện gì đó. Thấy Nekhliudov vào người đàn ông nháy mắt, nói: - Đến vua cũng chẳng nhịn được nữa là! Còn người đàn bà buông vạt áo và cúi đầu nhìn xuống. Từ cửa vào có một đường hành lang chạy thẳng, hai bên cửa đi vào các xà lim. Xà lim đầu là một gian dành cho tù không vợ con, sau cùng đến hai xà lim nhỏ dành riêng cho những tù chính trị. Căn nhà xây để chứa một trăm rưởi người, nhưng bây giờ phải chứa đến bốn trăm rưởi thành ra chật chội quá, tù nhân không thể ở cả trong phòng, phải ra đầy ngoài hành lang. Người ngồi, kẻ nằm trên sàn, kẻ mang ấm không đi lấy nước, người đem ấm đầy nước sôi về, trong số những người nầy có Taratx. - Anh ta cố chạy theo kịp Nekhliudov và ân cần chào hỏi. Bộ mặt hiền lành của anh khác đi, vì có những vết thâm tím ở mũi và dưới mắt. - Đã xảy ra chuyện gì thế, anh? - Nekhliudov hỏi. - Vâng, vừa xảy ra một chuyện, - Taratx trả lời, mỉm cười. - Đúng rồi, bọn chúng nó chỉ có đánh nhau thôi, - người lính gác nói, vẻ khinh bỉ. - Chỉ vì một con mụ đàn bà, - một người tù đi sau nói chêm vào. - Hắn vừa choảng nhau với thằng Fetlka chột mắt đấy. - Thế còn cô Fedoxia thế nào? - Khỏe mạnh như thường. Tôi đang đem nước cho cô ấy pha chè đây. - Taratx trả lời và đi vào xà lim các người có gia đình. Nekhliudov nhìn qua cửa. Phòng đầy đàn ông, đàn bà, người trên phản, kẻ dưới gầm. Từ quần áo ướt bốc hơi, hơi bốc đẩy phòng. Tiếng đàn bà léo nhéo chuyện trò không ngớt. Cửa thứ hai là cửa vào xà lim những tù không có gia đình. Trong nầy, người còn đông hơn; tận ngưỡng cửa, và cả ngoài hành lang cũng chật ních những người, quần áo ướt át họ đương ồn ào tíu tít chia nhau cái gì hoặc phân xử chuyện gì đó. Người lính cho Nekhliudov biết là người cai tù đang lấy tiền ăn của tù trả cho tên trùm cờ bạc số tiền, ghi nợ dưới hình thức phiếu cắt ở các con bài ra, mà những người tù vay nó, hoặc đánh bạc thua nó. Trông thấy viên sĩ quan và nhà quý tộc, những người đứng gần đó lặng im và đưa mắt nhìn theo, đầy ác cảm. Trong số những người nầy, Nekhliudov nhận ra có Fedoxi, người tù khổ sai quen biết. Anh nầy vẫn giữ luôn bên cạnh mình một anh thanh niên tiều tuỵ, da xanh bủng, mặt nề xị, lông mày rướn cao, và một gã vô lại nữa trông thật gớm ghiếc, mặt rỗ như tổ ông bầu lại không có mũi. Thằng nầy khét tiếng vì lần chạy trốn vào rừng hoang, nghe nói như nó đã giết và ăn thịt đứa bạn cùng trốn. Nó đang đứng ở lối đi, một chiếc áo ướt vắt trên vai; nó nhìn Nekhliudov một cách ngạo nghễ, hỗn xược và cử đứng ở giữa hành lang không tránh; Nekhliudov đi men vòng bên cạnh. Tuy Nekhliudov đã quen với những cảnh tượng nầy, tuy ba tháng nay, chàng đã trông thấy bốn trăm người tù có trong các trường hợp khác nhau: gặp hôm trời nóng bức, lúc đi trong đám bụi mù do chân đeo xích làm tung lên, khi nghỉ ở dọc đường, khi ở trạm, hoặc vào những lúc ấm trời họ ở ngoài sân, nơi những cảnh dâm ô công khai đã diễn ra một cách ghê rợn, thế mà bất cứ lúc nào tiếp xúc với họ và thấy họ chăm chú nhìn mình như bây giờ, chàng đều thấy bị giầy vò, thấy hổ thẹn, thấy mình có tội với họ. Điều khổ tâm nhất là lẫn với sự hổ thẹn, thấy mình có tội, còn có thêm cả cảm giác ghê tởm và sợ hãi nữa, một cảm giác không sao lấn át đi được. Chàng vẫn biết là sống ở trong tình trạng nầy, họ không thể nào khác được. Nhưng dẫu sao chàng vẫn không thể nào không ghê tởm. Khi tiến gần tới phòng giam tù chính trị, chàng còn nghe thấy có kẻ nói, giọng khàn khàn "Tụi ăn bám thì yên trí lắm". "Những thằng quỉ sứ ấy thì lo gì. Ăn no phệ bụng còn ốm làm sao được?" Và đèo thêm là một câu chửi tục tĩu Có tiếng cười châm chọc, chế nhạo vang lên. Chương 111 Khi đi qua khỏi phòng giam tù không gia đình, người hạ sĩ quan dẫn đường nói với Nekhliudov là đến giờ điểm danh anh ta sẽ đến tìm chàng, rồi quay trở ra. Người hạ sĩ quan vừa đi khỏi thì một người tù đi chân đất, tay nâng xích, tiến nhanh lại sát bên chàng, mùi mồ hôi chua toả ra nồng nặc. Người đó bí mật nói thầm: - Ngài hãy che chở cho nó. Chúng đang xoắn chặt lấy và dụ dỗ thằng bé. Chúng đổ rượu cho nó uống say mềm, hôm nay khi điểm danh nó đã nhận tên là Karmanov rồi. Ngài hãy ra tay che chở nó, chúng tôi không ai dám vì bọn chúng nó mà biết sẽ giết chúng tôi. - Rồi len lét nhìn quanh, anh ta quay đi. Việc đã xảy ra như thế nầy: tên tù khổ sai Karmanov đã dỗ ngon dỗ ngọt một anh trẻ tuổi có nét mặt hao hao giống hắn và bị án đi đày, để đổi cho hắn đi đày thay anh kia, còn anh kia đi tù khổ sai thay hắn. Nekhliudov đã biết chuyện đánh tráo nầy: cách đây một tuần, chính cũng người tù nầy đã cho chàng biết chuyện. Chàng gật đầu tỏ ra là đã hiểu và sẽ làm trong phạm vi có thể được, rồi đi thẳng không nhìn ra xung quanh. Nekhliudov biết người tù nầy từ khi ở Ekaterinburg; anh ta đã nhờ Nekhliudov xin giúp cho vợ được đi theo. Chàng rất đỗi ngạc nhiên vì tội tình của anh ta. Anh ta là một nông dân hết sức bình thưởng, dáng người vừa phải, trạc ba mươi tuổi, bị án khổ sai vì tội giết người lấy của. Tên anh ta là Maka Devkin. Trường hợp anh ta phạm tội thật là ký dị. Khi kể cho Nekhliudov nghe, anh ta nói không phải chính anh ta, Maka, đã làm mà là "Nó", con quỷ. Câu chuyện như sau: có một khách bộ hành đến hỏi bố anh ta thuê một cái xe trượt với giá là hai rúp để đi đến một làng cách đó bốn mươi dặm. Bố anh ta bảo anh ta đánh xe đi. Maka bèn đóng ngựa vào xe, mặc quần áo rồi uống trà với người khách. Khi uống trà, người khách kể mình đi cưới vợ và có mang theo trong người năm trăm rúp là tiền đã kiếm ăn dành dụm được ở Moskva. Nghe xong, Maka ra sau, bỏ một cái rìu vào dưới đệm rơm trong xe. Anh ta nói: Và chính tôi cũng không rõ tại sao tôi đã lấy cái rìu. Lúc ấy Nó bảo tôi: "Cầm lấy cái rìu", thế là tôi cầm lấy. Chúng tôi lên xe và đi. Dọc đường xe đi vô sự. Tôi quên bẵng cái rìu đi. Và chúng tôi đến gần một làng chỉ còn độ sáu dặm nữa thôi. Từ đường nhỏ ra đường cái, phải qua một cái dốc, tôi xuống xe và đi sau xe, thế là "Nó" lại thì thào vào tai tôi: "Mày nghĩ gì thế. Xe lên hết dốc thì đến đường cái, sẽ gặp vô số người, rồi đến làng. Người ta sẽ mang tiền đi mất; nếu mày định làm thì làm ngay đi, đừng đợi nữa". Tôi cúi xuống xe như là để xếp lại rơm, và cái rìu hình như tự nó nhảy vào tay tôi. Người khách quay lại và hỏi: "Anh làm gì thế? Tôi giơ rìu định bổ một nhát, nhưng người đó nhanh nhẹn nhảy phắt ra, tóm chặt lấy tay tôi: "Mày làm gì, thằng kẻ cướp nầy?" và lẳng tôi xuống tuyết; tôi không chống lại, chịu thua ngay. Người ấy lấy dây lưng trói tay tôi lại, quẳng tôi lên xe và dẫn ngay đến đồn. Họ giam tôi lại và đem ra xử. Làng tôi người ta chứng nhận tôi là người lương thiện, từ trước không phạm một tội lỗi gì. Mấy người chủ tôi vẫn làm thuê cho cũng đều chứng nhận tôi là người tốt. Nhưng vì tôi không có tiền thuê thầy kiện nên tôi bị xử bốn năm tù khổ sai. Chính người đó, vì muốn cứu một người làng, đã cho Nekhliudov biết một điều bí mật trong đám tù, tuy biết làm như vậy có thể nguy hại đến tính mạng mình, vì nếu bọn kia biết anh đã tố giác ra, chắc chắn chúng sẽ bóp cổ anh chết tươi. Chương 112 Tù chính trị bị nhốt trong hai xà lim nhỏ. Cửa hai xà lim thông ra một phần hành lang có vách ngăn riêng hẳn ra. Khi Nekhliudov bước vào khoảng hành lang đó, trước tiên chàng trông thấy Ximonxon mặc một áo khoác ngắn bằng cao su, tay cầm một thanh củi thông đang ngồi xổm trước cái bếp hoả lò; cửa bếp lò rung rung vì hơi bốc mạnh. Trông thấy Nekhliudov, anh vần ngồi xổm, ngước mắt nhìn dưới cặp lông mày rậm và đưa tay ra. - Anh đến, tôi rất mừng. Tôi đang muốn gặp anh để nói một câu chuyện. - Anh ta nhìn thẳng vào mắt chàng nói, giọng đầy ý tứ. - Chuyện gì thế - Nekhliudov hỏi. - Để lát nữa. Bây giờ tôi còn bận. Và Ximonxon lại quay về phía cái bếp lò; anh đương đốt theo lý thuyết của anh, làm thế nào để hao phí thật hết sức ít nhiệt. Nekhliudov đang sắp bước vào cửa xà lim đầu tiên thì thấy Maxlova ở xà lim thứ hai đi ra, đang lom khom dùng chổi vun một đống to vừa rác vừa bụi về phía bếp. Nàng mặc một chiếc áo ngắn trắng, váy xắn gọn, chẩn đi bít tất, đầu chít một khăn tay trắng kéo xuống tận mắt để che cho tóc khỏi bụi. Thấy Nekhliudov, nàng đứng lên, đỏ mặt và lúng túng; nàng buông chổi, chùi tay vào vạt áo và đứng ra trước mặt chàng. - Cô đương quét dọn nhà cửa? - Chàng vừả hỏi vừa bắt tay nàng. - Vâng, công việc cũ của tôi, - nàng nói và mỉm cười. - Bẩn ơi là bẩn! Bẩn không thể tưởng tượng được. Chúng tôi quét đi quét lại. Thế nào, cái chăn khô chưa? - Nàng quay về phía Ximonxon hỏi… - Gần khô, - Ximonxon trả lời, nhìn nàng với một cái nhìn đặc biệt khiến Nekhliudov lấy làm lạ. - Thế thì tôi lại lấy cất đi và đem hong mấy cái áo khoác… Bọn chúng tôi ở cả trong kia, - nàng vừa nói với Nekhliudov, vừa chỉ vào cái cửa thứ nhất, còn mình đi vào cái cửa thứ hai. Nekhliudov mở cửa đi vào gian buồng nhỏ, ánh sáng yếu ớt. Một ngọn đèn con bằng sắt tây đặt ngay trên mặt phản. Phòng lạnh lẽo, sặc mùi bụi môi quét tung lên, mùi ẩm lẫn mùi khói thuốc lá. Ngọn đèn nhỏ chiếu tỏ những người ngồi gần, còn giường phản thì chìm trong bóng tối, trên tường in lô nhô những bóng đen lờ mờ. Trừ hai người được cử phụ trách lo việc ăn uống là đi lấy nước nóng và lương thực, còn tất cả tù chính trị đều quây quần lại trong phòng nhỏ nầy. Có Vera Efemovna là người Nekhliudov đã quen biết, chị nom gầy và nước da vàng vọt hơn trước, đôi mắt to đầy lo lắng, tóc cắt ngắn, trên trán gân xanh nổi rõ. Chỉ mặc một chiếc áo màu xám, trước mặt là một tờ báo mở rộng, trong để gói thuốc lá; tay run run, chị ngồi cuốn thuốc. - Ở đó có cả Emilie Ranxeva, một tù chính trị nữ mà Nekhliudov vẫn cho là một trong những người đáng mến nhất; chị ta trông nom việc ăn, ở và ngay trong những hoàn cảnh cực khổ nhất, chị ta cũng vẫn giữ cho nơi ở có vẻ ấm cúng, hấp dẫn. Chị ta ngồi bên cạnh ngọn đèn; tay áo xắn lên để lộ đôi bàn tay đẹp đẽ, khéo léo, đã rám nắng; chị đương xếp chén cốc lên một chiếc khăn bàn trải trên thảm. Chị Ranxeva còn trẻ, chị không đẹp, nét mặt thông minh, dịu dàng, đặc biệt là khi chị mỉm cười thì vẻ mặt hoá ra tươi tỉnh, lanh lợi và rất đáng yêu. Và lúc nầy với nụ cười đó, chị chào Nekhliudov. - Thế mà chúng tôi ngỡ là anh đã về hẳn bên Nga rồi, -chị nói. Ở đó còn có Maria Paplovna, đang ngồi trong một xó tối bận việc gi đó với một đứa con gái nhỏ có mái tóc vàng óng, đứa bé không ngớt thỏ thẻ với cái giọng trẻ con êm ái dễ thương. - Anh đến thật tốt quá. Anh đã gặp Katiusa chưa? - Maria Paplovna hỏi chàng. - Chúng tôi có cô khách nầy đây nàng nói và chỉ vào đứa con gái nhỏ. Ở đây có cả Anatoli Krinxov. Người anh dạo nầy gầy rộc đi, nước da tái nhợt, anh ngồi co trên giường, run rẩy, chân đi giầy da, tay khoanh lại, thu lu trong áo; anh ngồi ở cuối phản, đưa cặp mắt đang lên cơn sốt nhìn Nekhliudov. Chàng muốn đi lại gặp anh, nhưng bên phải cửa ra vào có một người đang đeo kính, tóc xoăn màu hung đỏ mình mặc một áo ngoài bằng vải nhựa, đang vừa lục lọi cái gì trong túi vừa nói chuyện với một cô xinh đẹp tên là Grabet. Đó là nhà cách mạng nổi tiếng Novotvorov. Nekhliudov vội chào. Chàng đặc biệt vội vã chào như thế vì trong tất cả các nhà tù chính trị thuộc đoàn nầy, chỉ có anh nầy là chàng không ưa. Novotvorov nhìn Nekhliudov qua mục kỷnh với đôi mắt xanh lóe sáng và cau mày. Anh ta chìa bàn tay nhỏ nhắn cho Nekhliudov. - Thế nào, anh đã làm một cuộc du ngoạn thú vị chứ? - Anh ta nói rõ ra vẻ mỉa mai. - Vâng, có nhiều cái thú vị, - Nekhliudov trả lời, làm ra vẻ không nhận ra gỉọng mỉa mai mà chỉ thấy vẻ lịch sự rồi chàng đi lại gần Krinxov. Tuy bề ngoài Nekhliudov làm ra vẻ bình thản, nhưng thực ra thì hoàn toàn không phải thế. Mấy lời Novotvorov nói để lộ rõ ý định của anh ta muốn nói và làm một điều gì thực chướng khiến cho Nekhliudov mất hẳn tâm trạng ôn hoà thư thái; chàng bỗng thấy ngao ngán trong lòng. - Sao, anh có mạnh không? - Chàng nói và nắm bàn tay run run và lạnh toát của Krinxov. - Cũng bình thường, chỉ cái không làm thế nào cho ấm người lên được. Người tôi bị ướt sũng, - Krinxov nói, rồi vội rụt tay thu về ống tay áo. - ở đây rét quá lắm. Kính cửa sổ cũng bị vỡ. - Anh chỉ hai chỗ kính vỡ đằng sau chấn song sắt. - Còn anh thì sao? Sao đã lâu không thấy lại? - Họ không cho tôi vào, nghiêm ngặt lắm. Mãi hôm nay mới gặp được người sĩ quan tử tế. - Hừ, tử tế? - Krinxov nói. - Anh hãy hỏi chị Maria xem sáng nay hắn làm gì. Maria Paplovna vẫn ngồi trong xó kể vọng ra câu chuyện đứa bé sáng hôm nay, lúc ở trạm nghỉ ra đi. - Tôi nghĩ là nhất thiết ta phải kháng nghị tập thể. - Vera Efemovna nói, giọng kiên quyết; nhưng đồng thời chị vẫn nhìn, lúc người nầy, lúc người khác, vẻ do dự và sợ sệt Vladimir có phản đối, nhưng chưa đủ. - Kháng nghị cái gì? - Krinxov cau mày giận dữ lẩm bẩm. Vẻ thiếu giản dị, giọng nói trông tự nhiên và sự bồn chồn của Vera làm anh khó chịu từ lâu. - ông tìm Katiusa à? - Anh quay về phía Nekhliudov nói. - Cô ấy làm luôn tay, hết quét dọn phòng đàn ông nầy của chúng tôi bây giờ lại đang quét dọn phòng phụ nữ. Chỉ có bọn chó là không quét hết được. Chúng nó ăn sống chúng tôi đấy. Còn Maria làm gì kia? - Anh hỏi, hất đầu về góc Maria Paplovna ngồi. - Chị ấy đang chải đầu cho đứa con gái nuôi, - Ranxeva trả lời. - Không khéo cô để chấy rơi sang chúng tôi đấy! - Krinxov nói. - Ồ không. Tôi rất cẩn thận. Bây giờ con bé sạch sẽ lắm rồi. Chị trông nó, - Maria nói với Ranxeva, - để tôi lại giúp Katiusa và nhân tiện đem tấm chăn chiên về cho anh ấy. Ranxeva vừa bế đứa bé vào lòng, áp hai tay bụ bẫm của nó đặt vào ngực mình, âu yếm như một người mẹ; nàng đặt nó lên đầu gối và đưa cho nó một miếng đường. Khi Maria Paplovna ra khỏi thì có hai người đàn ông mang nước nóng và thức ăn vào. Chương 113 Trong hai người, một người còn trẻ, gầy gò, thấp bé; anh ta mặc cái áo da cừu ngắn và đi giầy ống cao; bước đi nhanh nhẹn. Anh ta cầm hai ấm trà nóng đang bốc khói và cắp nách một chiếc bánh mì quấn trong một chiếc khăn. - A, Công tước của chúng ta đã lại tới, - anh ta nói, vừa đặt ấm trà vào giữa bộ chén, vừa đưa chiếc bánh cho Ranxeva. - Chúng tôi vừa mua được những thức rất tuyệt, anh ta nói tiếp, đoạn cởi chiếc áo da cừu ra quẳng nó lên trên phản, qua đầu mấy người kia. - Marken mua được sữa và trứng. Tối nay ta sẽ làm tiệc chén cho thích. Mà chị Kirilovna (tức Ranxeva) đang trổ tài bày biện mỹ thuật ra rồi đấy? - Anh ta nói và nhìn Ranxeva mỉm cười. - Và bây giờ thì chị pha trà cho. Từ tất cả diện mạo hình dáng anh chàng nầy, từ cử chỉ, tiếng nói, khóe mắt của anh ta đều toát ra niềm phấn khởi tươi vui, còn người thứ hai thì cũng thấp bé gẩy gò nhưng trái hẳn lại, có dáng buồn rầu chán nản; da mặt tai tái, gò má nhô cao trên đôi má hóp, anh nầy có đôi mắt xanh to đẹp, cách xa nhau và hai vành môi mỏng. Anh ta mặc áo khoác cũ và đi đôi ủng cao su. Anh ta mang hai bình sữa với hai chiếc làn đem lại đặt trước mặt Ranxeva, nghiêng mình chào Nekhliudov, đầu hơi cúi xuống nhưng mắt vẫn nhìn chàng chằm chằm. Anh ta miễn cưỡng đưa bàn tay ướt đẫm mồ hôi ra bắt tay Nekhliudov, đoạn từ từ bỏ thức ăn ở trong làn ra. Cả hai người tù chính trị nầy đều xuất thân từ trong quần chúng. Người thứ nhất là Nabatov, một nông dân, còn người thứ hai, là Marken Kondratiev, một công nhân. Đến năm ba mươi lăm tuổi, Marken mới tham gia, còn Nabatov thì năm mười sáu tuổi đã gia nhập phong trào cách mạng. Sau khi ở trường làng ra, nhờ có tài năng xuất sắc Nabatov được học ở trường trung học. Suốt trong thời kỳ nầy anh vừa học, vừa dạy học để lấy tiền sinh sống. Anh tốt nghiệp với huy chương vàng, nhưng không xin vào đại học vì ngay khi còn ở lớp bảy, anh đã định tâm sẽ trở về tầng lớp xuất thân của mình để giảng dạy cho những người anh em của mình là những người không được ai chăm sóc đến. Và anh đã làm đúng như vậy. Nhưng anh bị bắt ngay vì đã đọc sách cho nông dân nghe và đã tổ chức một hợp tác xã tiêu thụ và sản xuất. Lần đầu anh bị giam tám tháng, rồi được thả ra, nhưng bị quản thúc bí mật. Vừa được thả ra, anh đi ngay sang một tỉnh khác, đến một làng khác; anh làm giáo viên và lại làm đúng những việc trước anh đã làm. Anh lại bị bắt và lần nầy bị giam mười bốn tháng; ở tù, chính kiến của anh càng thêm vững mạnh hơn trước. Sau khi bị giam lần thứ hai, anh bị đày đi Perm; anh trốn, song lại bị bắt, bị giam bảy tháng rồi bị đày đến Arkhagen. Vì anh từ chối không chịu thề nguyện trung thành với Sa hoàng mới lên ngôi, nên bị đày đi Irkusk. Như vậy, anh sống gần như nửa quãng đời trưởng thành trong cảnh tù đày. Tất cả những chuyện rủi ro đó không mảy may làm anh bực tức và nhụt mất nhuệ khí; trái lại nó càng làm cho ý trí của anh thêm mãnh liệt. Anh vốn là người nhanh nhẹn, ăn uống rất khỏe, lúc nào cũng hoạt bát, vui tươi, hăng hái. Không bao giờ hối tiếc về điều gì cả; không bao giờ nhìn trước quá xa, anh đem tất cả sức lực khôn khéo, kiến thức thực tế để hành động trong hiện tại. Khi tự do, anh hoạt động theo mục đích đã định, làm sao cho những người lao động, đặc biệt là nông dân, được học và doàn kết lại với nhau. Khi đi tù, anh cũng vẫn hoạt dộng cương quyết và tỏ ra thực tế trong việc tìm những biện pháp liên lạc với người của mình ở bên ngoài, và trong việc thu xếp đời sống trong tù không những cho bản thân mình mà còn cho cả anh em tù khác, sao cho được dễ chịu nhất, theo hoàn cảnh. Trước hết, anh là con người đặt xã hội lên trên, một người của công xã. Anh không cần gì cho riêng mình, chỉ được một chút cũng đủ thoả mãn rồi, nhưng anh đòi hỏi rất nhiều cho tập thể anh em trong nhóm; và anh có thể đã mất cả sức lực và tinh thần ra làm việc cho tập thể, làm cả ngày lẫn đêm, không ăn không ngủ. Vì anh là nông dân, nên anh cần cù, tinh khôn, và khéo léo trong công việc làm. Anh là người bản tính ăn uống điều độ, lễ phép một cách tự nhiên, anh chẳng những tôn trọng tình cảm của người khác mà cả những ý kiến của họ nữa. Anh còn mẹ, một bà cụ nhà quê mù chữ và hay mê tín. Nabatov chăm sóc, đỡ đần mẹ, những khi được tự do anh vẫn về thăm bà cụ. Khi ở nhà, anh chú ý đến cả những cái vặt vãnh trong đời sống của mẹ, giúp đỡ mẹ trong việc làm, lui tới chơi với các bạn bè cũ cũng con nhà nông, hút thuốc lá sừng bò và đấu quyền với họ, rồi giải thích cho họ biết họ đang bị lừa như thế nào và họ phải làm gì để thoát khỏi cảnh bị lừa dối. Khi anh nghĩ hoặc nói đến cách mạng sẽ mang lại gì cho nhân dân thì anh hình dung ngay là tầng lớp dân thường từ đó anh đã xuất thân vẫn sẽ sống trong những điều kiện gần giống như trước, chỉ khác ở chỗ là có đủ ruộng đất để cày và không còn có bọn quý tộc, quan lại nữa mà thôi. Theo anh, cách mạng không nên thay đổi những hình thức cơ bản của đời sống nhân dân, không nên phá đổ toàn bộ toà nhà, mà chỉ nên phân phối lại những gian bên trong của toà nhà cổ tráng lệ kiên cố, nguy nga mà anh rất đỗi yêu thích. Chính ở chỗ nầy, anh khác với Novotvorov và đồ đệ của anh nầy là Marken Kondratiev. Về mặt tôn giáo, Nabatov cũng là một người nông dân điển hình; anh không bao giờ nghĩ đến những vấn đề siêu hình, đến nguồn gốc của mọi nguồn gốc, đến kiếp sau nầy. Đối với anh, cũng như đối với Arago(1), Thượng đế chỉ là một giả thuyết mà anh chưa cần đến. Anh không quan tâm đến "Nguồn gốc của thế giới" và không cần biết Môidơ(2) đúng hay Darwin(3) đúng; đối với các bạn anh, đó cũng chỉ là một trò vui của trí óc như là chuyện sáng tạo ra thế giới trong sáu ngày vậy. Anh không quan tâm đến vấn đề thế giới từ đâu mà ra, chính là vì luôn luôn anh còn bận nghĩ đến vấn đề làm sao sống cho tốt hơn ngay trên cõi đời nầy. Anh cũng không bao giờ nghĩ đến kiếp sau; cũng như mọi người nông dân, anh luôn luôn có một mềm tin chắc chắn và bình tĩnh, - niềm tin nầy được thừa hưởng của ông cha, là không có gì ngừng sống trong giới thực vật và động vật mà mọi vật luôn luôn thay đổi hình dạng; tỷ dụ như phân biến thành hạt lúa, hạt lúa thành con gà, nòng nọc, thành nhái, sâu thành bướm, hạt sồi thành cây sồi; người cũng vậy, người không chết mà chỉ biến hoá đi thôi. Anh tin thế nên luôn luôn coi thường cái chết, nhìn cái chết một cách vui vẻ. Anh gan dạ chịu đựng mọi gian khổ đưa đến cái chết, nhưng anh không thích, không biết nói gì về cái chết. Anh ưa thích làm việc, bao giờ cũng bận làm một công việc thực tế, và anh thúc đẩy bạn bè đi vào hướng đó. Người tù chính trị kia là Marken Kondratiev, cũng xuất thân từ tầng lớp bình dân, nhưng tính cách khác hẳn. Mười lăm tuổi, anh đã đi làm và đã hút thuốc, uống rượu để xua tan cái cảm giác lờ mờ bị tủi nhục. Lần đầu tiên, anh cảm thấy tủi nhục là lần các trẻ trong xưởng được đến dự chia quà trong dịp lễ Giáng sinh do vợ người chủ xưởng tổ chức. Anh và các bạn anh được họ cho một cái còi một xu, một quả táo, một quả hồ đào nhuộm vàng và một quả dâu; còn quà của các con chủ thì như từ thiên đường gửi xuống, sau nầy anh biết là mỗi món quà đó đáng giá hơn năm mươi rúp. Khi anh mười hai tuổi, có một nữ đồng chí cách mạng nổi tiếng đến xưởng anh cùng làm; chị nầy nhận thấy anh có nhiều khả năng, liền đưa sách báo và tài liệu cho anh đọc, và thường nói chuyện với anh, giảng cho anh thấy rõ địa vị của anh, tại sao lại như vậy và phải làm thế nào cho nó khá hơn. Khi anh thấy rõ là có thể tự giải phóng cho mình và cho những người khác khỏi bị áp bức thì anh càng thấy tình trạng bất công đó tàn nhẫn ghê gớm hơn trước, và anh hết lòng mong muốn không những được giải phóng mà còn muốn trừng trị những kẻ đã gây ra và đang duy trì sự bất công hà khắc nầy. Người ta bảo anh muốn làm được như thế thì phải có tri thức. Anh chưa thấy rõ tri thức sẽ giúp anh thực hiện lý tưởng xã hội đó như thế nào, nhưng anh tin là tri thức đã cho anh thấy sự bất công của hoàn cảnh anh đang sống thì tri thức cũng lại sẽ sửa được sự bất công đó, vả lại, theo anh, tri thức nâng cao phẩm giá mình lên trên những người khác. Do đó, anh chừa hút thuốc, chừa uống rượu, để thì giờ vào việc học và, nhân được chuyển sang thành thủ kho, anh lại càng có nhiều thì giờ hơn để học. Nữ đồng chí cách mạng dạy anh học phải lấy làm ngạc nhiên khi thấy anh có năng khịếu đặc biệt tiếp thu tất cả mọi kiến thức. Trong hai năm học, anh đã nắm vững đại số, hình học và lịch sử (anh đặc biệt thích môn nầy) và anh đọc qua một lượt tất cả các sách văn nghệ và phê bình văn học, đặc biệt là các tác phẩm có tính chất xã hội. Nữ đồng chí cách mạng bị bắt, và anh cũng bị bắt vì người ta khám thấy có sách cấm ở trong nhà anh. Hai người bị bỏ tù rồi bị đày đến tỉnh Volgorod. Đến đây, Kondratiev gặp Novotvorov, lại được đọc nhiều sách cách mạng nữa, anh nhớ tất cả, và chính kiến xã hội chủ nghĩa của anh lại càng được củng cố thêm. Sau khi đi đày về, anh lãnh đạo một cuộc bãi công lớn. Kết thúc bằng việc phá xưởng và giết chết người giám đốc. Anh lại bị bắt, bị tước quyền công dân và bị đi đày. Đối với tôn giáo, anh cũng không thừa nhận như đối với cơ cấu kinh tế hiện hành. Khi thấy được rằng lòng tin đạo của mình trước kia, hồi còn nhỏ, là ngu xuẩn, anh đã rũ bỏ được niềm tin đó - lúc đầu có sợ hãi thật, nhưng về sau lại thấy vui thích. Và để trả thù cho bản thân mình và cả ông cha mình đã bị lừa bịp, anh không ngớt bài xích chế giễu một cách cay độc bọn cha cố và các tín điều. Anh quen sống khổ hạnh và chi dùng rất ít: cũng như những người quen lao động từ tấm bé; anh có thân hình vạm vỡ; những công việc bằng chân tay, anh làm được nhiều, nhanh và khéo, nhưng anh rất quý những phút rảnh rang ở trong tù hay ở trạm nghỉ để tiếp tục học. Hiện nay anh đang nghiên cứu cuốn đầu của Marx, anh giấu cuốn sách cẩn thận trong bọc, coi như một vật rất quý. Đối với các bạn bè, anh tỏ ra dè dặt, lạnh nhạt, không vồn vã thân mật. Chỉ riêng có Novotvorov là anh gần gũi thân thiết; anh coi bất cứ ý kiến gì của Novotvorov về bất cứ vấn đề nào, cũng đều là những chân lý không thể bác đi được. Anh cho là phụ nữ làm cản trở mọi hoạt động có ích nên anh rất khinh họ. Nhưng anh lại thương Maxlova và đối xử tử tế với nàng vì anh cho nàng là một điển hình của con người giai cấp dưới bị tầng lớp trên bóc lột. Cũng vì thế anh ghét Nekhliudov, ít khi nói chuyện với chàng, và không bao giờ bắt tay chàng; khi gặp nhau, Nekhliudov có đưa tay bắt, anh chỉ miễn cưỡng đưa tay ra để chàng nắm mà thôi. Chú thích: (1) Arago: một nhà thiên văn học và vật lý học người Pháp (1786-1853). Khi Laplace, một nhà toán học và thiên văn học có tiếng người Pháp (1749-1827) đem cuốn "Cơ học thiên thể" (Mécanique Céleste) của mình tặng Napoleon, Napoleon nói: "Thưa tiên sinh, tôi nghe nói tiên sinh sáng tác được bộ sách lớn nầy nói về hệ thống vũ trụ, vậy mà trong sách không có lấy một câu nói đến đấng sáng tạo ra vũ trụ?". Laplace bèn trả lời: "Thưa ngài, tôi không cần đến giải thuyết đó làm gì". Câu nói nầy, người đời sau cứ gán lầm cho Arago, không thấy rằng Arago lúc đó hãy còn nhỏ. (Theo bản dịch Hoa văn). (2) Môixe: một nhân vật kiệt xuất trong Cựu ước, đã được Chúa trời truyền dạy cho người điều luật ở trên núi Xinai bèn làm ra bộ "Thánh luật thập điều" (Décalogue) (N.D)… (3) Darwin: nhà sinh vật học duy nhất trứ danh người Anh (1809-1882) đã giải thích lịch sử giới tự nhiên, phản đối quan niệm tôn giáo, chứng minh người là do giống vượn người biến thành. Ông đã viết cuốn "Nguồn gốc muôn loài" Chương 114 Lửa đã bốc cháy và lò đã ấm. Chè đã pha và rót vào các chén, cốc, lại thêm có sữa. Trên khăn bàn bày bánh mì mới, trứng luộc, bơ, thịt thủ và chân giò. Mọi người xúm quanh chỗ phản dùng làm bàn, ăn uống và trò chuyện. Ranxeva ngồi lên một cái hòm rồi rót trà. Những người khác đứng vây quanh chị, trừ Krinxov; anh đã cởi cái áo ngoài ướt, quấn người vào cái chăn khô, nằm nguyên chỗ của mình và nói chuyện với Nekhliudov. Sau khi bị ướt và lạnh ở dọc đường, sau khi đã cất công dọn dẹp gòn gàng sạch sẽ ở một nơi khi mới đến còn bẩn thỉu bộn bề, sau khi đã ăn và uống chê nóng, tất cả mọi người đều thấy vui vẻ và sảng khoái. Tiếng tù thường phạm giậm chân, kêu la, chửi tục ở xà lim bên cạnh lọt qua tường nhắc nhở họ nhớ đến cảnh xung quanh lại càng tăng thêm cái cảm giác ấm cúng ở đây. Như ở trên một hòn đảo giữa biển khơi, họ cảm thấy mình không bị dập vùi trong những nỗi nhục nhã, đau khổ đang vây quanh lấy họ, và vì vậy họ càng thêm phấn khởi say sưa. Họ nói với nhau về đủ mọi thứ chuyện, chỉ trừ có hoàn cảnh trước mắt và bước đường đang chờ đợi họ. Ngoài ra, các điều xưa nay vẫn thường xảy ra giữa thanh niên nam nữ, nhất là trong hoàn cảnh bó buộc phải sống với nhau như những người nầy, là giữa họ đã nẩy ra đủ thứ xu hướng đồng tình hoặc khác ý kiến nhau, cùng những lôi cuốn thu hút xen lẫn nhau. Hầu hết họ đều có chuyện yêu đương: Novotvorov yêu Grabet, một cô gái xinh xắn hay cười. Cô ta còn trẻ, nông nổi, đã có đi học, vốn không hề ảnh hưởng của thời đại nên đã dính lýu vào một chuyện nào đó và bị án đi đày. Nếu hồi còn tự do, cái thú chủ yếu của đời cô ta là thành công với nam giới thì khi bị thẩm vấn, khi ngồi tù và khi đi đầy cô cũng vẫn thế. Hiện giờ, trên đường đi đày, cô ta vẫn thích thú là được Novotvorov tơ tưởng đến, còn cô thì cũng yêu Novotvorov. Vera Efemovna cũng yêu tha thiết mà không khiến được người khác yêu mình, mặc dầu vẫn luôn luôn hy vọng là sẽ được yêu trả lại, cô ta khi thì thấy yêu Nabatov, lúc lại thấy yêu Novotvorov. Còn Krinxov cảm thấy đối với Maria Paplovna có một cái gì giống như tình yêu. Anh yêu Maria với mối tình của một người đàn ông, nhưng vì đã biết những ý nghĩ của nàng về ái tình, nên anh khéo giấu tình cảm của mình dưới hình thức tình bạn và lòng cảm kích trước sự săn sóc đặc biệt trìu mến của nàng. Còn giữa Nabatov và Ranxeva thì quan hệ yêu đương rất phức tạp. Cũng như Maria Paplovna là một cô gái trinh bạch, Ranxeva đối với chồng cũng là một người phụ nữ tiết hạnh. Hồi là một nữ sinh mười sáu tuổi nàng yêu Ranxev, một sinh viên trường Đại học Petersburg và sau, lấy anh, khi anh còn đang học; lúc đó nàng mới mười chín tuổi. Học đến năm thứ tư, chồng nàng tham gia vào hoạt động của sinh viên, rồi phải rời Petersburg đi làm cách mạng. Lúc đó, nàng đang học trường Thuốc cũng bỏ học đi theo chồng và tham gia cách mạng. Nếu nàng không coi chồng là một người thông minh tài trí nhất đời, một người tốt nhất, thì đã không yêu anh, và nếu không yêu thì đã không lấy. Nhưng đã yêu và đã lấy anh là một người đàn ông mà nàng cho là tốt nhất, là thông minh tài trí nhất đời, người đó quan niệm về cuộc đời và mục đích cuộc đời thế nào, thì nàng cũng quan niệm như thế. Mới đầu, anh cho mục đích cuộc sống là học, thì nàng cũng cho học là mục đích của cuộc sống. Khi anh hoạt động cách mạng thì nàng cũng đi theo cách mạng. Nàng có thể giải thích một cách rất rõ ràng là: không thể để duy trì cái chế độ hiện hành được và trách nhiệm của mọi người là phải đấu tranh chống lại chế độ đó phải đem sức ra xây dựng một chế độ chính tn và kinh tế khác, trong đó khả năng con người được phát triển tự do, v.v… Và nàng dường như tự mình nghĩ ra những ý kiến đó và cảm thấy thế, nhưng kỳ thực chỉ coi những ý nghĩ của chồng như những chân lý tuyệt đối và nàng chỉ tìm cách hoàn toàn nhất trí với chồng cho thật ý hợp tâm đầu với nhau; đó là điều kiện làm cho nàng thỏa mãn về mặt tinh thần. Phải xa chồng, xa con (mẹ nàng trông nom hộ đứa con) nàng rất đau khổ, nhưng nàng vẫn kiên quyết và bình thản chịu nỗi chia ly; nàng biết rằng nàng chịu đựng như vậy là vì chồng, vì sự nghiệp của chồng. Sự nghiệp đó tất nhiên là vì chính nghĩa vì chồng nàng phục vụ nó. Nàng luôn luôn nghĩ đến chồng và cũng như trước kia, nàng không yêu ai khác, bây giờ đây cũng vậy, nàng không thể yêu một người nào khác, ngoài chồng nàng ra. Nhưng tình yêu thành thực và trong trắng của Nabatov làm nàng cảm động và cũng nao lòng. Nabatov là người có đạo đức tính tình kiên nghị và là bạn của chồng nàng; anh cố gắng chỉ coi nàng như một cô em gái, nhưng trong cách đối xử với nàng vẫn lộ ra cái gì khác hơn và cái khác hơn đó làm hai người cùng sợ hãi, nhưng đồng thời cũng tô điểm cho cuộc đời gian lao của họ. Thành ra trong nhóm chỉ có Maria Paplovna và Kondratiev là không dính dáng gì đến chuyện yêu đương. Chương 115 Đợi mọi người ăn cơm uống nước xong để được nói chuyện riêng với Katiusa như mọi bận, Nekhliudov ngồi nói chuyện với Krinxov. Trong những câu chuyện chàng kể cho Krinxov nghe có câu chuyện Maka nói với chàng và đầu đuôi câu chuyện Maka phạm tội. Krinxov chăm chú nghe, đôi mắt long lanh nhìn Nekhliudov. Đột nhiên, anh nói: "Phải, tôi thường nghĩ đấy chúng ta cùng đi bên cạnh họ, nhưng "họ" là ai? Chính là những người vì họ chúng ta đấu tranh, thế mà chẳng những chúng ta không biết họ là ai, mà không muốn biết đến họ nữa. Và tệ nhất là họ lại căm ghét chúng ta và nhìn chúng ta thù địch. Có kinh khủng không?" - Chẳng có gì là kinh khủng, - Novotvorov thoáng nghe câu chuyện, chêm vào. - Quẩn chúng thì bao giờ cũng chỉ tôn sùng uy quyền thôi, - tiếng anh nói sang sảng. - Bây giờ thì chính phủ có quyền, nên họ tôn sùng chính phủ và ghét chúng ta. Mai đây chúng ta nắm chính quyền thì họ lại sẽ tôn sùng chúng ta. Lúc đó bên kia tường vọng sang một tràng tiếng chửi rủa, có tiếng xích loảng xoảng, tiếng xô đẩy đập huỳnh huỵch vào tường rồi tiếng người kêu la. Có người nào đó bị đánh và có tiếng kêu: "Cứu tôi với!". - Đó lũ súc vật! Chúng ta với họ chung đụng thể nào được? - Novotvorov bình thản nói. - Anh bảo họ là súc vật thế mà ông Nekhliudov đây vừa kể cho tôi nghe một việc như thế nầy đây, - Krinxov bực tức trả lời, và anh kể lại chuyện Maka đã mạo hiểm không sợ hy sinh tính mệnh để cứu người đồng hương như thế nào. - Hành động ấy đâu phải là hành động của một con vật mà là một hành động anh hùng. - "Tình cảm chủ nghĩa!" Novotvorov trả lời mỉa mai. - Chúng ta khó mà hiểu được những cảm xúc của những con người đó và động cơ hành động của họ. Anh cho đó là do lòng cao thượng, nhưng có thể đó chỉ là lòng đố kỵ với người tù khổ sai kia thôi. - Tại sao anh không bao giờ muốn nhìn thấy cái hay ở người khác? - Maria Paplovna bỗng nổi nóng lên nói (nàng gọi ai cũng bằng anh, chị). - Nhìn thấy sao được những cái vốn dĩ không có. - Sao lại không có? Thế người kia không liều mình, bất chấp cả cái chết thảm khốc đấy a? - Tôi nghĩ rằng, - Novotvorov lại nói, - nếu chúng ta muốn hoàn thành tốt công việc, thì điều kiện thứ nhất là (Kondratiev đương đọc sách dưới ánh đèn, lúc nầy bỏ sách xuống chăm chú nghe những lời nói của thầy) chúng ta đừng có tưởng tượng hão huyền, mà phải nhìn thẳng vào thực chất của sự việc. Chúng ta phải mang hết sức ra làm việc cho quần chúng và không mong gì họ đền đáp lại. Quần chúng chỉ là đối tượng hoạt động của chúng ta chứ không thể cộng sự với chúng ta được chừng nào mà họ còn cứ ỳ ra đấy như hiện nay, - rồi anh tiếp tục nói như giảng bài. - Cho nên nếu ta trông vào sự giúp đỡ của họ khi họ chưa kinh qua một quá trình phát triển - cái quá trình mà hiện nay ta đương chuẩn bị cho họ - thì thật là ảo tưởng: - Quá trình phát triển nào? - Krinxov đỏ mặt lên nói. - Chúng ta miệng nói là phản đối độc đoán và chuyên chế, nhưng thử hỏi đó có phải là một thứ chuyên chế ghê tởm nhất không. - Chẳng có chuyên chế gì hết. Tôi chỉ nói là tôi biết con đường quần chúng phải đi qua, và tôi có thể chỉ cho họ thấy, - Novotvorov bình tĩnh trả lời. - Nhưng làm thế nào mà anh tin chắc con đường anh chỉ cho họ là con đường đúng? Phải chăng tổ chức Tài phán của Giáo hội(1) và những án tử hình của cuộc Đại cách mạng(2) lại không phải là con đẻ của chuyên chế. - Thế mà họ cũng dựa vào khoa học để biết được con đường duy nhất đúng đấy. Họ lầm không có nghĩa là tôi cũng lầm. Vả lại giữa những mộng ước viển vông của các nhà tư tưởng và những sự kiện có cơ sở vững chắc của khoa học kinh tế khác nhau nhiều lắm. Tiếng nói của Novotvorov sang sảng trong buồng, một mình anh ta tiếp tục nói, những người khác đều im lặng. - Lúc nào họ cũng tranh luận, - Maria Paplovna nói khi Novotvorov ngừng một phút. - Thế còn chị, chị nghĩ thế nào - Nekhliudov hỏi Maria. - Tôi nghĩ anh Anatoli (tức Krinxov) đúng, chúng ta không nên bắt quần chúng phải nhìn theo quan điểm của chúng ta. - Còn cô, Katiusa, cô nghĩ thế nào? - Nekhliudov mỉm cười hỏi Maxlova, và đợi trả lời, trong bụng sợ nàng nói câu gì hớ. - Tôi nghĩ là quần chúng bị lăng nhục, - nàng nói, mặt đỏ bừng, - tôi cho là người dân thường bị lăng nhục nhiều quá. - Mikhailovna nói đúng, rất đúng, - Nabatov nói to - Dân chúng bị lăng nhục hết sức và nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho họ không còn bị lăng nhục nữa. - Thật là một ý kiến lạ lùng về nhiệm vụ của cách mạng, - Novotvorov nói, vẻ bực tức, và lặng lẽ hút thuốc. - Tôi không thể nói chuyện với hắn được. - Krinxov lẩm bẩm, rồi anh im lặng. - Và tốt hơn hết là đừng nói, - Nekhliudov nói tiếp. Chú thích: (1) Tên chỉ các toà án do Giáo hội thành lập ở một số nước châu Âu thời trung cổ và cả thời cận đại để điều tra, truy nã, trừng trị một cách hết sức tàn nhẫn những người dị giáo. Tổ chức nầy đã vi phạm trắng trợn quyền tự do tín ngưỡng (N.D). (2) Ý muốn chỉ cuộc cách mạng Pháp 1789 (N.D). Chương 116 Tuy tất cả những người làm cách mạng đều rất trọng Novotvrov và tuy anh là người học rộng biết nhiều, Nekhliudov vẫn liệt anh ta vào loại những người cách mạng so với những người cách mạng ở dưới mức trung bình, về mặt đạo đức thì còn hết sức thấp hơn. Khả năng trí tuệ của con người nầy con tử số trong một phân số - thì lớn đấy; nhưng quan niệm của anh ta về bản thân mình - con mẫu số - lại vô cùng lớn hơn, và từ lâu vượt quá xa những khả năng trí tuệ của anh về mặt tinh thần anh ta hoàn toàn trái ngược với Ximonxon. Ximonxon thuộc loại người có tính cách đàn ông là chủ yếu, hành động của họ xuốt phát từ lý trí, và do lý trí quyết định. Trái lại, Novotvorov thuộc về loại người có tính cách đàn bà, hoạt động lý trí của họ một phần nhằm đạt được những mục đích do tình cảm đề ra, một phần để biện bạch cho những hành động làm theo tình cảm. Tuy Novotvorov có thể giải thích toàn bộ hoạt động cách mạng của anh ta bằng những lý lẽ hùng hồn làm cho người khác phải tin, nhưng đối với Nekhliudov thì cái gốc của những hoạt động đó chỉ là lòng hiếu thắng, lòng ham muốn địa vị hơn người. Hồi còn đi học, cái tài thâu nhận tư tưởng của người khác và truyền đạt nó lại được rõ ràng, trong giới học sinh và giáo viên ở các trường trung học, cao đẳng, đại học - là những nơi mà cái tài nầy được đánh giá cao - đã giúp anh ta chiếm được địa vị hơn người và anh ta đã mãn nguyện. Nhưng đến khi anh ta học xong và tất nghiệp rồi, cái địa vị cao đó không còn nữa, thì - theo như lời Krinxov là người không ưa anh kể lại thốt nhiên, anh ta thay: đổi hẳn quan niệm để lại chiếm một địa vị cao trong một giới khác, và từ một phần tử ôn hoà của phái tự do, anh ta trở thành một phần tử tích cực một đảng viên đảng Ý Dân. Vì trong bản chất anh ta thiếu những phẩm chất đạo dức và thẩm mỹ khiến con người biết phân vân, do dự, nên anh ta chiếm ngay được một địa vị trong giới cách mạng, thật thoả lòng tự ái: địa vị một lãnh tụ đảng. Một khi đã chọn một hướng đi nào, ạnh ta không bao giờ nghi ngờ, do dự và do đó tin chắc là mình không bao giờ lầm. Mọi việc đối với anh ta đều rất đỗi đơn giản, sáng sủa, chắc chắn. Dưới nhỡn quan hẹp hỏi, phiến diện của anh ta, cái gì cũng hết sức đơn giản, sáng sủa, và như anh ta vẫn nói, chỉ cần sao cho cô lô-gích là được. Tính tự tin trong anh ta lớn đến mức mà người khác phải hoặc chán ghét, hoặc phục tùng anh ta. Vì hoạt động với những người còn non trẻ thường nhận lầm lòng tự tin vô hạn đó là thâm thuý và lịch duyệt, do đó đa số nghe theo anh ta, nên trong giới cách mạng, anh ta rất thành công. Hoạt động của anh ta nhằm chuẩn bị một cuộc bạo động để cướp chính quyền và triệu tập một hội nghị. Anh ta sẽ trình bày trước hội nghị một cương lĩnh do anh ta thảo ra, mà anh ta tin là sẽ giải quyết được mọi vấn đề và thế nào nó cũng phải được thực hiện. Anh ta được các đồng chí của mình kính trọng vì can đảm và cương quyết, nhưng không được ai mến. Mà anh ta cũng chẳng mến ai hết; anh ta coi tất cả những người tài năng xuất chúng là thù địch; nếu có thể làm được, anh ta sẽ thẳng tay đối xử với họ như con khỉ đực già đối xử với lũ khỉ con. Anh ta chỉ cư xử tốt với những người bái phục anh ta: Trong chuyến đi nầy, anh ta chỉ tốt với Kondratiev là người chịu ảnh hưởng tuyên truyền của anh, với Vera Efemovna và với cô Grabet xinh xắn (cả hai người nầy đều yêu anh ta). Tuy về nguyên tắc anh ta tán thành phong trào phụ nữ, nhưng trong thâm tâm, anh ta cho tất cả phụ nữ đều ngu xuẩn và không có giá trị gì, chỉ trừ những người mà anh ta yêu - như hiện nay anh ta đang yêu Grabet. Những người phụ nữ nầy được anh ta coi là những người đặc biệt, phẩm chất tốt đẹp của họ chỉ riêng anh ta mới nhận ra được mà thôi. Về vấn đề quan hệ luyến ái nam nữ, cũng như mọi vấn đề khác, anh ta thấy rất giản dị, rõ ràng, hoàn toàn giải quyết bằng tự do yêu đương. Anh ta có một người vợ không chính thức và một người vợ chính thức, nhưng cũng đã bỏ người nầy sau khi xác định là giữa hai người không có tình yêu chân thực. Bây giờ anh ta lại có ý định lại tự do kết hôn với Grabet. Novotvorov khinh Nekhliudov vì, theo anh ta nói chàng "làm mẽ" với Maxlova, và nhất là vì Nekhliudov lại dám lưu tâm đến những khuyết điểm của chế độ hiện hành và đề ra những phương sách sửa chữa những khuyết điểm đó không giống của anh ta, mà lại theo một lối riêng của mình, theo lối "ông hoàng", nghĩa là theo lối ngu xuẩn. Nekhliudov biết rõ ý nghĩ của Novotvorov đối với mình. Chàng lấy làm buồn và mặc dầu mình rất có thiện ý trong chuyến đi nầy, mà vẫn phải trả miếng lại con người ấy. Chàng không sao trấn át nổi mối ác cảm sâu sắc đối với anh ta. Chương 117 Từ buồng bên cạnh vọng sang tiếng nói của bọn cai đội gác ngục. Tất cả mọi người đều im lặng, một viên quản bước vào, có hai người lính đi theo. Đã đến giờ điểm danh: Viên quản đếm, lấy ngón tay chỉ từng người, đến Nekhliudov hắn nói một cách thân mật, vui vẻ: - Công tước không được ở lại sau giờ điểm danh. Xin ngài ra cho. Nekhliudov hiểu câu nói đó nghĩa là gì, liền lại gần y và giúi vào tay y một tờ giấy bạc ba "rúp" đã chuẩn bị sẵn. - Ôi biết làm thế nào được, nể ngài quá. Thôi ngài cứ nán lại một chút nữa vậy. Viên quản sắp ra thì có một viên đội vào, một người tù theo sau, người tù nầy cao gầy, râu thưa, dưới mắt có một vệt tím bầm. - Tôi lại vì có cháu bé ở đây - người tù đó nói. - A! Bố đến rồi! - Giọng một đứa trẻ vang lên và một cái đầu tóc vàng óng nhô lên từ sau lưng Ranxeva. Chị nầy đang cùng Katiusa và Maria Paplovna phá một cái váy cũ của mình để may cho con bé một cái áo mới. - Con ơi? Bố đây, - Buzovkin âu yếm nói với con. - Cháu nó ở đây tốt lắm, - Maria Paplovna nói, nhìn mặt Buzovkin thâm tím, thấy thương hại. - Anh cứ để cháu nó ở đây. - Các bà may cho con áo mới, - đứa trẻ nói và chỉ vào cái Ranxeva đang may cho nó. - áo đẹ-ep, đẹ-ep, - đứa trẻ tiếp tục thỏ thẻ nói. - Cháu có thích ngủ đây với các cô không? - Ranxeva hỏi và vuốt ve đứa trẻ. - Có, và cả bố cháu nữa. Ranxeva mỉm cười, nét mặt tươi vui lên. - Không, bố cháu thì không được. - Và quay sang bố đứa trẻ, nàng nói. - Thôi bác để cháu ở đây. - Ừ anh có thể để nó ở đây được, - viên quản dừng lại ở ngưỡng cửa nói rồi cùng viên đội đi ra. Họ vừa đi khỏi thì Nabatov lại gần Buzovkin vỗ vai anh ta và nói: - Nầy ông bạn, có phải ở bên cạnh các anh thằng Karmanov nó muốn đánh tráo phải không? Khuôn mặt Buzovkin hiền lành, tươi tỉnh bỗng xịu lải và hình như mắt anh ta mờ đi. - - Không… chúng tôi không nghe thấy nói… không chắc chắn… - anh ta trả lời chậm rãi, đôi mắt buồn; anh ta nói thêm: - Acxiuka, con ở đây với các bà, con nhé! - Rồi vội vã ra đi. - Anh nầy biết rõ cả. Như thế là việc đánh tráo là có thật, - Nabatov nói. - Bây giờ ông định sẽ làm gì? - Đến thị trấn tới tôi sẽ nói chuyện với nhà chức trách. - Tôi biết mặt cả hai người, - Nekhliudov nói. Mọi người đều im lặng, sợ lại bắt đầu nổ ra tranh luận. Từ nãy, Ximonxon vẫn nằm dài trên góc phản, im lặng không nói gì, hai tay gấp lại gối dưới gáy, lúc nầy đứng dậy, dáng quả quyết, cẩn thận đi vòng sau những người đương ngồi, tiến lại gần bên Nekhliudov. - Anh có thể nghe tôi nói chuyện bây giờ được không? - Được lắm chứ, - Nekhliudov đứng dậy và đi theo anh. Katiusa ngước mắt nhìn lên, ngạc nhiên và khi gặp mắt của Nekhliudov, nàng đỏ mặt và lắc đầu như có điều gì băn khoăn. - Điều tôi muốn nói với anh là thế nầy, - Ximonxon bắt đầu nói khi hai người ra tới ngoài hành lang. Ở đấy, tiếng nói ồn ào gào thét của những người tù thường phạm nghe đặc biệt rõ. Nekhliudov nhăn mặt, nhưng Ximonxon hình như không lấy thế làm khó chịu. Anh nói, đôi mắt hiền từ chăm chú nhìn thẳng vào mặt Nekhliudov. - Tôi biết mối quan hệ của anh với Katiusa Maxlova, tôi tự coi là có nhiệm vụ… - anh phải ngừng vì có tiếng hai người cãi nhau cùng hét lên một lúc ngay sát chỗ cạnh cửa: - Đồ ngu! Tao đã bảo không phải của tao, - tiếng một người gào lên. - Đồ quỷ! Chết mẹ mày đi! - một người khác quát, giọng khàn khàn. Lúc đó Maria Paplovna ra ngoài hành lang. - Nói chuyện ở đây thế nào được! - Nàng nói - Vào trong nầy, trong đó chỉ có một mình Vera thôi. Rồi nàng đi trước về cái cửa thứ hai, vào gian xà lim nhỏ bé vốn dành làm phòng giam riêng một người; bây giờ dùng tạm làm phòng giam tù chính trị nữ. Vera nằm trên giường, chùm chăn kín đầu. - Chị ấy nhức đầu và ngủ rồi, không nghe thấy chuyện các anh đâu, tôi cũng đi ra đây, - Maria Paplovna nói. - Không sao, chị cứ ở lại, - Ximonxon nói, - tôi không có gì phải giấu ai, và đối với chị thì lại chẳng có gì để gỉấu giếm. - Vâng, - Maria Paplovna nói và cứ nhích người như một đứa trẻ, để ngồi xa dần vào phía trong tấm phản. Rồi nàng ngồi yên lặng nghe, đôi mắt đẹp, hiền từ đắm chìm vào trong một khoảng xa xăm. - Vấn đề tôi muốn nói là thế nầy, - Ximonxon nhắc lại tôi có biết quan hệ của anh với Katiusa Maxlova, nên tôi thấy tôi phải nói để anh biết rõ mối quan hệ của tôi với cô ấy! Nekhliudov bất giác thấy lốỉ nói giản dị và thẳng thắn của Ximonxon rất đáng yêu. Chàng hỏi: - Anh nói thế nghĩa là thế nào. - Tôi muốn nói là tôi định lấy Katiusa Maxlova. - Ồ lạ thật đấy? - Maria Paplovna nói và nhìn Ximonxon. - Và tôi nhất định lấy cô ấy làm vợ, - Ximonxon nói. - Cái đó tôi có quyền gì? Ưng hay không là tuỳ ở cô ấy chứ? - Nekhliudov nói. - Đúng, những không có ý kiến của anh, cô ấy còn do dự không quyết định được. - Tại sao? - Vì một khi quan hệ giữa anh và cô ấy chưa được giải quyết dứt khoát thì cô ấy không thể quyết định được như thế nào cả. Về phần tôi thì đã quyết định từ lâu rồi. Tôi muốn làm cái điều mà tôi tự coi là phận sự của mình phải làm, là làm cho đời cô ấy đỡ vất vả, không bao giờ tôi muốn ràng buộc cô ấy. - Đúng, nhưng cô ấy không muốn anh phải hy sinh cho cô ấy. - Có hy sinh gì đâu. - Nhưng tôi biết cô ấy đã kiên quyết như vậy đấy… - Ủa, như thế thì việc gì phải nói với tôi. - Nekhliudov nói. - Cô ấy muốn rằng anh cũng đồng ý như thế. - Làm thế nào lại đồng ý được là tôi không được làm cái việc mà tôi coi là phận sự của mình? Về vấn đề nầy tôi chỉ có thể nói thế nầy: tôi thì không được tự do làm như ý tôi muốn, còn cô ấy thì được tự do làm theo ý mình. Ximonxon im lặng, trầm ngâm. Nghĩ một lát, anh nói tiếp: - Thế thì hay quá, tôi sẽ nói với cô ấy điều nầy. Anh đừng tưởng tôi phải lòng cô ấy. Tôi yêu cô ấy như yêu một con người hoàn hảo. - hiếm có trên đời, một người đã đau khổ nhiều. Tôi không chờ mong gì ở cô ấy cả. Trong thâm tâm, tôi chỉ tha thiết ước mong giúp đỡ, làm cho cuộc đời của cô ấy bớt đau khổ. Nekhliudov không khỏi lấy làm lạ khi thấy Ximonxon nói giọng run run. - Làm cho cuộc đời cô ấy bớt đau khổ, - Ximonxon nói tiếp - Nếu cô ta không muốn nhận sự giúp đỡ của anh thì để cô ấy nhận sự giúp đỡ của tôi. Nếu cô ấy đồng ý, tôi sẽ xin chuyển đến ở cùng chỗ với cô ấy. Bốn năm cũng không lâu gì cho lắm. Tôi sẽ sống gần cô ấy và có lẽ có thể làm cho cuộc đời cô ấy đỡ khổ. - Nói đến đây, anh ngừng lại, cảm động quá không thể nói tiếp. - Tôi không biết nói gì được nữa? - Nekhliudov nói. - Tôi rất sung sướng là đã thấy cô ấy có được một người như anh che chở cho. - Đó là điều tôi muốn biết, - Ximonxon ngắt lời. - Tôi muốn biết là nếu anh yêu cô ấy, mong cô ấy sống một đời hạnh phúc thì anh có thấy cô ấy lấy tôi là tốt không? - Ồ có chứ. - Nekhliudov trả lời dứt khoát. - Tất cả là tuỳ ở cô ta. Tôi chỉ mong cái tâm hồn đau khổ ê chề ấy có thể được thư thái mà thôi, - Ximonxon nói và nhìn Nekhliudov với vẻ âu yếm hồn nhiên không ai có thể ngờ tới có được ở một người bề ngoài có vẻ âm thầm như thế. Anh đứng lên, nắm tay Nekhliudov, áp sát lại gần mặt Nekhliudov, mỉm cười thẹn thò rồi hôn chàng. - Được tôi sẽ kể lại cho cô ấy như thế, - anh nói rồi đi ra. Chương 118 - Chuyện ấy anh nghĩ thế nào? - Maria Paplovna nói - Yêu mê mẩn, yêu quá? Thật là một điều tôi không ngờ, không ngờ là Vladimir Ximonxon cũng yêu, mà lại yêu một cách ngốc nghếch nhất và trẻ con nhất? Thật là lạ, nói thực ra, nghĩ cũng buồn. - Và nàng thở dài. - Nhưng còn Katiusa? Chị xem việc nầy cô ấy nghĩ thế nào? – Nekhliudov hỏi. - Cô ấy ư! Maria ngừng nói, rõ ràng tỏ ý muốn trả lời cho thật chính xác. - Cô ấy thì… thì anh biết đấy, tuy quá khứ như thế, nhưng là một người có phẩm chất đạo đức rất tốt, và tình cảm rất tế nhị. Cô ấy yêu anh chân thành và lấy làm sung sướng có thể làm cho anh một điều tốt dù là bề ngoài nó có vẻ ngược lại, để anh khỏi vướng mắc tới cô ấy. Lấy anh, đối với cô ấy là một sự sa đoạ ghê gớm, ghê gớm hơn tất cả cuộc đời trước đây, cho nên cô ấy không bao giờ ưng chuyện đó. Tuy nhiên, sự có mặt của anh làm cho cô ấy băn khoăn suy nghĩ. - Thế thì tôi phải làm gì bây giờ? Bỏ đi nơi khác cho khuất mắt chăng? Maria Paplovna mỉm cười, một nụ cười dịu dàng như của một đứa trẻ, nói: - Thế đấy, một phần nào. - Làm thế nào mà bỏ đi khuất mắt một phần nào được? - Ừ tôi nói nhảm thực? Nhưng về cô ấy, tôi phải nói với anh là có lẽ cô ấy thấy cái tình yêu bồng bột của Ximonxon là vô lý (mà Ximonxon cũng chưa hề nói gì với cô ấy cả) và cô ấy vừa thấy vinh hạnh lại vừa sợ. Anh cũng biết đấy, về chuyện yêu đương tôi không thạo lắm, nhưng tôi tin là về phần Ximonxon thì đấy cũng chỉ là thứ tình cảm hết sức bình thường của một người đàn ông, tuy có che đậy đi. Anh ta nói tình yêu đó làm cho anh ta thêm nghị lực và là mối tình thuần khiết, nhưng tôi biết thừa, dù có là tình yêu đặc biệt đi nữa, thì gốc rễ của nó vẫn… bẩn thỉu như giữa Novotvorov với Grabet mà thôi. Maria Paplovna đi lạc ra ngoài câu chuyện, sang vấn đề nàng vẫn ưa thích. - Thế chị nghĩ tôi nên làm gì bây giờ? - Nekhliudov hỏi. - Tôi nghĩ là anh nên nói hết với cô ấy. Bao giờ cũng thế, cứ rõ ràng minh bạch vẫn hơn. Anh nên nói chuyện với cô ấy. Tôi đi gọi cô ấy sang đây nhé? - Maria Paplovna nói. - Vâng, tuỳ chị! - Nekhliudov nói, và Maria Paplovna đi ra. Một cảm giác kỳ lạ đến với Nekhliudov khi chàng còn lại một mình trong gian buồng nhỏ, chỉ có Vera Efemovna đang nằm ngủ, tai chàng lắng nghe hơi thở nhẹ nhàng của chị, thỉnh thoảng xen một tiếng rên, và tiếng ồn ào không ngớt của tù thường phạm lọt qua hai lần cửa ngăn vọng tới. Những điều Ximonxon vừa nói cất nhẹ nhàng cho chàng một nhiệm vụ chàng tự đặt ra cho mình, nhiệm vụ mà những lúc mềm yếu, chàng thấy nó nặng nề và quái gở, xong giờ đây chàng lại thấy có một cái gì không những khó chịu mà còn đau đớn nữa. Chàng có cảm giác là việc Ximonxon mới đề xuất đó đã làm cho cách xử sự của chàng mất hết tính chất đặc biệt của nó, do đó nó làm giảm giá trị hành động hy sinh của chàng trước mắt bản thân chàng và mọi người khác: nếu một người tốt như vậy, không có gì ràng buộc với nàng, mà lại cũng mong muốn gắn bó với số phận nàng thì sự hy sinh của chàng có gì là lớn lao. Cũng có thể là có cả chút ghen tuông thường tình: chàng quá quen được nàng yêu, nên giờ đây không muốn thừa nhận là nàng có thể yêu được một người nào khác. Và như vậy, cả cái kế hoạch chàng định sống gần nàng trong thời gian nàng ở tù cũng bị phá vỡ. Nếu nàng lấy Ximonxon thì sự có mặt của chàng cũng không cần thiết nữa và chàng phải xây dựng một kế hoạch sống khác. Chàng chưa phân tích được hết những tình cảm của mình thì tiếng ồn ào bên đám tù thường phạm (hôm nay họ có chuyện gì đặc biệt) ùa vào theo Katiusa khi cánh cửa mở. Nàng bước nhanh lại gần Nekhliudov. - Maria Paplovna bảo tôi tới, - nàng nói, dừng lại sát bên chàng. - Phải. Tôi có một câu chuyện muốn nói với cô. Cô ngồi xuống đây. Vladimir Ximonxon vừa nói chuyện với tôi. Nàng đã ngồi xuống, hai bàn tay đặt lên đầu gối, có vẻ bình tĩnh, nhưng khi Nekhliudov vừa nói đến Ximonxon thì mặt nàng đỏ ửng. - Anh ấy đã nói gì với anh? - Anh ấy nói là anh ấy muốn lấy cô. Maxlova bỗng nhiên cau lại, lộ vẻ đau đớn; nhưng không nói gì, nàng chỉ lặng lẽ cúi đầu nhìn xuống. - Anh ấy hỏi tôi cho anh ấy biết tôi có bằng lòng không hay là khuyên anh ấy nên thế nào. Tôi nói, cái đó hoàn toàn tuỳ ở cô, cô phải tự quyết định lấy. - Ồ? Thế nghĩa là thế nào? Tại sao vậy? - Nàng nói, và nhìn vào mắt chàng với một cái nhìn hiêng hiếng đặc biệt bao giờ cũng khiến chàng cảm động một cách lạ thường. Hai người ngồi im lặng nhìn nhau vài giây và cái nhìn đó có nhiều ý nghĩa với cả hai người. - Cô phải quyết định lấy, - Nekhliudov nhắc lại. - Tôi phải quyết định cái gì? Mọi việc đã được quyết định từ lâu rồi. - Không, cô phải quyết định dứt khoát là cô có nhận lời Ximonxon hay không? - Nekhliudov nói. - Tôi có thể là thứ vợ gì được, tôi, một người tù tội? - Tại sao tôi lại định làm hại cả Ximonxon? - Nàng cau mặt lại, nói. - Nhưng nếu cô được ân xá thì sao? - Nekhliudov nói. - Thôi, anh để mặc tôi. Chẳng có gì để nói nữa, - nàng đứng dậy và đi ra. |
Phục Sinh - Chương 119 - 129 (hết)
PHỤC SINH Chương 119 Khi Nekhliudov theo Katiusa trở về buồng giam tù đàn ông, anh thấy ai nấy đều đang sửng sốt. Nabatov hay đi la cà, liên hệ với mọi người và nhận xét mọi sự, vừa mới đem về một tin làm mọi người kinh dị. Số là anh ta vừa mới tìm thấy trên một bức tường, một mảnh giấy có chữ viết của nhà cách mạng Petlin, bị án khổ sai, mà mọi người đều tưởng đã đến miền Kara(1) từ lâu rồi, nhưng nay bỗng nhiên hoá ra là anh ta vừa mới qua đây, đi theo đường nầy, và là một tù chính trị duy nhất lẫn trong đám tù thường phạm. Mảnh giấy ghi: "Ngày 17 tháng tám, tôi bị giải đi một mình với tù thường phạm. Cùng bị giải đi với tôi có Nevrov, nhưng anh ta đã thắt cổ chết trong nhà giam điên ở Kazan. Tôi vẫn mạnh khỏe, tinh thần sảng khoái và hy vọng mọi sự sẽ tốt hơn". Mọi người bàn tán về hoàn cảnh của Petlin và lý do vì sao Nevrov tự tử. Chỉ có Krinxov ngồi lặng yên, vẻ tư lự đôi mắt long lanh nhìn chăm chắm phía trước mặt. - Nhà tôi nói là khi còn bị giam ở pháo đài Petropalovxkaia, Nevrov đã nhìn thấy ma, - Ranxeva nói. - Phải, anh ta là một thi sĩ, một người mơ mộng. - Những con người đó không chịu được cực hình bị giam một mình, - Novotvorov nói. - Khi tôi bị giam riêng một chỗ, tôi không bao giờ để thả lỏng trí tưởng tượng, tôi phân bố thời gian một cách có hệ thống, nên bao giờ tôi cũng chịu đựng được rất cừ. - Có gì mà không chịu được? Nhiều lần tôi bị bắt, tôi lại thấy rất vui, - Nabatov nói, giọng vui vẻ, anh ta có ý muốn làm tan cái không khí buồn tẻ của mọi người. - Trước kia sợ đủ mọi thứ: sợ bị bắt, sợ làm liên luỵ đến người khác, sợ làm hỏng công việc, đến khi bị bắt thì hết trách nhiệm, có thể nghỉ ngơi, chỉ còn ngồi đấy và hút thuốc. - Anh biết rõ anh ta phải không? - Maria Paplovna hỏi, đưa mắt lo ngại nhìn vẻ mặt bỗng nhiên biến sắc, phờ phạc của Krinxov. - Nevrov mà là con người mơ mộng ư? - Krinxov đột nhiên lên tiếng, mồm thở hổn hển như vừa mới gào to hay hát quá lâu. - Nevrov là một người ít có trên đời, như lời người canh cổng nhà tôi vẫn thường nói. Đúng… anh ta có một bản chất trong sáng như pha lê, nhìn thấu qua trông thấy rõ hết cả. Anh ta chẳng những không thể nói dối, mà ngay đến chỉ giả vờ thôi, cũng không làm được. Không phải anh ta chỉ nhạy cảm, mà còn như người ta bị lột da, có bao nhiêu dây thần kinh phơi cả ra ngoài. - Phải, bản chất anh ta phong phú, phức tạp không giống như… nhưng thôi, nói đến làm gì? - Krinxov ngừng lại, rồi cau mày, bực bội nói tiếp. - Chúng ta tranh luận về vấn đề phải giáo dục nhân dân trước rồi mới cải cách xã hội hay cải cách xã hội trước, rồi chúng ta tranh luận về cách thức đấu tranh: bằng hoà bình tuyên truyền hay bằng khủng bố! Chúng ta tranh luận, còn bọn chúng không tranh luận gì hết. Chúng nắm vững công việc của chúng rồi, chúng cần quái gì cái chuyện hàng chục, hàng trăm người bị chết, mà đâu có phải là những người thường! Trái lại cứ cho những người ưu tú nhất chết cả đi, đó là điều chúng đang mong muốn. Phải, Gerxen có nói là khi các đảng viên tháng Chạp(2) bị loại thì trình độ chung của xã hội tụt xuống sao được? Rồi sau chính Gerxen và các đồng chí của ông bị loại và nay, đến lượt những người như Nevrov… - Chúng không thể tiêu diệt hết được, - Nabatov nói, giọng vui vẻ. - Bao giờ cũng còn đủ để truyền giống lại! - Không, không còn nữa đâu, nếu chúng ta còn thương hại chúng nó, - Krinxov nói to hẳn lên và không chịu để ngắt lời. - Cho tôi điếu thuốc lá. - Ồ, Anatoli, hút thuốc có hại đấy! - Maria Paplovna nói. - Đừng hút, anh ạ. - Không, mặc tôi. - Anh cáu kỷnh nói rồi cứ châm lửa hút, nhưng bật ho ngay và ọe như muốn nôn mửa. Rồi khạc nhổ xong, anh nói tiếp. - Từ trước tới giờ, chúng ta làm không đúng. Đừng lý luận nữa mà hãy đoàn kết tất cả lại, tiêu diệt chúng nó đi Thế đấy. - Nhưng họ cũng là người, - Nekhliudov nói. - Không. Chúng không phải là người: là người thì không ai có thể làm điều như chúng đang làm… Không. Thấy nói người ta vừa chế ra một thứ bom và những quả khí cầu gì đó. Phải, ta trèo lên những chiếc khí cầu đó và dội bom xuống đầu chúng, giết chúng như giết rận ấy, cho chúng tiệt giống đi mới thôi. Phải, vì… - Anh định nói tiếp nhưng mặt anh đỏ lên và ho nhiều hơn trước; một dòng máu bắn vọt từ trong miệng ra. Nabatov chạy đi lấy ít tuyết. Maria Paplovna đem mấy giọt thuốc biệt thảo cho anh uống, nhưng anh lấy hai bàn tay gầy guộc, trắng nhợt đẩy ra, miệng anh thở hổn hển, mặt nhăn lại. Khi tuyết và nước lạnh đã làm anh dịu đi một chút, người ta đưa anh lên giường đi ngủ thì Nekhliudov chào từ biệt mọi người, cùng đi ra với viên quản vẫn đứng chờ chàng ở ngoài từ nãy. Bây giờ đám tù thường phạm đã im lặng, phần lớn đã đi ngủ. Trong phòng, người nằm trên giường, kẻ dưới gậm và cả ở lối đi nữa, nhưng vẫn không đủ chỗ, có một số phải ra hành lang nằm, đầu gối lên các bọc hành lý, trùm áo choàng ướt lên người. Tiếng ngáy, tiếng rên rỉ, tiếng nói mê lọt qua cửa để mở ra ngoài hành lang. Từng đống người mặc quần áo tù nằm ngổn ngang, chỉ còn vài người thức trong phòng dành cho những người không vợ; họ ngồi trong một góc dưới ánh một ngọn nến, khi thấy viên quản, họ tắt phụt đi; và một ông già trần truồng ngồi dưới ánh đèn ở hành lang đương lần bắt rận ở áo lót. Không khí hôi hám trong buồng tù chính trị như lại còn là trong sạch, so với không khí nồng nặc và khó thở ở đây. Ngọn đèn bốc khói lù mù như chiếu qua một màn sương mờ. Không khí thật khó thở. Khi đi dọc hành lang, nếu không muốn giẫm phải hay bị vướng vào chân người nằm thì phải nhìn cẩn thận xem chỗ nào trống mà đặt chân xuống. Có ba người, chắc là không tìm được chỗ nằm trong hành lang, phải nằm ngay lối cửa đi vào, cạnh cái thùng phân có kẽ nứt đang rỉ nước. Một người là ông già lẩn thẩn, Nekhliudov vẫn nhìn thấy ở dọc đường. Người thứ hai là một đứa con trai độ lên mười; nó nằm giữa hai người tù khác, bàn tay để dưới má, đầu ghếch lên chân một người. Khi ra khỏi cửa, Nekhliudov dừng lại hít mạnh một hơi dài cho không khí lạnh vào căng lồng ngực. Chú thích: (1) Tên một con sông nhỏ, gần đó có nhiều mỏ vàng; chính phủ Nga hoàng đã đày tù chính trị đến đó để khai thác từ 1879 đến 1890. (Theo bản dịch Pháp văn của E Beaux). (2) Chỉ nhóm cách mạng phát động cuộc khởi nghĩa quân sự nhằm lật đổ chính phủ Nga hoàng, vào tháng 12 năm 1825, lúc vua Nikolai lên ngôi. Chương 120 Bên ngoài, trời đầy sao lấp lánh. Đường đi trừ một đôi chỗ, bùn đã cứng lại. Nekhliudov trở về nhà trọ, gõ vào chiếc cửa sổ tối om. Người làm công vai rộng, chân đi đất ra mở cửa. Từ gian bên phải vọng sang tiếng ngáy ầm ầm của những người đánh xe ngựa ngủ trọ; ngoài sân, phía trước mặt, có tiếng rất nhiều ngựa nhai lúa mạch. Ở bên trái, là cửa vào một căn phòng sạch sẽ; trong phòng thoảng mùi khổ ngải lẫn mồ hôi, và đằng sau bức vách, một người phổi hẳn rất khỏe đang ngáy đều đều, nhịp nhàng; trước bàn thờ thần tượng, thắp một ngọn đến có thông phong đỏ. Nekhliudov cởi quần áo, rải đệm lên chiếc đi-văng, đặt chiếc gối da, rồi nằm duỗi dài, nghĩ lan man đến những điều đã nghe hoặc trông thấy trong ngày hôm ấy. Hình ảnh đứa trẻ gối đầu lên chân một người tù và ngủ bên vũng nước rỉ từ cái thùng phân ra, làm chàng thấy khủng khiếp hơn tất cả. Câu chuyện với Ximonxon và Katiusa tối hôm đó tuy thật là bất ngờ và quan trọng, nhưng chàng cũng không nghĩ đến nó lâu. Trong việc nầy chàng ở vào cái thế thật là éo le và không rõ ràng nên chàng bỏ qua không nghĩ đến nó nữa. Nhưng hình ảnh những con người khốn khổ nghẹt thở trong không khí ngột ngạt nằm bên vũng nước rỉ ở thùng phân ra nhất là bộ mặt ngây thơ của đứa trẻ nằm ghếch lên chân một người tù khổ sai, lại cứ luẩn quẩn trong đầu óc chàng không dứt. Một đằng chỉ biết là ở chốn xa xôi nào đó có người hành hạ những người khác, bắt người ta phải chịu mọi nỗi nhục nhằn, mọi sự hành hạ đau đớn, vô nhân đạo - và một đằng, suốt ba tháng ròng, luôn luôn nhìn thấy tận mắt các nỗi nhục nhã, các sự hành hạ đó, hai việc thật hoàn toàn khác nhau. Và Nekhliudov cảm thấy rất rõ điều đó. Trong ba tháng nay, chàng đã nhiều lần tự hỏi: "Mình có điên không, khi mình nhìn thấy những điều mà người khác không nhìn thấy; hay là họ điên khi họ làm những điều mà mình nhìn thấy đó?" Thế mà những con người ấy - họ rất đông - làm những điều mà chàng thấy thật quái gở, ghê gớm đó - lại vẫn tin tưởng rằng công việc họ làm là cần thiết, hơn nữa nó còn rất quan trọng và có ích nữa, thành ra thật khó mà nói họ điên được. Còn chàng, chàng biết là những ý nghĩ của mình sáng suốt nên cũng khó mà tin là chính mình điên. Cho nên chàng luôn ở trong một trạng thái băn khoăn. Chàng hình dung những điều chàng nhìn thấy trong ba tháng nay như thế nầy: Trong số những người trước kia sống tự do, toà án và tổ chức chính quyền đã chọn lựa những người hay cáu kỷnh nhất, nóng tính nhất, bồng bột nhất, những người có tài năng nhất nhưng lại không láu lỉnh, không khôn khéo bằng kẻ khác. Những người đó cũng chẳng có tội lỗi gì đối với xã hội, chẳng nguy hiểm gì hơn những người đang sống tự do; họ bị nhốt vào trong nhà tù, bị đưa đi đầy đi tù khổ sai, ở đó được cấp ăn mặc và hàng tháng, hàng năm, sống hoàn toàn vô công rồi nghề, xa thiên nhiên, xa gia đình, tách rời khỏi lao động tức là bị gạt hẳn ra ngoài những điều kiện thiết yếu cho một cuộc sống tự nhiên và đạo đức của con người. Đó là điều thứ nhất. Hai là, trong những nơi họ bị giam giữ, những người đó phải chịu mọi thứ nhục nhã không cần thiết; xích chân, cạo trọc đầu, vận trên mình quần áo nhuốc nhơ; nghĩa là họ bị tước mất cái động lực chủ yếu thúc đẩy con người yếu ớt sống cuộc đời lương thiện; động lực đó là sự tôn trọng dư luận, lòng biết liêm xỉ và ý thức về phẩm giá con người. Ba là, tính mệnh họ luôn luôn bị đe doạ: nào là bệnh truyền nhiễm thường xảy ra ở những nơi giam giữ, nào bị kiệt sức và bị đánh đập (không kể những trường hợp bị cảm nắng, bị chết đuối, chết cháy). Những tai hoạ ấy khiến họ luôn luôn sống trong tình trạng mà người tốt nhất, có đạo đức nhất, cũng do bản năng tự vệ mà phạm vào những hành động tàn nhẫn, hung ác nhất, đồng thời dung túng cho những kẻ khác hành động như vậy. Bốn là, những người đó buộc phải sống chung đụng với những kẻ đã bị đời sống làm cho sa đoạ (và đặc biệt bị chính những tổ chức nhà tù nầy làm cho sa đoạ), chung đụng với bọn du thủ du thực, những quân lưu manh, giết người. Bọn nầy tác động vào những người chưa bị những cách đối xử kia làm cho sa đoạ hẳn khác nào như chất men tác động vào bột bánh vậy. Năm là, bằng những thủ đoạn đó, nghĩa là bằng mọi sự ngược đãi vô nhân đạo - như hành hạ phụ nữ, trẻ con, người già; đánh đập bằng gậy gộc, roi vọt; đối với người trốn thì treo giải thưởng cho ai bắt được mang nộp, sống hay chết đều được cả; chia rẽ vợ chồng rồi ghép vợ người nọ với chồng người kia; xử bắn, treo cổ - những thủ đoạn đối đãi ấy khiến cho mọi người thấy sâu sắc rằng tất cả những hành vi tàn bạo, độc ác ấy chẳng những không bị ngăn cấm mà còn được chính phủ Nga hoàng phê chuẩn khi có lợi cho cái chính phủ đó. Như vậy thì những kẻ đã mất tự do, bị hãm vào cảnh khổ sở, khốn quẫn có làm những việc như thế nữa cũng không sao. Tất cả những tổ chức ấy dường như đã được người ta cố tình bày ra và dựng lên để gây lên tình trạng đồi bại, tội lỗi trầm trọng đến cực độ mà không có cách nào khác có thể đạt tới được để rồi truyền bá tình trạng đồi bại, tội lỗi đó lan rộng ra khắp toàn dân. "Thật đúng như người ta phải giải quyết vấn đề: bằng cách nào tốt nhất, hiệu nghiệm nhất làm cho nhiều người nhất bị sa đoạ", - Nekhliudov ngẫm nghĩ khi chàng nhìn sâu vào những sự việc đã diễn ra trong các nhà tù và ở các trạm tù nghỉ chân ở dọc đường. Hàng năm, có hàng chục vạn người bị dồn đến chỗ đồi bại nhất, và khi họ hoàn toàn sa đoạ thì họ được thả ra để cho sự sa đoạ họ đã tiêm nhiễm phải khi ở tù được lan rộng ra khắp mọi nơi. Ở các nhà tù Tiumen, Ekaterinburg, Tomxk và những trạm nghỉ dọc đường, Nekhliudov nhận thấy các mục đích mà xả hội dường như tự đặt ra đó đã được thực hiện rất là đầy đủ. Những con người thuần phác, bình thường, vốn trước kia vẫn giữ gìn lễ giáo Cơ đốc, lễ giáo nông dân, lễ giáo của đất nước Nga, nay đã rời bỏ những ý niệm đó; họ hấp thụ những ý niệm mới về đạo đức của nhà tù mà nội dung chủ yếu là dùng bất cứ hành động nào để làm nhục và hành hạ con người, kể cả giết chóc nữa, cũng đều là chính đáng, miễn là có lợi cho mình. Qua những nông nỗi bản thân đã phải chịu đựng, những người đã sống trong tù, từng thớ thịt của họ cũng thấy rõ rằng các nguyên tắc đạo đức như phải tôn trọng, thương yêu con người mà Nhà thờ và nhà trường đã dạy bảo họ, trong thực tế đều bị gạt bỏ; và như thế thì họ cũng không cần phải tuân theo những nguyên tắc đó làm gì. Sự thay đổi đó, Nekhliudov nhận thấy ở tất cả các tù nhân mà chàng quen biết: ở Fedorov, ở Maka, và cả ở Taratx, anh chàng nầy, qua hai tháng ở trong các trạm nghỉ dọc đường, đã hoá ra ăn nói tục tằn, vô lễ làm cho Nekhliudov phải kinh ngạc. Dọc đường, chàng được biết chuyện có những quân hung đồ, khi trốn vào rừng, rủ bạn đi theo để rồi giết bạn mà ăn thịt. Chàng đã được trông thấy tận mắt một đứa phạm tội ác nầy và nó đã thú nhận. Điều ghê gớm nhất là những trường hợp ăn thịt người nầy lại không phải là hiếm, mà rất thường xảy ra. Chí có dùng cách trau dồi đặc biệt cho ác tâm ác tính như ở các tổ chức nhà tù nầy, mới đưa được một người Nga đến tình trạng trở thành kẻ hung đồ như vậy, đi trước cả học thuyết mới nhất của Nietzsche (1) cho rằng bất cứ hành vi gì cũng làm được không có gì bị cấm cả, và đem học thuyết đó thoạt đầu tuyên truyền trong đám tù nhân, về sau truyền bá ra ngoài dân chúng. Chỉ có một cách giải thích duy nhất cho những việc làm kể trên là nói: để ngăn chặn tội ác để doạ nạt, để uốn nắn, sửa chữa kẻ làm bậy, để "báo thù hợp pháp" họ, như đã ghi trong sách. Nhưng thực ra kết quả không có lấy mảy may một chút nào giống như thế cả. Đã chẳng ngăn chặn được tội ác mà còn làm tội ác lan rộng thêm ra; đã chẳng doạ nạt nổi kẻ phạm tội mà còn khuyến khích chúng thêm (nhiều kẻ du thủ du thực đã tình nguyện quay lại ở tù): đã chẳng uốn nắn: sửa chữa được ai mà còn làm cho tất cả những điều nhơ nhuốc xấu xa lan truyền đi một cách có hệ thống. Còn về "báo thù hợp pháp" thì sự trừng phạt của Chính phủ chẳng những không làm giảm bớt mà còn nuôi dưỡng, trau đồi lòng muốn báo thù trước kia không có trong nhân dân. "Thế thì người ta làm như thế để làm gì?" – Nekhliudov tự hỏi và không tìm được ra câu trả lời. Lạ lùng nhất là người ta đã làm như thế không phải một lần không phải ngẫu nhiên hoặc vì lầm lẫn, mà làm một cách thường xuyên hàng bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Chỉ có khác là xưa kia thì người ta móc mũi, xẻo tai phạm nhân, rồi về sau, đóng dấu nung đỏ vào mặt, trói vào cột sắt còn bây giờ thì người ta cùm xích họ lại và dùng xe lửa, tàu thuỷ chở họ đi chứ không phải dùng xe bò như trước. Theo lời một sĩ quan lại trong chính phủ thì cái điều khiến cho chàng phẫn lộ, nguyên nhân là tại những nơi giam giữ, đầy ải chưa được tổ chức được hoàn bị; chỉ cần xây dựng được những nhà tù kiểu mới thì những khuyết điểm kia sẽ được sửa chữa. Song cách giải thích nầy không làm cho Nekhliudov thoả mãn vì chàng biết rằng chàng bất bình không phải vì những nhà giam được tổ chức hoàn thiện hay không hoàn thiện. Chàng đã đọc sách báo và biết rằng người ta đã cải thiện những nhà giam bằng những chuông điện, những máy hành hình bằng điện, theo như Tarde chủ trương; nhưng chính những thủ đoạn bạo lực hoàn thiện nầy lại càng làm cho chàng thêm phẫn nộ. Điều chủ yếu khiến cho chạng phẫn nộ là ở các toà án và các bộ có những kẻ hưởng lương cao bổng hậu, lấy tiền của nhân dân đóng góp để làm cái việc khảo cứu trong các cuốn sách do những quan chức khác như chúng biên soạn theo cùng những động cơ như chúng, sắp xếp các hành vi của những người vi phạm các đạo luật do chúng biên soạn ra để tống những người phạm pháp đi đến những nơi mà chúng không nhìn thấy họ nữa, ở đấy họ nằm hoàn toàn trong tay bọn giám ngục, cai tù, lính áp giải tàn nhẫn, độc ác, và ở đấy đã có hàng triệu người bị chết cả về linh hồn lẫn thể xác. Giờ đây, nhìn sát hơn nữa vào các nhà tù và trạm nghỉ trên đường áp giải, Nekhliudov thấy rằng tất cả những thói hư tật xấu nẩy nở trong đám tù nhân như rượu chè, cờ bạc, độc ác, cùng các tội ác ghê gớm mà họ đã làm, cho đến cả việc ăn thịt người nữa, thực chất đều không phải là những hiện tượng ngẫu nhiên, cũng không phải là những hiện tượng thoái hoá, hiện tượng "điển hình phạm tội", mà cũng không có những chuyện quái thai như các nhà bác học ngu xuẩn, bợ đỡ chính phủ giải thích. Những tội lỗi ấy chẳng qua chỉ là hậu quả tất nhiên của một sự sai lầm không thể hiểu được là: ở đời, người nầy lại có quyền trừng phạt kẻ khác. Nekhliudov thấy rằng thói ăn thịt người khởi sinh không phải ở trong rừng hoang mà là ở trong các bộ, trong các hội đồng, các nha, các vụ; rừng hoang chỉ là nơi nó kết thúc. Chàng hiểu tất cả bọn thẩm phán, quan chức - trong đó có cả người anh rể chàng - từ tên mõ toà đến viên bộ trưởng, chúng không lo nghĩ gì đến công lý, đến hạnh phúc nhân dân như chúng thường nói; chúng có lo chỉ là lo đến những đồng tiền lương chúng lĩnh để làm cái việc đẻ ra đồi bại và đau thương. Điều đó thật quá rõ ràng. "Nhưng phải chăng những việc làm đó cũng vẫn chỉ là một sự hiểu nhầm? Liệu có cách nào bảo đảm cho những viên chức kia không những có lương bổng mà còn được cả tiền thưởng nữa chỉ để họ đừng làm tất cả những việc họ đang làm không?" - Nekhliudov tự hỏi. Đang suy nghĩ như vậy thì có tiếng gà gáy lần thứ hai. Mặc dầu mỗi lần cựa mình, bọ chó lại nhẩy bật ra quanh mình như những tia nước bắn tung ở bể phun các công viên, chàng vẫn ngủ say thiếp đi được. Chú thích: (1) Nietzsche (1844-1900) triết gia duy tâm, tối phản động người Đức, công khai bênh vực những chủ trương xâm lược, bóc lột của giai cấp tư sản. Y đề cao chủ nghĩa cá nhân lên tận mây xanh, ca ngợi tàn ác bạo lực, cho rằng bọn hèn chết là đáng đời (N.D) Chương 121 Khi Nekhliudov tỉnh dậy thì các người đánh xe đã rời quán trọ từ lâu. Bà chủ quán đã uống trà xong, vừa đi vào vừa lấy khăn lau mồ hôi trên cái cổ béo trắng và nói là có một người lính đem thư từ trại giam đến. Thư của Maria Paplovna, báo tin bệnh của Krinxov không ngờ nặng quá. "Chúng tôi lúc đầu định để anh ấy ở lại đây và cùng ở lại với anh ấy, xong không được phép nên chúng tôi sẽ đưa anh ấy cùng đi; nhưng chúng tôi sợ sẽ xẩy ra điều chẳng lành. Anh cố gắng thu xếp xin cho đến thành phố sắp tới, anh ấy được nghỉ lại và một người trong bọn chúng tôi được ở lại trông nom. Nếu để được phép ở lại tôi có phải lấy anh ấy thì tôi cũng sẵn sàng". Nekhliudov nhờ anh làm công trẻ ra trạm thuê ngựa hộ rồi vội vã thu xếp hành lý. Chàng chưa uống hết chén trà thứ hai thì một chiếc xe trạm ba ngựa kéo đã đến đỗ trước cửa, nhạc leng keng, bánh xe rít vang trên bùn khô cứng như lăn trên đường đá. Nekhliudov trả tiền bà chủ quán cổ béo núc ních, vội vã lên xe và bảo người đánh xe phóng thật nhanh đuổi kịp đoàn tù. Vừa đến chỗ ra khỏi cổng bãi chăn gia súc của làng thì xe chàng đuổi kịp mấy chiếc xe chở tù ốm và hành lý. Những cỗ xe nầy đang chạy rầm rầm trên mặt bùn khô đã bắt đầu mịn mặt. Viên sĩ quan không có đấy, hắn đi lên đầu. Bọn lính đi theo sau, dọc hai bên lề đường, chắc chúng vừa uống rượu xong, nên trò chuyện vui vẻ lắm. Đoàn xe khá đông: ở những xe đi đầu, mỗi xe chất sáu người thường phạm ốm, ngồi sát nhau; ở mỗi xe cuối có ba tù chính trị. Trên xe cuối cùng có Novotvorov, Grabet và Kondratiev. Trên xe trước liền đó có Ranxeva, Nabatov và một người tù nữ yếu, bị tê thấp, được Maria Paplovna nhường chỗ cho. Còn ở xe thứ ba, có Krinxov nằm trên cỏ khô với mấy chiếc gối. Maria ngồi bên cạnh, lưng dựa vào thành xe. Nekhliudov bảo người đánh xe dừng lại kề bên, chàng xuống xe và lại gần Krinxov. Một người lính say lấy tay xua xua, muốn cản Nekhliudov, nhưng chàng không để ý cứ tiến lại gần xe Krinxov, tay bám lấy thành xe và đi bên cạnh: Krinxov mặc áo da cừu, đội mũ lông, miệng bịt một chiếc mùi xoa, người trông xanh xao và gầy guộc hơn trước nhiều. Đôi mắt đẹp của anh nom rất to và lóng lánh hẳn lên. Đường đi gập ghềnh khiến anh bị lắc mạnh; anh nằm đấy, mắt chăm chăm nhìn Nekhliudov, nhưng khi chàng hỏi thăm sức khỏe thì anh chỉ nhắm mắt và lắc đầu, vẻ buồn bực; hình như anh tập trung nghị lực để chịu đựng những cái xóc của xe. Maria Paplovna ngồi phía bên kia xe, nàng đưa mắt nhìn. Nekhliudov, tỏ ý rất lo ngại về tình trạng của Krinxov. Nhưng rồi nàng nói ngay, với một giọng vui vẻ. - Hình như lão sĩ quan đã ngượng mặt, - nàng nói to để khỏi bị tiếng xe át đi. - Buzovkin đã được tháo xích và bế con. Cùng đi với anh ta có Katiusa. Ximonxon và cả Vera nữa, cô ấy thay tôi. Krinxov nói câu gì không nghe rõ, tay chỉ Maria Paplovna. Anh cau mặt cố nhìn họ và lắc đầu. Nekhliudov cúi xuống gần anh để nghe. Krinxov gạt khăn bịt ở miệng ra thì thào: - Bây giờ khá hơn nhiều rồi. Miễn là đừng bị lạnh. Nekhliudov gật đầu và lại đưa mắt nhìn Maria Paplovna: - Vấn đề ba vật thể thế nào? - Krinxov lại thì thầm, cổ gượng cười, - giải quyết chắc gay đấy nhỉ? Nekhliudov không hiểu, nhưng Maria Paplovna cho biết là anh ấy muốn nói đến vấn đề toán học trứ danh về vị trí của mặt trời, mặt trăng và trái đất mà Krinxov ví đùa với quan hệ của ba người Nekhliudov, Katiusa và Ximonxon. Krinxov gật đầu tỏ ý là Maria đã giảng đúng câu nói đùa của anh. - Giải quyết vấn đề không phải ở tôi, - Nekhliudov nói. - Anh có nhận được thư của tôi không? Anh giúp cho chứ? - Maria Paplovna hỏi. - Đương nhiên! - Nekhliudov trả lời. Chàng thấy trên mặt Krinxov thoáng có vẻ không hài lòng. Chàng đi về xe mình, hai tay nắm lấy thành xe; đường gồ ghề, gập những quãng có ổ gà, xe cứ nẩy bật lên. Nekhliudov vượt lên phía trước đoàn tù; đám người nầy mặc áo xám và áo choàng da cừu, chân xích, tay khoá từng đôi một, kéo dài đến ba phần tư dặm đường. Nekhliudov nhận ra ở phía bên kia đường chiếc khăn quàng xanh của Katiusa, chiếc áo choàng đen của Vera, tấm áo ngắn, cái mũ đan và bít- tất đen trắng của Ximonxon, ngoài bít-tất có dây da chằng như giầy cỏ. Anh ta đi với tù nữ và đương chuyện trò với họ rất sôi nổi. Trông thấy Nekhliudov, hai người phụ nữ nghiêng mình chào, còn Ximonxon nhấc mũ một cách trịnh trọng. Nekhliudov không có gì cần nói, nên không dừng lại cho xe vượt lên phía trước. Lúc nầy đường đã bớt gồ ghề, người đánh xe cho ngựa chạy nhanh hơn, nhưng luôn luôn phải cho xe lánh sang bên để tránh những đoàn xe tải dài đi cùng chiều hoặc đi trở lại. Con đường đầy vết bánh xe sâu lõm hẳn xuống băng qua một cánh rừng thông âm u, hai bên có lẫn những cây phong và cây lạc diệp tùng chưa rụng hết lá, màu vàng tươi hoặc vàng nhạt. Đi được nửa chặng đường thì ra khỏi khu rừng. Hai bên đường là những cánh đồng rộng mênh mông và xa xa, có những giá thập ác vàng tươi và nóc hình bán cầu của một tu viện. Trời sáng hẳn, mây đã bay hết, mặt trời nhô lên khỏi rừng: lá cây còn ướt ao chuôm, thập ác, nóc tu viện lóng lánh dưới ánh mặt trời. Trước mặt, xế về phía bên phải, những đỉnh núi xa xa bắt đầu nổi lấp lánh trắng trên nền trời xanh. Xe đi vào một làng lớn thuộc vùng ngoại ô một thị trấn. Trên đường làng, người đi lại đông như kiến, cả người Nga và người thổ dân, mũ áo kỳ dị. Đàn ông, đàn bà, người say, người tỉnh họ xúm đông, trò chuyện tíu tít quanh các cửa hàng, tiệm ăn, quán rượu hay các xe tải. Sắp đến một thành phố. Người lái xe ra roi, giật cương về phía phải rồi ngồi chếch về một bên ghế đưa dây cương về cả bên phải, anh ta cố ý muốn trổ tài, cho xe chạy nhanh qua phố chính, rồi cứ giữ tốc độ đó mà phóng xuống bờ sông. Qua con sông phải đi phà. Chiếc phà đang ở giữa dòng chảy xiết và đang đi về phía bờ bên nầy. Trên bờ có hai mươi cỗ xe đang đợi, Nekhliudov không phải đợi lâu. Phà được đưa lên ngược dòng đã khá xa, nay được nước xuôi chảy xiết, tiến nhanh tạt vào bến. Những người chở phà cao lớn, trầm lặng, đôi vai to rộng, bắp thịt rắn chắc, chân đi ủng, mình mặc áo lông cừu Thành thạo và lanh lẹ, họ quăng thừng néo chặt vào cọc; khi đã bắt chất cầu phà xong, họ cho các xe ở dưới phà lên bờ, rồi mới cho xe đợi trên bờ xuống. Phà xếp chật đẩy ngựa và xe; trông thấy nước, các con ngựa chùn lại. Con sông rộng, nước chảy xiết vỗ vào hai mạn phà làm dây neo căng thẳng. Khi phà đã đầy ắp và xe của Nekhliudov đã đánh xuống (ngựa đã tháo), len vào giữa những xe khác đứng ở một bên phà, thì những người chở phà tháo chốt ra, cởi thừng cho phà sang sông, mặc lời nài kêu của những người không chen được xuống. Trên phà im lặng, không có tiếng động nào ngoài tiếng chân những người chở phà, và tiếng ngựa chồn chân đập đập mồng xuống mặt sàn. Chương 122 Nekhliudov đứng ở mép phà, nhìn dòng sông rộng chảy xiết. Trong óc chàng lởn vởn hai hình ảnh: một là cái đầu lắc lư của Krinxov đang hấp hối trong căm hờn; hai là hình ảnh Katiusa phấn khởi bước đi trên đường, bên cạnh Ximonxon. Hình ảnh thứ nhất Krinxov sắp chết mà chưa đành lòng chết - gây cho chàng một cảm tưởng nặng nề, buồn rầu: Hình ảnh thứ hai - Katiusa phấn khởi đã chiếm được tình yêu của một người như Ximonxon và hiện giờ đã tìm được một con đường chính đáng, vững vàng, chắc chắn, đâng lẽ phải gây cho chàng một cảm tưởng vui mừng mới phải, thế mà trái lại nó làm cho Nekhliudov thấy lòng nặng nề mà chàng không thể nào trấn áp được. Từ thành phố, tiếng một chiếc chuông đồng hồ lớn lướt trên mặt nước ngân nga vọng tới. Người đánh xe ngựa đứng bên cạnh chàng và những người khác trên phà lần lượt ngả mũ và làm dấu, chỉ trừ có một ông già lùn đầu tóc rối bù, đứng cạnh thành phà từ trước mà Nekhliudov không để ý. Ông già không làm dấu, mà lại ngẩng đầu lên nhìn Nekhliudov. Ông cụ mặc một cái áo ngoài vá rách mướp, một chiếc quần dạ và đi một đôi giầy nát và cũng vá víu. Lưng ông cụ đeo một cái bị, đầu đội chiếc mũ cao bằng da thú đã trơ hết tuyết. - Sao cụ lại không cầu nguyện thế - Người đánh xe cho Nekhliudov đội lại cái mũ lưỡi trai, hỏi ông già. - Cụ chưa được rửa tội chắc? - Cầu nguyện à? Cầu ai kia chứ? - ông già đầu bù liền dằn từng tiếng đáp lại, giọng quả quyết. - Lại còn cầu ai? Cầu Chúa chứ còn cầu ai nữa, - người đánh xe nói, giọng mỉa mai. - Thế anh hãy chỉ cho lão xem Chúa của anh ở đâu? Trong giọng nói và vẻ mặt của ông già có cái gì nghiêm trang và rắn rỏi làm người lái xe cảm thấy mình đang nói chuyện với một con người kiên cường; anh ta hơi lúng túng, nhưng gắng không lộ ra và, không chịu im lặng bẽ mặt trước đám đông đương đứng nhìn hai người, anh đáp lại rất nhanh: - Ở đâu ư? Cố nhiên là ở trên trời. - Thế anh đã lên trời chưa? - Dù tôi lên rồi hay chưa lên thì ai cũng biết là người ta phải cầu Chúa. - Chưa ai trông thấy chúa ở đâu cả. Chỉ có Người Con Một nằm trong lòng Chúa Cha là đã xuống thế gian nầy thôi. - ông già chau mày nghiêm nghị nói, lời vẫn nhanh như trước. - Rõ ràng cụ không phải là tín đồ công giáo rồi, cụ là người tôn thờ cái lỗ huyệt. Cụ cầu khẩn cái lỗ huyệt, - người đánh xe nói, gài roi ngựa vào thắt lưng và kéo lại dây thắng dắt trên mình một con ngựa. Có người cười. - Thế bố tin đạo nào hở bố? - Một người đứng tuổi đứng bên cạnh một chiếc xe tải ở đầu phà bên nầy hỏi ông già. - Lão chẳng có tín ngưỡng nào hết vì lão không tin ai, ngoài tin bản thân mình ra, - ông già vẫn trả lời nhanh và quả quyết như trước. - Làm thế nào mà cụ có thể tin vào mình được? – Nekhliudov hỏi, chàng bắt chuyện với ông già. - Cụ cũng có thể nhầm được. - Không đời nào. - ông già vừa lắc đầu vừa trả lời quả quyết. - Thế sao lại có những tín ngưỡng khác nhau? - Nekhliudov hỏi. - Là vì người ta ở đời chỉ tin vào người khác mà không tin ở chính mình, cho nên mới có những tín ngưỡng khác nhau. Trước kia, tôi cũng tin ở những người khác, nên đã lúng túng và quẩn quanh như đi trong rừng rậm vậy. Tôi đã lạc mất đường, đến nỗi không có hy vọng tìm thấy lối ra. Nào tín đồ phái cũ, nào tín đồ phái mới, người thì theo phái Subbotnich, kẻ theo tông Kliti, rồi dòng Popopxi, dòng Betxpopoxi, dòng Apxtriac, dòng Molocan, dòng Xkovxy, phái nào, dòng nào cũng cho mình là đúng, là hay, kỳ thực thì tất cả đều mò mẫm, mỗi phái bò đi một ngả như những con chó con mới đẻ chưa mở mắt. Có nhiều tín ngưỡng thật, nhưng tinh thần chỉ có một. Nó ở anh, ở tôi, ở kẻ kia. Thành ra nếu mỗi người đều tin ở chính mình thì tất cả đều thống nhất lại được, mỗi người hãy là mình đi, thì tất cả sẽ hoá là một. Ông già nói to, và luôn luôn nhìn ra chung quanh, có ý muốn để thật nhiều người nghe được lời mình nói. - Thế cụ tin tưởng như vậy đã lâu chưa? - Nekhliudov hỏi. - Tôi ấy à? Đã lâu lắm rồi. Chúng nó xua đuổi tôi đi đến năm nay là hai mươi ba năm rồi. - Xua đuổi cụ thế nào? - Xưa chúng xua đuổi Chúa Cứu Thế thế nào, thì nay chúng xua đuổi tôi như vậy. Chúng bắt tôi và đem ra toà, đem ra trước cha cố - bọn thầy dòng dạy luật và bọn Pharixe(2). Một lần chúng bỏ tôi vào nhà điên, nhưng chúng không làm gì được tôi, vì tôi tự do. Chúng hỏi "Tên anh là gì? Chúng tưởng tôi sẽ lấy một cái tên nào đó cho mình. Nhưng tôi chẳng lấy tên nào hết. Tôi đã từ bỏ tất cả rồi: tôi không có tên, không có chỗ ở, không có làng nước. Tôi chỉ là tôi. Tên là gì ư? Là Người. - Chúng hỏi: "Bao nhiêu tuổi?" Tôi nói: Tôi không tính tuổi bao giờ, tuổi tôi không thể tính được vì tôi đã sống lâu và còn sống mãi mãi". - "Cha mẹ anh là ai?" - Tôi không cha, không mẹ, chỉ có Chúa và Đất. Chúa là cha, Đất là mẹ. - Chúng lại hỏi tôi: "Còn Đức Hoàng đế thì sao? Anh có thừa nhận Hoàng đế không? - Tôi nói: "Sao lại không, ông ta là Hoàng đế của ông ta, còn tôi, tôi là Hoàng đế tôi". Chúng nói: "Thôi, nói chuyện với anh ta làm gì?" - Tôi bảo: "Tôi có cần các anh nói chuyện với tôi đâu?" Vì thế chúng hành hạ tôi. - Thế bây giờ cụ đi đâu? - Nekhliudov hỏi. - Chúa dẫn tôi đi đâu thì tôi đi đấy. Kiếm được việc thì tôi làm, không có việc thì tôi đi ăn xin. Ông già thấy phà sắp tới bờ, thôi không nói nữa, nhìn mọi người đang lắng nghe mình nói, vẻ đắc thắng. Phà đã tới bờ, Nekhliudov lấy ví tiền ra cho ông già một ít tiền, nhưng ông già từ chối và nói: - Tôi không nhận thứ nầy, tôi chỉ nhận bánh. - Vậy xin lỗi cụ. Không có gì phải xin lỗi, ông có làm gì phật ý tôi đâu mà phật ý tôi thế nào được. - ông già vừa nói, vừa đeo lên lưng cái bị bỏ xuống ban nãy. Xe đã đánh lên bờ và ngựa đã thắng cương. Khi Nekhliudov thưởng tiền xong cho những người vạm vỡ và lên xe, anh đánh xe nói: "Ngài nói chuyện với lão ấy làm gì. Lão ta chỉ là một lão vô lại ngông cuồng!" Chú thích: (1) chỉ Jesus. (2) Pharixe, tên một phái chính trị trong đạo Do Thái. Đạo Cơ-đốc lúc mới ra đời đã bị bọn nầy dùng luật pháp đấu tranh kịch liệt. Vì thế trong Tân ước, bọn Pharixe bị coi là phái tà đạo, giả nhân giả nghĩa (N.D) Chương 123 Khi xe lên hết dốc bờ, người đánh xe quay lại hỏi Nekhliudov. - Ngài muốn đến khách sạn nào? - Đến nhà nào tốt nhất? Khách sạn "Người Siberi" thì hơn cả, nhưng khách sạn Dyukov cũng tốt. - Đến đâu cũng được, tuỳ anh. Người lái xe ngồi chếch sang một bên và cho xe chạy nhanh hơn. Thị trấn nầy cũng giống như tất cả những thị trấn khác cùng loại. Cùng một kiểu nhà có cửa gác xép cũng mái nhà xanh xanh, cũng một kiểu nhà thờ, cũng những cửa hàng nhỏ và ở phố chính, có cửa hàng lớn, cả đến cảnh binh cũng cùng một kiểu. Nhưng có điều là phần lớn nhà ở đây đều bằng gỗ, và đường phố không lát đá. Khi đến gần một phố đông nhất, người lái hãm xe lại trước cửa một khách sạn, nhưng hết buồng nên lại phải đến một khách sạn khác. Lần nầy thì có buồng. Sau hai tháng đi đường, Nekhliudov lại thấy lại hoàn cảnh mà chàng đã quen sống trước kia, có đủ tiện nghi và tương đối sạch sẽ. Tuy căn buồng chàng thuê chỉ là một căn hạng xoàng, chẳng có gì là lộng lẫy, nhưng sau hai tháng đi xe ngựa trạm, ăn ngủ ở quán trọ nhà quê, ở những trạm nghỉ của tù, giờ đây, chàng thấy rất thoải mái dễ chịu. Việc thứ nhất cần làm là phải trừ hết rận chấy mà chàng không có lúc nào rũ hết được từ khi lui tới các trạm tù nghỉ. Cởi quần áo ra xong, là chàng đi tắm ngay, rồi thắng bộ quần áo kiểu tỉnh thành vào, sơ mi cổ cứng, quẩn ép nếp, áo lễ và áo choàng - để lại thăm viên tướng thống đốc khu. Người gác của khách sạn gọi một chiếc xe ngựa; lại một con ngựa Kirghiz béo khỏe kéo chiếc xe lắc lư đưa chàng đến một toà nhà tráng lệ; ngôi nhà có lính gác và một người cảnh binh canh giữ. Trước và sau nhà có vườn; trong vườn giữa đám cây phong và bạch dương cành trơ trụi là những khóm tùng bách tươi tốt xanh um. Tướng thống đốc không được mạnh và không tiếp khách, nhưng Nekhliudov nhờ người hầu cứ đưa danh thiếp vào, một lúc người ấy ra trả lời là quan thống đốc bằng lòng tiếp. - Có lệnh mời ông vào, - người hầu nói. Phòng đợi, người hầu, người cần vụ, cầu thang, phòng khách có mặt sàn bóng loáng, tất cả cũng giống y như ở Petersburg, tuy không được sạch sẽ bằng, nhưng oai vệ hơn. Người hầu dẫn Nekhliudov vào phòng làm việc. Tướng thống đốc là một người béo phệ, da dẻ hồng hào, mũi to phổng như củ khoai tây, dưới cặp mắt thịt nổi u lên, trên trán và đầu hói nhẵn trơ trông nổi hẳn những hình khối tròn của chiếc sọ. Ông mặc kiểu Tarta bằng lụa, đương ngồi hút thuốc lá và uống trà; chén trà đặt trên đĩa bằng bạc. - Xin chào ông bạn. Xin ông thứ lỗi cho cái lỗi mặc áo ngủ tiếp khách. Nhưng tôi nghĩ thế còn hơn là không tiếp - Tướng thống đốc vừa nói vừa đưa cổ áo trùm lên trên cái gáy béo núc ních có đến mấy nếp thịt ụ lên. - Tôi thấy trong người không được khỏe lắm nên không ra ngoài. Có việc gì đã đưa ông đến nơi xa xôi hẻo lánh nầy? - Tôi đi theo một đoàn tù, trong số đó có một người quan hệ thân thiết với tôi, - Nekhliudov nói. - Tôi lại thăm quan lớn một phần vì người đó, một phần vì việc khác. Tướng thống đốc hút một hơi thuốc nữa, và uống một ngụm trà, sau lão dụi điếu thuốc lá trong cái gạt tàn bằng đá xanh và chăm chú nghe Nekhliudov nói, đôi mắt béo húp long lanh nhìn chàng; lão chỉ ngắt lời Nekhliudov một lần để mời hút thuốc. Viên tướng nầy thuộc vào hàng quân nhân có học thức; loại người trước đây tin tưởng là các quan niệm tự do và nhân đạo có thể điều hoà nghề nghiệp của họ được. Nhưng vốn là người khôn ngoan và có lòng tốt, lão sớm thấy ngay không thể có sự thoả hiệp như vậy được. Để khỏi phải luôn luôn cảm thấy cái mâu thuẫn đó trong tâm tư, lão càng ngày càng buông mình đi sâu vào tính rượu chè - một thói quen đặc biệt phổ biến trong giới con nhà binh - nó ăn sâu quá cho nên sau ba mươi lăm năm phục vụ trong quân đội, lão đi đến một tình trạng mà bác sĩ gọi là "nghiện rượu". Toàn thân lão sũng ra những rượu, lão uống bất cứ một thứ rượu gì cũng thấy say ngay. Rượu đã trở thành một nhu cầu tuyệt đối cần thiết đối với lão không có rượu lão không sống được, thành ra chiều nào lão cũng say mềm, nhưng vì đã quá quen nên lão cũng không hề đi lảo đảo hay nói lảm nhảm. Vả lại, nếu khi say lão có nói bậy nữa thì lời nói bậy đó do cái địa vị quan trọng đường đường một bậc thủ hiến của lão cũng được coi là những lời nói khôn. Chỉ có vào buổi sáng - đúng lúc Nekhliudov lại thăm - là lúc mà giống một người bình thường, lão sáng suốt và có thể hiểu được những lời mà người ta nói với lão: và ta có thể áp dụng ít hay nhiều ở đây câu tục ngữ mà lão thích nhắc lại là "say mà sáng suốt lợi cả hai bề". Cấp trên biết lão là người rượu chè, nhưng vì lão là người có học thức hơn những kẻ khác - tuy đã đến khi nghiện rượu thì học thức ấy không tiến hơn được nữa - lão lại can đảm, khôn khéo, oai vệ, thông minh và khi say cũng biết xử sự đúng mực, nên lão được bổ nhiệm và được phép giữ chức vụ quan trọng nầy. Nekhliudov nói với lão rằng người mà chàng quan tâm đến là một người phụ nữ đã bị xử oan và đã có sớ khiếu oan dâng lên Hoàng đế rồi. - Vậy thì sao? - Ở Petersburg có hứa với tôi là nội trong tháng nầy sẽ tin cho tôi biết về số phận của người đàn bà đó và giấy tờ sẽ gửi về đây. Viên tướng, mắt không rời Nekhliudov, đưa bàn tay ngắn chũn về phía bàn và bấm chuông. Lão vẫn yên lặng nghe, hít một hơi thuốc lá và ho rất to. - Tôi muốn xin cho người đó được phép ở lại đây cho đến khi sớ khiếu oan được trả lời. Người lính hầu cận bận quân phục đi vào. - Hỏi xem bà Anna Vaxilievna đã dậy chưa, - tướng thống đốc bảo người hầu, - và đem một ít trà nữa lại đây. Rồi quay lại Nekhliudov lão nói: - Rồi sao nữa? - Yêu cầu thứ hai là về một người tù chính trị cùng đi trong đoàn tù nầy. - À là thế - tướng thống đốc nói, đầu gật gù một cách có ý nghĩa. - Anh ta ốm nặng, sắp chết - và có lẽ phải nằm lại bệnh viện ở đây. Vì thế một nữ chính trị phạm muốn ở lại với anh ta. - Người ấy có quan hệ gì với anh ta không? - Không, nhưng nếu để được phép ở lại mà phải lấy anh ta thì cô ấy cũng sẵn sàng. Viên tướng lặng lẽ nghe, đôi mắt long lanh nhìn chăm chú vào Nekhliudov cố ý làm cho chàng bối rối, miệng luôn luôn hút thuốc. Khi Nekhliudov nói xong, lão cầm một quyển sách trên bàn, nhấm đầu ngón tay và giở rất nhanh tìm đoạn nói về hôn nhân. - Cô ta bị án gì? - Lão ngước mắt lên khỏi quyển sách, hỏi. - Cô ta ư! Bị xử án khổ sai. - Bị án ấy thì dù có lấy hắn ta nữa, tình trạng cũng chẳng hơn gì. - Nhưng mà… - Xin lỗi! Ngay như nếu một người tự do lấy cô ta, thì cô ta cũng vẫn phải chịu tội cho đến mãn hạn như thường kia mà. Vấn đề là ở chỗ nầy, xem ai bị án nặng hơn, anh ta hay cô ta. - Cả hai đều bị án khổ sai. - Tốt lắm, thế là kẻ tám lạng người nửa cân. - Tướng thống đốc cười nói. - Anh làm sao, thì chị cũng vậy; nhưng có thể, cần làm gì để số phận anh ta được nhẹ nhàng hơn thì người ta sẽ làm; còn về phần cô ta, dù có lấy anh ta chăng nữa, cũng không thể ở lại được. - Bà lớn đang dùng cà phê ạ! - Người hầu vào báo. Viên tướng gật đầu và tiếp: - Dẫu sao tôi cũng sẽ lưu tâm đến việc đó. Tên hai người là gì nhỉ? Ông biên vào đây. Nekhliudov ghi tên hai người. Khi Nekhliudov xin phép vào thăm người ốm sắp chết, viên thống đốc nói: - Việc nầy tôi không thể nào cho phép được. Tất nhiên tôi không nghi ngờ gì ông, nhưng vì ông chú ý đến anh ta và những người khác, mà ông lại có tiền; mà ở đây có tiền thì muốn gì cũng được. Người ta bảo tôi: "Triệt cho hết nạn hối lộ. Nhưng tôi làm thế nào mà triệt được hết nạn hối lộ khi mà ai cũng ăn hối lộ? Mà càng là viên chức cấp dưới thì càng sẵn sàng ăn. Làm thế nào mà kiểm soát được người ở xa ngoài năm ngàn dặm? Khi ở xa như vậy mỗi viên chức là một ông vua con như tôi đây chẳng hạn. - Và lão cười. - Có lẽ trước đây ông vẫn được đến gặp gỡ thăm hỏi những người tù chính trị vì ông đút tiền và người ta để cho ông vào, phải không? - Lão nói và mỉm cười - Có phải thế không? - Thưa đúng, có thế. - Tôi biết là nhất định ông phải làm như thế. Ông thương hại một người tù chính trị và ông đến thăm người đó Người gác ngục hay người lính áp giải tù nhận tiền đút vì lương họ mỗi ngày có bốn mươi "kopeik" mà lại còn vợ con, họ không thể không ăn tiền được. Nếu tôi ở vào địa vị họ và ở vào địa vị ông tôi cũng làm như ông hay như họ đã làm. Nhưng ở địa vị tôi, thì tôi buộc phải tôn trọng luật pháp không sai một chữ, vì tôi cũng là người, nên có thể bị lòng trắc ẩn lôi cuốn vào chỗ sai lầm. Tôi là một viên chức thừa hành của chính phủ, được người ta tin trên một số điều kiện nào đó, nên tôi phải xứng đáng với lòng tin đó. Thôi công việc thế là xong. Bây giờ ông kể cho tôi nghe chuyện ở Chính quốc nào. Và tướng thống đốc bắt đầu vừa hỏi chuyện vừa kể lại tỏ ra vừa muốn nghe lại vừa muốn tỏ cho khách biết địa vị quan trọng và lòng nhân ái của mình. Chương 124 - À ông trọ nhà nào? Khách sạn Dyukov? Ở đấy thì khổ quá. Đến năm giờ, lại chơi dùng cơm với chúng tôi nhé. - Tướng thống đốc nói khi tiễn Nekhliudov ra cửa. - Năm giờ đấy. Ông nói được tiếng Anh chứ? - Thưa có, tôi nói được. - Thế thì hay lắm. Có một nhà du lịch người Anh vừa đến đây. Ông ta nghiên cứu vấn đề tù đi đày và các trại giam ở Siberi. Tối hôm nay ông ta sẽ dùng cơm với chúng tôi, vậy thế nào ông cũng đến nhé. Chúng tôi thường ăn cơm lúc năm giờ và bà nhà tôi muốn mọi người sẽ đúng giờ. Nhân thể tôi sẽ trả lời ông về việc người phụ nữ và cả người tù ốm nữa. Có lẽ để một người nào đó ở lại với anh ta cũng được. Từ biệt viên tướng, Nekhliudov cảm thấy hết sức phấn khích, người hoạt bát hẳn lên, chàng đi đến nhà bưu điện. Nhà bưu điện là một phòng thấp xây cuốn. Người đông nghịt, có mấy nhân viên ngồi sau cái quầy. Một người ngồi, đầu ngoẹo sang một bên, đang luôn tay đóng dấu vào các phong bì và đưa dần ra một cách mau lẹ. Nekhliudov không phải đợi lâu. Chàng vừa nói tên là được nhận ngay tất cả thư từ gửi đến cho chàng. Có rất nhiều thứ: tiền, thư, sách, và một số mới tập san "Tổ quốc". Nhận xong, Nekhliudov đem mọi thứ ra một cái ghế gỗ, ở đấy có một người lính đang ngồi đợi, tay cầm quyển sách. Nekhliudov ngồi xuống bên cạnh và soạn thư; trong số thư nhận được, chàng thấy có một lá gửi bảo đảm, bì rất đẹp, có một dấu xi gắn đỏ tươi. Chàng bứt bỏ dấu xi, bóc thư; nhìn bức thư của Xelenin kèm theo một bản công văn, chàng thấy máu bừng lên mặt và trái tim se lại. Đó là quyết định về việc của Katiusa. - Quyết định thế nào đây? Chắc đơn không đến nỗi bị bác? Nekhliudov vội vã đọc lướt qua lá thư, chữ viết nhỏ nhắn, gẫy nét, nhưng cứng cáp, tuy khó đọc; đọc xong, chàng thở dài khoan khoái. Một tin tốt lành. Xelenin viết: "Bạn thân mến. Câu chuyện giữa chúng ta gần đây làm tôi rất cảm động. Về việc Maxlova, anh nói đúng tôi đã thẩm kỹ vụ án và thấy cô ta bị oan uổng quá đáng. Chỉ có bản khiếu tố mà anh đã đệ sớ là có thể sửa lại được án quyết thôi. Tôi đã tìm cách để được tham gia quyết định việc nầy. Và kèm theo đây tôi gửi cho anh một bản sao bản quyết định ân xá theo địa chỉ mà nữ bá tước Ekaterina Ivanovna đã cho tôi biết. Bản chính đã gửi về nơi cô ta bị giam giữ khi xử án và chắc chắn ở đó người ta sẽ gửi ngay đến Nha Thống đốc Siberi. Tôi vội báo ngay cho anh biết tin mừng nầy và thân ái bắt tay anh. Bạn anh. Xelenin". Bản công văn thì nội dung như sau: "Ngự tiền Văn phòng chấp nhận sớ thỉnh nguyện đệ trình Đức Chí tôn Hoàng đế bệ hạ. Hồ sơ vụ án… Phòng… sô… ngày… tháng… năm… Thừa lệnh quan Chủ sự Ngự tiền Văn phòng nhận sớ thỉnh nguyện đệ trình Đức Chí tôn Hoàng đế bệ hạ, bằng công văn nầy, báo cho Ekaterina Maxlova, dân nghèo thành thị, là chiểu theo sớ tâu trình lên Hoàng đế bệ hạ, chiếu cố tới lời kêu xin của Maxlova, Đức Hoàng thượng đã rủ lòng thương ra lệnh chuyển án khổ sai thành án phát lưu ở một nơi gần, tại Siberi". Đó là một tin mừng và quan trọng. Thế là tất cả những điều mà Nekhliudov có thể cẩu mong cho Katiusa và cho chính bản thân, chàng đã đạt được. Thực ra thì sự thay đổi hoàn cảnh của nàng lại tạo ra những điều rắc rối mới trong quan hệ giữa hai người. Khi nàng còn là tù khổ sai, thì việc chàng đề nghị cưới nàng chỉ là một chuyện chưa thực tế, nó chỉ có mỗi một ý nghĩa là làm sao cho tình cảm của nàng giảm bớt đau khổ. Nhưng bây giờ thì không thể ngăn cản hai người sống chung với nhau. Mà Nekhliudov thì chưa chuẩn bị gì cho việc đó. Vả lại, còn mối quan hệ của nàng với Ximonxon thì thế nào? Mấy câu nàng nói tối hôm qua nghĩa là gì? Và nếu nàng bằng lòng lấy Ximonxon thì điều đó là hay hay dở? Chàng không sao gỡ thoát ra được những điều nghĩ ngợi ngổn ngang trong tâm trí ngay lúc nầy, nên đành tạm gác bỏ không nghĩ đến nó nữa. "Tất cả sau nầy hẵng hay", - chàng bụng bảo dạ, "và bây giờ, ta cần gặp nàng càng sớm càng hay báo cho nàng biết tin mừng đó để cho nàng được tha đã". Chàng cứ tưởng có bản sao bức công văn cầm trong tay là đủ để người ta thả nàng ra, nên ra khỏi. bưu điện, chàng bảo xe đưa chàng đến ngay trại giam. Tuy là hồi ban sáng chưa được tướng thống đốc cho phép vào thăm, nhưng Nekhliudov đã có kinh nghiệm là thường công việc xin với nhân viên cao cấp không được, song nói với nhân viên cấp dưới lại được một cách dễ dàng, nên chàng cứ đi, thử vào nhà tù ngay bây giờ để báo cho Katiusa biết tin mừng và biết đâu chẳng nói được với họ thả nàng ra, đồng thời hỏi thăm xem tình hình sức khỏe của Krinxov, và nói cho anh ta và Maria Paplovna biết những điều tướng thống đốc đã nói với chàng. Viên giám ngục là một người cao, bệ vệ, để ria mép và râu quai nón từ mang tai đến khóe miệng. Hắn tiếp Nekhliudov một cách lạnh nhạt và nói thẳng là không có lệnh của của trên thì người lạ không được vào thăm. Khi Nekhliudov nói ngay là ở thủ đô, chàng cũng được vào thăm, hắn trả lời: Có thể như vậy, nhưng ở đây không cho phép. – Và giọng hắn như muốn nói: "Các ông ở thủ đô tưởng có thể lòe làm tôi sợ hãi chăng, nhưng, tuy chúng tôi ở tận miền Đông Siberi thật, chúng tôi cũng hiểu thế nào là luật pháp và còn có thể dạy cho các ông nữa là khác". Nekhliudov đưa bản sao công văn của Ngự tiền Văn phòng cũng không làm cho hắn thay đổi ý kiến. Hắn nhất quyết từ chối không cho Nekhliudov vào nhà lao. Khi Nekhliudov ngây thơ nêu lên là có bản sao công văn mà chàng vừa nhận được là đủ làm cho Maxlova được thả thì hắn cười khẩy và tuyên bố là muốn thả ai ra phải có lệnh trực tiếp của cấp trên của hắn. Hắn chỉ nhận lời là sẽ báo nếu được lệnh của cấp trên thả nàng ra, hắn sẽ không giữ lại thêm một giờ. Hắn cũng từ chối không cho biết một tí gì về tình hình sức khỏe của Krinxov và nói là ngay cả đến có người tù đó ở đây hay không hắn cũng không thể nói được. Thế là Nekhliudov không biết làm thêm được gì hơn, chàng lên xe quay về khách sạn. Sở dĩ người giám ngục khắt khe là vì trong nhà tù đang có bệnh dịch chấy rận, số tù nhất trong đó đông gấp hai lần mức bình thường. Dọc đường người đánh xe cho Nekhliudov kể lại với chàng: "Trong nhà tù có vô số người chết. Hình như có bệnh dịch gì đó, mỗi ngày họ mang đi chôn có đến hai chục người". Chương 125 Tuy đến nhà tù không được việc gì, nhưng trong lòng Nekhliudov vẫn thấy hăng hái, phấn khởi, hoạt bát; chàng lại Văn phòng viên thống đốc để xem giấy ân xá Maxlova đã tới chưa. Công văn chưa đến; nên chàng lại quay về khách sạn và không đợi nữa, viết ngay cho Xelenin và viên luật sư riêng biết tin. Viết xong thư, chàng xem đồng hồ tay thấy đã đến giờ đi dự cơm chiều ở nhà tướng Thống đốc. Trên đường đi chàng lại bắt đầu nghĩ không biết Katiusa khi nhận được lệnh ân xá sẽ nghĩ sao, không biết cô ấy sẽ ưng đến nơi nào? Không biết mình sẽ sống với cô ấy như thế nào? Còn Ximonxon thì sao? Quan hệ giữa cô ấy với anh ta sẽ ra sao? Chàng nhớ lại những thay đổi trong con người nàng và nhân đó chàng nhớ lại quá khứ của nàng. "Lúc nầy, ta phải quên, phải xoá bỏ những điều đó đi, chàng nghĩ vậy, và lại cố xua đuổi những ý nghĩ về nàng đi. - Đến lúc đó, sẽ hay", - chàng tự nhủ và bắt đầu nghĩ đến điều lát nữa đây chàng sẽ phải nói với tướng Thống đốc. Sau một thời gian dài sống không những chẳng có gì là sang trọng mà còn thiếu cả những tiện nghi sơ đẳng nhất, chàng rất lấy làm thích được dự bữa cơm ở nhà viên tướng; bữa ăn tối tổ chức rất lịch sự, cái lịch sự của các nhà giàu sang, các nơi quyền quý mà Nekhliudov đã quen sống. Bà chủ nhà là một bà mệnh phụ kiểu cũ sống ở Petersburg, trước kia bà là một cung nữ ở trong cung đình vua Nikolai; bà nói tiếng Pháp rất thành thạo, còn nói tiếng Nga lại rất ngượng ngập. Bà ngồi rất thẳng người những lúc cử động cố giữ cho hai khuỷu tay sát vào chỗ ngang thắt lưng. Đối với chồng, bà có thái độ điềm đạm, cung kính đượm vẻ hơi buồn, nhưng đối với khách thì rất hòa nhã, tuy cách đối xử có tùy từng loại người mà có hơi khác. Bà coi Nekhliudov như người cùng trong một giới. Bà khen Nekhliudov một cách tế nhị, khó thấy, làm chàng lại nhận thức thấy những đức hạnh của mình và thấy hài lòng sung sướng. Bà nói hé cho chàng cảm thấy bà biết việc khiến chàng sang Siberi tuy có kỳ lạ nhưng chính đáng, và bà coi chàng thật là một người đặc biệt. Lối tán tụng tế nhị, cảnh sống hào hoa phong nhã trong nhà viên tướng Thống đốc làm cho Nekhliudov lại say sưa với cái thú nhà đẹp, ăn ngon, giao thiệp thoải mái, vui vẻ với những con người có học thức, cùng trong một giới, khiến cho tất cả những cảnh chàng đã sống trong thời gian vừa qua dường như chỉ là một giấc mộng mà chàng vừa mới chợt tỉnh dậy mà thôi. Cùng dự bữa với Nekhliudov, ngoài số người trong gia đình (có hai vợ chồng cô con gái tướng Thống đốc và một tên sĩ quan phụ tá), còn có một người Anh, một nhà kinh doanh mỏ vàng và viên tỉnh trưởng một thành phố xa ở Siberi mới tới. Nekhliudov thấy có nhiều thiện cảm với tất cả những người đó. Người Anh, một người khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, nói tiếng Pháp rất tồi, nhưng nói tiếng mẹ đẻ thì đặc biệt hay, lời lẽ hùng hồn và có sức thuyết phục; ông ta đã đi rất nhiều nơi và những chuyện ông ta kể về Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, và Siberi nghe rất thú vị. Nhà kinh doanh mỏ vàng còn trẻ, và xuất thân từ một gia đình nông dân. ông ta mặc một bộ lễ phục dạ hội may ở London, khuy áo sơ mi bằng kim cương. Ông ta có một tủ sách lớn, thường quyên tặng nhiều cho các công việc từ thiện và ôm ấp những tư tưởng tự do của châu Âu. Nekhliudov thấy mến thích con người nầy, coi ông ta là điển hình mới mẻ, đẹp đẽ của ngành văn hóa châu Âu ghép trên một cái gốc nông dân mạnh mẽ, hoang dại. Viên tỉnh trưởng một thành phố xa ở Siberi lại chính là viên nguyên vụ trưởng mà dư luận đã nói đến nhiều khi Nekhliudov ở Petersburg. Ông ta người béo tốt, tóc thưa và quăn, cặp mắt xanh hiền từ, miệng cười tươi tắn, thân hình về nửa dưới thì phì nộn lạ lùng, bàn tay trắng muốt, móng gọt kỹ lưỡng, ngón nào cũng đeo đầy nhẫn. Chủ nhân kính trọng vị khách nầy vì sống giữa đám công chức tham ô, ông ta không hề ăn hối lộ. Bà chủ nhà là người rất thích âm nhạc và đánh dương cầm rất hay thì quý trọng ông ta là một nhạc sĩ giỏi và vẫn cùng bà hợp tấu. Tâm trạng Nekhliudov rất khoan khoái khiến ngay cả đến con người ấy, chàng cũng không thấy đáng ghét. Viên sĩ quan phụ tá, mạnh bạo, vui vẻ, cằm cạo nhẵn xanh, luôn luôn giúp đỡ mọi người trong tiệc, khiến Nekhliudov cũng hài lòng. Nhưng chàng thích nhất đôi vợ chồng trẻ người con gái tướng Thống đốc. Cô ta không đẹp lắm; là một thiếu phụ tính tình giản dị, cả ngày cô ta chỉ lo chăm chút hai đứa con đầu lòng. Người chồng đã tất nghiệp trường đại học Moskva. Cô ta lấy anh chàng là vì yêu và phải sau một thời gian dài đấu tranh với cha mẹ đẻ. Là người khiêm tốn thông minh, có tư tưởng tự do, anh chồng làm công việc thống kê và đặc biệt chú ý đến vấn đề các dân tộc địa phương. Anh nghiên cứu, yêu thương các dân tộc đó và cố gắng làm cho họ khỏi bị tiêu diệt. Tất cả mọi người không những ai nấy đều tỏ thái độ ân cần, quý mến Nekhliudov, mà họ rất thích được gặp chàng, một nhân vật mới, rất đáng chú ý: Tướng Thống đốc bận quân phục và đeo huân chương chữ thập bạc trên cổ, vào bàn tiệc; lão tiếp Nekhliudov như tiếp một người bạn cũ và mời ngay khách uống rượu khai vị và vodka. Lão hỏi thăm công việc Nekhliudov làm từ sáng khi chàng chia tay ra về, chàng kể mình ra bưu điện và được tin là người phụ nữ nói chuyện ban sáng đã được ân xá và bây giờ, chàng lại xin phép vào thăm nhà tù. Tỏ ý không bằng lòng nói chuyện công việc trong bữa ăn, tướng thống đốc chau mày không đáp lại. - Ông dùng một chút vodka? - Lão hướng về phía người Anh, lúc đó vừa vào bàn tiệc, hỏi bằng tiếng Pháp. Người Anh uống một chén, nói là ông ta đã đi xem nhà thờ và xưởng máy và tỏ ý muốn được vào thăm nhà khám lớn. - Ồ thật là vừa gặp dịp, - tướng Thống đốc nói, và quay về phía Nekhliudov - Ông có thể đi cùng ông nầy, lão nói tiếp và bảo viên sĩ quan phụ tá - Anh cấp giấy phép cho hai ông. - Khi nào ông định đi thăm? - Nekhliudov hỏi người Anh. - Tôi muốn đi thăm vào buổi tối, - người Anh trả lời. - lúc đó mọi người đều có mặt ở nhà, và như vậy là không có sự chuẩn bị gì trước, có thế nào bầy ra thế ấy. - À, ông ta muốn nhìn thấy cảnh nhà tù trong toàn bộ cái vẻ huy hoàng của nó? Được! Mình đã báo cáo bao nhiêu lần rồi, họ có thèm để ý nghe đâu. Được, thế thì để cho họ biết sự thể qua báo chí ngoại quốc vậy. – Viên Thống đốc nói và tiến lại bàn tiệc; bà chủ nhà xếp chỗ mời khách ngồi. Nekhliudov ngồi giữa bà chủ nhà và người Anh. Trước mặt chàng là con gái viên Thống đốc và viên nguyên vụ trưởng. Câu chuyện trong bữa ăn toàn là chuyện nọ sọ chuyện kia; lúc thì người Anh nói về Ấn Độ; lúc thì tướng Thống đốc nói về cuộc viễn chinh chiếm Bắc Kỳ mà ông lên án nghiêm khắc; lúc thì nói về nạn hối lộ và đồi trụy phổ biến ở Siberi. Nekhliudov không thích những chuyện đó lắm: Nhưng sau bữa ăn, khi sang phòng khách uống cà phê thì Nekhliudov cùng người Anh và bà chủ nhà nói chuyện rất thú vị về Gladstone(1). Nekhliudov cảm thấy hình như mình đưa ra nhiều nhận xét thông minh được mọi người chú ý. Sau một bữa ăn uống ngon lành, giờ đây ngồi trong chiếc ghế bành có đệm êm, nhấm nháp chút cà phê, quanh mình toàn những người nhã nhặn, lịch thiệp, Nekhliudov mỗi lúc càng thêm thích thú. Đến lúc theo lời đề nghị của người Anh, bà chủ nhà và viên nguyên vụ trưởng ra ngồi trước dương cầm dạo rất hay bản giao hưởng thứ năm của Bethoven thì Nekhliudov thấy mình hoàn toàn hài lòng về bản thân mình, một tâm trạng từ lâu chàng thấy xa lạ, tưởng như thể giờ đây chàng mới chợt nhận ra mình là một con người tốt vô chừng. Chiếc dương cầm rất đẹp, bản giao hưởng đạo rất hay. Ít ra thì cũng là hình như vậy đối với Nekhliudov là người biết và yêu thích bản nhạc đó. Lắng nghe cái âm điệu khoan thai tuyệt diệu, chàng thấy cay cay trong mũi vì cảm thương cho thân thế mình, cho các phẩm chất tốt đẹp của con người mình. Nekhliudov cảm ơn bà chủ nhà đã cho chàng được thưởng thức một niềm vui từ đã lâu chưa được hưởng, chàng xin cáo từ và sắp ra về thì người con gái bà ta tiến lại vẻ mặt ửng hồng, mạnh dạn nói: - Lúc nãy ông hỏi thăm các cháu, bây giờ ông có muốn thấy mặt các cháu không? - Nó cứ tưởng là ai cũng thích xem mặt con nó đấy, - bà mẹ mỉm cười nói, trước sự vụng về dễ thương của cô con gái. - Công tước không thích đâu. - Thưa bà, trái lại, tôi rất thích, - Nekhliudov nói; chàng cảm động trước lòng yêu con của một người mẹ chan hoà sung sướng. - Xin cô cho tôi được vào thăm các cháu. - Đấy nó lại dẫn Công tước vào thăm con nó đấy, - tướng Thống đốc cười và nói to từ phía bàn đánh bài lão đang ngồi với người con rể, nhà kinh doanh mỏ vàng và viên sĩ quan phụ tá. - Xin mời Công tước cứ đi đi cho hết bổn phận. Người thiếu phụ hết sức xúc động vì không biết lát nữa khách sẽ khen chê con mình thế nào, nên bước nhanh trước Nekhliudov, qua mấy phòng bên trong. Đến căn phòng thứ ba một phòng cao, tường căng giấy trắng, trong phòng thắp một ngọn đèn nhỏ có chụp che cho đỡ sáng chói - có hai chiếc giường nhỏ kê gần nhau. Người bảo mẫu mặc áo choàng vải trắng gương mặt hiền hậu, đôi gò má cao kiểu Siberi, ngồi giữa hai giường. Chị ta đứng dậy cúi chào cung kính. Người mẹ cúi xuống cái giường thứ nhất; trong giường, một đứa trẻ lên hai đang ngủ ngon lành, miệng hé mở, tóc xoăn dài loà xoà trên gối. - Đây là cháu Katia, - người mẹ nói, vừa kéo lại cái chăn trắng kẻ vạch xanh phía dưới có một bàn chân nhỏ trắng thò ra. - Ông xem cháu có xinh không? Cháu mới lên hai thôi ạ. - Rất đáng yêu! - Còn đây là cháu vixiue. Ông cháu đặt tên cho đấy ạ Cháu khác hẳn, đúng nòi Siberi, phải không ạ? - Chú bé kháu quá! - Nekhliudov nói và nhìn thằng bé mập mạp, nằm sấp mà ngủ. - Thế ạ? - người mẹ nói, miệng nở một nụ cười đầy ý nghĩa. Nekhliudov bỗng nhớ tới những dây xiềng xích, những chiếc đầu trọc, những cuộc ẩu đả, cảnh dâm bôn, rồi Krinxov hấp hối, Katiusa và cả quá khứ của nàng. Và chàng thấy thèm thuồng mong ước cái hạnh phúc chàng đang chứng kiến và lúc nầy chàng thấy nó thật là tươi đẹp và trong sạch. Sau khi đã khen đi khen lại hai đứa bé do đó phần nào đã làm đẹp lòng người mẹ đang khao khát nghe những lời ca tụng con mình, Nekhliudov đi theo người thiếu phụ quay về phòng khách; người Anh đang đợi chàng để cùng đến thăm nhà lao như hai người đã hẹn nhau trước. Sau khi chào hết mọi người già, trẻ trong gia đình chủ nhân, Nekhliudov đi cùng người Anh ra cổng. Thời tiết thay đổi. Tuyết xuống nhiều: thành những bông lớn, vừa mau vừa dồn dập, che lấp đường xá, phủ kín mái nhà, phủ lên các cây cối trong vườn các bậc cửa, trên mui xe trên lưng ngựa. Người Anh có xe riêng; Nekhliudov bảo người đánh xe đó đưa ông ta đến nhà lao, rồi chàng lên chiếc xe thuê riêng ngồi một mình, theo sau chiếc xe có đệm êm lăn bánh trên tuyết một cách khó khăn. Chàng thấy lòng nặng nề vì phải làm một nhiệm vụ không thú vị gì. Chú thích: (1) Gladstone (1809-1878): một chính khách nổi tiếng, người nước Anh, thủ lĩnh phái Tự do (N.D) Chương 126 Tuy rằng lúc nầy một màu trắng tinh đã phủ cả lối vào lẫn mái nhà và các tường. cảnh tượng buồn thảm của nhà lao với người lính gác cùng ngọn đèn leo lét dưới vòm cổng, với những ánh sáng lờ mờ ở các cửa sổ mặt trước lại còn buồn thảm hơn cả buổi ban mai. Viên giám ngục bệ vệ ra cửa đọc giấy phép của Nekhliudov và người Anh dưới ánh đèn, và nhún đôi vai lực lưỡng tỏ vẻ ngạc nhiên; nhưng tuân lệnh trên, hắn mời hai người theo vào. Hắn dẫn hai người đi qua sân, rồi qua một cái cửa bên phải, lên thang gác, vào văn phòng. Hắn mời hai người ngồi và hỏi có việc gì cần giúp. Khi nghe Nekhliudov nói muốn gặp Maxlova ngay bây giờ, hắn bèn sai một người gác đi tìm, rồi hắn sửa soạn trả lời những câu hỏi của người Anh bắt đầu hỏi, Nekhliudov phiên dịch giúp. Nhà tù làm để chứa bao nhiêu người? - Người Anh hỏi. Hiện nay số tù bị giam là bao nhiêu? Có bao nhiêu nam? Bao nhiêu nữ?… Trẻ con?… Bao nhiêu tù khổ sai? Bao nhiêu tù đi đày? Bao nhiêu người tự nguyện đi theo? Bao nhiêu người ốm? Nekhliudov dịch những lời của người Anh hỏi và viên giám ngục trả lời, nhưng không chú ý gì đến ý nghĩa của những câu nói đó, chàng thấy bối rối, một điều mà chàng không ngờ, khi nghĩ đến cuộc gặp gỡ sắp đến. Chàng đương dịch dở một câu cho người Anh, thì nghe thấy có tiếng chân đi đến gần; cửa phòng mở và như những lần trước, một người gác đi vào, theo sau có Katiusa; khi trông thấy nàng đầu bịt khăn vuông, mặc chiếc áo choàng tù nhân thì chàng cảm thấy lòng thắt lại. "Ta muốn sống, muốn có gia đình, có con cái. Ta muốn sống cuộc đời một con người". Những ý nghĩ đó thoáng qua trong óc chàng khi Katiusa bước nhanh vào phòng, đôi mắt nhìn xuống. Chàng đứng lên, đi vài bước lại gặp nàng; mặt nàng nom nghiêm nghị, không vui, vẫn vẻ mặt như khi nàng trách mắng chàng trước kia, gương mặt đỏ lên rồi tái đi, ngón tay nàng bứt rứt mân mê vạt áo, cặp mắt lúc nhìn chàng, lúc nhìn trở xuống. - Cô đã biết tin cô được ân xá chưa? - Nekhliudov hỏi. - Có người cai ngục đã cho tôi biết. - Vậy khi nào công văn chính thức gửi đến đây thì cô có thể được ra, còn sau nầy sẽ ở đâu thì tuỳ ý cô. Chúng ta sẽ nghĩ… - Tôi còn nghĩ cái gì nữa? - Nàng vội ngắt lời. - Anh Ivanonich Ximonxon đi đâu thì tôi đi đấy. Tuy xúc động nhưng khi nói câu nầy, nàng vẫn ngước mắt lên nhìn chàng và nói nhanh, rành rọt như đã chuẩn bị sẵn tất cả những điều vừa nói. Thực thế ư? – Nekhliudov nói. - Đúng vậy, anh Dmitri Ivanovich ạ, nếu anh ấy muốn tôi chung sống với anh ấy, - nàng ngừng lại như sợ hãi và nói chữa, - nếu anh ấy muốn tôi sống gần anh ấy, thì tôi còn mong ước gì hơn nữa? Tôi phải cho đó là hạnh phúc chứ?… Tôi còn đòi hỏi gì? Nekhliudov nghĩ: "Chỉ một trong hai điều: hoặc là nàng yêu Ximonxon và không thiết gì đến sự hy sinh của ta, hai là nàng vẫn yêu ta mà phải cự tuyệt ta chính là vì lợi ích của ta, nên nàng đã cương quyết cắt đứt đường về, ràng buộc số phận nàng với Ximonxon". Chàng thấy thẹn thùng và cảm thấy mình đương đỏ mặt. - Nếu cô yêu anh ấy…, - chàng nói. - Yêu hay không yêu thì có nghĩa lý gì? Cái đó tôi không còn nghĩ đến nữa. Vả lại Vladimir Ivanovich là một người đặc biệt. - Cố nhiên, - Nekhliudov nói. - Anh ấy là một người rất tốt và tôi nghĩ rằng… Nhưng nàng đã ngắt lời chàng, có vẻ như sợ phải nghe một câu không cần thiết hay mình chưa nói hết lời. - Không, anh Dmitri Ivanovich, anh phải tha lỗi cho tôi nếu tôi không làm theo ý anh - và nàng liếc mắt nhìn chàng với khóe mắt hiêng hiếng huyền bí - Sự thể phải như thế. Còn anh, anh cũng phải sống chứ? - Những lời nàng nói đúng y như lời chàng vừa mới nghĩ một lúc trước đây; nhưng bây giờ chàng không nghĩ thế nữa, điều chàng nghĩ và cảm thấy đã khác hẳn. Chàng không những thẹn thùng mà còn thấy tiếc thương tất cả những cái gì phải cùng mất theo với nàng. - Tôi không ngờ thế nầy, - chàng nói. - Anh sống ở đây và đau khổ làm gì? Anh đã đau khổ nhiều rồi, - nàng nói với một nụ cười kỳ lạ. - Tôi không hề đau khổ, trái lại tôi lấy thế làm sung sướng và muốn tiếp tục giúp cô, nếu được. - Chúng tôi, - khi nói hai tiếng "chúng tôi", nàng ngước mắt nhìn Nekhliudov, - Chúng tôi không thấy thiếu gì hết. Anh đã giúp đỡ tôi nhiều rồi. Nếu không có anh… - nàng muốn nói điều gì nữa nhưng giọng nói bắt đầu run run. - Dù sao, cô cũng đừng nên cảm ơn tôi, - Nekhliudov nói. - Thôi, tính toán với nhau làm gì? Chúa sẽ soi xét cho chúng ta, - Maxlova nói, và nơi khóe mắt đen láy, long lanh mấy giọt lệ. - Cô thật là tốt? - Tôi mà tốt? - Nàng nói, giọng đầy nước mắt, nét mặt tươi lên với một nụ cười thê thảm. Ông xong chưa? - người Anh hỏi. - Tôi xong ngay bây giờ, - Nekhliudov trả lời, và hỏi thăm nàng về Krinxov. Nàng trấn tĩnh lại và ôn tồn kể cho chàng nghe tất cả những điều nàng biết: dọc đường Krinxov yếu lắm, và lập tức đã được đưa ngay đi bệnh xá. Maria Paplovna hết sức lo lắng, chị xin phép đến trông nom săn sóc anh, nhưng không được. - Thôi tôi đi nhé? - Nàng hỏi, vì thấy người Anh đang đợi. - Tôi chưa chào chia tay với cô đâu, tôi sẽ còn gặp cô, Nekhliudov đưa tay ra nói. - Anh tha lỗi cho, - nàng nói khe khẽ; cặp mắt hai người gặp nhau và trong khóe mắt kỳ lạ hơi hiêng hiếng, trong nụ cười thê thảm khi nàng nói mấy lời "Anh tha lỗi cho" chứ không phải "Thôi xin chia tay", Nekhliudov thấy giữa hai lý do, đúng là lý do thử hai đã dẫn nàng đến quyết định nầy. Nàng vẫn yêu chàng và đã nghĩ là gắn bó thân thể mình với chàng, nàng sẽ làm hại đời chàng; còn đi với Ximonxon và để chàng được tự do. Và giờ đây, nàng vui mừng là đã làm được theo ý mình, nhưng nàng vẫn thấy đau đớn vì nỗi phải xa chàng. Nàng nắm chặt tay chàng, vội vã quay đi và ra khỏi phòng. Nekhliudov nhìn về phía người Anh, sửa soạn đi theo, nhưng vì thấy người ấy đương ghi chép cái gì đó vào sổ tay, chàng không muốn làm ngắt quãng, nên ngồi xuống một chiếc ghế dài bằng gỗ đặt bên cạnh tường; bỗng nhiên chàng cảm thấy mệt mỏi lạ thường. Chàng mệt không phải vì đêm qua mất ngủ hay vì đi đường vất vả, cũng không phải vì xúc cảm mà là vì thấy mệt mỏi ghê gớm về cuộc sống. Chàng ngả lưng trên chiếc ghế dài, nhắm mắt lại, và trong một lúc, ngủ thiếp đi một giấc nặng nề như chết. - Nào bây giờ các ông có đi thăm nhà tù không? Viên giám ngục hỏi. Nekhliudov tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình ngồi ở nơi nầy. Người Anh đã ghi chép xong và tỏ ý muốn đi thăm các xà lim. Nekhliudov, mệt mỏi, thờ thẫn đi theo. Chương 127 Khi đi qua lối vào dãy hành lang hôi thối nồng nặc đến lộn mửa, họ ngạc nhiên thấy có hai người tù đang đái bừa ra sàn. Người Anh, Nekhliudov, viên giám ngục có các viên cai ngục đi theo đưa đường cùng vào buồng giam thứ nhất, nhất tù khổ sai. Tù đã đi nằm, trên các tấm phản ở giữa phòng. Có đến bảy chục người, nằm sít vào nhau và xoay đầu lại với nhau. Thấy khách vào, mọi người nhổm dậy, xích kêu loảng xoảng, và tất cả đứng xuống ở bên dãy phản, đầu họ mới cạo, nhẵn bóng. Chỉ có hai người vẫn nằm, một người mặt đỏ bừng, rõ ràng là đương sốt nặng và một người già đang rên luôn miệng. Người Anh hỏi người tù trẻ ốm đã lâu chưa. Viên giám ngục trả lời là mới từ sáng nay, còn người già thì đau bụng từ lâu, nhưng không thể cho đi bệnh xá được vì ở đấy đã chật chỗ. Người Anh lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý, và nói là muốn có vài lời nói chuyện với tù nhân, nhờ Nekhliudov dịch hộ. Thì ra ngoài mục đích nghiên cứu tình hình các trại tù đi đày và trại giam ở Siberi ra, người Anh nầy còn có mục đích truyền bá sự cứu rỗi bằng Đức Tin và Chuộc tội. - Ông làm ơn bảo họ là Chúa Cơ-đốc thương yêu họ và đã chết vì họ, - người Anh nói. - Nếu họ tin thế thì họ sẽ được cứu rỗi. - Trong khi ông ta nói, tất cả tù nhân đều đứng yên lặng tại chỗ, tay buông thõng. Rồi người Anh nói tiếp - Ông nói với họ là trong cuốn sách nầy có nói tất cả những điều đó. Ở đây có ai biết đọc không? - Có đến hơn hai mươi người đọc được. Người Anh lấy trong chiếc túi xách tay ra vài cuốn Tân Ước đóng gáy dày; từ những ống tay áo vải, thò ra những bàn tay to khỏe, móng đen sì, tranh nhau chìa về phía người Anh. Người ấy để lại hai cuốn kinh Phúc âm rồi sang phòng bên. Ở phòng thứ hai, quang cảnh cũng thế. Cũng hơi nóng hầm hập, cũng mùi hôi thối và, cũng y như thế, giữa hai cửa sổ có tượng Chúa; bên trái cửa là một thùng phân. Tất cả tù nhân đều nằm sít cạnh nhau, họ cũng nhổm dậy và đứng thẳng buông thõng tay, như thế - trừ có ba người: hai người ngồi còn một người cứ nằm dài, mắt cũng không buồn ngó nhìn những người mới vào. Ba người nầy cũng ốm. Người Anh nói vẫn những lời đã nói ở phòng bên và cũng để lại hai cuốn kinh Phúc âm. Tiếng người kêu, tiếng ầm ĩ xà lim thứ ba vang lại. Viên giám ngục gõ cửa và quát "Nghiêm". Khi cửa mở, khách vào thăm lại thấy tù nhân đứng thẳng bên cạnh dãy phản, trừ vài người ốm và hai người đang đánh nhau; mặt hai người cau có vì tức giận, họ đang túm lấy nhau, người nắm tóc, người nắm râu. Viên giám ngục phải chạy lại can, họ mới bỏ nhau ra. Một người mũi bị chảy máu, đương lấy tay áo quệt mũi dài đỏ lòm, còn người kia gỡ từng đám râu bị đứt ra. - Cai đâu? - Viên giám ngục nghiêm nghị quát. Một người phương phi, khỏe mạnh bước ra. - Thưa quan lớn, tôi không sao dẹp yên chúng nó được? - người cai nói, khóe mắt cười ranh mãnh. - Để tao sẽ dẹp chúng nó cho - viên giám ngục nói, mặt cau lại. - Vì cớ gì họ đánh nhau thế? - người Anh hỏi. Nekhliudov hỏi lại người cai. - Vì một chiếc dải xà cạp, - người cai lại cười nói - thằng kia xoáy của thằng nầy. Thằng nầy đẩy cho nó một cái, rồi thằng kia chẳng chịu kém, cũng đẩy lại. Nekhliudov nói lại cho người Anh hiểu. - Tôi muốn nói với họ mấy lời, - người Anh nói với viên giám ngục, Nekhliudov dịch lại. Viên giám ngục nói: "Được, ông cứ nói". Người Anh lấy ra một cuốn kinh Phúc âm bọc da. - Nhờ ông dịch họ cho đoạn nầy, - ông ta nói với Nekhliudov - Các anh đã cãi nhau rồi đánh nhau, nhưng Chúa Cơ đốc là người đã chết cho chúng ta, dạy ta một cách khác để giải quyết sự tranh giành cãi cọ. Ông hỏi xem họ có biết theo luật của Chúa thì ta phải xử sự thế nào đối với kẻ làm nhục ta không? Nekhliudov dịch lời nói và câu hỏi của người Anh. - Kêu với cấp trên phân rõ phải trái, có phải thế không ạ? - Một tù nhân hỏi, đồng thời liếc nhìn viên giám ngục oai vệ. - Cho nó một quả vào quai hàm để nó chừa, lần sau đừng có láo nữa, - một người khác nói. Trong phòng có nhiều tiếng cười, tỏ ý tán thành. Nekhliudov dịch những câu trả lời của họ cho người Anh. - Ông bảo với họ là theo luật của Chúa thì họ phải làm trái hẳn lại; nếu anh bị tát vào một bên má thì phải chìa nốt má bên kia ra, - người Anh vừa nói, vừa chìa má mình ra để diễn tả. Nekhliudov dịch lại. - Thế thì anh ta hãy cứ thử làm trước đi xem sao có tiếng nói. - Nhưng nếu nó lại tát vào cả má kia thì sau đó chìa cái gì ra. - một người ốm đang nằm hỏi vặn lại. - Thế thì nó trần cho anh nhừ tử. - Nầy thôi, hãy cứ thử đi đã, - có người nào nói ở phía sau và cười sằng sặc. Mọi người trong phòng đều không nhịn được cười; cả anh chàng bị đánh, cũng cười. Mấy người ốm cũng cười. Nhưng người Anh không hề bối rối. Ông ta nhờ Nekhliudov nói là đối với những người tin theo Chúa thì những điều tưởng là khó không thể làm được vẫn có thể làm được, mà còn dễ dàng nữa là khác. - Ông hỏi xem họ có uống rượu không? - Hẳn là có rồi, - có tiếng nói, rồi tiếp theo là tiếng khịt mũi chế nhạo và tiếng cười rộ. Trong phòng có bốn người ốm. Người Anh hỏi sao không tập trung tất cả những người ốm vào một buồng thì viên giám ngục trả lời là tù họ không muốn thế, vả lại vẫn có y sĩ trông nom thuốc thang cho họ. - Đã hai tuần nay có trông thấy mặt nó đâu? - Một người nói. Viên giám ngục không trả lời và dẫn khách sang xà lim bên cạnh. Lại mở khoá cửa, lại tù lặng lẽ đứng dậy. Và người Anh lại phát mấy cuốn kinh Phúc âm. Cứ như thế đến phòng thứ năm, thứ sáu, ở cả hai bên phải, và bên trái hành lang. Họ đi từ xà lim tù khổ sai đến xà lim tù bị đày; từ xà lim tù bị đày đến xà lim tù bị hàng xã trục xuất, rồi đến phòng các người tự nguyện đi theo thân nhân, đến chỗ nào cũng thấy những người đói rét, ngồi rỗi, ốm đau, tủi nhục, giam cầm - chẳng khác những loài dã thú. Người Anh khi đã phân phát đủ số kinh Phúc âm dự định phát rồi, thôi không phát thêm nữa, và cũng không thuyết nữa. Hẳn là những cảnh buồn thảm, nhất là không khí ngột ngạt, nghẹt thở đã làm cho nghị lực ông ta mềm nhũn ra. Ông ta đi từ xà lim nọ sang xà lim kìa và khi viên giám ngục giới thiệu tù nhốt trong mỗi phòng, ông ta chỉ nói gọn một tiếng "Tốt". Nekhliudov bước đi như người trong mộng, không đủ sức cáo từ không đi nữa, hoặc bỏ ra về; chàng vẫn cảm thấy mệt mỏi và tuyệt vọng như trước. Chương 128 Trong một phòng giam tù đi đày, Nekhliudov ngạc nhiên thấy cả ông cụ già kỳ dị chàng gặp ban sáng khi đi qua phà. Ông già đầu tóc bù xù, da nhăn nheo, chân đi đất chỉ mặc một chiếc áo cánh bẩn, màu tro, đã toạc ra vai; quấn cũng thế. Ông ta ngồi ở dưới sàn gần mép phản, nhìn những người mới đến bằng con mắt nghiêm khắc, xoi mói. Thân hình ông già gầy còm, thấy rõ qua những lỗ rách thủng trên áo lót nhem nhuốc, trông thật thảm hại; nhưng nét mặt lại lộ rõ thần sắc nghiêm nghị, tỉnh táo hơn cả lúc qua phà. Ở đây cũng như ở các phòng giam khác, khi viên giám ngục bước vào thì tù nhân nhỏm cả dậy và đứng thẳng, duy có ông già nầy vẫn cứ ngồi yên. Mắt ông ta sáng lên, lông mày cau lại một cách giận dữ. - Đứng dậy! Viên giám ngục quát. Nhưng ông ta không nhúc nhích, chỉ cười một cách ngạo nghễ. - Đầy tớ nhà anh mới phải đứng trước mặt anh. Anh có cái dấu in ở kia kỳa… - ông già nói và chỉ lên trán viên giám ngục. - Cái gì… ì… ì, - viên giám ngục bước về phía ông ta và nói, giọng nạt nộ. - Tôi biết người nầy, - Nekhliudov vội nói. - ông ta bị bắt vì cớ gì vậy? - Cảnh sát họ tống nó vào đây vì nó không có giấy tờ. Chúng tôi đã đề nghị là đừng dẫn vào đây cái giống nầy, nhưng nó cứ đưa tất cả đến, - viên giám ngục nói, hằn học liếc nhìn ông già. - Mà cả anh nữa, anh cũng ở trong hàng ngũ quân phản Chúa Cơ-đốc à? - ông già hỏi Nekhliudov. - Không, tôi là khách đến thăm, - Nekhliudov nói. - Thế nào, anh đến xem những tên phản Chúa hành hạ người à? Thế thì trông đấy. Nó bắt bớ giam cầm người ta từng đoàn, từng lũ. Người đời phải vắt mồ hôi trán ra mới có miếng ăn, vậy mà nó nhốt người ta lại, nuôi cho ăn mà chẳng làm gì, như những con lợn ấy, để cho tất cả biến thành giống thú vật. - Hắn ta nói gì thế? Người Anh hỏi. Nekhliudov nói là ông già đang trách giám ngục giam giữ người. - Ông hỏi lão ta, vậy theo ý lão thì phải đối xử thế nào với những người không tôn trọng pháp luật? - người Anh nói. Nekhliudov dịch câu hỏi. Ông già phá lên cười một cách quái gở, nhe cả hai hàm răng đều đặn. - Pháp luật? - Ông lão nhắc lại một cách khinh bỉ, - trước tiên nó cướp đoạt của người ta lấy tất cả về riêng cho nó. Ai chống lại thì nó giết, xong rồi nó mới ra các đạo luật cấm cướp, cấm giết. Đáng lẽ nó phải ra những đạo luật cấm cướp, cấm giết. Đáng lẽ nó phải ra những đạo luật đó sớm hơn? Nekhliudov dịch lại. Người Anh mỉm cười. - Nhưng dẫu sao thì bây giờ cũng phải xử thế nào với quân cướp của giết người chứ, ông thử hỏi lão ta xem. Nekhliudov dịch lại câu đó. - Anh hãy bảo nó là hãy vứt cái đầu phản Chúa trên người nó đi, - ông già nói, mặt hằm hằm, - thì nó thấy không có quân cướp của giết người nào cả. Anh bảo nó thế. Nekhliudov dịch xong những lời nói của ông già, thì người Anh nói: - Lão ta điên! - rồi nhún vai đi ra. - Anh hãy lo lấy phận sự của mình và để mặc người khác đấy! Ai hãy lo phận người nấy. Chỉ có Chúa mới biết phải trừng phạt ai, tha thứ cho ai, còn chúng ta không biết được đâu. - ông già nói. - Mình hãy làm chủ lấy mình thì tự khắc không cần phải ai làm chủ nữa. Thôi đi đi, đi đi, - ông ta nói thêm, đôi hàng lông mày chau lại, giận dữ, cặp mắt sáng quắc nhìn Nekhliudov lúc đó chưa ra khỏi phòng giam. - Anh đã xem thấy rõ bọn tôi tớ của quân phản Chúa Cơ đốc đem da thịt con người làm mồi cho chấy rận chưa? Cút đi! Cút đi! Khi Nekhliudov ra ngoài hành lang thì người Anh đương đứng với viên giám ngục chỗ gần khung cửa mở của một gian phòng vắng vẻ và hỏi là phòng gì. Viên giám ngục cho biết là nhà xác. Nekhliudov dịch lại. - Ồ! - Người Anh thốt ra một tiếng và tỏ ý muốn vào. Nhà xác là một gian buồng bình thường, không rộng lắm. Trên tường treo một ngọn đèn chiếu lờ mờ, vài cái bị và bao tải để chất đống ở một xó với mấy thanh củi, bên phải có bốn xác chết nằm trên ván bục. Xác đầu tiên mặc áo cánh và quần bằng vải thô, người to lớn, có bộ râu ngắn nhọn, đầu cạo trọc một nửa. Cái xác đã cứng đờ hai bàn tay đã tím lại, lúc trước chắc hẳn chắp lên ngực, nay choãi ra, mỗi bàn chân chĩa ra một phía. Cạnh xác nầy là xác một người đàn bà già, đầu không mũ, chân không tất, váy áo trắng, mớ tóc lơ phơ không bịt khăn, gương mặt nhỏ, da nhăn nheo vàng bệch, mũi nhọn. Sau xác bà nầy là xác một người đàn ông có phủ một tấm khăn màu đỏ tía. Thấy màu vải, Nekhliudov chợt nhớ ra một điều gì đó. Chàng lại gần nhìn kỹ. Bộ râu xinh xinh, ngắn nhọn cong ngược lên, cái mũi dọc dừa, đẹp đẽ, vừng trán cao trắng, mái tóc cuốn xoăn, chàng nhận ra những nét quen thuộc, nhưng còn chưa tin ở mắt mình vừa hôm qua còn trông thấy khuôn mặt đó, bừng bừng phẫn nộ, đau khổ, bây giờ bình thản, im lìm và đẹp lạ lùng. Phải, đó là Krinxov, hay ít ra đó cũng là cái gì còn lại ở hình hài anh. "Vì đâu anh ta đau khổ? Anh ta đã sống để làm gì? Bây giờ anh ta đã hiểu chưa?" - Nekhliudov nghĩ ngợi và hình như không có câu trả lời, không có gì nữa ngoài cái chết ra, và chàng thấy mặt mày xây xẩm. Không chào từ biệt người Anh, Nekhliudov nhờ người cai ngục đưa chàng ra sân phía trước cửa; và cảm thấy cần phải ngồi một mình để suy nghĩ về tất cả những gì đã xảy ra chiều nay, chàng lên xe đi về phía khách sạn. Chương 129 (chương kết) Nekhliudov chưa đi ngủ vội, chàng cứ đi đi, lại lại trong phòng rất lâu. Công việc với Katiusa thế là đã xong. Nàng không cần đến chàng nữa, điều đó làm cho chàng vừa buồn vừa thẹn. Nhưng giờ đây cái đó không phải là điều làm cho chàng băn khoăn. Có một việc khác, chẳng những chưa làm xong mà nó còn khiến cho chàng phải băn khoăn lo nghĩ hơn bao giờ hết và cũng đòi hỏi chàng phải ra tay hoạt động. Tất cả những cảnh độc ác rùng rợn chàng đã mắt thấy tai nghe trong thời gian vừa qua, đặc biệt là hôm nay, trong nhà lao khủng khiếp kia những sự độc ác đã giết chết anh Krinxov đáng yêu, những sự độc ác đó hiện đang ngự trị, tràn ngập khắp nơi. Thế mà chàng không thấy có khả năng nào để diệt trừ đi được, ngay đến dùng cách nào để diệt trừ cũng không biết nữa. Trong trí tưởng tượng của chàng hiện ra hàng trăm, hàng nghìn người đau khổ, nhục nhã, bị bọn tướng tá, chưởng lý, giám ngục lãnh đạm kia giam hãm trong đám hơi thối tha, bệnh hoạn. Chàng nhớ tới ông già kỳ quái, phóng túng, đã vạch tội bọn cầm quyền nên được coi là điên dại, nhớ tới gương mặt tuấn tú, vàng nhợt của Krinxov, chết còn giận hờn, giữa mấy tử thi. Và câu hỏi đã đặt ra trước kia phải chăng chàng, Nekhliudov, điên hay kẻ điên chính là những kẻ tự cho mình là khôn ngoan, đã làm tất cả những điều kia? Câu hỏi đó quay cuồng mãnh liệt hơn trong óc chàng và đòi hỏi phải được trả lời. Đi đi lại lại và suy nghĩ đã mệt, chàng ngồi xuống chiếc đi-văng kê gần ngọn đèn, và tiện có quyển kinh Phúc âm người Anh lúc nãy tặng chàng làm kỷ niệm - mà khi về chàng đã rút ở túi ra quẳng lên trên bàn - chàng thuận tay mở ra, nghĩ bụng: "Họ bảo là có thể thấy trong sách nầy câu trả lời cho tất cả mọi vấn đề; chàng mở cuốn kinh Phúc âm và bắt đầu đọc đoạn thánh Mathieu, chương XVII. 1. Lúc đó đồ đệ đến gần Chúa Jesus và hỏi: ai lớn nhất trên Thiên đường. 2. Chúa Jesus gọi một đứa trẻ lại và đặt nó ở giữa bọn họ. 3. Và nói: Ta nói thực với các người là nếu các người không cải giáo đi theo đạo và không trở thành như những trẻ thơ thì các người không thể lên Thiên đường được. 4. Vì vậy ai tự hạ mình xuống như đứa trẻ nhỏ nầy, kẻ đó sẽ lớn nhất trên Thiên đường. "Phải, phải, đúng thế đấy, Nekhliudov nghĩ và chàng nhớ lại chàng chỉ thấy mình thư thái và vui sống khi tự hạ mình xuống". 5. Và người nào nhân danh ta đón tiếp lấy một đứa trẻ như vậy tức là đón tiếp ta đó. 6. Còn kẻ nào làm cho số phận những đứa trẻ tin ở ta đó bị sa ngã thì tốt hơn hết là đem buộc vào cổ kẻ đó một cái cối đá vứt nó xuống đáy bể. - Tại sao ở đây lại nói: người nào đón tiếp mà đón tiếp vào đâu? Và "nhân danh ta" nghĩa là gì? Chàng tự hỏi như vậy, thấy những chữ đó không có nghĩa gì đối với chàng cả. Và tại sao lại "buộc cối vào cổ và quẳng xuống đáy bể". Không, ở đây có cái gì không xuôi, không chính xác, không rõ ràng. Và chàng nhớ lại lời chàng đã mấy lần mang kinh Phúc âm ra đọc khi gặp đến những chỗ tối nghĩa như vậy, đã phát ngấy mà bỏ. Chàng tiếp tục các đoạn thứ 7, thứ 8, thứ 9, thứ 10 nói về những trường hợp sa ngã - ở cõi đời thật không tránh khỏi sa ngã; về con người phải chịu hình phạt chết thiêu trong vạc dầu, dưới địa ngục; về Chúa Cha trên Trời. Chàng nghĩ: "Thật đáng tiếc là lại thiếu mạch lạc đến thế. Song người ta cũng cảm thấy có điều gì hay hay trong đó" 11. Vì con trai của người đến để cứu vớt những gì đã mất, - chàng tiếp tục đọc. 12. Các người nghĩ sao? Nếu một người có một trăm con cừu mà một con bị lạc, anh ta để chín mươi chín con trên núi đấy để đi tìm con cừu lạc kia không? 13. Và nếu anh ta tìm thấy nó, thì ta nói chắc chắn với các người là con cừu đó làm cho anh ta sung sướng hơn là chín mươi chín con không bị lạc. 14. Cho nên Đức Chúa Cha trên đời cũng vậy, Người không muốn để mất một đứa con nào trong bọn trẻ thơ nầy cả. "Phải, Chúa Cha không muốn một đứa nào phải chết nhưng ở đây chúng chết hàng trăm, hàng ngàn. Và không có phương kế nào cứu chúng cả", - chàng nghĩ và lại đọc tiếp: 21. Lúc đó Pie đến gần Chúa và hỏi: Lạy Chúa! Anh em tôi có lỗi với tôi, tôi sẽ tha thứ cho họ bao nhiêu lần! Có đến bảy lần không ạ 22. Chúa Jesus trả lời: Ta không bảo đến bảy lần mà đến bảy mươi lần. 23. Bởi vì thế cho nên Thiên đường cũng giống như một ông vua nào đó tính số nợ với tôi tớ. 4. Khi ông vua bắt đầu tính thì người ta dẫn đến một tên đầy tớ nợ ông một vạn đồng. 25. Vì tên đó không có gì để trả được nợ, ông vua bèn ra lệnh đem bán nó, vợ con nó, và tất cả những gì nó có thể trả món nợ. 26. Tên đầy tớ bèn quỳ xuống lạy ông vua và nói: xin Nhà vua hãy khoan cho, tôi sẽ xin trả hết. 27. Động lòng thương, ông vua tha cho tên đầy tớ và không đòi món nợ nữa. 28. Tên đầy tớ nầy ra bên ngoài, gặp một người bạn nợ nó một trăm xu. Nó bèn túm lấy bạn bóp cổ và nói: trả nợ tao đây! 29. Bạn nó sụp ngay xuống đất lạy van nó: Xin anh hãy thư cho, tôi sẽ xin trả đủ. 30. Nhưng thằng kia không nghe, nó bỏ tù con nợ cho đến khi trả xong nợ. 31. Bạn bè nó thấy sự thể như vậy rất lấy làm buồn, bèn đi kể lại đầu đuôi câu chuyện cho ông vua nghe. 32. Ông vua cho gọi tên đầy tớ kia đến và bảo: mày là một đứa độc ác, ta đã tha cho mày cả món nợ vì mày đã kêu xin ta. 33. Vậy sao mày không thương bạn mày như ta đã thương mày? "Phải chăng chỉ có thế thôi?" Nekhliudov bỗng nói to lên, và từ bên trong toàn thể con người chàng, một tiếng nói thân thiết đáp lại: "Phải, chỉ có thế thôi". Và sự thể xảy đến với Nekhliudov cũng giống như sự thể vẫn thường xảy đến với những người quen sống một cuộc đời tinh thần. Có khi một ý nghĩ ban đầu xem ra thật kỳ quái, ngược đời, thậm chí tức cười nữa, nhưng về sau được cuộc sống ngày càng chứng thực, nó vụt biến thành chân lý đơn giản nhất, xác thực nhất. Hiện nay, chàng cũng có một ý nghĩ như thế rất rõ ràng: chỉ có một cách chắc chắn duy nhất để cứu vớt con người thoát khỏi những sự độc ác ghê gớm làm cho họ đau đớn, là mọi người phải luôn luôn tự nhận là mình có tội trước Chúa và đã như thế thì không đủ tư cách để trừng phạt và uốn nắn kẻ khác. Giờ đây, chàng đã thấy rõ ràng những sự độc ác rùng rợn chàng đã chứng kiến trong các trại giam, các nhà tù cùng thái độ bình tĩnh tự tin của những người gây nên những điều độc ác đó đều chỉ tại ở chỗ người đời muốn làm cái việc không thể nào làm được: là bản thân mình ác, lại đi sửa chữa điều ác. Những kẻ xấu xa hư hỏng lại muốn sửa chữa cho những kẻ xấu xa hư hỏng và tưởng đạt được kết quả bằng những biện pháp cứng nhắc. Thành thử những kẻ tham lam, túng thiếu lấy cái việc trừng phạt và sửa chữa hão đó cho con người làm nghề nghiệp của mình, trong khi bản thân chúng sa doạ đến tột cùng và không ngừng làm cho những người mà chúng hành hạ phải sa đoạ. Bây giờ thì chàng đã thấy rõ bởi đâu mà có những điều khủng khiếp chàng đã trông thấy và phải làm gì để diệt trừ cho hết những cảnh ấy đi. Câu trả lời trước kia chàng không tìm ra được chính là câu mà Chúa Cơ-đốc nói với Pi-e: phải luôn luôn tha thứ cho mọi người, phải tha thứ rất nhiều lần, là vì không có ai là không phạm tội và vì vậy: họ không thể trừng phạt hay sửa chữa người khác được. "Nhưng không thể nào giản đơn như thế được", Nekhliudov tự nghĩ. Chàng thấy chắc chắn tuy lúc đầu thấy có vẻ kỳ lạ thật vì xưa nay chàng vốn quen đặt ngược lại vấn đề, - đấy là cách giải quyết vấn đề không những về mặt lý thuyết mà cả về mặt thực tiễn nữa. Câu hỏi vặn muốn thuở về cách xử trí đối với những kẻ làm điều ác: "Phải chăng cứ để chúng không bị trừng phạt" - từ nay không còn khiến chàng phải băn khoăn nữa. Câu hỏi vặn ấy chỉ có giá trị nếu người ta chứng thực được rằng trừng phạt sẽ làm giảm bớt số hành vi có tội và sửa chữa cho tội nhân khá lên. Nhưng khi mà điều ngược hẳn lại đã chứng minh, khi đã rõ rành rành là một số người nầy không làm gì có quyền sửa chữa cho kẻ khác, thì cái điều duy nhất hợp lý là anh có thể làm được là đừng làm việc gì đã vô ích lại có hại, hơn nữa còn vô đạo đức và tàn nhẫn nữa. Từ bao nhiêu thế kỷ nay những người được coi là phạm trọng tội đã bị xử sự. Thế mà có tiêu diệt được hết những kẻ đó không? Chẳng những họ không bị tiêu diệt, mà số lượng bọn họ còn tăng lên vì có thêm con số những phạm nhân bị hình phạt làm cho sa đoạ và cả con số những phạm nhân hợp pháp như ngài thẩm phán, chưởng lý, các quan toà và giám ngục - những kẻ vẫn xét xử trừng phạt người khác. Bây giờ Nekhliudov mới hiểu sở dĩ xã hội và trật tự xã hội tồn tại được không phải vì có những phạm nhân hợp pháp kia ngồi xét xử và trừng phạt người khác, mà là vì mặc dầu sa đoạ như vậy con người ta vẫn thương xót, yêu mến lẫn nhau. Mong thấy ý nghĩ đó được xác định trong kinh Phúc âm, Nekhliudov đọc lại quyển sách đó từ đầu. Khi chàng đọc đến bài Răn trên núi - là một bài bao giờ chàng đọc lại cũng thấy xúc động - thì hôm nay lần đầu tiên chàng thấy trong bài đó, không phải chỉ là những tư tưởng trìu tượng tốt đẹp, phần lớn nêu ra những yêu cầu quá đáng, không sao thực hiện được, mà là những điều răn giản dị, rõ ràng và thực tế có thể được; và nếu những điều răn nầy được thực hiện (mà cái đó mười phần có thể được cả mười) thì sẽ dựng lên được một thể chế hoàn toàn mới cho xã hội loài người, trong đó không những mọi sự tàn bạo - điều mà Nekhliudov hết sức căm giận - sẽ tự tiêu ma đi, mà còn có thể xây dựng nên hạnh phúc lớn nhất loài người có thể đạt được - đó là Thiên đường trên mặt đất. Cả thảy có năm điều răn: Điều thứ nhất (Mathieu, chương 5, đoạn 21 đến đoạn 26) nói người ta chẳng những không được giết mà còn không được tức giận anh em, không được coi khinh ai là chẳng ra gì, là "đồ nọ, đồ kia", và nếu có cãi nhau với ai thì phải làm lành với người đó trước khi dâng lễ lên Chúa, nghĩa là trước khi cầu nguyện. Điều thứ hai (Mathieu, chương 5, đoạn 27 đến đoạn 32) nói người ta chẳng những không được làm điều dâm dật, mà còn phải tránh không được tìm thú vui trong sắc đẹp phụ nữ và nếu đã một lần ăn ở với một người đàn bà nào thì không bao giờ được phụ bạc người ấy. Điều thứ ba (Mathieu, chương 5, đoạn 33 đến đoạn 37) nói người ta không nên tự ràng buộc mình bằng lời thề. Điều thứ bốn (Mathieu chương 5 đoạn 38 đến đoạn 42) nói người ta chẳng những không được ăn miếng trả miếng, mà khi bị tát vào má bên nầy, phải chìa má bên kia ra; khi bị xúc phạm phải tha thứ và nhẫn nhục, chịu đựng, và không bao giờ từ chối khi người khác yêu cầu mình giúp. Điều thử năm (Mathieu, chương 5, đoạn 43 đến đoạn 48) nói người ta chẳng những không được căm giận kẻ thù, không được đánh nhau với chúng, mà còn phải yêu chúng, giúp chúng, phục vụ chúng. Nekhliudov lặng lẽ ngồi mắt đăm đăm nhìn ngọn đèn. Nghĩ tới bộ mặt xấu xa của cuộc đời nầy, chàng thấy rõ là nếu con người được dạy dỗ theo những nguyên tắc kia thì cuộc đời có thể tốt đẹp biết mấy và tâm hồn chàng tràn ngập một niềm phấn khởi từ lâu chưa từng thấy, khác nào sau những cơn lo lắng và đau khổ dẳng dai, lòng chàng bỗng nhiên thấy thư thái và phóng khoáng. Suốt đêm chàng không ngủ, và cũng như thường vẫn xảy ra đối với rất nhiều người đọc kinh Phúc âm, lần đầu tiên chàng mới hiểu được đầy đủ ý nghĩa của những dòng chữ trước kia đã đọc đi đọc lại bao nhiêu lần mà không nhận ra. Như chất xốp hút nước, chàng hút cạn lấy tất cả những gì thiết yếu, là trọng đại, là sảng khoái thất nhiên thấy được trong quyển sách đó. Những điều chàng đọc được tưởng chừng như rất quen thuộc, dường như nó khẳng định thêm, khiến cho chàng nhận thức sâu thêm những điều đã biết từ lâu trước kia nhưng chưa hề hnh hội được đầy đủ và chưa tin tưởng. Bây giờ thì chàng đã lĩnh hội được và đã tin. Chẳng những chàng hiểu và tin rằng, nếu người ta thực hiện những lời rãn đó thì có thể đạt được hạnh phúc cao nhất mà người ta cố thể đạt được, mà chàng còn hiểu và tin rằng nhiệm vụ duy nhất của bất cứ ai là làm sao thực hiện trọn vẹn những điều răn đó, rằng ý nghĩa duy nhất của đời người là ở chỗ đó, vi phạm các điều răn đó là sai lầm và tức khắc chuốc lấy vào thân sự trừng phạt. Điều đó toát ra từ toàn bộ lời dạy, nhất là ở đoạn câu chuyện những người trồng nho thì lại đặc biệt mãnh liệt và rõ ràng. Những người làm công được chủ sai đến làm ở vườn nho, lại tưởng vườn đó là của mình: họ tưởng mọi vật trong đó đều dành cho họ và công việc của họ là thưởng thức thú vui cuộc đời trong mảnh vườn đó; họ quên bẵng người chủ và giết tất cả những ai nhắc họ nhớ đến người chủ, đến phận sự của họ đối với người chủ. "Phải chăng chúng ta cũng đang hành động y như thế. - Nekhliudov nghĩ bụng, - khi chúng ta sống và yên trí tin tưởng một cách vô lý rằng mình là chủ nhân cuộc đời mình, mình sống là để hưởng lạc thú, điều đó thật rõ ràng là ngu xuẩn. Ta được phái đến cõi đời nầy là do ý muốn của một đấng nào đó và vì một mục đích nào đó. Thế mà ta lại định tâm sống để hưởng vui thú riêng cho mình thôi, như vậy cố nhiên là sê xảy ra những điều chẳng lành cho ta cũng như những điều chẳng lành đối với người không làm theo ý muốn của chủ. Ý muốn của chủ biểu hiện trong những điều răn kia. Khi người ta thực hiện những điều răn đó thì lập tức Thiên đường sẽ có ngay ở trên mặt đất, và người ta đạt được hạnh phúc lớn nhất có thể đạt được. "Hãy tìm Thiên đường và chân lý của nó đã, còn tất cả những cái khác sẽ đến với anh". Thế nhưng chúng ta lại chỉ tìm những cái khác thôi, và tất nhiên là chúng ta không tìm được. "Đó công việc của đời ta là thế. Vừa mới xong việc nầy, thì việc khác đã bắt đầu" Từ đêm hôm đó, Nekhliudov thấy mình bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới, không phải vì chàng bước vào hoàn cảnh sống mới mà là vì đấy về sau, mọi việc chàng làm đều có ý nghĩa khác hẳn trước. Giai đoạn mới của cuộc đời chàng sẽ kết thúc ra sao, chỉ tương lai mới chứng thực được. HẾT |
Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:49 PM. |
Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.