![]() |
Ông Ích Khiêm (1840-1890) Nguyễn Quý Ðại Tiểu sử Ông Ích Khiêm sinh năm 1840 làng Phong Lệ, phủ Ðiện Bàn tỉnh Quảng Nam. Nguồn gốc dòng dõi họ Ong sống vùng cao nguyên, đời Tự Ðức (1847-1883), thi đỗ cử nhân, vua cho bỏ chữ trùng một bên, thành chữ Ông, từ đó có dòng họ Ông Ích tại Quảng Nam. Sau khi thi đậu được bổ dụng làm quan chức Tiễu phủ sứ. Giai thoại hồi nhỏ “ một hôm ông ra tỉnh choi, giữa đường gặp các quan di làm lễ nghinh xuân: quan tổng dốc ngồi võng đòn cong phủ nhiễu điều, trên che bốn lọng xanh. Ði tới đâu, hai bên hàng phố đều đứng chào, duy ông cứ ngồi nghiễm nhiên trong quán nước, xâu hai chân vào chiếc giày rách ai bỏ đó. Quan thấy vô lễ, sai lính bắt hỏi thì ông ứng đối rất hoạt bát. Quan ra một câu dối thử tài nếu đối hay tha tội vô lễ : “ Cắc cớ hay, hai cẳng xỏ một giày “ Ông đối lại. “ Sung suớng mấy, một đầu che bốn lọng ! “ Bối cảnh Lịch sử Lúc làm quan ở Huế, quân Pháp chiếm Kinh thành Huế. Ông Ích Kiêm bị cách chức phải đi tiền quân hiệu lực. Thời gian nầy nghiên cứu binh thư, áp dụng nhiều chiến luợc tâm lý đánh thắng giặc nhiều trận. Ðuợc nhận lại phẩm hàm cũ, thăng chức Tiễu phủ sứ nên người ta thường gọi ông là : “ Ông Tiễu.“. Năm Tự Ðức thứ 2 ở Quảng Tây có Hồng Tú Toàn cùng bọn Dương Tú Thanh ,Tiêu Triều Quí, Lý Tú Thành nổi lên xưng là Thái Bình Thiên Quốc, chiếm đất Kim Lang, và các tỉnh phía Nam sông Truờng Giang. Nhà Thanh đánh dẹp được (1863) bên Việt Nam Tự Ðức thứ 16. Lúc ấy dư đảng của Hồng Tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy sang nước ta, trước xin hàng, rồi sau đem tàn quân cướp phá các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Năm (1868) Ngô Côn chiếm Cao Bằng. Triều dình sai quan tổng đốc Phạm Chi Hương viết thư sang cho nhà Thanh đem quân sang tiểu trừ. Nhà Thanh sai phó tuớng Tạ Kế Qui, đem quân sang cùng với Tiểu phủ Ông Ích Khiêm và đề đốc Nguyễn Viết Thành đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất Khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng Sơn, tham tán Nguyễn Lệ, phó đề đốc Nguyễn Viết Thành tử trận, thống đốc Phạm Chi Hương bị bắt. Cuối năm 1870 Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh thành Bắc Ninh, quân của Tiễu phủ Ông Ích Khiêm thắng trận giết đuợc Ngô Côn. Nhờ cách dụng binh khéo léo. Sáng quay lưng về huớng Ðông, chiều quay lưng về huớng Tây. Quân Tàu thuờng thức khuya hút thuốc phiện, sáng thức dậy chưa tỉnh còn say, mắt nhắm, mắt mở, lại bị mặt trời chiếu thẳng vào mặt làm quáng mắt. Quân đội của Ông Ích Khiêm bố trí trận đứng quay lưng về huớng có ánh nắng mặt trời buổi sáng. Quân Tàu hướng về phía mặt trời không thấy bị Quân ta chém giết vô số Ngô Côn bị giết trong trận nầy. Ngô Côn bị tử trận nhưng còn những đồ đảng là Hoàng Sùng Anh hiệu cờ vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu cờ den, Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy phá ở Tuyên Quang. Tỉnh Thái Nguyên bị vây, trung quân đô thống Ðoàn Thọ đưa quân lên đóng ở Lạng Sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành Ðoàn Thọ bị tử trận, Võ Trọng Bình thì vuợt thành chạy thoát. Vua Tự Ðức sai Tiễu phủ Ông Ích Khiêm đánh dẹp. Quân binh có 10 đội, ông cho đóng quân xa trại giặc rồi ra lệnh : mỗi đạo phải dùng 10 đồng tiền (tất cả 10 đội quân là 100 đồng tiền. Hai mặt được sơn hai màu khác nhau trắng và đen) làm tiền bói theo quẻ âm dương. Ðêm ấy lập đàn tế, các tướng tá cao cấp đều vào thi lễ. - Ông đến truớc đàn khấn to cho mọi người nghe : - Nếu thần linh phù hộ thì cho 100 đồng tiền sấp cả hay ngửa cả. Chứ trong 100 dồng nầy chỉ một đồng sấp hoặc ngược lại một đồng ngửa, thì ông tìm kế rút lui. - Rồi ông tung 100 đồng tiền lên cao rơi xuống trên mặt mân dều sấp 100 %. (Truớc đó ông ngầm thay 100 đồng tiền sơn hai mặt đều màu đen.) Quân sĩ vui mừng được ơn trên phù hộ đánh thắng quân giặc. Ông Ích Khiêm thu tất cả các đồng tiền bỏ vào túi. Ông làm lễ tạ ơn và tuyên báo : - Thế nầy đủ biết lòng trời còn tựa xã tắc, tướng sĩ hãy ra sức một phen thế nào ta cũng thắng. Nhờ vào lòng tin tưởng quân sĩ hăng say không nao núng dù thế giặc mạnh. Ðã đánh thắng và dẹp được giặc. Chiến trận vẽ vang Ông Ích Khiêm đuợc thăng chức Tham Tri, Ông đuợc lệnh ra Bắc hợp với quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc để mưu cầu chống Pháp, Ông gặp quân Thanh đã cho Phùng Tử Tài, Từ Duyên Húc, Nhưng quân Tàu đòi hỏi quá nhiều lương thực, áp bức dân ta tàn ác, dân chúng oán than khắp nơi. Ông làm bài thơ. Áo chúa cơm vua đã bấy lâu Ðến khi có giặc phải thuê Tàu ! Từng phen võng giá mau chân nhẩy Ðến buớc chông gai thấy mặt đâu Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp Trâu de ngày hiến đứa răng bầu Ai ôi hãy chống trời Nam lại Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu. Vua Tự Ðức mất ngày 17.7.1883 không con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi, theo di chúc lập Dục Ðức (31 tuổi) con trưởng lên nối ngôi. Trong lúc Vua ưng ý Dưỡng Thiện nhưng còn nhỏ 14 tuổi. Các quan trong triều đình là : Trần Tiễn Thành (1813-1883), Nguyễn Văn Tường(1824-1886), Tôn Thất Thuyết (1835-1913) làm phụ chính. Ðuợc 3 ngày Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ Dục Ðức lập quốc công húy là Hồng Dật (37 tuổi) con thứ 29 của Thiệu Trị lên ngôi hiệu là Hiệp Hòa bị bức tử 30.7.1883. Triều đình ngơ ngác không ai dám ý kiến. Quan ngự sử Phan Ðình Phùng can “ Tự quân chua rõ tội gì mà làm sự phế lập nhu thế, thì sao phải lẽ" Phan Ðình Phùng bị bắt giam cách chức cho về quê. Ngày 30.11.1883 Nội các Nguyễn Văn Tường lập con nuôi thứ 3 vua Tự Ðức là Duỡng Thiện (15 tuổi) vào 5 giờ sáng ngày 2.12.1883, lấy hiệu là Kiến Phúc làm vua duợc 6 tháng bị bệnh băng hà (có tài liệu cho rằng Nguyễn Văn Tường đầu độc ? ) chọn Ung lịch 12 tuổi lên ngôi ngày 2.8.1884 hiệu là Hàm Nghi Hòa uớc Patenôtre (Giáp thân 1884) công nhận cuộc bảo hộ của thực dân Pháp, triều đình Huế chỉ giữ hư vị. Văn thần võ quan phần nhiều cầu an, không lo giúp nước.Ông Ích Khiêm không thể làm ngơ trước bối cảnh xả hội. Ông tổ chức một một tiệc mời các quan tham dự. Bàn trên cỗ dưới la liệt, các món đều là thịt :D - Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn đuợc thịt :D hỏi có món nào khác không ? - Bẩm, hôm nay trên dưới toàn là chó! Tiệc xong, các quan gọi nước uống mãi không thấy người nhà đem nước. Vì ông Ích Khiêm dặn trước đừng mang nước, một lúc người nhà lên ông quát tháo : - Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại cơm trời, chẳng đứa nào biết việc nước là chi cả ! Các quan tham dự biết Ông Ích Khiêm lấy người nhà chưởi các người không lo giúp nuớc. Ông Ích Khiêm tính tình khảng khái như thế, không luồn cúi tưuớc bạo quyền, làm phật ý với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nên bị bỏ tù cùng chung số phận nhu Phan Ðình Phùng. Khi ở trong ngục ông viết hai câu thơ: “Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết “ “Tứ nguyệt tam vương thậm bất tường “ Tạm dịch : Sông Hương chia hai giòng nuớc, thì khó nói chuyện, một bên trong một bên đục. Chữ cuối của mỗi câu thơ có chữ thuyết và tuờng ám chỉ Tôn Thất Thuyết Và Nguyễn Van Tuờng trong 4 tháng dã thay dổi 3 vua (Dục Ðức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc). Ông bị an trí ở Bình Thuận. Ông làm bài thơ : Mình ốc mang rêu rửa sạch ai Rung cây nhát khỉ thế thường hoài Mèo quào xuể vách còn chi sức Sứa vượt qua đăng mới gọi tài Nhớ kẻ dang roi dong vó ngựa Ðố ai lấy thúng úp mình voi Xưa nay ếch giếng chê trời hẹp Chim xổ lồng ra, mở mắt coi ! Ông Ích Thiện, Ông Ích Hoắc, Ông Tán Nhì đều là những người con yêu nước của Ông Ích Khiêm. Cháu nội của Ông sau nầy Ông Ích Ðường có tình thần yêu nước, dấu tranh trong phong trào kháng thuế xin xâu. Tuổi trẽ hăng say đương đầu với bạo lực mong đem lại Dân quyền và Nhân quyền phong trào bị đàn áp, ông bị kết án tử hình. Nhắc lại để tưởng nhớ Ông Ích Ðuờng một người hùng của năm 1908 tại Quảng Nam. Ông Ích Khiêm mất năm 1890 thọ 50 tuổi. Trên ngôi mộ của Ông còn lại những bia đá lưu danh một người có công đánh duổi quân giặc. Tinh thần yêu nước Ông Ích Khiêm thật cao cả một tấm gương sáng mãi mãi với hậu thế. |
Mạc Đĩnh Chi
Tiểu sử MẠC ĐĨNH CHI (莫挺之) (1272-1346) Nhà văn Việt Nam, danh sĩ đời Trần Anh Tông, tự là Tiết Phu. Vốn người làng Lan Khê, huyện Bình Hà, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang; sau dời đến làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Năm 1304, ông đỗ Trạng nguyên. Vua thấy tướng mạo xấu có ý chê, ông dâng bài phú "Ngọc tỉnh liên" (sen giếng ngọc) khiến Vua khâm phục, bổ chức Nội thư gia. Ông làm quan trải ba triều Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông; giữ các chức: Nhập nội hành khiển, Tả tư lang trung, thăng Thượng thư Tả bộc xạ, kiêm Trung thư coi việc quân dân, tước Ðại liêu ban. Tính ông liêm khiết, được sĩ phu trọng vọng. Ông từng đi sứ Trung quốc 2 lần, được các danh sĩ nước ngòai khen ngợi, khâm phục. Sau khi về trí sĩ, ông mở trường dạy học. Nhân dân đời sau vẫn quen gọi là "Trạng nguyên cổ đường". Ông mất năm Bính Dần- 1346. Ông là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích (khoa Bính Dần niên hiệu Quảng Hựu thứ 2 (1086), đời Lý Nhân Tông). Ðến đời Mạc Ðăng Dung là cháu 7 đời của ông lên cưới ngôi nhà Lê xưng đế, truy phong ông là Huệ Cảm Linh Khánh vương, có lập điện Sùng Ðức để thờ ông tại phần mộ ở làng Lũng Động. Tác phẩm chính: "Ngọc tỉnh liên phú" (trong "Quần hiền phú tập" ) Bốn bài thơ: "Quá Bành Trạch phỏng Ðào Tiềm cựu cư"; "Tảo hành"; "Hỷ tình"; "Vãn cảnh" (trong "Việt âm thi tập" và "Tòan Việt thi lục") Trạng Khỉ Ngoài Phùng Khắc Khoan, Mạc Đĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai nước Nam và nước Tàu. Sách "Nam Hải Dị Nhân" chép rằng Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Ðổng huyện Chí Linh (Hải Dương) nguyên về giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng thư) Tục truyền làng Lũng Ðộng có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị ông kia chém chết bỏ thây tại đấy. Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả. Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Ðĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu. Mạc Ðĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học trò, Mạc Ðĩnh Chi vào học. Ðến năm gần hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Mạc Ðĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trông thấy người hình dáng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Ðĩnh Chi làm một bài phú "Ngọc tỉnh liên" để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng Nguyên. Khi Mạc Ðĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới đến thì người Tầu đóng cửa không cho vào. Ðĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo hễ đối được thì mở cửa. Câu ra: "Quá quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan". Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua ải mà đi. Ðĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên: "Xuất đối dị, dối đối non, thỉnh tiên sinh tiên đối". Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước. Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kim, người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, viên tể tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Ðĩnh Chi trông thấy trên bức tường có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên. Ðĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra. Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng: - Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi. Chúng chịu là biện bác có lẽ. Ðến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai Ðĩnh Chi và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt. Sứ Cao Ly làm xong trước. Lời tâu rằng: "Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề". Nghĩa là: Ðang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng với thời). Ðến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ). Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này: "Lưu kim thước thạnh, thiên địa vi lô, nhi ư tư thời hề Y, Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết tái đồ; nhi ư tư thời hề Di, Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù ?" Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan to. Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về lúc ấy ví như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi! Khi dùng đến thì ra khi không dùng đến thì cất đi, chỉ ta với người đuợc thôi. Ðề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "Y" (Duyệt!), phê rằng "Lưỡng quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước. Thường khi Mạc Ðĩnh Chi cưỡi lừa đi đường, chạm phải ngựa Tàu. Người kia đọc lên một câu rằng: "Xúc ngã kỵ mã, Ðông di chi nhân dã? Tây di chi nhân dã?". Nghĩa là: Chạm vào ngựa của ta cưỡi, ấy là người Ðông di hay Tây di? Mạc Đĩnh Chi đáp liền: "Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư?" Nghĩa là: Chắn đường lừa ta đi, thử xem người Nam phương mạnh hay ngoời Bắc phương mạnh. Lại thường đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng: "An nữ khứ, thỉ nhập vi gia" (安女去豕入為家) Nghĩa là chữ An, bỏ chữ Nữ, chữ Thỉ (con heo) vào là chữ Gia (nhà). (Rất xấc xược!) Ðối rằng: "Tù, nhân xuất; vương lai thành quốc" (囚人出王來成国) Nghĩa là: Chữ Tù bỏ chữ Nhân, chũ Vương đến thì là chữ Quốc. (Rất có chí khí!) Người Tàu phê rằng: - Con cháu về sau tất cả người làm đến đế vương nhưng hiềm về chữ quốc đơn thì hưởng nước không được tràng cửu mấy nỗi. Lại ra: "Nhật hỏa vân yên; bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ". nghĩa là: Lửa mặt trời khói đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ ngọc. Ðối: "Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô". Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng. Người Tàu phê rằng: - Con cháu về sau tất có người cướp nước. (Mạc Ðặng Dung về sau giết vua cướp nước). Một khi bà hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu sai ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc văn tế. Ðến lúc quì xuống cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có bốn chữ "nhất". Ðĩnh Chi không nghĩ ngợi gì, đọc ngay rằng: "Thanh thiên nhất đóa vân, hồng tô nhất điểm tuyết, Thượng Uyển nhất chi hoa, Dao Trì nhất phiến nguyệt. Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết". Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò đỏ, một cành hoa vườn Thượng Uyển, một vầng trăng ao Dao Trì. Than ôi, mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết. Bài văn này còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai cũng chịu tài ứng biến nhanh. Ðĩnh Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tôn thường sai người đem mười quan tiền, rình lúc tối bỏ vào cửa nhà ông ấy. Sớm mai, ông vào tâu ngay với vua, xin bỏ tiền ấy vào kho. Vua bảo rằng: - Tiền ấy không có ai nhận thì nhà ngươi cứ việc lấy mà tiêu. Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi mới lấy. Ðến triều vua Hiền Tôn, làm nên đến chức Tả bộc xạ (Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn, Trực, cùng làm đến Ngoại lang. Cháu là Ðịch, Toại, Viên cùng có quyền thế, làm quan lúc nhà Minh cai trị. Ðời cháu chắt thiên (dời) sang ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương thì có Ðăng Dung là cháu 7 đời, làm vua nhà Mạc. |
Nguyễn Xí
Ngày xưa, có người Nguyễn Xí ở làng Sái Xá, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ Nguyễn Xí gặp buổi cuối đời nhà Trần, trong nước loạn lạc, không muốn ra làm quan, tu ở chùa làng, gọi là Hòa Nam thiền sư. Mỗi đêm đến gà gáy thì thức dậy đánh chuông tụng kinh. Có hàng thịt lợn ở cạnh chùa, hễ cứ nghe tiếng chuông thì thức dậy giết lợn. Một hôm, nhà hàng thịt mua nhằm phải con lợn cái chửa, định để sáng mai làm thịt bán. Đêm hôm ấy, nhà sư nằm mơ thấy một người đàn bà đến kêu khóc rằng: "Xin ông đêm nay đừng đánh chuông vội, cứu lấy tám chín mẹ con tôi". Nhà sư ngạc nhiên không biết sự gì, nhưng cũng nghe lời không đánh chuông. Nhà hàng thịt vì thế dậy trưa, thì con lợn cái đã đẻ ra tám con. Nhà sư thấy vậy lấy làm kỳ, mới mua cả đàn lợn ấy thả vào trong núi. Được vài tháng, nhà sư bị hổ bắt mất, cắn chết bỏ dưới sườn núi. Sáng mai người nhà đi tìm, thấy mối đùn đất lấp lên thành mồ rồi. Có người biết địa lý, xem hình thế chỗ ấy cho là mả hổ táng. Con nhà sư ấy là Nguyễn Xí bấy giờ đã mười bảy tuổi, vốn có sức khỏe hơn người, học nghề võ đã giỏi, nhưng vì nhà nghèo khó, phải ra tỉnh Thanh Hóa bán dầu kiếm ăn. Một hôm đi qua huyện Lam Sơn, trời đã tối, chung quanh không có nhà cửa nào, chỉ có một ngọn miếu thờ thần, mới vào nghỉ trong miếu ấy. Canh ba văng vẳng tiếng xe ngựa rầm rầm, và nghe có tiếng ông thần nói rằng: "Hôm nay trên Thiên đình hội các bách thần, định lập thiên tử nước Nam, việc ấy quan hệ to mời ngài đi với tôi nhân thể". Thần núi đáp: "Tôi bận có quý khách dưới trần trọ đây không sao đi được, ông có nghe được điều gì xin về nói cho biết". Cuối canh tư, lại nghe có tiếng nói: "Thiên Đình đã định xong ngôi Hoàng Đế nước Nam rồi, tức là người ở Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, họ Lê tên Lợi. Thượng đế cho đến giờ thân, ngày thân, tháng thân, thì khởi binh, mười năm mới yên thiên hạ". Nguyễn Xí nghe rõ ràng câu ấy, gà gáy thức dậy tìm đến làng Lam Sơn, hỏi vào nhà Lê Lợi, kẻ rõ lại chuyện đã nghe. Lê Lợi bấy giờ đã có đông thủ hạ, sắp sửa muốn ra dẹp giặc, nghe nói thế bèn khởi binh ngay tháng bảy năm ấy. Nguyễn Xí theo Lê Lợi đánh nhau với quân nhà Minh, trong mười nam trời lập nên rất nhiều công trạng. Đến khi thiên hạ bình định, Lê Thái Tổ cho Nguyễn Xí là sáng nghiệp đệ nhất công thần, và phong làm Nguyễn Quốc công, cho đổi quốc tính làm họ Lê. Nguyễn Xí làm quan trải ba triều: Thái Tổ, Thái Tôn, Nhân Tôn, khi có giặc giã thì đi dẹp, khi thường thì lại vào túc vệ trong cung cấm. Khi vua Nhân Tôn bị Nghi Dân (con vua Thái Tôn bị phế không được lập) cướp ngôi, Nguyễn Xí đem binh dẹp loạn, giết được bọn đồ đảng của Nghi Dân rồi đón Bình Xuyên Vương lập lên, tức là vua Lê Thánh Tôn. Nguyễn Xí vì có công ấy lại được làm chức Thái Úy Vương Quốc công. Bấy giờ Nguyễn Xí có mười hai người con, cũng được phong tước làm quan tại triều, quyền thế lớn nhất thời ấy. Vua thấy thanh thế Nguyễn Xí lừng lẫy quá, sai đào con sông Cấm Giang ở Sai Xá để triệt long mạch làng ấy, thần long chảy ra huyết ba ngày. |
Phan Chu Trinh
Tiểu sử Phan Chu Trinh, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là Phan Văn Bình giữ một chức võ quan nhỏ, sau năm 1885 theo phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương. Sau khi kinh thành Huế thất thủ (1885), ông theo cha, tập luyện võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa. Năm cha mất, Phan Chu Trinh mới 16 tuổi, gia đình phải dựa vào sự lo liệu của người anh cả. Năm 1892, ông đi học, bạn cùng học là Huỳnh Thúc Kháng kém ông 4 tuổi. Ông nổi tiếng học giỏi. Năm 1900, Phan Chu Trinh đỗ cử nhân; năm sau (1901), ông đỗ phó bảng. Năm 1902, ông vào học trường Hậu bổ, rồi ra làm quan với chức quan Thừa biện bộ Lễ. Tại triều đình, ông được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của quan trường, nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng không đến cơ quan. Nhưng chính vào thời gian đó, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tư tưởng dân quyền của Rousseau, Montesquieu..., phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng ở Pháp, Mỹ. Tháng 7-1904, Phan Chu Trinh gặp Phan Bội Châu, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Cuối năm đó, lấy cớ phải chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay anh cả đã mất, ông cáo quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của ông trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, mà nhiệm vụ cấp bách là phải: - Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. - Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. - Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Phan Chu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Với phương châm đó, Phan Chu Trình cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh phía nam (đến Phan Thiết). Ông lại một mình ra bắc, lên tận căn cứ Phồn Xương (Yên Thế, Bắc Giang) tìm gặp Hoàng Hoa Thám. Năm 1906, nghe tin Phan Bội Châu lại mới lên đường xuất dương cùng Cường Để, ông cũng ra nước ngoài, định sang Nhật Bản tham gia. Nhưng đến nhà Lưu Vĩnh Phúc tại Quảng Đông, ông đã gặp Phan Bội Châu đang ở đấy. Hơn 10 ngày ở Quảng Đông, hai ông cùng nhau bàn bạc việc nước. Sau đó, ông cùng Phan Bội Châu và Cường Để lên đường sang Nhật Bản. Ông tham quan các trường học, khảo cứu tình hình giáo dục, chính trị của Nhật Bản. Phan Chu Trinh rất hoan nghênh việc Phan Bội Châu đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu. Về nước, sau một thời gian, ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một bức thư dài đề ngày 15-8-1906. Trong thư, Phan Chu Trinh chỉ trích Chính phủ Pháp không lo mở mang khai thác hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Trong bức thư ông tỏ ra quá tin vào truyền thống cũ của cách mạng Pháp và lòng tốt của thực dân Pháp. Có đoạn có những lời lẽ có phần nghiệt ngã, cứng nhắc đối với chủ trương bạo động và phong trào đấu tranh vũ trang của dân tộc. Mặt khác, Phan Chu Trinh còn phê phán đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém, để từ đó dẫn đến mức không tin cậy vào khả năng cách mạng của nhân dân. Mặc dù vậy, bức thư một khi được công bố đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước. Tháng 7-1907, Phan Chu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp. Đầu tháng 3-1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế của nông dân bùng nổ tại Quảng Nam, rồi lan ra các tỉnh. Khâm sứ Trung Kỳ nhờ Thống sứ Bắc Kỳ cho bắt Phan Chu Trinh tại Hà Nội ngày 31-3, sau đó giải về Huế giao cho Nam triều giam giữ. Hội đồng xét xử gồm các quan lại Nam triều, có Khâm sứ Trung Kỳ ngồi dự đã kết án chém. Nhưng do sự can thiệp kịp thời của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Liên minh nhân quyền tại Hà Nội, Phan Chu Trinh chỉ bị đày đi Côn Đảo. Đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Đảo thẩm vấn riêng Phan Chu Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án được thiết lập, ông được "ân xá", nhưng buộc phải xuống ở Mỹ Tho để quản thúc. Sau đó ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31-10-1908 của Chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật đi theo đoàn này. Sang tới Pháp, ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Nhiều Việt kiều tại Pháp cũng đến với Phan Chu Trinh. Phan Chu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã lập Hội đồng bào thân ái gồm những Việt kiều gắn bó với quê hương. Ông viết bản điều trần về cuộc đấu tranh chống sưu thuế năm 1908 ở miền trung Việt Nam gửi Liên minh nhân quyền. Cũng trong thời gian này, ông viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, cho rằng không thể nhìn Việt Nam một cách cô lập mà phải đặt trong mối quan hệ với thế giới, trước nhất là với các nước mạnh và với nước Pháp, cũng như không thể chỉ nhìn hiện tại mà phải nhìn lại lịch sử đã qua và phải tìm hiểu xu thế phát triển sắp tới, tạo nên cách nhìn cả thời lẫn thế. Trong những năm sống ở thủ đô Pháp, ông làm nghề sửa ảnh, sống thanh bạch. Năm 1926, ông về nước và mất ở Sài Gòn. Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước chân chính, có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể khẳng định rằng ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Chu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp. Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thể ban phát. Nếu nhân dân không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa số nhân dân ta nhiệt tình yêu nước, sẵn sàng "đem máu đổi lấy quyền tự do" (Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn bản của nhân cách Việt Nam. Phan Chu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận ra không chỉ ở chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không còn nữa thì chủ cái gì". Song với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, sóng gió, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ. |
Phan Bội Châu
Nhà yêu nước lớn đầu thế kỷ XX Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San), hiệu Hải Thụ, sau lấy hiệu là Sào Nam (và nhiều bút danh khác) sinh ngày 26-12-1867, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ Tĩnh). Lúc nhỏ, ông nổi tiếng thông minh. Sáu tuổi đã thuộc hết Tam tự kinh, bẩy tuổi đã hiểu kinh truyện, tám tuổi đã làm thông thạo loại văn cử tử. Mười ba tuổi, đi thi ở huyện đỗ đầu. Mười sáu tuổi, đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là đầu xứ San. Năm lên chín tuổi, ông đã có ý thức hưởng ứng phong trào của Trần Tấn, Đặng Như Mai, chống bọn thực dân. Mười bảy tuổi, được tin phong trào khởi nghĩa nổi lên ở Bắc kỳ, ông đã thảo bài hịch Bình Tây thu Bắc. Năm 19 tuổi hưởng ứng chiếu Cần Vương của Hàm Nghi, ông tổ chức một đội thí sinh quân gồm 60 người lên đường ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động thì địch đã về càn quét ở làng. Công việc không thành nhưng chí hướng cứu nước của ông đã rõ. Tiếp đó, mười năm Phan Bội Châu làm ông đồ dạy học. Năm 1900, ông đỗ thủ khoa trường Nghệ và chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Phan lập ra Hội Duy Tân (1904), chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ, chủ trương bạo động và nhờ ngoại viện để khôi phục nền độc lập. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du vào năm 1905-1908. Ông viết nhiều tác phẩm tuyên truyền cách mạng như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, v.v... Lãnh đạo phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tổ chức Công hiếu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự. Những năm cuối cùng trên đất Nhật, ông lập ra các hội có tính chất "đoàn kết quốc tế", như hội Điền, Quế, - Việt liên minh (liên minh giữa những người Vân Nam, Quảng Tây với Việt Nam) và hội Đông á đồng minh (gồm một số người Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, v.v...) để giúp nhau chống lại bọn đế quốc. Khoảng tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và Phan bị chính phủ Nhật trục xuất. Trở về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc ít lâu, Phan Bội Châu sang Xiêm hoạt động. Hơn một năm sau, khi cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, Phan lại trở về Trung Quốc và thành lập Việt Nam quang phục hội mà tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước "Cộng hòa dân quốc Việt Nam". Sau những hoạt động yêu nước, Phan bị thực dân Pháp nhờ bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam ngày 24-12-1913. Năm 1917, khi Phan Bội Châu ra tù, thì chiến tranh thế giới lần thứ nhất sắp kết thúc. ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đã tác động lớn đến Phan Bội Châu. Cụ đã viết báo ca ngợi lãnh tụ Lênin vĩ đại, ca ngợi Nhà nước Công nông của Liên Xô, v.v... Những năm này tuy phải sống bằng nghề viết báo ở Hàng Châu, làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng Phan vẫn không quên lợi dụng báo chí để tuyên truyền chống Pháp và tiếp tục tìm đường cứu nước. Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu đã cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Tháng 12-1924, sau khi được tiếp xúc với Nguyễn ái Quốc, Phan dự định sang năm sau (1925) sẽ cải tổ lại Việt Nam quốc dân đảng theo hướng tiến bộ nhất. Nhưng ngày 30-6-1925, trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu để nhóm họp anh em, Phan Bội Châu vừa đến ga bắc Thượng Hải thì bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước. Chúng âm mưu bí mật thủ tiêu Phan Bội Châu, nhưng việc bị bại lộ, nên phải đưa ra xử ở Tòa đề hình Hà Nội. Tính mạng "bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng" (1) bị uy hiếp, gây ra một phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị rầm rộ khắp cả nước. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ đó, thực dân Pháp bối rối, phải tuyên bố tha bổng nhưng bắt Phan phải về sống ở Huế mà không được đi bất cứ đâu. Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu là người tù bị giam lỏng ở Bến Ngự. Đến đây, cuộc đời hoạt động cách mạng nguyện hiến dâng tất cả cho Tổ quốc của Phan Bội Châu phải bỏ dở. Phong trào cách mạng Việt Nam theo đà phát triển mới của lịch sử tiến như vũ bão. Mặc dù "Ông già Bến Ngự" phải sống cuộc đời "cá chậu chim lồng" nhưng cụ vẫn làm thơ văn để nói nỗi khổ nhục của người dân mất nước, trách nhiệm của người dân đối với nước... Đó là các tác phẩm: Nam quốc dân tu tri, Nữ quốc dân tu tri, Bài thuốc chữa bệnh dân nghèo, Cao đẳng quốc dân, Luân lý vấn đáp, Lời hỏi thanh niên... Phan Bội Châu niên biểu, Lịch sử Việt Nam diễn ca. Đó cũng là các công trình biên khảo hết sức đồ sộ như Khổng học đăng, Phật học đăng, Xã hội chủ nghĩa, Chu dịch, Nhân sinh triết học, cùng với trên 800 bài thơ nôm các loại, mấy chục bài phú, văn tế, tạp văn khác. |
Tô Hiến Thành
Tô Hiến Thành người đất Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Ðan Phượng, Hà Tây), sống khoảng từ nửa sau thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13. Từ nhỏ, Tô Hiến Thành đã có tiếng là người thông minh cương trực, văn võ đều hay. Tương truyền, khi mới ra làm quan, ông thường lui về thăm viếng quê nhà. Vùng Ô Diên quê ông có một miếu thờ. Mọi người đều tôn sùng là rất thiêng. Thấy lạ, ông để tâm xem xét. Một hôm, bất ngờ ông bắt gặp một người lấy cắp cái áo của một nhà trong làng. Chủ nhà này vốn rất mê tín uy linh vị thần miếu nọ, tất sẽ đến kêu cầu; biết vậy, ông lặng thinh theo dõi. Quả nhiên, người mất của đem đồ lễ rất hậu đến vái lạy. Xin thần miếu tìm giúp kẻ gian để đòi lại của. Nhưng mất tiền mua đồ lễ mà áo vẫn chẳng về, người dân kia đâm bực mình, đem chuyện ấy ta thán với bà con trong làng. Bấy giờ, ông mới kể rõ sự tình cho mọi người biết và bảo : - Thần miếu vô tích sự thì đập bỏ lư hương, đóng cửa lại. Thờ cúng làm gì nữa! Mọi người nghe theo Khi làm quan trong triều, tài văn võ kiêm toàn và đức tính cương trực, vị nghĩa của ông khiến các bạn đồng liêu kiêng nể và vua Lý tin dùng. Dưới triều Lý Anh Tông, ông được phong đến chức thái phó và thái úy. Khi sắp mất, Anh Tông đã gọi riêng ông đến bên long sàng di huấn cho ông làm Thái sư phụ chính, căn dặn ông phải hết lòng phò tá Thái tử Cáp ở ngôi vua. Anh Tông mất. Ông làm đúng di huấn của Anh Tông, dốc sức giúp rập vua mới còn nhỏ tuổi. Vợ vua Anh Tông là Hoàng Thái hậu muốn bỏ thái tử Cáp mà lập thái tử Long Xưởng là người vì hư đốn, đã bị truất quyền nối ngôi. Ông cương quyết không nghe. Hoàng Thái hậu mới cho người mang lễ vật vàng bạc rất hậu đến biếu bà họ Lã, vợ Tô Hiến Thành, ý đồ mượn tay vợ để thuyết phục ông. Ham của, vợ ông nhận lời. Ngày đêm, bà ráo riết tìm mọi dịp ỏn thót, lôi kéo ông. Ông vẫn nhất định không nghe. Sau thấy vợ nói mãi, ông mới bực mình nói thẳng: - Kẻ làm quan phải vâng mệnh vua. Tiên đế đã có di huấn cho ta, lẽ nào ta lại vì hám lợi mà trái lệnh vua. Nếu ta làm điều bất trung bất nghĩa ấy, sau này ta còn mặt mũi nào nhìn tiên đế dưới suối vàng nữa. Suốt thời kỳ làm quan trong triều, ông luôn giữ tính cương trực, trọng nghĩa khinh tài, một lòng trung thành vì dân, vì nước. Trước những xáo động dữ dội do bọn quí tộc phong kiến thối nát gây nên, ông vẫn vững như cột đá giữa dòng, mưu trí chống đỡ, giữ cho việc nước việc dân khỏi bị bọn gian thần lũng đoạn. Khi Tô Hiến Thành bệnh nặng, có viên Tham tri chính sự trong triều là Võ Tán Ðường luôn lui tới chăm sóc ngày đêm hầu hạ thuốc men. Nhiều người khác cũng hay đến thăm ông. Duy có quan Gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì công việc triều đình bề bộn nên ít đến. Bệnh nặng, ông sắp mất. Hoàng Thái hậu mới hỏi ông: - Một mai, tướng công qua đời, lấy ai nối nghiệp. Không đắn đo, ông trả lời luôn: - Gián nghị đại phu Trần Trung Tá. Thái hậu rất ngạc nhiên mà rằng: - Võ Tán Ðường hết lòng phục dịch tướng công sao tướng công không tiến cử. Lại đi tiến cử Trần Trung Tá là người ít ra vào thăm viếng tướng công? Ông đáp: - Xem trong triều, chỉ có Trần Trung Tá là người làm được việc lớn nên tôi tiến cử. Nếu Thái hậu hỏi người giỏi việc hầu hạ, tôi sẽ tiến cử Võ Tán Ðường. Thái hậu chịu ông là phải. |
Trần Quang Khải
Thượng Tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải (1241-1294) là con trai vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Dưới triều vua Trần Thánh Tông (Anh ruột Quang Khải), Trần Quang Khải được phong chức tước Chiêu Minh đại vương. Năm Giáp Tuất (1274), ông được giao chức Tướng quốc thái úy. Năm Nhâm Ngọ (1282), dưới triều vua Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng tướng thái sư, nắm toàn quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba, Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ 2, sau Trần Quốc Tuấn và có nhiều công lớn. Chính Trần Quang Khải đã chỉ huy quân Trần đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm ất Dậu (1285). Bên cạnh năng lực quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có vị trí không nhỏ trong văn học sử Việt Nam. Ông là tác giả "Lạc Đạo" đã thất truyền và theo lời bình của Phạm Huy Chú, thơ ông "thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa, lý thú". Đọc bản dịch bài thơ "Vườn Phúc Hưng" của Quang Khải, thấy rõ hơn tâm hồn ông: Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh Nắng lên mời khách pha trà nhấp Mưa tạnh sai đồng giở thuốc nhanh Báo giặc ải Nam không khói lửa Bên giường một giấc ngủ ngon lành Trần Quang Khải, một cuộc đời lớn, vừa làm Thủ tướng, vừa làm tướng, vừa đánh giặc vừa làm thơ. |
Tuệ Tĩnh
Người mở đầu nền y dược cổ truyền dân tộc Nếu những kết quả nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học Việt Nam sau này không đưa thêm bằng chứng gì mới thì truyền thuyết địa phương và những công trình nghiên cứu chuyên môn khác cho phép khẳng định Tuệ Tĩnh là một nhân vật đời Trần. Ông chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương ngày nay). Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người. Năm 55 tuổi (1385), Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư, mất ở bên ấy, không rõ năm nào. Bia văn chỉ làng Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm 1697) cùng các tư liệu khác ở địa phương đều ghi như vậy. Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tư giác y thư (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Đường luật (nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị cũng dùng quốc ngữ. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác phẩm của ông thì Tuệ Tĩnh không những có vị trí trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học nữa. Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức sâu sắc về quan hệ giữa con người và sinh cảnh, đồng thời cũng tiêu biểu cho ý thức độc lập tự chủ. Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng không chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những sách nước ngoài. Chẳng hạn, ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông,v.v. Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc. Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc Việt Nam. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng, có tượng Tuệ Tĩnh. Câu đối thờ ông ở đền Bia viết, dịch nghĩa như sau: Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang. |
Sao không có ai viết về Quang Trung Nguyễn Huệ vậy ta?
|
Trích:
tặng Ý Nhi cái gì đi rồi Ý Nhi post cho ? :singhi: |
Múi giờ GMT. Hiện tại là 02:24 PM. |
Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.