![]() |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 9
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 9 Băng qua sa mạc - Ôi thật kinh khủng quá! Một việc hết sức đáng sợ! – Lasaraleen thở hổn hển nói. – Chị ơi em mới sợ làm sao chứ. Em run hết cả người lên đây này. Chị sờ thử mà coi. - Đi thôi. – Aravis nói, bản thân nó cũng run như cầy sấy. – Họ đã quay về hoàng cung mới. Một khi đã ra khỏi căn phòng này chúng ta cũng được an toàn. Hãy đưa em xuống cửa đập càng nhanh càng tốt. - Trời đất, sao chị có thể làm thế được? – Lasaraleen rít lên. – Em không còn có thế làm gì được nữa – ít nhất không phải vào lúc này. Cái đầu khốn khổ của em! Không, chúng ta hãy nghỉ lại ở đây một chút rồi sau đó quay về nhà! - Tại sao lại quay về? – Aravis hỏi. - Ôi chị không hiểu à? Sao chị không biết thông cảm vậy? – Lasaraleen nói, bắt đầu khóc thút thít. Nhưng Aravis quyết định lúc này không phải là lúc mủi lòng thương xót. - Nghe đây. – Nó nói và nắm lấy tay lắc cho bạn một cái nhớ đời. – Nếu chị nói một tiếng nữa về chuyện quay trở lại và nếu chị không lập tức đưa em đến cửa đập – chị có biết em sẽ làm gì không? Em sẽ chạy ra ngoài giữa lối đi, kêu ầm lên. Rồi người ta sẽ đến bắt cả hai chúng ta. - Vậy thì cả hai chúng ta sẽ bị… giết… ! – Lasaraleen lắp bắp. – Chị… chị… không nghe Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) nói gì ư? - Có nghe và em thà chết ngay bây giờ còn hơn làm vợ Ahoshta. Thôi đi nào! - Ôi, chị thật là độc ác. Coi xem, em đang ở trong tình trạng như thế nào! Cuối cùng Lasaraleen cũng phải nhượng bộ bạn. Cô dẫn bạn đi xuống những bậc thang mà lúc trước cả hai đã đi lên. Họ đi xuôi theo một hành lang khác và cuối cùng ra ngoài trời. Bây giờ họ đã ở bên ngoài ngự hoa viên nằm trên sườn dốc thoai thoải và đi xuống con đường dẫn tới tường thành. Vầng trăng uy nghi trên nền trời trong vắt. Một trong những hạn chế của những cuộc phiêu lưu là khi bạn đến những phong cảnh nên thơ bạn thường quá đỗi hồi hộp và khẩn trương để tận hưởng vẻ đẹp của nó. Vì thế mà Aravis (mặc dù nhiều năm sau vẫn hào hứng nhớ lại kỷ niệm này) lại có một ấn tượng mờ nhạt về bãi cỏ màu xám bạc dưới ánh trăng, những vòi phun nước sủi bọt lặng lẽ và những cái bóng dài đen thẫm của hàng cây bách. Khi họ đi đến cuối con đường và bức tường thành cau có hiện lên trước mặt bọn họ, Lasaraleen run đến nỗi không sao mở được gióng cửa. Aravis làm thay cho bạn. Và cuối cùng trước mắt cô bé cũng hiện lên dòng sông lấp lánh ánh trăng bạc, một doi đất nhỏ, vài con thuyền lững lờ nhàn tản thả trên dòng sông. - Vĩnh biệt chị, cảm ơn chị và xin lỗi nếu em đã thô bạo với chị. Nhưng cứ nghĩ coi, em sẽ tự do bay đến bất cứ nơi nào! - Ôi Aravis thân yêu! Chị không đổi ý chứ? Bây giờ chị đã thấy Ahoshta đại nhân vĩ đại thế nào rồi chứ? - Vĩ đại? Một tên nô bộc chuyên liếm gót đáng kinh tởm thì có. Một con giun tức giận khi bị chà đạp nhưng vẫn nhẫn nhịn như không vì hi vọng có thể đứng thẳng lưng lên bằng cách xúi giục Tisroc – bạo chúa – đẩy con trai vào chỗ chết. Thật đáng ghê tởm! Em thà cưới thằng rửa chén ở chỗ cha em còn hơn dính líu đến một con quái vật như lão. - Aravis! Aravis! Sao chị có thể nói ra những điều kinh khủng như thế? Cả về Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) nữa. Nếu đức vua đã làm thế thì chắc chắn là một việc hợp lý. - Tạm biệt chị. – Aravis nói. – Em nghĩ cái áo của chị rất dễ thương. Ngôi nhà của chị cũng rất đẹp. Và em chắc chị có một cuộc sống vui vẻ, dễ chịu – dầu nó không thích hợp với em. Chị hãy nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng em nhé. Nó vùng ra khỏi vòng tay ôm đầy tình cảm của bạn rồi nhảy xuống một con thuyền đáy bằng đẩy thuyền đi và chỉ một lúc sau đã ra đến giữa dòng. Vầng trăng tròn vành vạnh lơ lửng trên đầu. Có một vầng trăng lớn hơn ở sâu phía dưới, tận đáy sông. Trời đêm mát lạnh và trong lành. Khi nó chèo tới gần bờ bên kia nó còn nghe thấy tiếng một con cú mèo kêu khi đi ăn đêm. “Trời ơi, như thế này mới tuyệt chứ!” – Aravis nghĩ. Nó bao giờ cũng sống ở làng quê và nó ghét mỗi một phút sống ở Tashbaan. Khi bước lên bờ, nó thấy dưới ánh trăng, mặt đất dần dần lên cao hơn, cây cối bị đốn ngang. Nhưng rồi nó cũng tìm được đúng cái con đường mà Shasta đã tìm ra, cũng cái nơi mà cỏ chấm dứt và cát bắt đầu rồi cũng như Shasta, nó nhìn sang trái và thấy những ngôi nhà mồ lù lù, đen đen, hắc ám. Đến mức này thì mặc dù là một cô gái can đảm, trái tim nó vẫn thắt lại vì sợ. Giả sử những người kia không ở đây! Giả sử có những hồn ma! Tuy vậy Aravis vẫn hếch cằm lên (và cắn nhẹ vào lưỡi) đi thẳng về những ngôi mộ. Trước khi đến nơi, nó nhìn thấy Bree, Hwin và tên giám mã. - Bây giờ ngươi có thể quay về với bà chủ của ngươi. – Aravis ra lệnh (mà quên là tên này không thể làm thế cho đến khi cổng thành được mở lại vào sáng ngày mai). – Đây là tiền trả cho công khó nhọc của nhà ngươi. - Nghe tức là vâng lệnh! – Tên giám mã nói và ngay lập tức chạy như bay về phía thành phố. Chẳng cần phải bảo hắn đi mau, hắn cũng đã nghĩ nhiều về ma quỷ ở một nơi như thế này rồi. Trong vòng một vài giây đầu, Aravis bận rộn hôn lên mũi và vỗ vỗ lên cổ hai con ngựa cứ như thể chúng chỉ là những con ngựa thông thường. - Kia kìa, Shasta đã đến! Tạ ơn sư tử! – Bree hí vang. Aravis quay đầu nhìn quanh, và kìa, vừa đúng lúc Shasta ra khỏi chỗ núp ngay sau khi nó thấy tên giám mã đã đi khuất. - Bây giờ, – Aravis nói, – không nên để chậm một phút nào! – Với những lời lẽ liến thoắng nó kể cho cả bọn nghe về mưu đồ của Rabadash. - Quân khốn nạn phản trắc! – Bree kêu lên, lắc bờm và giậm bốn vó. – Một cuộc đột kích vào lúc thiên hạ thái bình như thế này mà không đưa ra một dấu hiệu nào báo trước. Nhưng chúng ta sẽ cho mỡ vào lúa yến mạch của hắn. Chúng ta sẽ đến nơi trước hắn. - Thật không? – Aravis hỏi, tung người lên lưng con Hwin. Shasta nhìn theo, thầm ước ao nó cũng làm được như thế. - Brooh-hoo! – Bree hí vang. – Lên ngựa đi Shasta! Chúng ta cũng có thể có một sự khởi đầu tốt đẹp! - Hắn nói hắn sẽ lên đường ngay lập tức! – Aravis nói. - Đó là cách nói của con người. – Bree nói. – Nhưng nó không thể tập hợp ngay một lúc hai trăm con ngựa và kị sĩ. Không thể cho ngựa uống nước, cho ngựa ăn no bụng rồi chuẩn bị vũ khí, lương ăn và đóng yên cương trong vòng một phút. Nào, chúng ta đi theo hướng nào? Thẳng hướng bắc ư? - Không. – Shasta nói. – Tôi biết đường đi. Tôi đã đánh dấu rồi. Tôi sẽ giải thích sau. Rẽ sang trái một chút hai bạn ngựa. Đây – nó đây! - Nào, – Bree nói, – phi nước đại suốt một ngày một đêm không nghỉ như cái câu chuyện vẫn kể lại là một điều không tưởng hai bạn nhỏ ạ. Chỉ có thể đi và chạy nước kiệu nhỏ: những bước nước kiệu chắc chắn và có lúc đi bước một để lấy sức. Mỗi khi chúng tôi đi thì hai người có thể xuống ngựa đi bộ theo. Hwin, cô bạn đã sẵn sàng chưa? Nào chúng ta đi! Narnia và miền Bắc! Giai đoạn đầu của chuyến đi thật thú vị. Đêm đã qua được mấy tiếng đồng hồ rồi và cát không còn phả ra hơi nóng mặt trời mà nó hấp thụ vào ban ngày, không khí mát lạnh, trong lành và sảng khoái. Dưới ánh trăng, sa mạc trải ra mênh mông về tất cả các hướng, xa mãi, xa mãi khi tầm mắt có thể vươn tới được. Cát sáng lên nhờ nhờ như thể nó là một dòng nước lững lờ trôi hoặc như một cái khay bạc khổng lồ. Trừ tiếng vó ngựa của hai con Bree và Hwin, trong không gian mênh mông không vang lên một tiếng động nào cả. Shasta suýt nữa thì ngủ gục nếu thỉnh thoảng nó không xuống ngựa và đi bộ một đoạn. Họ cứ đi như thế trong vòng nhiều giờ. Rồi đến lúc trên trời không còn trăng nữa. Họ lại đi tiếp trong bóng tối hết giờ này qua giờ khác. Sau đó Shasta nhận ra là nó có thể nhìn thấy cổ Bree rồi vai Bree ở phía trước mỗi lúc một rõ hơn. Rồi từ từ Shasta bắt đầu thấy hiện lên một mặt phẳng màu xám mênh mông. Hoàn toàn giống cõi chết, như một cái gì đó trong một thế giới đã chết, Shasta mệt bã cả người, mỗi lúc nó một cảm thấy lạnh hơn và đôi môi khô đi. Chẳng có gì ngoài tiếng sột soạt của bao da, tiếng nhạc ngựa và tiếng vó ngựa – không giống như tiếng vó ngựa nện trên con đường cái quan mà là âm thanh êm êm trên cát mênh mông, khô hạn. Cuối cùng sau nhiều giờ ê ẩm ngồi trên mình ngựa, xa xa phía bên tay phải Shasta xuất hiện một vạch dài màu xám nhạt nhô lên trên đường chân trời. Rồi cái vạch ấy chuyển sang màu đỏ. Cuối cùng bình minh cũng xuất hiện nhưng chẳng có con chim nào cất giọng ca đón chào. Shasta lấy làm sung sướng là có thể đi bộ một đoạn vì bây giờ nó lạnh đến tê dại cả người. Bất thình lình mặt trời nhô lên và mọi thứ đều thay đổi trong nháy mắt. Cát xám hóa màu vàng và lấp lánh như thể lẫn trong cát là những hạt kim cương. Về phía bên tay trái, bóng Shasta, Hwin, Bree và Aravis ngả dài cùng chạy đua với chúng. Ngọn núi đôi Mount Pire hiện lên trước mặt, sáng lóa lên dưới ánh ban mai và Shasta biết trông nó có nhỉnh hơn trước. - Sang trái một chút, sang trái một chút. – Shasta reo lên. Bây giờ thì ổn rồi, khi nó ngoái đầu lại nhìn, Tashbaan chỉ còn nhỏ xíu và xa vời. Khu lăng mộ không còn thấy rõ nữa, nó bị nuốt chửng trong cái gò đơn độc có cái rìa lởm chởm từ đó mọc lên thành phố của Tisroc. Ai nấy đều phấn chấn hơn. Nhưng tâm trạng này kéo dài không được bao lâu. Mặc dù Tashbaan trông xa vời vợi khi lần đầu ngoái nhìn lại, nhưng nó không lùi xa hơn nữa khi chúng đã đi được mấy giờ liền. Shasta đã thôi không còn chốc chốc lại ngoái cổ ra sau nữa vì làm thế chỉ khiến nó có cảm giác là họ vẫn giậm chân tại chỗ. Sau đó ánh nắng cũng trở thành một điều phiền toái. Cát vàng hất ngược nắng vàng làm cho đôi mắt nó nhức nhối mà nó thì không thể nhắm mắt lại. Nó buộc phải ngước mắt lên cao hơn và cứ nhìn thẳng về phía Mount Pire để định hướng. Đi một lúc nữa thì đến vấn đề nhiệt độ. Nó nhận ra điều này khi lần đầu tiên nó xuống ngựa, đi bộ: vừa chạm chận xuống đất thì cát nóng hừng hực đã phả hơi nóng vào mặt rát không kém gì hơi nóng phả ra từ miệng lò. Lần thứ hai đi bộ còn tệ hơn nữa. Nhưng đến lần thứ ba, khi đôi chân trần của nó vừa chạm đất thì nó vội hét lên vì đau đớn và vội vàng cho một chân lên bàn đạp, chân kia vắt trên lưng Bree. - Xin lỗi anh bạn Bree. – Nó vừa nói vừa thở hổn hển. – Tôi không thể đi được. Cát làm bỏng chân tôi. - Tất nhiên! – Ngựa phì phò đáp lại. – Cứ nghỉ cho tôi đi. Thôi cứ ngồi yên trên đấy. Không thể làm khác được. - Tất cả đều ổn đối với cô. – Shasta nói với Aravis đang thất thểu đi bên cạnh Hwin. – Bởi vì cô có mang giày mà. Aravis không nói câu nào, vẻ mặt rất nghiêm trang. Hãy cứ hi vọng là nó không đem lòng ganh tị với bạn nhưng thực ra thì nó có bực bội đấy. Lại tiếp tục bước đi nước kiệu rồi đi bộ rồi lại chuyển sang đi nước kiệu, tiếng chuông leng keng, tiếng bao da kêu răng rắc răng rắc dưới ánh nắng như thiêu như đốt, mùi mồ hôi ngựa, mồ hôi người, cái vầng sáng chói chang trước mặt và cái đầu nhức ong ong. Lúc nào cũng như thế hết dặm này đến dặm khác. Tashbaan trông không có vẻ lùi xa thêm một bước nào. Những ngọn núi trước mặt cũng không nhích lại gần hơn. Bạn cảm thấy bao giờ cũng vẫn như vậy – tiếng chuông leng keng buồn tẻ, tiếng bao da răng rắc răng rắc, mùi ngựa và hơi người dưới sức nóng mặt trời dữ dội. Tất nhiên người ta phải nghĩ ra đủ mọi trò hòng giết thời gian và tất nhiên tất cả đều chẳng có tích sự gì. Người ta cố không nghĩ đến giải khát – nước ép trái cây ướp lạnh trong một tòa lâu đài ở Tashbaan, nước suối trong vắt róc rách giữa đôi bờ, sữa cừu – thứ sữa béo mát lạnh nghe thân quen nơi đầu lưỡi béo ngậy nhưng không quá béo – nhưng bạn càng cố không nghĩ đến nó bao nhiêu lại càng thấy hiện lên trong đầu mình hình ảnh của nó rõ nét bấy nhiêu. Cuối cùng cảnh vật trước mắt cũng đã có một sự thay đổi – một tảng đá mọc chồi lên giữa trảng cát, dài chừng hai mươi mét, cao khoảng ba mươi mét. Tảng đá không hắt được bao nhiêu bóng râm xuống cát bởi vì mặt trời lúc này đã lên cao. Cả bọn chen chúc đứng dưới cái bóng nhỏ của nó một lúc. Ở đây chúng ăn và uống một chút nước. Không dễ gì cho ngựa uống nước từ trong một túi da nhưng Bree và Hwin rất khéo léo với đôi môi của chúng. Không ai ăn no uống đủ, không ai bàn luận gì. Toàn thân hai con ngựa nổi bọt trắng xóa, chúng thở ồn ào như một chiếc đầu máy. Bọn trẻ tái nhợt cả người đi vì mất nước và mất sức. Sau vài phút nghỉ ngơi cho lại sức, người và ngựa lại tiếp tục cuộc hành trình. Cũng những âm thanh ấy, cũng những cái mùi ấy, cái ánh sáng chói mắt ấy cho đến lúc bóng của họ bắt đầu ngả sang bên phải rồi mỗi lúc một kéo dài ra, dài ra hơn cho đến lúc có vẻ như chúng kéo dài ra đến tận chân trời phía đông. Đủng đỉnh và chậm rãi, mặt trời chuyển dần sang chân trời phía tây. Bây giờ khi mặt trời đã xuống thấp hẳn, may mắn làm sao cái ánh chói chang không biết thương xót là gì từ dưới cát bốc lên cũng biến mất, dù hơi nóng dưới chân vẫn hầm hập phả lên như trước. Bốn cặp mắt háo hức nhìn quanh tìm dấu hiệu của cái thung lũng mà con quạ Sallowpad đã nói. Nhưng hết dặm này đến dặm khác vẫn lại chỉ là mặt cát vàng bằng lặng. Ánh ngày đã tắt hẳn, hầu hết các vì sao đều dừng bước, hai đứa trẻ dập dềnh trên yên ngựa khổ sở vì cái khát và mệt mỏi. Không đợi đến lúc mặt trăng xuất hiện, Shasta – bằng giọng nói như quát với âm thanh khào khào của một người mà mồm miệng đã khô không khốc – kêu lên: - Nó kia kìa! Bây giờ thì không còn nhầm lẫn nữa. Ngay trước mặt hơi chếch về phía tay phải một chút là một hẻm núi dốc thẳng xuống, hai bên hẻm núi, mọc lên những gò đá. Hai con ngựa quá mệt để mở miệng nói nhưng chúng tiến lên trước và trong vòng một hoặc hai phút chúng đã đi vào trong hẻm núi. Thoạt tiên ở đây còn khó chịu hơn là ở ngoài sa mạc mênh mông, bởi vì hai bên vách núi tiến sát vào nhau hẹp đến mức thiếu không khí và ánh trăng khó lọt xuống được đến đây. Cái dốc tiếp tục đổ xuống rất gấp trong khi các tảng đá ở hai bên thì vươn cao, cao mãi lên. Đi được một đoạn họ bắt gặp một vài loài cây – cây xương rồng gai góc và những loại cỏ thô ráp có thể đâm thủng cổ tay bạn. Chẳng bao lâu sau vó ngựa đã đạp rào rạo lên đá, sỏi thay vì cát. Cả bọn háo hức căng mắt ra ở mỗi khúc quẹo – mà ở đây thì có rất nhiều khúc quẹo – để tìm chỗ có nước. Hai con ngựa gần như đã kiệt sức, con Hwin luôn bị vấp, thở như kéo bễ và kéo lê cái xác theo sau Bree. Cả bọn gần như đã tuyệt vọng thì chợt thấy một vũng bùn và một dòng nước mảnh như một sợi dây chảy qua lớp cỏ xanh và mềm. Dòng nước tí tách chảy thành một dòng suối nhỏ rồi con suối lại phình to ra thành một dòng suối thực sự tuôn chảy giữa đôi bờ; được một đoạn dòng suối trở thành sông và rồi (sau những thất vọng sâu sắc hơn tôi có thể miêu tả được) cũng đến lúc Shasta – vẫn đang trong trạng thái bàng hoàng mê mẩn – chợt nhận ra Bree đã dừng lại còn nó thì trượt xuống từ lúc nào. Trước mặt đoàn lữ hành là một dòng thác nhỏ đang đổ xuống một hồ nước rộng. Cả hai con ngựa đều lao xuống hồ, cúi đầu xuống uống nước, uống mãi, uống mãi. - Ôi… ôi! – Shasta kêu lên, lội xuống nước, nước chỉ đến đầu gối và nó vục đầu vào dòng nước đang chảy. Đó có lẽ là khoảnh khắc đáng quý nhất đời nó. Vào khoảng mười phút sau cả người lẫn ngựa (hai đứa trẻ đã ướt gần hết cả người) lóp ngóp lội ra khỏi dòng nước và đưa mắt nhìn quanh. Trăng đã lên cao đủ để rọi ánh sáng xuống vực. Hai bên bờ sông cỏ rất mềm, bên ngoài bãi cỏ là những thân cây cao và cây bụi mọc cao dần lên trên bờ đá. Chắc phải có một loài cây bụi nào đó giấu mình e ấp sau một tảng đá, đang hé mở những cánh hoa thẹn thò của nó vì trong không gian đầy bóng râm này bỗng tràn ngập một mùi hương tuyệt diệu và sảng khoái. Và vọng ra từ những chỗ tối nhất trong lùm cây là một âm thanh mà Shasta chưa từng nghe thấy bao giờ – tiếng hót của một con chim họa mi. Mọi người đều đã quá mệt để nói chuyện hoặc ăn uống. Những con ngựa không đợi để được tháo yên cương vội nằm kềnh xuống đất. Cả Aravis và Shasta cũng bắt chước làm theo. Vào khoảng mười phút sau, Hwin thận trọng nói: - Chúng ta không được ngủ đâu. Phải nghe ngóng xem Rabadash có động tĩnh gì không. Không được ngủ, – Bree nói, – chỉ ngả lưng một chút thôi. Shasta biết rõ (trong một phút) rằng cả bọn rồi sẽ thiếp đi nếu nó không đứng dậy và làm một cái gì đó, nó cảm thấy chính nó phải làm làm việc đó. Thật ra nó đã quyết định sẽ đứng lên thuyết phục mọi người làm theo. Nhưng hãy hượm một chút, chỉ một chút thôi, một chút thôi… Chẳng bao lâu sau, mặt trăng đã lên cao hơn, sáng tỏ. Con chim họa mi hót véo von ở khoảng trời trên đầu hai con ngựa và hai đứa trẻ, tất cả lịm đi trong một giấc ngủ mỏi mệt. Aravis là người thức dậy đầu tiên. Mặt trời đã lên cao, mấy giờ dịu mát đầu buổi sáng đã trôi qua một cách lãng phí. “Lỗi của mày. – Aravis giận dữ tự mắng mình trong khi nó ngồi bật dậy và bắt đầu đánh thức những người khác. – Không ai lại đi mong đợi lũ ngựa thức dậy sau một ngày đi đường kinh khủng như thế, kể cả khi chúng biết nói. Tất nhiên cũng không thể hi vọng gì được ở Shasta. Nó có được dạy dỗ rèn luyện gì đâu. Mày mới là người phải có bổn phận.” Bọn còn lại vẫn đang ngái ngủ ngơ ngác sau một giấc ngủ nặng như chì. - Heigh – hoo – broo – hoo. – Bree nói. – Ngủ với nguyên bộ yên cương như thế này ư? Tôi sẽ không làm như thế này bao giờ nữa. Thật chẳng ra thể thống gì… - Thôi nào, nhanh nhanh lên! – Aravis nói. – Chúng ta đã mất toi gần một nửa buổi sáng rồi đấy. Không được phép lãng phí một phút nào nữa. - Này này, một gã trai tráng như tôi phải có đầy một bụng cỏ chứ. – Bree nói. - Tôi e là chúng ta không chần chừ được nữa. – Aravis nói. - Chỉ trong chớp nhoáng thôi thì sao? – Bree hỏi. Chúng ta chẳng đã vượt qua sa mạc là gì? - Nhưng chúng ta còn chưa đặt chân đến Archenland. – Aravis nói, – và chúng ta phải đi đến đấy trước Rabadash. - Ôi tưởng gì, chúng ta đã bỏ xa hắn hàng dặm đường cơ mà, – Bree cười ầm lên, – chẳng phải chúng ta đã đi con đường ngắn hơn hay sao? Không phải anh bạn quạ của cậu đã nói đây là lối đi tắt hay sao Shasta? - Nó không nói đây là lối đi ngắn hơn, – Shasta đáp, – mà chỉ nói đây là con đường đi tốt hơn, vì có nước. Nếu ốc đảo này đúng là ở phía bắc Tashbaan thì tôi e con đường này lại xa hơn. - Nhưng tôi không thể tiếp tục mà không có gì bỏ bụng. – Bree nói. – Shasta, tháo yên cương ra cho tôi. - Làm ơn, – Hwin nói, vẻ thẹn thò, – tôi… tôi cũng có cảm giác giống như Bree, tôi… tôi không thể gắng gượng hơn được nữa. Nhưng khi lũ ngựa chúng ta mang con người (cùng với đinh thúc ngựa và roi) trên lưng chẳng phải là chúng ta bị bắt buộc phải đi tiếp khi mệt nhoài, khi mình không muốn hay sao? Và như vậy chúng ta cảm thấy dường như chúng ta vẫn có thể tiếp tục. Tôi… tôi muốn nói… không biết chúng ta có nên cố gắng vượt qua khi… bây giờ đã là những kẻ tự do không. Tất cả cho Narnia mà! - Tôi nghĩ, thưa quý cô, – Bree nói có vẻ ưu tư lắm, – rằng tôi cũng có biết một chút về các chiến dịch, những cuộc hành quân gấp rút và cái ngưỡng mà một con ngựa có thể chịu đựng hơn một chút. Nghe bạn nói thế Hwin không đáp vì thực chất nó là một con ngựa cái thuần tính nhất, như một người bản tính dịu dàng dễ xúc động, nó cũng mau chóng lấy lại bình tĩnh. Thực ra nó đã đúng và nếu như Bree mang một Tarkaan trên lưng nó cũng sẽ thấy rằng nó đủ sức cho một chuyến đi kéo dài vài giờ cực nhọc nữa. Nhưng một trong những hậu quả tồi tệ nhất của việc trở thành một kẻ nô lệ và bị ép buộc phải làm việc ngoài ý muốn của mình là khi không có ai ép buộc bạn nữa bạn cũng cảm thấy mình mất đi cái năng lực ép buộc chính bản thân mình. Thế là cả bọn chờ đợi trong lúc Bree ăn cỏ và uống nước, tất nhiên Hwin và bọn trẻ cũng ăn và uống nữa. Gần đến 11 giờ trưa thì chúng mới sẵn sàng đi tiếp. Thậm chí đến lúc ấy, Bree cũng đi đứng uể oải hơn ngày hôm trước. Chính là Hwin dù mệt mỏi và đuối sức hơn trong hai con ngựa đã vượt lên trước. Thung lũng cùng với con sông êm ả dầy phù sa, thảm cỏ, rêu, hoa dại và những bụi đỗ quyên là một nơi tuyệt vời đến nỗi bạn chỉ muốn đi chậm lại. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 10
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 10 Ẩn sĩ trong lều cỏ Sau khi họ đi xuống dốc được vài giờ, thung lũng trải rộng ra trước mắt và họ có thể thấy rõ cái gì nằm ở phía trước. Con sông mà họ đang đi theo chảy đến đây thì nhập với một con sông lớn hơn, dòng nước rộng và chảy xiết theo hướng từ trái sang phải. Bên kia con sông rộng này là một vùng đất tươi đẹp trải ra êm đềm trên những ngọn đồi thấp, hết dãy đồi này đến dãy đồi khác cho đến tận những dãy núi phía bắc. Bên tay phải đoàn lữ khách là những dãy núi cao chót vót, trên trán một hai ngọn núi cao hơn, tuyết phủ trắng xóa. Bên trái họ là những dải đồi phủ kín thông, những vách đá đen thẫm, những cái đèo hẹp và những đỉnh núi xanh xanh trải dài ngút tầm mắt. Shasta không còn nhận ra đâu là Mount Pire nữa. Thẳng trước mắt nó là dãy núi khuất sau một rặng núi phủ đầy cây cổ thụ um tùm, rậm rạp, tất nhiên đó là cái đèo ngăn cách Archenland với Narnia. - Broo – hoo – hoo, phương Bắc, phương Bắc xanh tươi! Bree hí vang. Tất nhiên những quả đồi thấp kia có vẻ xanh tươi hơn, đẹp đẽ hơn bất cứ cái gì mà Aravis và Shasta, với con mắt của người phương nam, có thể hình dung ra. Tinh thần chúng phấn chấn hẳn lên khi đi xuống vùng châu thổ nơi hai con sông gặp nhau. Con sông đổ về hướng đông bắt nguồn từ những dãy núi cao hơn ở vùng phía tây, nước chảy xiết, tung bọt trắng xóa và chẳng ai dám nghĩ đến chuyện bơi qua. Nhưng sau khi đi đi lại lại xem xét rồi đi dọc bờ sông vài lần, họ đã tìm ra một chỗ nước đủ nông để có thể lội qua. Tiếng dòng nước chảy, những vòng nước xoáy ở khuỷu chân ngựa, không khí mát lạnh đầy kích thích và những con chuồn chuồn chấp chới bay qua bay lại làm tràn ngập trong tâm hồn cậu bé phương Nam một sự phấn khích mới mẻ, kỳ lạ. - Các bạn ơi, chúng ta đã ở Archenland rồi. – Bree nói với giọng tự hào khi nó khua bốn vó lên làm nước bắn tung tóe khi sang bên bờ bắc. – Tôi nghĩ con sông mà chúng ta vẫn lội qua có tên là Mũi Tên Bay. - Tôi hy vọng chúng ta đến đúng lúc. – Hwin thì thầm. Sau đó cả bọn bắt đầu đi lên dốc, chậm rãi, theo một con đường ngoắt ngoéo và họ phải vượt qua những quả đồi rất dốc. Một vùng đất tươi đẹp như một công viên khổng lồ không có đường sá, nhà cửa. Cây cối mọc rải rác khắp nơi, không đủ dày và rậm rạp để tạo thành rừng. Shasta sống cả đời ở một nơi trơ trụi hầu như không có bóng cây cao, chưa bao giờ trông thấy quá nhiều cây và quá nhiều loại cây như thế. Nếu bạn có mặt ở đây thì bạn sẽ nhận ra (mà Shata thì không) là nó đang ngắm nhìn những cây sồi, cây bu lô, thanh lương trà và dẻ rừng… Những chú thỏ phóng ra từ tất cả các hướng khi họ đi qua và họ vừa nhác thấy một bầy hươu lướt đi giữa những lùm cây. - Thế này không phải là một cảnh tượng kì diệu ư? – Aravis thốt lên. Lên đến đỉnh đồi đầu tiên, Shasta ngoái đầu lại nhìn. Không còn thấy Tashbaan đâu nữa, sa mạc không có gì thay đổi trừ một vệt đường nhỏ hẹp, xanh tươi mà họ vừa đi qua chạy dài đến tận chân trời. - Ôi trời! – Nó bất thần thốt lên. – Cái gì thế kia? - Cái gì? – Bree hỏi, quay đầu lại. Cả Hwin và Aravis đều làm theo. - Kia kìa. – Shasta nói, chỉ tay về một hướng. – Trông như có khói. Có phải là một đám cháy không? - Bão cát đây, tôi dám nói như thế. – Bree đáp. - Không có gió làm sao có bão được? – Aravis thắc mắc. - Ôi trời! – Hwin kêu lên. – Nhìn kìa, có cái gì lấp lánh trong đó. Lại có mũ trụ và áo giáp nữa. Có cái gì đang di chuyển, di chuyển theo lối này. - Lạy thánh Tash! – Aravis nói. – Quân đội đấy. Đó là Rabadash. - Tất nhiên rồi. – Hwin nói. – Đó là cái làm tôi lo sợ nhất. Nhanh, nhanh lên! Chúng ta cần phải đến Anvard trước họ. – Rồi không nói thêm một câu, nó lồng lên phi nước đại về phương bắc. Bree cũng hất đầu lên, tế như bay theo bạn. - Nhanh lên, Bree, nhanh lên! – Aravis ngoái lại la lớn. Đó là cuộc đua vắt kiệt sức lũ ngựa. Khi chúng đã vượt lên một đỉnh đồi, chúng lại tìm thấy một thung lũng khác và môt đỉnh đồi khác vươn lên từ cái thung lũng ấy. Và mặc dù cả bọn đều biết họ đi đúng hướng thì không ai biết rõ họ còn cách Anvard bao xa. Từ trên đỉnh đồi thứ hai. Shasta ngoảnh đầu nhìn lại. Thay vì một đám mây bốc lên từ sa mạc, bây giờ nó nhìn thấy một đám gì đen đen, di động, giống như một đám kiến ở phía bờ bên kia con sông Mũi Tên Bay. Không còn gì phải nghi ngờ nữa, quân địch đang tìm một chỗ nước cạn để lội qua. - Họ đã đến bên sông rồi! – Nó hét lên một cách man dại. - Nhanh lên! Nhanh lên! – Aravis la lớn. – Chúng ta sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì nếu không đến được Anvard đúng lúc. Phi nước đại đi Bree, hãy phi hết tốc lực. Nhớ rằng anh là một con chiến mã. Đó là tất cả những điều mà Shasta đã cố ngăn mình không la lên để chỉ đạo, bởi vì nó nghĩ: “Con ngựa tội nghiệp đã làm tất cả những điều nó có thể làm rồi”, vì thế mà nó kịp kiềm lại không nói nữa. Chắc chắn đó là điều hai con ngựa đã làm, nếu không phải là tất cả những điều có thể thì cũng là những điều chúng nghĩ mình có thể làm. Bree đuổi kịp Hwin và cả hai sóng đôi phóng qua một vạt cỏ. Có vẻ như Hwin không thể giữ được tốc độ như thế này lâu hơn nữa. Nhưng ngay sau đó, cảm xúc của mọi người đã hoàn toàn thay đổi chỉ vì một tiếng động phía sau lưng. Đó không phải là âm thanh mà họ nghĩ là sẽ vang lên vào lúc này như tiếng vó ngựa, tiếng gươm giáo khua lách cách và trộn lẫn vào những âm thanh này có thể là tiếng kêu xung trận của người Calormen. Nhưng Shasta biết ngay đó là cái gì. Chính là tiếng gầm dữ tợn mà nó nghe thấy vào đêm trang nọ trong lần đầu tiên nó gặp Aravis và Hwin. Bree cũng biết rõ. Đôi mắt nó đỏ sọc, đôi tai dán sát vào hộp sọ. Cho đến lúc này, Bree mới biết là nó còn chưa chạy nhanh – thật sự nhanh – hết khả năng cho phép. Shasta có thể cảm nhận được ngay lập tức sự thay đổi đó. Chỉ trong vài giây, Bree và Shasta đã bứt lên trước Hwin. “Như thế thật không công bằng, – Shasta thầm nghĩ, – mình tưởng một khi đã ở đây thì tránh xa được lữ sư tử chứ!” Nó ngoái đầu nhìn lại. Sau lưng nó, một con vật to lớn, lông màu hung, thân hình kéo dài áp sát đất như một con mèo vút qua bãi cỏ để đến một cái cây khi có một con chó lạ chạy vào vườn. Cứ mỗi giây trôi qua, khoảng cách giữa nó và con thú một rút ngắn hơn. Nó lại nhìn về phía trước và trông thấy một vật mà nó không biết là gì thậm chí cũng không hề nghĩ đến. Con đường của chúng bị chặn lại bởi một bức tường xanh um toàn cành lá cao khoảng hơn ba thước. Trên bức giậu xanh tốt đó trổ ra một cái cổng và cánh cổng đang mở ra. Chính giữa cổng có một người đàn ông cao lớn mặc áo choàng dài chấm xuống đôi chân đất, áo ông mặc có màu giống như lá rừng mùa thu. Người đàn ông tì vào một cây gậy thẳng đứng. Bộ râu bạc trắng buông dài đến đầu gối. Shasta ghi nhận tất cả chỉ với một cái liếc mắt, đoạn ngoái ra phía sau lần nữa. Bây giờ thì sư tử sắp bắt kịp Hwin đến nơi rồi. Nó sắp sửa há miệng tợp một cái vào chân sau con ngựa cái. Không còn một tia hy vọng trên cái mặt dài với đôi mắt mở rộng, sùi bọt trắng xóa của Hwin nữa. - Dừng lại! – Shasta quát vào tai Bree. – Chúng ta phải quay lại. Phải giúp họ. Sau này bao giờ Bree cũng giải thích là nó không nghe thấy thậm chí không hiểu điều này. Và bởi vì nhìn chung nó là con ngựa trung thực, ta phải chấp nhận lời giải thích của nó thôi. Shasta rút chân khỏi bàn đạp, vắt cả hai chân sang bên trái, do dự trong một phần trăm giây khiếp đảm đó rồi nhảy xuống đất. Đó là một cú đáp đất đau kinh khủng và làm cho mình mẩy nó một phen nhừ tử nhưng trước khi hiểu thế nào là đau đớn, nó đã bật dậy chạy lại giúp Aravis. Shasta chưa làm một chuyện như thế này bao giờ và khó mà hiểu được tại sao mình lại làm điều ấy vào lúc này. Một trong những tiếng hí kinh khủng nhất của loài vật bật ra khỏi miệng Hwin. Aravis cúi rạp người ngay trên cổ con ngựa và có vẻ như đang cố rút thanh gươm ra. Lúc này cả ba – Aravis, Hwin và sư tử gần như ở ngay phía trên Shata. Trước khi cả ba đổ ụp lên người thằng bé, sư tử chồm thân hình to lớn lên đứng trên hai chân sau, nó to hơn cả một con sư tử trong hình dung của bạn rồi thình lình chộp xuống Aravis bằng cái vuốt bên phải. Shasta có thể nhìn thấy tất cả những móng vuốt của nó đều giương ra. Aravis hét lên một tiếng, người lảo đảo trên yên ngựa. Sư tử đã chộp xuống vai cô bé. Shasta nửa điên nửa tỉnh vì kinh hoàng, hấp tấp quăng người về phía con ác thú. Nó không hề có vũ khí, cả đến một cái gậy hoặc một cục đá cũng không. Nó hét vào mặt sư tử – thật ngu ngốc – đúng như cái cách người ta quát một con chó: “Quay về nhà! Quay về nhà!” Trong vòng một phần tư giây, nó nhìn thẳng vào cái miệng đang ngoác ra dữ tợn của sư tử. Rồi trước sự kinh ngạc đến bàng hoàng của nó, sư tử vẫn đang đứng trên hai chân sau, bất thần khựng lại, cúi đầu xuống, hạ hai chân trước xuống và bỏ đi. Mất một lúc Shasta còn chưa dám tin vào mắt mình rằng, dã thú đã đi khỏi. Nó quay đầu chạy bán sống bán chết về cái cổng trổ trên bức tường cây xanh mà lần đầu tiên nó nhớ là đã nhìn thấy Hwin loạng choạng gần như sắp sụm xuống cũng vừa chạy vào cổng. Aravis ngồi trên yên ngựa nhưng lưng nó đẫm máu. - Vào trong đi, vào bên trong đi con gái! – Ông già có bộ râu dài trong chiếc áo chùng nói, sau đó ông quay sang bảo Shasta: – “Vào nhà đi con trai!” khi nó thở hồng hộc chạy đến. Nó nghe tiếng cánh cửa đóng lại phía sau lưng, người đàn ông lạ mặt, râu dài giúp Aravis xuống ngựa. Họ đang ở bên trong một khoảng đất rộng tròn vành vạnh được bảo vệ bởi một bức giậu kín, xanh ngắt, cao cao. Một cái hồ phẳng lặng như một tấm gương, đầy ắp nước, trông như thể mặt hồ cũng ngang bằng với mặt đất nằm ngay trước mặt Shasta và bờ hồ phía bên kia hoàn toàn bị che khuất dưới đám cành lá um tùm của một cái cây lớn nhất và đẹp nhất mà Shasta từng thấy. Sau hồ nước là một nếp nhà nhỏ thấp tè bằng đá vôi với cái mái tranh dốc nghiêng cổ lỗ. Nghe vang lên từ đầu bên kia khoảnh đất tiếng be be của một vài con dê. Mặt đất bằng phẳng trải đầy một thứ cỏ mềm mại, xanh non, tuyệt đẹp. - Ông… ông… có phải ông là, – Shasta vừa nói vừa thở hồng hộc, – là vua Lune xứ Archenland phải không ạ? Ông già lắc đầu: - Không. – Ông đáp bằng một giọng từ tốn. – Ta là ẩn sĩ phương nam. Bây giờ, con trai ạ, đừng phí thời gian hỏi này hỏi nọ nữa mà hãy vâng lời ta. Cô bé này đã bị thương, ngựa thì kiệt sức. Rabadash đã tìm ra khúc sông cạn để vượt qua con sông Mũi Tên Bay. Nếu con chạy đi ngay lúc này mà không bỏ phí một giây nào, con vẫn đến kịp để báo tin cho vua Lune. Tim Shasta như muốn ngừng đập trong lồng ngực khi nó nghe thấy những lời này và cảm thấy nó không còn lại một chút sức lực nào nữa. Lòng nó đau quặn lại trước yêu cầu xem ra rất tàn nhẫn và không công bằng chút nào đối với nó. Shasta còn chưa biết rằng nếu bạn lập được một kì tích nào đó thì phần thưởng mà bạn có được chỉ là việc bạn buộc phải làm một cái gì khác còn khó khăn hơn, cao cả hơn. Nhưng tất cả những điều nó nói ra chỉ là: - Vậy, đức vua đâu? Ẩn sĩ quay lại dùng cây gậy chỉ trỏ. - Coi đây. Kia là một cái cổng khác, đối diện với cái cổng con vừa bước vào. Hãy mở cổng mà thẳng tiến: bao giờ cũng đi thẳng dù là qua đất bằng hay đồi dốc, nơi có đường đi hay chốn không có dấu chân người, qua nơi khô rát hay chốn đầm lầy… bằng pháp thuật của mình ta biết là con sẽ tìm ra vua Lune bằng cách con cứ thẳng con đường trước mặt mà đi. Nhưng phải chạy, chạy, bao giờ cũng phải chạy. Shasta gật đầu, chạy về phía cửa bắc và biến mất. Sau đó ẩn sĩ đưa Aravis, người mà nãy giờ ông vẫn đỡ bằng tay trái, vào nhà, nửa dẫn cô bé, nửa dìu cô bé đi theo. Một lát sau, ông bước ra khỏi lều. - Bây giờ, hỡi những người anh em họ, – ông nói với hai con ngựa, – đến lượt các ngươi đó. Không đợi câu trả lời mà thực tế bọn chúng cũng không hơi sức đâu để lên tiếng – ông tháo bộ yên cương cho hai con ngựa. Đoạn, ông xoa bóp vỗ về chúng, khéo léo đến nỗi cả một tay giám mã trong cung vua cũng không thể làm tốt hơn. - Người anh em, – ẩn sĩ nói, – hãy bỏ tất cả những chuyện này ra khỏi đầu và hãy tự chăm sóc mình cho tốt. Có nước mát và cỏ ngọt đấy. Các ngươi cũng sẽ có món cám nóng sốt sau khi ta vắt sữa những con dê vốn là anh em họ với ta. - Thưa ngài, – cuối cùng hì Hwin cũng tìm thấy tiếng nói của nó, – Tarkheena sẽ sống chứ ạ? Sư tử không giết được cô ấy đúng không ạ? - Ta biết những chuyện đang diễn ra là nhờ vào tài nghệ của mình, – ẩn sĩ nói với một nụ cười, nhưng lại biết rất ít về tương lai. Vì vậy mà ta không biết bất cứ một người đàn ông, hoặc đàn bà, hoặc thú rừng trong thế giới này có thể còn sống sót cho đến khi mặt trời lặn tối nay hay không. Nhưng cứ yên tâm đi. Thiếu nữ này có thể sẽ sống lâu như số phận của cô bé cho phép. Khi Aravis tỉnh dậy, nó thấy mình đang nằm sấp trên một cái giường thấp đặc biệt êm ái trong một căn phòng mát mẻ, giản dị với nhưng bức tường đá sần sùi trống trơn. Nó không hiểu tại sao mình lại nằm sấp nhưng khi nó cố trở mình thì một cảm giác đau đớn cháy bỏng xuyên suốt lưng nó. Aravis vụt nhớ lại và nhận ra mọi chuyện. Nó chỉ không hiểu được cái giường được làm bằng cái gì mà lại co giãn đàn hồi một cách êm ái làm vậy. Thực ra giường được làm bằng cây thạch nam là một loại cây mà nó chưa từng biết trên đời. Cánh cửa mở ra, ẩn sĩ bước vào mang theo một cái tô lớn bằng gỗ. sau khi cẩn thận đặt cái tô xuống, ông già đến bên giường hỏi: - Con thấy trong người thế nào, con gái? - Lưng con đau rát, cha ạ, – Aravis nói, – ngoài ra thì ổn ạ. Ông già quỳ xuống bên giường, áp bàn tay lên trán nó rồi bắt mạch. - Không sốt. – Cuối cùng ông nói. – Rồi con sẽ khỏe thôi. Thật vậy, không có lý do gì mà con lại không khỏe lại vào ngày mai. Nhưng bây giờ thì uống cái này trước đã. Ông cầm cái tô gỗ lên, kề vào môi cô bé, Aravis không khỏi nhăn mặt khi nếm cái chất đó, bởi vì sữa dê rất gây khi bạn không quen uống. Nhưng nó đang khát nên cố uống tiếp và cảm thấy trong người khỏe hơn khi uống cạn tô sữa. - Bây giờ thì con gái, con có thể ngủ như con muốn. Vết thương của con đã được rửa sạch, băng bó và mặc dầu con vật ra đòn rất khéo, vết thương cũng không nghiêm trọng hơn nếu bị cắt bằng một ngọn roi da. Đây chắc là một con sư tử kì lạ, thay vì nhấc con ra khỏi yên và dùng hàm răng dữ tợn tấn công con, nó lại chỉ đập cái vuốt lên lưng con. Mười vết cào, đau đấy nhưng không sâu và không nguy hiểm. - Vậy có thể nói con đã gặp may. - Con gái ạ. Ta đã sống qua 109 mùa đông trên đời này và chưa bao giờ gặp bất cứ cái gì gọi là may mắn. Có một cái gì đó về nó mà ta không sao hiểu được; nhưng nếu có cái gì chúng ta cần biết thì con hãy chắc chắn là trước sau gì chúng ta cũng sẽ biết thôi. - Chuyện gì xảy ra với Rabadash và 200 con ngựa của hắn ạ? – Aravis hỏi. - Chúng sẽ không đi qua con đường này, ta nghĩ thế. – Ẩn sĩ nói. – Chắc chúng sẽ tìm ra một chỗ nước cạn về hướng đông so với chúng ta. Từ đấy chúng sẽ đi thẳng đến Anvard. - Shasta tội nghiệp! – Aravis thở dài. – Không biết cậu ấy đi được bao xa rồi? Cậu ấy sẽ đúng lúc chứ ạ? - Có nhiều khả năng, – ông già từ tốn nói, – nhiều khả năng! Aravis lại nằm xuống, lần này thì nằm nghiêng về một bên và nói: - Con đã ngủ được một lúc lâu phải không ạ? Hình như trời đang tối dần. Ẩn sĩ nhìn ra ngoài qua cái cửa sổ duy nhất quay về phương bắc. - Không phải bóng đen của đêm tối đâu. – Ông nói. – Đó là mây buông xuống từ đỉnh Bão Tố đó. Mưa gió bão bùng trong vùng này bao giờ cũng đến từ cái nơi ấy. sẽ có sương mù dày đặc vào tối nay. Ngày hôm sau, ngoài cái lưng vẫn còn đau rát, Aravis cảm thấy khỏe đến nỗi sau bữa điểm tâm (với món cháo yến mạch và kem), ẩn sĩ nói nó có thể trở dậy. Tất nhiên nó lập tức đi ra ngoài nói chuyện với hai con ngựa. Thời tiết đã thay đổi và khoảng đất được rào lại có một màu xanh mơn mởn trông giống như một cái chén màu xanh vĩ đại, vào lúc này đang tràn ngập ánh nắng mặt trời. Đây chính là một nơi thanh bình, cô đơn và lặng lẽ. Hwin lập tức chạy lóc cóc đến gặp Aravis và hôn cô bé một cái hôn của ngựa. - Nhưng Bree đâu? – Aravis hỏi khi cả hai đã hoàn thành thủ tục hỏi thăm sức khỏe và giấc ngủ của nhau. - Ở đằng kia kìa. – Hwin nói, hất cái mũi của nó về phía trảng cỏ đằng xa. – Tôi ước gì tiểu thư có thể đến nói chuyện với hắn. Có một cái gì đó không ổn. Tôi chẳng moi được một lời của hắn. Cả hai đi đến chỗ Bree đang nằm, mặt quay vào tường; mặc dầu nó nghe thấy tiếng hai người đi đến gần, nó vẫn một mực không quay đầu lại mà cũng không nói một lời. - Chào buổi sáng, anh bạn Bree. – Aravis lên tiếng. – Sáng nay anh thấy trong người thế nào? Bree lẩm bẩm một cái gì đó nhưng không ai hiểu ra được là nó nói cái gì. - Ẩn sĩ nói là có thể Shasta sẽ đến chỗ vua Lune đúng lúc, – Aravis tiếp tục, – thế là có vẻ như tất cả những khó khăn của chúng ta đã qua. Cuối cùng ta sẽ đến được Narnia, Bree ạ. - Tôi sẽ không bao giờ thấy Narnia. – Bree nói với giọng trầm trong cổ. - Anh không khỏe ư? Bree thân yêu? Cuối cùng nó cũng quay đầu lại, khuôn mặt buồn tủi mà chỉ có loài ngựa mới có. - Tôi sẽ quay lại Calormen thôi. – Nó rầu rĩ nói. - Cái gì? – Aravis hỏi. – Quay lại với thân phận nô lệ ư? - Phải. Cuộc đời nô lệ chính là cái phù hợp với tôi. Tôi còn mặt mũi nào gặp lại những con ngựa tự do ở Narnia đây?… Tôi… tôi đã để một con ngựa cái, một cô bé và một cậu bé lại phía sau… phó mặc họ cho sư tử ăn thịt… chạy bán sống bán chết để cứu lấy cái tấm thân chết tiệt của mình! - Tất cả đều chạy trong khả năng của mình để có thể… để thoát thân. – Hwin nói. - Shasta thì không. – Bree quặc lại. – Ít nhất thì cậu ta cũng chạy đúng hướng: quay ngược trở lại và điều đó khiến tôi cảm thấy nhục nhã không sao chịu nổi. Tôi, một kẻ vẫn huênh hoang tự gọi mình là một chiến mã oai hùng từng khoác lác về hàng trăm trận đánh lớn nhỏ thế mà lại bị hạ bởi một thằng nhóc – chỉ là một đứa trẻ, một con ngựa non thuần túy, một kẻ chưa từng cầm một thanh gươm hay nhận được một sự nuôi dạy tử tế hoặc có một tấm gương sáng trong đời! - Tôi biết, – Aravis nói, – bởi vì tôi cũng có cảm giác giống như anh. Shasta quả là rất anh hùng. Tôi cũng tồi tệ như anh thôi, Bree à. Tôi đã từng coi thường cậu ấy, khinh rẻ cậu ấy, ngay từ lúc chúng ta gặp nhau, thế mà bây giờ hóa ra cậu ấy lại là người ưu tú hơn tất cả. Nhưng tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu ta ở lại, chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn nếu chúng ta quay lại Calormen. - Với cô thì mọi chuyện đều ổn thỏa. Cô có làm gì để cảm thấy nhục nhã đâu, tôi thì đã mất tất cả. - Con ngựa tốt bụng của ta, – ẩn sĩ nói, ông đến bên từ lúc nào mà không ai biết, vì đôi chân trần của ông đi trên một lớp cỏ mềm, ướt đẫm sương không gây nên một tiếng động nào, – con ngựa tốt đẹp của ta, ngươi không đánh mất cái gì hết ngoài cái tính tự phụ, cao ngạo. Đừng, đừng, người anh em. Đừng bỏ ngoài tai và lắc lắc cái bờm như vậy. Nếu như ngươi cũng khiêm tốn như một phút vừa rồi chắc ngươi đã học được cách nghe những điều hay lẽ phải. Ngươi không phải là con ngựa vĩ đại như ngươi từng nghĩ, từ lúc sống giữa những con ngựa không biết nói. Tất nhiên, ngươi dũng cảm và thông minh hơn chúng. Ngươi không thể khác được. Nhưng điều đó tuyệt đối không có nghĩa là ngươi là một cái gì đó thật đặc biệt. Chừng nào ngươi hiểu mình chẳng có gì đặc biệt thì ngươi sẽ là một con ngựa khá lắm và nói chung có thể hòa hợp được với mọi người. Bây giờ nếu ngươi và người anh em bốn chân kia đeo vòng ra cửa bếp, chúng ta sẽ thấy một nửa máng đựng cám nóng sốt. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 11
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 11 Người bạn đường bất đắc dĩ Vượt ra khỏi cổng, Shasta thấy mình đang ở trên một triền dốc mọc đầy cỏ non và những bụi thạch nam lúp xúp chạy đến những hàng cây xanh xa xa. Nó chẳng có một ý nghĩ hay một kế hoạch nào: nó chỉ cắm đầu, cắm cổ mà chạy và như thế là đủ. Bắp chân nó run rẩy, một cơn đau kinh khủng bắt đầu ở một nửa thân người, mồ hôi thánh thót nhỏ xuống làm cay xè cả mắt rồi lại làm cho mắt sáng lên. Đôi chân nó cũng run lẩy bẩy và có hơn một lần nó suýt ngã khuỵu đầu gối vào một tảng đá. Nơi đây, cây cối mọc dày hơn, rậm hơn và càng lúc càng có nhiều khoảng trống mọc đầy dương sỉ diều hâu. Hôm ấy là một ngày nắng nóng, buồn tẻ và lũ ruồi hình như đông gấp đôi bình thường. Ruồi vo ve bay quanh mặt Shasta, nhưng nó cũng chẳng xua đi nữa. Nó đã có nhiều việc để làm. Chợt nó nghe thấy có tiếng tù và – không phải là cái âm thanh dồn dập, thúc bách như tiếng tù và ở Tashbaan mà là tiếng kèn hiệu triệu tươi vui. Chỉ một lúc sau đó đã bước vào một mảng rừng hoang và thấy mình ở giữa một đám người. Ít nhất thì với nó đây cũng là một đám đông. Thực ra chỉ có khoảng 15 hoặc 20 người, tất cả đều là những quý ông trong những bộ đồ đi săn màu xanh lá cây trông rất lạ mắt, một số ngồi trên yên ngựa, một số cầm dây cương đứng cạnh ngựa của mình. Ở giữa đám người có một người đang giữ bàn đạp cho một người khác nhảy lên lưng ngựa. Và người đàn ông trèo lên lưng ngựa là một ông vua có đôi mắt long lanh, đôi má tròn đỏ ửng như trái táo và một vẻ vui nhộn nhất mà bạn có thể hình dung ra. Vừa thoáng thấy Shasta, ông vua này đã quên luôn chuyện trèo lên mình ngựa. Ông dang rộng vòng tay, khuôn mặt sáng bừng lên, miệng thốt ra một câu với một giọng trầm, âm vang: - Corin! – Con trai của ta! Đi bộ, ăn mặc rách rưới như thế này! Chuyện gì… - Không ạ! – Shasta vừa hổn hển vừa lắc đầu quầy quậy. – Không phải là hoàng tử Corin ạ. Cháu… biết mình giống hoàng tử… cháu đã gặp hoàng tử ở Tashbaan. Hoàng tử gửi lời chào. - Ông vua trong mắt nhìn Shasta với một vẻ bối rối cao độ. - Ngài… ngài có phải là vua… vua Lune không ạ? - Shasta vừa thở vừa nói. Rồi không đợi câu trả lời, – nó nói giọng ngắt quãng. – Xin đứa vua… chạy ngay về… Anvard… đóng cổng thành… kẻ thù kéo đến… Rabadash với hai trăm kỵ sĩ. - Cháu có dám chắc điều đó không, cháu bé? – Một người trong bọn hỏi. - Chính mắt cháu… cháu đã nhìn thấy họ… Đuổi theo họ từ Tashbaan đến đây. - Chỉ bằng đôi chân kia ư? – Người đàn ông lúc nãy hỏi tiếp, đôi lông mày nhướn lên. - Bằng ngựa… một ẩn sĩ… – Shasta đáp, chẳng ra ngô ra khoai gì cả. - Không hỏi nữa Darrin. – Nhà vua phán. – Ta đã nhìn thấy sự thật trên mặt cậu bé. Chúng ta phóng ngựa đi thôi các ngài. Con ngựa phóng dự phòng kia hãy để cho cậu bé cưỡi. Cháu có thể phóng ngựa thật nhanh không cháu bé? Để trả lời, Shasta đặt một chân lên bàn đạp của con ngựa mà người ta dẫn đến trước mặt nó và một giây sau nó đã ngồi chĩnh chện trên lưng ngựa. Nó đã làm điều này hàng trăm lần với con Bree, hàng trăm lần trong mấy tuần vừa rồi nên bây giờ phong thái của nó rất khác so với lần đầu nó lên ngựa, để cho Bree phải nhận xét là nó trèo lên một con ngựa mà như trèo lên một đống rơm. Nó rất vui lòng khi nghe nhà quý tộc Darrin nói: - Tâu bệ hạ, cậu bé này là một kỵ sĩ thực thụ. Thần cam đoan là có dòng máu quý tộc trong cậu bé này. - Dòng máu của nó, đó là một điều… -Nhà vua tư lự nói. Ông lại quay sang nhìn Shasta chăm chú một lần nữa, có một vẻ gì kì lạ gần như là háo hức trong đôi mắt sáng, điềm tĩnh của ông. Vào lúc này cả nhóm đã chuyển sang phóng nước kiệu đều đều. Yên ngựa của Shasta rất êm ái nhưng nó rất lóng ngóng khi sử dụng dây cương bởi vì nó chưa bao giờ dùng đến cái món này khi ngồi trên lưng con Bree cao ngạo. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn xem những người khác làm gì (cũng như việc một số người chúng ta vẫn làm ở những bữa tiệc khi không dám chắc dao và nĩa được dùng vào việc gì) và cố điều khiển những ngón tay của mình cho đúng cách. Nhưng nó không dám thử điều khiển con ngựa, nó tin là con ngựa phải đi theo cả đoàn. Con ngựa Shastan cưỡi chỉ là một con ngựa bình thường không thuộc giống ngựa biết nói nhưng nó cũng đủ thông minh để nhận ra là cậu bé ngồi trên lưng hoàn toàn không có kinh nghiệm gì: không có roi, không có đinh thúc ngựa và không thật sự làm chủ được tình thế. Đó là lý do chẳng bao lâu sau, Shasta thấy mình tụt lại sau cùng. Dù sao thì thằng bé cũng cảm thấy mình cưỡi ngựa như thế là ổn. Không có ruồi vo ve chung quanh, chỉ có làn không khí ngát hương rừng ve vuốt trên mặt, nó cũng đã lấy lại được nhịp thở của mình. Nhiệm vụ của nó đã được hoàn thành. Lần đầu tiên kể từ khi đến Tashbaan (có vẻ như dài đằng đẵng) nó mới có được cảm giác thơ thới trong lòng. Nó ngước nhìn lên xem những rặng núi cao cao đã tiến gần hơn chưa. Nhưng chỉ thấy thất vọng, nó chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ có một màu xám mơ hồ, mông lung đổ cuộn về phía trước mặt. Nó chưa bao giờ ở một đất nước có địa hình đồi núi nên lấy làm ngạc nhiên.” Đó là một đám mây, – nó tự nhủ, – một đám mây đang sà thấp xuống. Mình thấy rồi. Cao cao trên những quả đồi kia đúng là bầu trời. Mình sẽ thấy bên trong một đám mây có cái gì. Vui thật! Mình phải thường xuyên ngạc nhiên đây.” Ở bên tay trái nó và hơi chếch về phía sau một chút mặt trời đã sẵn sàng đi ngủ. Bây giờ họ đã đi đến một nơi giống như là một con đường rừng khó đi, đoàn người ngựa phía trước vẫn phóng nhanh, ngựa của Shasta tụt lại sau cùng, bị bỏ lại một đoạn khá xa. Một hoặc hai lần con đường có những khúc cua rất gấp (hai bên đường cánh rừng vẫn trải dài) và nó mất dấu những người trong đoàn khoảng một hoặc hai giây. Chợt họ rơi vào một đám sương mù, hoặc chính là sương mù buông xuống trùm lên người họ. Thế giới có một màu xám đục. Shasta không có đủ kinh nghiệm để biết rơi vào trong một đám mây mù thì lạnh và ẩm ướt như thế nào, lại như bị bưng kín đôi mắt. Màu xám đã trở thành màu đen với một tốc độ nhanh kinh khủng. Một ai đó trong tốp người dẫn đầu chốc chốc lại thổi tù và, mỗi một lần như vậy âm thanh của nó lại có vẻ vọng đến từ một nơi xa xôi hơn. Bây giờ Shasta không thể nhìn thấy bất cứ ai trong bọn nữa, nhưng tất nhiên nó lại có thể nhìn thấy họ ngay khi nó quẹo vào một con đường mới, ấy là nó nghĩ thế. Nhưng khi nó đã đánh một vòng cua rồi, nó vẫn không trông thấy họ. Thực ra nó chẳng nhìn thấy cái gì hết. Ngựa của nó bây giờ chuyển sang đi bước một. - Nhanh lên ngựa ơi, nhanh lên! – Nó năn nỉ. Có tiếng tù và vọng đến nhưng nghe hết sức mơ hồ. Bree bao giờ cũng bảo nó rằng nó phải chĩa gót chân quay ra ngoài thế là Shasta hiểu rằng chẳng có con ngựa nào muốn người cưỡi ngựa thúc gót chân vào hông nó. Có vẻ như đây là lúc Shasta nên làm ngược lại lời khuyên của Bree: - Nghe đây mày, – nó nói, – nếu mày không bước lên trước, mày biết tao sẽ làm gì không?Tao sẽ thúc gót vào lườn mày đó. Tao sẽ làm thế thật đấy! – Tuy vậy con ngựa không để tâm đến lời đe dọa đó. Thế là Shasta sửa lại tư thế ngồi trên yên ngựa, khép hai đầu gối lại và nghiến răng nghiến lợi thúc thật mạnh gót chân vào hai bên lườn ngựa. Kết quả duy nhất là con ngựa giả bộ phóng nước kiệu được dăm bảy bước rồi lại trở về với những bước đi đủng đỉnh. Trời đã tối hẳn và xem ra họ đã thôi không thổi tù và nữa. Âm thanh duy nhất là tiếng vặn răng rắc của các cành cây. “Thôi được, mình cho là dù có đi chậm như thế này thì đến một lúc nào đó mình cũng sẽ đến một chỗ nào đó chứ. – Shasta bụng bảo dạ. – Chỉ mong sao mình không rơi vào giữa đội quân của Rabadash thôi.” Nó cứ đi tiếp như thế hồi lâu, bao giờ con ngựa cũng đủng đỉnh đi như trêu ngươi. Nó bắt đầu cảm thấy ghét con ngựa cùng với cảm giác cồn cào như có kiến bò bụng. Bây giờ nó đó đến một nơi mà con đường chia ra là hai ngả. Nó đang băn khoăn tự hỏi con đường nào dẫn đến Anvard thì một tiếng động vang lên phía sau lưng làm nó giật mình. Đó là tiếng vó ngựa chạy nước kiệu.” Rabadash đấy, – nó nghĩ, hoàn toàn không thể đoán ra được là Rabadash sẽ chọn con đường nào. – Nhưng nếu mình chọn lối này, – Shasta suy tính, – hắn có thể chọn lối kia, còn nếu mình ở lại chỗ rẽ này hắn sẽ tóm được mình.”Nó bèn nhảy xuống ngựa, lôi con ngựa đi nhanh hết sức theo con đường bên tay phải. Âm thanh của đoàn kỵ binh mỗi lúc một đến gần và chỉ vài phút sau Shasta nhận thấy đoàn người đã đi đến ngã rẽ. Nó nín thở, đợi xem họ đi theo con đường nào. Chợt một giọng nói trầm trầm ra lệnh: - Đứng lại! Một vài giây sau vang lên tiếng bầy ngựa, tiếng thở phì phò, tiếng khua móng guốc, tiếng nhai rào rào, tiếng vỗ vỗ lên cổ ngựa. Rồi một giọng nói cất lên: - Tất cả bọn bay hãy nghe đây. Bây giờ chúng ta chỉ còn cách lâu đài Anvard chỉ vài dặm. Hãy nhớ các mệnh lệnh. Một khi chúng ta đã đặt chân đến Narnia, có khả năng chúng ta sẽ đến đây vào lúc rạng sáng, thì các ngươi phải hạn chế việc chém giết trong khả năng có thể. Trong cuộc phiêu lưu này, các ngươi phải nhớ một giọt máu Narnia còn quý giá hơn một ga lông 1 máu trong người các ngươi. Trong cuộc phiêu lưu này, ta nhắc lại một lần nữa, các thánh thần sẽ đem đến cho chúng ta những giờ vui vẻ hơn và các ngươi không được để bất cứ cái gì còn sống sót ở giữa Cair Paravel và miền tây hoang dã. Nhưng bây giờ chúng ta còn chưa ở Narina. Ở Archenland lại là một chuyện khác. Trong cuộc tấn công vào thành trì của vua Lune không gì quan trọng bằng tốc độ. Hãy chứng tỏ hào khí của bọn bay. Nó cũng là nhuệ khí của ta trong vòng một giờ nữa. Nếu chiến thắng, tất cả sẽ là của bọn ngươi. Ta không cần một chiến lợi phẩm nào hết. Hãy thẳng tay chém giết bất cứ một thằng đàn ông nào trong thành, giết cả những đứa trẻ mới ra đời ngày hôm qua. Tất cả những thứ khác là của bọn bay, cứ việc chia chác như bọn ngươi muốn – đàn bà, vàng bạc, châu báu, vũ khí và rượu. Nếu ta thấy kẻ nào chùn bước khi chúng ta đến cổng thành, kẻ ấy sẽ bị thiêu sống. Nhân danh thần Tash không gì chống lại được và không bao giờ nhân nhượng – Tiến lên! Khi đoàn kỵ binh phóng ngựa đi và tiếng vó ngựa nhỏ dần, Shasta mới thấy mình lại có thể thở ra được. Bọn chúng chọn con đường còn lại. Shasta nghĩ bọn chúng phải mất một khoảng thời gian để đi qua chỗ nó bởi vì mặc dầu nó đã nói và nghĩ đến chuyện hai trăm con ngựa suốt cả ngày hôm ấy, nó thật sự không hiểu con số ấy có ý nghĩ gì. Cuối cùng những âm thanh của đoàn kỵ binh đã tắt hẳn và chỉ còn một mình nó đứng giữa tiếng kêu răng rắc của các cành cây. Bây giờ thì nó đã biết đường đến Anvard nhưng tất nhiên nó sẽ không tự đến nộp mạng bởi vì điều đó chỉ có nghĩa là nó sẽ lọt vào giữa đội quân của Rabadash.” Nhưng mình biết làm cái gì bây giờ?” Shasta tự hỏi. Nó lại leo lên mình ngựa, tiếp tục con đường mà nó đã chọn với một hy vọng le lói là có thể tìm được một túp lều nào đó xin một bữa ăn và một chỗ tá túc. Tất nhiên nó cũng có ý nghĩ quay lại lều ẩn sĩ để gặp Bree, Hwin và Aravis nhưng nó không thể làm thế vì nó không biết đường quay về. - Rốt cuộc, – Shasta nói, – con đường này cũng phải dẫn đến một nơi nào đó chứ? Nhưng vấn đề phụ thuộc vào điều mà bạn muốn nói về cái “nơi nào ấy”. Con đường tiếp tục dẫn đến một nơi theo cái nghĩa là cây cối ở đây mọc rậm rạp hơn, tất cả tối om và ẩm thấp nên không khí mỗi lúc một lạnh hơn, ẩm hơn. Những làn gió buốt giá, lạ lùng một mực thổi sương mù bay qua chỗ nó dù gió không bao giờ thổi át sương mù đi. Nếu Shasta từng sống ở một vùng rừng núi nó hẳn nhận ra điều này có nghĩa là càng lúc nó càng lên cao hơn, rất có thể nó đã lên đến đỉnh đèo. Nhưng Shasta chẳng biết tí gì về núi đồi hết. “Quả thật, mình có lẽ chính là thằng nhóc hẩm hiu nhất trên đời này. Mọi thứ đều đâu vào đấy với tất cả những người khác, chỉ trừ mình. Những ông hoàng bà chúa Narnia rời khỏi Tashbaan an lành, mình thì bị bỏ lại phía sau. Aravis, Bree và Hwin bây giờ đang yên ấm như bất cứ một ai khác trong nhà ẩn sĩ già; chỉ có mình là bị phái đi. Vua Lune và người của ông đã an toàn ở trong cung, đóng cổng thành lại thật lâu trước khi Rabadash kéo quân đến, riêng mình bị bỏ lại ở cái chốn khỉ ho cò gáy này.” Mệt mỏi rã rời và chẳng còn lại chút hi vọng gì, thằng bé cảm thấy thương thân đến nỗi nước mắt chảy ròng ròng xuống má. Đặt dấu chấm hết cho cảnh bi lụy này là một nỗi sợ hãi ập đến bất thần. Shasta phát hiện ra là có một ai đó đang đi phía sau nó. Bóng đêm dày đặc như bưng lấy mắt nó. Con vật (hay người đó) đi khẽ khàng đến nỗi nó khó lòng mà nghe thấy tiếng bước chân. Chỉ nghe thấy tiếng hơi thở. Người bạn đồng hành vô hình của nó thở phì phà phì phò rất to và Shasta có cảm giác đó là một sinh vật rất lớn. Khi nó nhận ra tiếng thở ấy mỗi lúc một dồn dập hơn thì nó cũng phát hiện ra là mình không biết vật ấy đi cạnh nó đã bao lâu rồi. Thật là một cú sốc kinh hoàng. Chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu nó, đó là điều nó đã nghe được từ lâu rằng có rất nhiều người khổng lồ ở các đất nước phương bắc. Nó cắn chặt môi trong nỗi hoảng loạn. Nhưng bây giờ nó lại có một chuyện để lo lắng và nó thôi không khóc thương thân nữa. Con vật (trừ khi đó là một người) đi bên cạnh nó lặng lẽ đến nỗi Shasta bắt đầu hy vọng là nó chỉ tưởng tượng ra mà thôi. Nhưng đến lúc nó tưởng như đã chắc chắn về điều đó thì nó lại nghe vang lên tiếng thở dài sâu xa của bóng đêm ngay bên cạnh nó. Không thể là sản phẩm của trí tưởng tượng! Dù sao thì nó cũng cảm thấy một hơi thở nóng hổi của tiếng thở dài ấy phủ lên bàn tay trái lạnh cóng của nó. Nếu con ngựa này có bất cứ một điểm gì tốt hoặc nếu nó biết cách làm một điều gì đó khiến con ngựa này trở nên hữu dụng, nó hẳn sẽ liều mạng hy sinh tất cả mọi thứ để bỏ chạy và thúc ngựa phi nước đại một cách man dại. Nhưng nó lại không biết cách điều khiển con ngựa theo ý mình. Thế là nó cứ tiếp tục để con ngựa đi thủng thỉnh như thế và người bạn đồng hành vô hình vô ảnh đi theo, thở phì phò bên cạnh nó. Cuối cùng nó không thể chịu đựng lâu hơn nữa. - Ông là ai? – Nó hỏi, tiếng nói không to hơn một tiếng thì thào. - Một người đợi quá lâu để bạn cất lên tiếng nói. – Vật vô hình trả lời, giọng không lớn lắm nhưng âm vang và sâu lắng. - Ông… ông không… không phải là người khổng lồ chứ? - Có lẽ gọi ta là một người khổng lồ cũng được. Nhưng ta không giống như cái mà người ta gọi là khổng lồ đâu. - Cháu chẳng nhìn thấy ông. – Shasta nói sau khi nhìn chằm chằm vào chỗ phát ra tiếng nói. Rồi nó nói (vì một ý nghĩ khủng khiếp chợt ùa vào đầu nó) gần như là hét lên: – Ông… không… không… phải là một cái gì đã chết chứ? Làm ơn… làm ơn… đi khỏi đây đi. Cháu đã làm gì hại đến ông nào? Ôi trời ơi, cháu chỉ là một đứa trẻ bất hạnh nhất trên đời này thôi. Một lần nữa nó cảm thấy hơi thở ấm áp mà vật ấy phả lên tay và mặt nó. - Coi đấy… đâu có phải là hơi thở của một con ma. Hãy nói cho ta biết nỗi buồn của cháu. Đúng là hơi thở của người bạn đồng hành làm cho Shasta cảm thấy phần nào bình tâm hơn, thế là nó kể lại chuyện nó không biết một tí gì về cha mẹ ruột và nó được nuôi dạy một cách hà khắc trong túp lều của một người đánh cá như thế nào. Tiếp theo, nó kể về việc nó bỏ trốn, người và ngựa bị sư tử đuổi và phải bơi qua lạch nước để thoát thân ra sao, về mối nguy hiểm của cả bọn khi ở Tashbaan, về cái đêm hãi hung chỉ có một mình ở khu lăng mộ, về tiếng hú gầm đuổi theo nó ở sa mạc. Sau đó là câu chuyện về cái nóng và cái khát trong cuộc hành trình qua sa mạc và về việc chúng sắp đạt đến đích thì một con sư tử đuổi theo và làm Aravis bị thương như thế nào. Và còn nữa, đã lâu lắm rồi nó chưa có cái gì bỏ vào miệng. - Ta không cho đó là những điều xui xẻo. – Cái giọng lạ lại vang lên, chân thực. - Thế ông nghĩ một người gặp quá nhiều sư tử như vậy không phải là một người kém may mắn hay sao? - Chỉ có duy nhất một con sư tử thôi. - Ông nói như thế nghĩ là sao? Cháu chẳng vừa bảo ông là có hai con sư tử vào cái đêm đầu tiền là gì và… - Chỉ có một mà thôi, nhưng nó di chuyển rất nhanh. - Sao ông biết? - Vì ta là con sư tử ấy. – Và trong lúc Shasta há hốc cả miệng ra không nói được tiếng nào thì giọng nói kia lại tiếp tục: – Ta là con sư tử đã buộc cháu gặp Aravis. Ta là con mèo lớn đã an ủi cháu trong ngôi nhà của những xác chết. Ta là con sư tử đã đuổi bầy chó rừng đi trong lúc cháu ngủ. Ta là con sư tử đã đem đến cho những con ngựa sức mạnh mới mẻ của nỗi sợ trong dặm đường cuối cùng để cháu có thể gặp vua Lune đúng lúc. Ta cùng là con sư tử mà cháu không thể nhớ được đã đẩy cái thuyền trên đó, cháu, một đứa trẻ còn thoi thóp thở vào bờ, nơi có một người đánh cá nghèo khổ thức dậy vào lúc nửa đêm ra bãi biển để đón nhận cháu. - Vậy cũng chính là ông đã làm Aravis bị thương? - Chính là ta. - Nhưng tại sao? - Con trai ạ. Ta nói với con chuyện về con chứ không phải về cô bé đó. Ta không nói với một người bất cứ cái gì khác ngoài những gì liên quan đến người ấy. - Vậy ông là ai ạ? - Là bản thân ta. – Sư tử đáp với giọng trầm ấm, âm vang đến nỗi mặt đất như rung lên. - Là chính bản thân ta! – Lần này tiếng nói lớn hơn, rõ ràng hơn và vui tươi hơn. – Là bản thân ta thôi! – Lần thứ ba giọng nói vang lên như một tiếng thì thầm êm dịu mà bạn phải lắng tai mới nghe thấy. Tuy vậy nó như được phát ra từ bốn phía chung quanh Shasta như thể muôn lá cây cùng thủ thỉ cái lời ấy. Shasta không còn sợ là cái giọng nói thuộc về một vật đó có thể ăn thịt nó hay là cái giọng nói của ma quỷ nữa. Nhưng một cái gì đó mới mẻ khác lạ làm nó run rẩy cả người. Tuy vậy nó cũng cảm thấy sung sướng nữa. Làn sương mù chuyển từ đen sang xám nhạt rồi từ màu xám sang màu trắng sữa. Điều này có thể đã xảy ra trước đó nhưng trong lúc nói chuyện với cái vật ấy nó không nhận ra bất cứ một thứ gì khác. Bây giờ khi làn sương bàng bạc quanh nó trở thành một màu trắng sáng bừng lên, đôi mắt nó bất giác chớp lia lịa. Nó biết cái đêm dài đằng đẵng ấy cuối cùng cũng đã trôi qua. Nó đã có thể nhìn thấy bờm, tai và đầu con ngựa dễ dàng hơn. Một luồng ánh sáng màu vàng hắt xuống nó từ bên tay trái. Nó nghĩ là mặt trời đã rơi xuống đấy. Nó quay mặt sang trái và thấy đang sải bước bên cạnh nó, cao hơn con ngựa nó đang cưỡi là một con sư tử. Con ngựa không tỏ vẻ gì sợ hãi hoặc giả nó không nhìn thấy gì. Chưa có ai thấy một con vật đáng sợ hơn và đẹp đẽ hơn. Cũng may là Shasta sống quá lâu ở miền Nam Calormen nên không được nghe nhiều những câu chuyện thì thầm ở Tashbaan về một con quỷ dữ tợn Narnia xuất hiện trong lốt một con sư tử. Và tất nhiên nó biết không chuyện nào trong số ấy nói đúng về Aslan, sự tử vĩ đại – con trai của Thương Hải Đại Vương, vị chúa tể tối cao của các ông vua ở Narnia. Chỉ mới liếc nhìn khuôn mặt ấy, nó đã vội tụt khỏi yên ngựa và ngã lăn xuống đất. Nó không thể nói được bất cứ câu nào và nó cũng không muốn nói bất cứ điều gì bởi nó biết nó không cần nói bất cứ cái gì hết. Vị chúa tể tối cao của tất cả những ông vua cúi xuống người nó. Cái bờm vĩ đại. Một mùi thơm là lạ trang nghiêm phảng phất quanh bờm, ủ lên người nó. Sư tử cúi đầu chạm lên trán thằng bé bằng đầu lưỡi mềm mềm. Shasta ngẩng đầu lên, mắt họ gặp nhau. Bất thình lình ánh sáng nhạt màu của lớp sương mù và ánh hào quang rực rỡ của sư tử quyện vào nhau tạo thành một vầng sáng lan ra xa và quyện lại như những lớp sóng rồi tất cả biến mất. Shasta chỉ còn lại một mình bên con ngựa trên một triền đồi cỏ mọc xanh um, dưới một bầu trời xanh thẳm. Và đó đây tiếng chim lại rộn lên. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 12
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 12 Shasta ở Narnia “Tất cả chỉ là một giấc mơ ư?” – Shasta tự hỏi. Nhưng đây không thể là một giấc mơ bởi vì trên lớp cỏ trước mặt nó còn in lại dấu những cái vuốt lớn của bàn chân trước bên phải sư tử. Dấu vuốt chân làm cho con người ta phải bạt vía khi nghĩ đến một khối lượng phải lớn như thế nào mới để lại được một dấu vết như thế. Nhưng có một thứ còn đáng chú ý hơn kích thước của một dấu chân. Khi Shasta nhìn xuống nó thấy nước bắt đầu phun lên từ đáy vết chân. Chẳng bao lâu nước đã dâng đầy rồi tuôn chảy thành một dòng suối nhỏ chảy qua đồi, qua Shasta, lai láng trên bãi cỏ. Shasta cúi đầu, uống nước – một hơi thật dài rồi nhúng cả mặt xuống nước và vã nước lên đầu. Dòng nước trong như lọc, mát lạnh làm cho nó thấy khỏe lại. Sau đó nó đứng lên, lắc đầu cho nước chảy khỏi tai, vén mái tóc ướt lên khỏi trán và bắt đầu nhìn ngắm mọi vật xung quanh. Rõ ràng là một ngày mới chỉ vừa mới bắt đầu. Mặt trời cũng chỉ vừa mới mọc lên và vừa nhô lên khỏi một cánh rừng thấp ở phía dưới xa xa bên tay phải nó. Cái vùng đất mà nó đang nhìn hoàn toàn mới mẻ đối với nó. Đó là một thung lũng rộng lớn, xanh biếc rải rác có những thân cổ thụ trên đó nó thấy cái ánh sáng lấp loáng của một dòng sông tìm đường chảy về phía tây bắc. Ở mạn xa của thung lũng, thấy một dãy núi đá cao cao, nhưng có vẻ như vẫn thấp hơn rặng núi mà nó đã nhìn thấy hôm qua. Nó bắt đầu đoán xem mình đang ở đâu. Nó quay đầu ra sau và thấy cái dốc nó đang đứng thuộc về dãy núi cao hơn. - Mình cho rằng. – Shasta nói thành tiếng, – đây chính là dãy núi đồ sộ nằm giữa Archeland và Narnia. Mình đã ở sườn núi bên kia vào ngày hôm qua. Chắc là đêm hôm qua mình đã vượt qua đèo. Thật là may mắn khi mình đã làm được điều đó. Ít nhất thì cũng không phải là may mắn mà là vì ông ấy. Và bây giờ mình đang ở Narnia. Nó quay lại tháo yên cương cho ngựa, sau đó tháo cả dây cương nữa. - Dù sao mày cũng là một con ngựa thật quá quắt. – Nó nói. Ngựa ta dửng dưng không thèm chú ý đến nhận xét này và cúi đầu gặm cỏ. Con ngựa này đánh giá Shasta rất thấp. - Ước gì mình cũng có thể ăn cỏ! – Shasta nghĩ. – Không có gì tốt đẹp khi đi đến Anvard, nơi ấy đang bị vây hãm. Thôi thì cứ đi xuống thung lũng xem xem có bất cứ cái gì có thể ăn được không. Thế là nó đi xuống đồi, những giọt sương nặng hạt làm đôi chân trần của nó buốt như kim châm. Được một lúc nó đi vào một rừng cây. Một lối đi nhỏ có thể xem như một con đường mòn chạy xuyên qua rừng, thằng bé đi theo con đường đó, chưa được vài phút một giọng nói nặng nặng khò khè nói với nó: - Chào buổi sáng, người hàng xóm. Shasta vui vẻ nhìn quanh tìm xem ai vừa chào, nó trông thấy một vật bé nhỏ tua tủa những gai nhọn trên mình, với khuôn mặt đen trũi chạy tọt ra khỏi một bụi cây. Ít nhất thì tầm vóc của kẻ này quá nhỏ bé so với một con người nhưng lại quá lớn đối với một con nhím bởi vì đó chính là một con nhím. - Chào buổi sáng! – Shasta đáp. – Nhưng tôi không phải là người hàng xóm. Thực ra tôi là một kẻ xa lạ ở đây. - À, ra thế! – Nhím nói với vẻ tò mò. - Tôi đến từ bên kia dãy núi. Từ Archenland, bạn biết chứ? - À, Archenland! Thật là một chặng đường dài khủng khiếp. Tớ chưa đến đấy bao giờ. - Và tôi nghĩ mọi người ở đây nên biết là đội quân tàn bạo người Calormen đang tấn công Anvard vào thời điểm này. - Cậu nói nhảm cái gì thế? – Nhím nói, giọng còn khò khè hơn. – Cứ nghĩ mà coi, người ta nói Calormen ở cách xa đây hàng trăm hàng ngàn dặm, ở tận cùng thế giới qua biển kia – một biển cát mênh mông. - Cũng không xa như bạn nghĩ đâu. Chẳng phải cũng nên làm một cái gì đó ngăn chặn cuộc tấn công Anvard sao? Chẳng phải cũng nên thông báo cho vua của bạn biết? - Chắc chắn rồi. Nhất định là phải làm một cái gì đó chứ. – Nhím nói. – Nhưng cậu thấy đấy, tờ đang trên đường tìm chỗ cho một giấc ngủ ngày ngon lành đây. Chào anh bạn láng giềng nhé. Câu nói cuối cùng nhím nói với một con thỏ khổng lồ có bộ lông màu bánh bích quy vừa ló đầu ra khỏi một lùm cây vào một lúc nào đó. Nhím lập tức thông báo với thỏ thông điệp nó nhận được từ Shasta. Thỏ đồng ý ngay rằng đây là một thông tin rất quan trọng và người ta phải nói với một ai đó để cần làm ngay một cái gì đó. Thế là thỏ vội phóng đi. Vài phút sau đã có nhiều con thú khác gia nhập bọn với chúng. Một số con nhảy xuống từ những cành cây trên đầu, một số chui ra từ những cái hang dưới đất cho đến khi hội đồng gồm có năm thỏ, một sóc, hai ác là, một thần rừng, một chuột và tất cả đều nhất trí quan điểm với nhím. Sự thật là vào thời đại Vàng khi mà phù thủy cùng mùa đông băng giá đã bị tiêu diệt và Peter Đại đế lên cai trị ở Cair Paravel, những cư dân bé nhỏ trong rừng ở Narnia có một cuộc sống thanh bình và hạnh phúc đến nỗi họ đâm ra lơ là cảnh giác. Tuy vậy, hai nhân vật có suy nghĩ hết sức thực tiễn đã đi đến khu rừng nhỏ. Một là một người lùn Đỏ tên là Duffle. Người kia là một con hươu đực, một sinh vật có một vẻ đẹp cao quý với đôi mắt ướt long lanh mở to, hai bên sườn lốm đốm sao và bộ vó mảnh và duyên dáng đến độ trông như thể bạn có thể bẻ gẫy nó chỉ với hai ngón tay. - Sư tử vẫn sống! – Người lùn hồ hởi hô lên ngay khi nghe xong tin tức. – Và nếu như thế tại sao chúng ta lại tụ tập ở đây để bàn chuyện? Kẻ thù đã đến Anvard. Tin tức phải được đưa đến ngay Cair Paravel. Quân đội phải được triệu tập, Narnia phải giúp đỡ vua Lune. - À, – nhím cự lại, – nhưng anh không thể tìm thấy Peter Đại đế ở Cair. Ngài đã đi đến miền Bắc để tiễu trừ bọn khổng lồ. Mà hễ cứ nói đến bọn này – những người hàng xóm ạ – là y như rằng đầu óc tôi …. - Ai sẽ mang đi tin tức nào? – Người lùn cắt ngang. – Có ai đi nhanh hơn tôi không? - Tôi. – Hươu đực nói. – Thông điệp tôi phải mang đi là gì? Có bao nhiêu người Calormen? - Hai trăm, dưới sự chỉ huy của Rabadash. Và… – Nhưng hươu đã đi mất rồi, cả bốn vó cùng chạm đất một lúc và chỉ trong nháy mắt cái mông trăng trắng của nó đã biến mất giữa những hàng cây xa xa. - Không hiểu là anh ấy đi đâu. – Thỏ nói. – Anh ấy không tìm được vua Peter ở Cair đâu… - Anh ấy sẽ tìm đến nữ hoàng Lucy. – Người lùn nói. – Và sau đó – trời ơi! Có chuyện gì không ổn với người này vậy? Trông nó xanh nhợt như tàu lá. Tại sao thế? Tôi nghĩ nó sắp xỉu đi. Có lẽ vì đói quá. Anh ăn bữa cuối vào lúc nào, anh bạn trẻ? - Sáng ngày hôm qua. – Shata nói giọng yếu ớt. - Đi thôi, nào, đi thôi. – Người lùn vừa nói vừa quàng cánh tay mập mạp quanh thắt lưng Shasta để đỡ nó. – Những người anh em, chậc chậc… tất cả chúng ta phải lấy làm xấu hổ chứ! Đi với tôi anh bạn. Ăn một bữa điểm tâm ra trò. Điều này có ích hơn là chỉ có nói, nói, nói. Với rất nhiều những lời lầm bầm, bắng nhắng tự trách mình, người lùn nửa dìu Shasta nửa dắt nó đi với một tốc độ khá nhanh, họ vào sâu trong rừng rồi đi xuống phía bên kia một quả đồi nhỏ. Đó là một quãng đường dài hơn là Shasta muốn vào lúc này và đôi chân nó nhũn ra trước khi hai người bước ra khỏi rừng cây đến một quả đồi trọc. Ở đây, nó thấy một ngôi nhà nhỏ xinh xinh có một ống khói và cánh cửa sổ đang rộng mở. Khi họ đi gần đến cửa, Duffle kêu to: - Này, những người anh em. Có khách tới dùng bữa sáng đây. Gần như ngay lập tức, cùng với những tiếng xèo xèo trong chảo rán là một mùi thức ăn thơm lừng xộc vào mũi Shasta. Cái mùi vị ấy nó chưa từng ngửi thấy trong đời, nhưng tôi thì hy vọng là bạn đã trải qua cái kinh nghiệm ấy. Thực ra đó là mùi thịt hun khói, trứng, nấm rơm và tất cả đều dậy mùi trong chảo mỡ. - Chú ý đến cái đầu, anh bạn ạ. – Duffle nói khi Shasta cụng trán vào khung cửa ra vào. – Bây giờ cậu hãy ngồi xuống. Cái bàn hơi thấp đối với cậu, cả cái ghế cũng thấp nữa. Nhưng thế cũng ổn rồi. Đây là món cháo yến mạch, còn đây là hũ kem, và đây là cái muỗng. Vào lúc Shasta húp xong tô cháo thì hai người anh em của Duffle (tên là Rogin và Bricklethumb) cũng đặt món thịt hun khói, trứng và nấm rơm cùng một bình cafe nóng, một bình sữa và bánh mỳ nướng nóng hổi lên bàn. Tất cả những món ăn này đều mới mẻ và ngon lành đối với Shasta bởi vì thức ăn của người Calormen rất khác. Thậm chí nó còn không biết những cái lát nâu nâu là cái gì vì từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ nó đã nhìn thấy bánh mỳ bao giờ đâu. Nó cũng không biết cái chất vàng vàng, mềm mềm phết lên bánh mì gọi là gì, bởi vì ở Calormen gần như bạn bao giờ cũng dùng mỡ heo thay cho bơ. Ngôi nhà nhỏ nó đang ngồi cũng rất khác với cái lều đầy mùi cá tanh của Arsheesh và những căn phòng trải thảm, chỗ nào cũng có cột trong các lâu dài ở Tashbaan. Mái nhà ở đây rất thấp, tất cả đều được làm bằng gỗ, trên tường có một cái đồng hồ cúc cu, bàn trải khăn kẻ ô vuông đỏ và trắng, một chậu hoa trồng những bông hoa rừng, những tấm rèm nhỏ che những ô cửa sổ có chấn song gỗ dày. Thật bất tiện khi sử dụng ly, chén đĩa, dao ăn và nĩa của những người lùn. Tuy những món đồ này rất hữu dụng nhưng lại rất nhỏ, thế là ly hoặc đĩa của Shasta phải liên tục được làm cho đầy lên và mỗi lần như thế những người lùn lại nhao nhao nói với nhau: “ Làm ơn thêm bơ”, “Một ly café nữa nhé”, “Tôi muốn thêm một ít nấm rơm nữa”, hoặc “Thế còn món trứng chiên thì sao?” Sau cùng khi họ đã ních no căng cả bụng, những người lùn bắt thăm xem ai là người phải rửa bát đĩa và Rogin là cái người không may mắn đó. Duffle và Bricklenthumb đưa khách ra ngoài cùng ngồi trên một băng ghế dài dựa sát tường. Họ duỗi chân duỗi tay sưởi nắng, thở dài khoan khoái vì một bữa ăn ngon và vì một buổi sớm trong lành. Hai người lùn mồi lửa vào tẩu thuốc của họ. Sương đã rơi khỏi những cọng cỏ non, không khí mới ấm áp làm sao; thật ra nếu không có những ngọn gió mát lạnh phe phẩy, trời còn oi bức nữa là khác. - Bây giờ người khách lạ ạ, – Duffle trịnh trọng nói, – tôi sẽ chỉ cho cậu xem địa hình của mảnh đất này. Từ đây, cậu có thể thấy gần như toàn bộ miền nam Narnia và chúng tôi thật sự tự hào về cảnh quan nơi này. Thẳng ngay bên tay trái cậu, sau những quả đồi trước mặt, cậu có thể thấy rặng núi tây. Quả đồi tròn phía tay phải cậu được gọi là Đồi Bàn Đá. Sau nữa… Nhưng đúng lúc đó ông ta bị cắt ngang bởi tiếng ngáy khò khò của Shasta, sau chuyến đi kéo dài suốt đêm qua và sau bữa điểm tâm ngon lành nó đã lăn ra ngủ. Ngay khi nhận ra điều này những người lùn rất mực tử tế, ân cần đã ra hiệu cho nhau đừng làm rộn giấc ngủ của cậu bé, họ thì thào, gật gật đầu, đứng dậy nhón chân bỏ đi. Những việc làm của họ chắc chắn cũng đủ làm cậu bé thức dậy nếu nó ít mệt mỏi hơn một chút. Nó ngủ một giấc say sưa gần như suốt một ngày để thức dậy đúng vào giờ ăn tối. Giường trong ngôi nhà này quá nhỏ so với nó, nhưng họ đã làm cho nó một cái giường khác bằng cách trải cây thạch nam lên sàn, và nó ngủ ngay một mạch không cựa quậy, không mơ mộng từ tối đến sáng. Hôm sau chủ và khách vừa ăn điểm tâm xong thì nghe thấy những âm thanh lanh lảnh náo nức từ bên ngoài vọng vào. - Kèn trumpet! – Những người lùn reo lên và cùng với Shasta chạy ùa ra ngoài. Tiếng kèn lại vang lên rộn rã, đây lại là một điều mới mẻ với Shasta. Không lớn và nghiêm trang như tiếng tù và ở Tashbaan, cũng không náo nức, tươi vui như tiếng tù và của vua Lune mà trong sáng, hùng tráng và dũng mãnh. Tiếng kèn vọng ra từ rừng cây phía đông, chẳng bao lâu đã nghe lẫn trong khúc quân hành cả tiếng vó ngựa. Vài phút sau hàng quân đi đầu hiện ra. Dẫn đầu là ngài Peridan trên một con tuấn mã màu hồng, tay giương cao ngọn cờ lớn của Narnia hình một con sư tử màu đỏ trên nền xanh. Shasta nhận ra người này ngay. Tiếp sau là ba người chạy thành một hàng ngang, hai người cưỡi trên hai con ngựa chiến to lớn. Một người cưỡi trên con ngựa non. Ngồi trên mình hai con ngựa chiến là vua Edmund và một thiếu nữ tóc vàng, khuôn mặt tươi như đóa hoa xuân, đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, vai đeo cung tên và một bó tên lớn đeo cạnh sườn. (“Đó là nữ hoàng Lucy”. Duffle thì thầm). Cưỡi trên con ngựa non chính là Corin. Sau đó là đội quân chủ lực, những chiến binh trên những con ngựa thường, những chiến binh trên những con ngựa biết nói (bọn chúng không so đo đã để cho các chiến binh cưỡi lên trong những tình huống bắt buộc và khi ở Narnia nổ ra chiến tranh), những con nhân mã, những chú gấu chiến đấu dữ tợn; những chú chó to lớn biết nói và sau cùng là sáu người khổng lồ. Đó là những người khổng lồ tốt bụng ở Narnia. Nhưng dù vẫn biết là họ ở về phe mình, thoạt đầu Shasta vẫn cảm thấy họ rất khó coi; có những điều cần phải có thời gian mới làm quen được. Khi nhà vua và nữ hoàng đi đến cửa ngôi nhà của mấy chú lùn, họ bắt đầu cúi rạp thân hình thấp tị xuống chào, vua Edmund nói dõng dạc: - Nào các bạn! Hãy dừng chân ta làm miếng gì lót dạ. Không gian tức thì vang lên những tiếng ồn ào, người ta nhảy xuống ngựa, mở những gói lương ăn mang theo và vừa làm vừa xôn xao trò chuyện. Corin chạy ngay đến chỗ Shasta nắm lấy cả hai tay bạn, kêu lên: - Cái gì thế này? Thế là anh đã ở đây, thế ra anh đã vượt qua được tất cả sao? Ồ tôi vui sướng lắm. Bây giờ chúng ta sẽ có một vài trò vận động. Thế không phải là một may mắn hay sao? Chúng tôi cũng chỉ vừa cập bến cảng ở Cair Paravel sáng hôm qua thôi và người đầu tiên mà chúng tôi gặp chính là hươu Chevy với cái tin về cuộc tấn công Anvard. Anh có nghĩ…. - Bạn hoàng tử đâu nào? – Vua Edmund hỏi ngay khi xuống ngựa. - Bệ hạ có thấy không? – Corin hỏi. – Đây là bản sao của cháu, chính là cậu bé mà bệ hạ đã nhầm với cháu ở Tashbaan. - Kì lạ thật, cậu bé này giống cháu như đúc. – Nữ hoàng Lucy kêu lên. – Hệt như hai giọt nước, thật là một điều kỳ lạ. - Thưa đức vua, – Shasta nói với vua Edmund, – cháu không phải là một kẻ phản bội, thật thế. Cháu ở trong một tình thế buộc phải nghe theo kế hoạch của các ngài. Tuy thế cháu không bao giờ nghĩ đến chuyện đem điều đó ra kể cho kẻ thù của các ngài. - Ta biết cháu không phải là một kẻ phản bội, cậu bé ạ. – Vua Edmund nói, đặt một tay lên đầu Shasta. – Nhưng tại sao cháu không nói gì khi bị nhận nhầm là một người khác và lần sau nhớ đừng nghe những chuyện không dành cho mình nghe chưa? Dù sao thì tất cả cũng tốt rồi. Sau đó, tất cả trở nên nhốn nháo; người đến, kể đi nườm nượp và chỉ vài phút sau Shasta đã không thể thấy Corin, Edmund và Lucy trong đám đông. Nhưng Corin là một loại trẻ con không dễ gì mà không để cho người khác biết tới nó và chẳng cần đợi lâu, Shasta đã nghe vua Edmund kêu lớn: - Nhân danh Bờm Sư Tử, hoàng tử Corin, thế này là quá đủ rồi đấy. Hoàng tử không bao giờ khá hơn được hay sao? Một mình cậu làm cho tim người ta lo lắng hơn là toàn bộ quân đội của ta. Ta thà có một trong đoàn ong bắp cày dưới trướng hơn là có chú mày. Shasta len lỏi trong đám đông xem có chuyện gì xảy ra, nó trông thấy Edmund với vẻ mặt vô cùng giận dữ, Corin cúi xuống tỏ vẻ hơi xấu hổ, một chú lùn lạ mặt ngồi dưới đất mặt nhăn mày nhó. Một cặp thần rừng rõ ràng là vừa giúp chú lùn cởi áp giáp. - Nếu ta có mang theo rượu thuốc, - nữ hoàng Lucy nói, – ta có thể mau chóng chữa lành vết thương cho chú lùn nhưng Peter Đại đế đã nghiêm khắc ra lệnh cho ta không được mang theo trong những cuộc đụng độ thông thường mà phải để dành cho những trận giao tranh đặc biệt nghiêm trọng. Chuyện gì đã xảy ra? Ngay sau khi Corin nói chuyện xong với Shasta, có ai khều khều vào khuỷu tay nó, đó là chú lùn Thornbut, cũng là một người lính. - Có chuyện gì vậy Thornbut? – Corin hỏi. - Thưa hoàng tử, – Thornbut nói, kéo nó ra một bên, – hôm nay chúng ta sẽ hành quân qua đèo rồi tiếp đó sẽ tiến đến hoàng cung của phụ vương hoàng tử. Có thể sẽ có một cuộc giao tranh trước khi trời tối. - Tôi biết rồi. – Corin nói. – Tuyệt quá phải không? - Tuyệt hay không thì còn chưa biết, nhưng tôi nhận được nghiêm lệnh của vua Edmund là phải trông nom hoàng tử và không để hoàng tử tham gia vào việc giao tranh. Cậu sẽ chỉ được phép chứng kiến và như thế là phù hợp với cái tuổi non nớt của hoàng tử. - Thật ngớ ngẩn. – Corin bùng lên. – Tất nhiên ta phải xông trận chứ. Tại sao nữ hoàng Lucy lại đi cùng với đội bắn cung được? - Nữ hoàng sẽ làm điều gì mà người thích. Còn hoàng tử thì ở dưới sự giám sát của tôi. Hoặc là tôi có được lời hứa trang nghiêm xứng với địa vị của một ông hoàng trẻ tuổi rằng hoàng tử sẽ giữ cho con ngựa non của mình đi sát cạnh con ngựa của tôi – chỉ cách không đầy nửa cái đầu ngựa – cho đến khi tôi cho phép hoàng tử được đi tách ra hoặc là theo lời đức vua Edmund chúng ta phải khóa cổ tay hai người lại với nhau như hai tù binh. - Ta sẽ cho ngươi lăn kềnh ra nếu người dám trói tay ta lại. - Tôi muốn được thấy hoàng tử làm thế đấy! Nói như vậy rõ ràng là như châm dầu vào lửa đối với một thằng bé có tính khí như Corin. Chỉ trong vòng một tích tắc, nó và chú lùn đã lăm lăm tay búa tay kiếm. Đó là một cuộc chiến ngang sức với vì nếu tay Corin dài hơn và nó có chiều cao hơn hẳn thì chú lùn lại nhiều kinh nghiệm hơn và lì đòn hơn. Nhưng cuộc đấu không bao giờ diễn ra (sẽ là một cuộc đấu khốc liệt trên một triền đồi dốc như vậy) bởi vì thật xui xẻo, chú lùn vấp phải một hòn đá ngã dập mặt xuống đất và khi chú lùn cố đứng dậy thì phát hiện đầu gối mình bị rạn, một vết thương ra trò sẽ không cho phép chú đi đứng hoặc cưỡi ngựa ít nhất là trong vòng hai tuần lễ. - Cháu đã làm gì thế này, – vua Edmund mắng, – tước đi của chúng ta một chiến binh dày dạn kinh nghiệm, lại ngay trước lúc trận chiến diễn ra nữa chứ? - Cháu sẽ thay thế vị trí của ông ấy, thưa ngài. – Corin nói. - Xì, – Edmund nói, – không ai nghi ngờ lòng quả cảm của cháu nhưng một cậu bé tham gia trong một trận chiến chỉ là một mối nguy cho chính nó mà thôi. Đúng lúc ấy vua lại được mời đi để giải quyết một vụ việc khác và Corin sau khi đã lịch thiệp xin lỗi chú lùn, chạy ngay đến chỗ Shasta thì thầm vào tai nó: - Nhanh lên! Còn có một con ngựa non dự phòng nữa và bây giờ có áo giáp của chú lùn, hãy mặc vào trước khi có ai đó nhận ra. - Để làm gì? – Shasta hỏi. - Để tớ và cậu có thể tham gia chiến đấu, tất nhiên rồi. Đằng ấy không muốn thế à? - À, ồ, có chứ, tất nhiên. – Shasta nói. Nhưng nó chưa hề nghĩ đến chuyện này và bắt đầu có cảm giác gai gai đau như kim châm nơi xương sống. - Được rồi. – Corin nói. – Trùm áo qua đầu đi. Bây giờ thì thắt dây lưng lại. Chúng ta phải cưỡi ngựa đi gần ở cuối hàng và phải giữ im lặng như những chú chuột nhắt ấy. Một khi trận đánh đã bắt đầu người ta sẽ quá bận rộn để chú ý đến chúng ta. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 13
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 13 Trận đánh ở Anvard Vào khoảng 11 giờ, toàn bộ quân đội một lần nữa lại hành quân lên đường, họ cưỡi ngựa về phía tây và lúc này dãy núi nằm bên tay trái, Corin và Shasta đi tập hậu, những người khổng lồ lập tức vượt lên trước chúng. Lucy, Edmund và Peridan bận rộn với chuyện bàn việc quân, có một lần Lucy đã nói ra: “Cậu bé hoàng tử ngốc nghếch đâu rồi?” Nhưng Edmund đã gạt đi: “Không đi ở hàng đầu, thế cũng đủ là một tin tốt lành rồi. Cứ để mặc nó.” Shasta kể cho Corin nghe phần lớn các cuộc phiêu lưu của nó và giải thích rằng nó học được nghệ thuật cưỡi ngựa từ một con ngựa và quả tình vẫn chưa biết cách cầm dây cương. Corin hướng dẫn nó cách sử dụng dây cương và bảo cho nó biết tất cả những bí mật trong chuyện nhổ neo trốn khỏi Tashbaan. - Vậy nữ hoàng Susan ở đâu? - Ở lại Cair Paravel. – Corin đáp. – Nữ hoàng Susan không giống như nữ hoàng Lucy; cậu biết không, cô Lucy giỏi như một người đàn ông, hoặc dù ở bất cứ khía cạnh nào cũng giỏi như một thằng con trai. Nữ hoàng Susan thì yểu điệu thục nữ hơn. Cô ấy không cưỡi ngựa ra trận dù cô ấy cũng là một cung thủ siêu hạng. Con đường dốc mà họ đang đi xuống mỗi lúc một thu hẹp hơn rồi ngoắt một cái đổ xuống bên tay phải như một cái dốc dựng đứng. Đến đây, họ đi thành hàng một, men theo bìa một vách đá dựng đứng. Shasta rùng mình nhớ lại nó đã đi như thế vào đêm hôm trước mà không hề biết cái dốc này dễ sợ đến thế nào. “Tất nhiên, – nó thầm nghĩ, – mình vẫn bình an vô sự. Đó là lí do tại sao sư tử cứ đi bên trái mình. Ông ấy đi giữa mình và vách đá dựng đứng suốt thời gian đó”. Được một đoạn con đường mòn rẽ sang trái đi về phương nam, tách khỏi vách đá cheo leo và lọt vào một khu rừng rậm hai bên cây cối mọc um tùm. Từ đây họ lại đi lên dốc, vượt qua đèo. Từ trên đỉnh có thể có một cái nhìn toàn cảnh trong vùng, nếu đây là vùng đồi trọc, còn ở giữa một rừng rậm như thế này chẳng nhìn thấy gì cả – chỉ lâu lâu mới nhìn thấy những ngọn núi đá cao chót vót vượt lên khỏi những ngọn cây cao nhất và một hoặc hai con đại bàng chao cánh bay vút lên trên bầu trời xanh thẳm. - Chúng đánh hơi thấy mùi chiến trận. – Corin nói, chỉ tay lên mấy con chim. – Chúng biết ta chuẩn bị cho chúng một bữa ăn ra trò. Shasta không thích điều này chút nào. Đoàn quân tiếp tục đi ngang qua lưng đèo và xuống một vùng thấp hơn nhiều. Họ đi đến một vùng đất trống trải và từ đây Shasta có thể nhìn xuống toàn vùng đất Archenland xanh biếc mờ mờ sương khói, trải dài lan rộng xuống tận phía bên dưới chỗ nó đang đứng đến chỗ có dấu hiệu của sa mạc xa xa (ấy là nó nghĩ thế). Nhưng có lẽ đi độ một hai giờ nữa thì mặt trời sẽ lặn và với đôi mắt còn chưa quen thuộc địa hình nó không thể phân biệt mọi vật cho rõ ràng. Đến đây đội quân tạm dừng chân, tản đi bốn phía chung quanh. Có rất nhiều việc phải dàn xếp, điều chỉnh lại. Có một phân đội gồm toàn bộ những con thú biết nói trông có vẻ rất nguy hiểm và Shasta chưa từng biết là có những loài thú như vậy trên đời, trong số đó đa phần là những con thú họ mèo (như hổ, báo…) vừa đi vừa gầm gừ chiếm một vị trí ở cánh trái. Những người khổng lồ di chuyển sang cánh phải, trước đó bọn họ đã bỏ tất cả những gì đeo trên lưng xuống và ngồi bệt xuống đất một lát. Chỉ đến lúc ấy, Shasta mới nhận thấy họ mang cái gì lủng lẳng trên vai. Đó là những đôi ủng đinh nặng nề, trông gớm chết cao đến tận đầu gối và bây giờ họ ngồi xuống mang ủng vào. Xong đâu đấy họ vác trên vai những cây chùy vĩ đại rồi đi vào đúng vị trí của mình. Các cung thủ cùng với nữ hoàng Lucy tụt lại phía sau và đầu tiên bạn thấy họ cúi xuống những cây cung, trong không gian vang lên những tiếng tưng tưng khi họ thử dây cung. Dù bạn nhìn đi chỗ nào thì bạn cũng có thể thấy người ta nịt chặt đai yên, đội lại mũ trụ, mài lại lưỡi kiếm và lẳng áo xuống đất. Không còn những câu chuyện đùa vui nữa. Không khí trang nghiêm chết chóc. “Mình sắp tham gia vào một trận đánh. Mình đã thực sự có mặt trong một trận đánh rồi”. – Shasta nghĩ. Chợt không gian vang dậy một tiếng động từ một nơi nào đó xa xa phía trước mặt, tiếng la hét của rất nhiều người và những tiếng nện thình thịch đều đặn. “Tiếng những phiến gỗ dộng để phá thành. – Corin thì thào. – Họ đang cố phá cổng thành”. Kể cả Corin bây giờ cũng có một vẻ hết sức nghiêm trang. - Tại sao vua Edmund không cho quân xông lên? Cứ chờ đợi như thế này tớ không thể chịu đựng nổi. Lạnh nữa chứ. Shasta gật đầu, thầm hi vọng khuôn mặt nó không biến sắc vì nỗi sợ đang lớn dần trong lòng. Cuối cùng kèn trumpet vang lên. Đầu tiên là sự chuyển động, ngựa chuyển sang nước kiệu, cờ bay phần phật trong gió. Họ đang ở trên một đỉnh đồi thấp và khung cảnh phía dưới họ bất thần mở ra; từng chút một lâu đài với nhiều ngọn thap và cổng thành đóng chặt và lưới sắt đã hạ xuống. Họ có thể trông thấy trên mặt bức tường, giống như những người đang phòng vệ. Thấp hơn ở phía dưới có khoảng 50 người Calormen đã xuống ngựa đang khênh một gốc cây lớn đều đặn thúc vào cánh cổng. Nhưng ngay sau đó toàn khung cảnh thay đổi. Đội quân chủ lực đã xuống ngựa chuẩn bị phá thành. Bây giờ Shasta thấy đội quân Narnia túa từ trên đỉnh xuống. Không có gì phải nghi ngờ, quân Calormen hết sức thiện chiến, tinh nhuệ, Shasta có cảm tưởng họ không mất đến một giây để nhảy lên lưng ngựa và lồng lên chạy về phía quân thù. Tất cả chuyển sang phi nước đại. Khoảng đất trống giữa hai đội quân mỗi lúc một thu hẹp lại. Nhanh hơn, nhanh hơn. Gươm giáo sáng lòa lăm lăm trên tay, khiên đưa ra trước mặt, những lời cầu nguyện, những hàm răng cắn chặt. Shasta sợ chết khiếp. Nhưng thình lình một ý nghĩ lóe lên trong đầu nó: “Nếu mày sợ đến vãi đái ra như thế này thì mày… thì mày bao giờ cũng sợ như vậy trong suốt phần đời còn lại. Bây giờ hoặc không bao giờ cả! Cuối cùng khi hai đội quân gặp nhau, nó hầu như không rõ chuyện gì đã xảy ra. Một sự hỗn loạn kinh khủng, những âm thanh đinh tai nhức óc. Thanh gươm trên tay nó chẳng mấy chốc đã nằm gọn dưới đất. Bằng một cách nào đó dây cương rối vào nhau. Tiếp đó, nó thấy mình văng ra xa. Một mũi giáo chĩa thẳng vào người nó và trong lúc nó cúi xuống tránh mũi giáo, nó lăn khỏi con ngựa, đập đầu gối bên trái vào áo giáp của một ai đó và rồi… Nhưng miêu tả lại trận đánh từ góc nhìn của Shasta xem ra chẳng có gì thú vị, nó chẳng có hiểu biết gì về những chuyện đánh đấm, vì vậy hầu như không hiểu nhiều về toàn trận đánh cũng như những gì đang diễn ra với nó. Tốt nhất, tôi sẽ kể cho bạn nghe chuyện gì xảy ra bằng cách đưa bạn đi ra khỏi đấy vài dặm đến chỗ ẩn sĩ phương Nam, ông đang ngồi im lặng dưới một bóng cây cổ thụ có Bree, Hwin và Aravis ngồi bên cạnh, đăm đăm nhìn mặt hồ phẳng lặng như gương. Bởi vì đó là cái hồ mà ẩn sĩ luôn nhìn vào khi ông muốn biết chuyện gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài hàng rào xanh tươi của ông. Giống như một tấm gương ông có thể nhìn xuống vào những thời đểm nhất định để thấy điều gì đang diễn tra trên đường phố ở các đô thị phương Nam còn xa hơn cả Tashbaan, hoặc những con tàu đang đi vào Redhaven ở vùng Bảy Đảo xa xôi, hoặc xem những tên cướp hoặc thú hoang đang quậy trò gì ở những cánh rừng phía tây giữa cột đèn hoang và Telmar. Trong suốt ngày hôm ấy, hầu như ông không rời hồ nước, dù để ăn hay uống vì ông biết những sự kiện trọng đại đang diễn ra ngay trước thành Anvard. Aravis và những con ngựa cũng dán mắt xuống hồ. Chúng có thể thấy đó là một cái hồ màu nhiệm; thay vì phản chiếu cây cối và bầu trời, nó chỉ để lộ những cái bóng màu sắc không rõ ràng đang di động, bao giờ cũng di động trong tận đáy hồ sâu. Nhưng bọn chúng chẳng thấy gì rõ ràng. Chỉ có ẩn sĩ hiểu được ý nghĩa của những hình ảnh ấy và ông nói cho chúng nghe những điều ông nhìn thấy. Trước lúc Shasta lên ngựa tham dự trận đấu đầu tiên, ẩn sĩ bắt đầu nói thế này: - Ta nhìn thấy một… hai… ba con diều hâu đang bay lượn phía trên Đỉnh Bão Tố. Trong số đó có một con rất già. Nó không bao giờ bỏ qua một chuyện như thế này trừ khi trận đấu diễn ra ở quá xa. Ta thấy nó bay qua lượn lại, hau háu nhìn, khi thì xuống Anvard, thỉnh thoảng lại về đằng sau Đỉnh Bão Tố ở hướng đông. À… bây giờ ta thấy cái việc mà Rabadash và người của hắn bận rộng làm cả ngày rồi. Chúng đã cưa và đốn xuống một cây đại cổ thụ mang ra khỏi rừng như một vật để công thành. Chúng đã rút ra được một bài học gì đó từ thất bại của cuộc công phá đêm hôm trước. Rabadash sẽ khôn ngoan hơn nếu hắn cho bọn lính làm ra những cái thang; nhưng việc ấy mất nhiều thời gian mà hắn thì lại là một kẻ thiếu kiên nhẫn. Hắn mới ngu ngốc làm sao! Đáng lẽ hắn phải tức tốc rút quân về Tashbaan ngay sau khi cuộc tấn công đầu tiên thất bại bởi vì toàn bộ kế hoạch của hắn phụ thuộc vào yếu tố thần tốc và bất ngờ. Bây giờ chúng đã mang cây gỗ đến trước cổng thành. Quân lính của vua Lune từ trong thành bắn ra rất rát. Có 5 tên Calormen đã ngã xuống nhưng sẽ không có nhiều người hơn nữa. Chúng đã giơ khiên ra chống đỡ. Rabadash đã ra lệnh. Cùng với hắn có những hiệp sĩ đáng tin cậy nhất, họ là những Tarkaan thiện chiến nhất đến từ các tỉnh miền đông. Ta có thể nhìn rõ khuôn mặt họ. Đó là Corradin ở lâu đài Tormunt, rồi là Azrooh, Chlamash và Ilgamuth với một chiếc môi bị xẻo, một Tarkaan với bộ râu đỏ quạch, cao lớn… - Nhân danh Bờm Sư Tử, đó là ông chủ cũ của tôi, – Anradin! – Bree hí lên. - Suỵt, – Aravis nói, – bây giờ cuộc công thành bắt đầu. Ta có thể nghe thấy những tiếng la hét cũng như nhìn rõ mồn một mọi vật. Hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác, không có cổng thành nào trụ lại được mãi mãi. Nhưng hượm đã. Có một cái gì đó xảy ra trên Đỉnh Bảo Tố làm bầy chim sợ hãi, chúng tuôn ra từ đám đông. Lại phải đợi một chút… ta nhìn không rõ lắm. Bây giờ thì ta có thể thấy rõ rồi. Cả một đỉnh đồi cao cao phía đông đen đặc những người và ngựa. Chỉ có một ngọn gió mới có thể đón và rải rộng quân ra như vậy. Bây giờ họ vượt qua quả đồi rồi, họ là ai vậy? A ha, ta nhìn thấy lá cờ rồi. Narnia! Narnia! Đó là Sư Tử Đỏ. Bây giờ thì họ đã đến gần. Ta có thể nhìn thấy đức vua Edmund. Có một phụ nữ đi sau, trong đám cung thủ. Ồ… - Cái gì vậy ạ? – Hwin hỏi, nín thở vì tò mò. - Tất cả những con mèo đã xông ra từ bên cánh trái. - Mèo ư? – Aravis hỏi. - Những con mèo lớn, hổ báo, đại loại như vậy. Ẩn sĩ nói với vẻ nôn nóng khác hẳn tác phong ung dung hằng ngày: - Ta thấy, ta thấy rồi. Lũ mèo lượn thành một vòng tròn quanh ngựa của những tên giặc vừa xuống ngựa. Tấn công đích đáng lắm. Những con ngựa Calormen phát cuồng lên vì sợ. Bây giờ lũ mèo đang ở giữa trận tiền nhưng Rabadash đã lập lại đội hình và có khoảng một trăm tên đã nhảy lên yên. Chúng cưỡi ngựa phóng về phía đội quân Narnia. Hai bên chỉ còn cách nhau gần 100 mét. Không, chỉ còn 50 mét. Ta có thể trông thấy vua Edmund, ngài Peridan. Còn có hai đứa bé trong hàng quân Narnia nữa. Sao vua Edmund lại có thể cho phép chúng ra trận nhỉ? Chỉ còn 10 mét, hai bên xông vào nhau. Những người khổng lồ bên quân Narnia có thể làm được những điều vượt ra ngoài… nhưng một người đã ngã xuống… bị bắn vào mắt, chắc thế. Ở khu vực trung tâm là một đám hỗn loạn. Ta có thể nhìn kĩ hơn về tay trái. Lại là hai cậu bé ấy. Một con sư tử sống. Đó là hoàng tử Corin. Một đứa nữa giống hoàng tử như hai hạt đậu. Đó là anh bạn Shasta của chúng ta. Corin chiến đấu như một người lính thực thụ. Nó giết được một người Calormen. Ta có thể nhìn khu vực trung tâm rõ hơn rồi. Rabadash và Edmund gần như đã chạm trán nhau, nhưng đám đông lộn xộn đã chia tách họ ra… - Shasta thì sao ạ? – Aravis hỏi. - Ôi đồ ngốc! – Ẩn sĩ rên lên. – Thằng bé ngốc nghếch đáng thương… nhưng quả cảm. Nó chẳng hiểu gì về đánh đấm hết. Nó không biết dùng khiên. Nó để hở sườn thế kia. Nó không hiếu tí gì về kiếm thuật, không biết sử dụng thanh gươm. Ôi, bây giờ nó mới nhớ ra. Nó lại vẫy gươm loạn lên thế kia chứ… suýt nữa thì chặt đứt đầu con ngựa nó đang cưỡi, nó sẽ có lúc làm thế nếu không cẩn thận hơn. Bây giờ gươm rơi khỏi tay nó rồi. Thật là một hành vi giết người khi để một đứa trẻ con ra trận; nó không thể sống quá năm phút. Cúi xuống đi, đồ ngốc… Ôi nó ngã xuống rồi! - Chết ư? – Cả ba đồng thanh kêu lên, nín thở vì sợ hãi quá. - Ta biết nói thế nào đây? Bọn mèo đã hoàn thành công việc của chúng. Tất cả những con ngựa không có người cưỡi đều đã chết hoặc chạy trốn, không còn đường lui cho bọn Calormen rồi. Bây giờ lũ mèo quay lại khu vực trung tâm. Chúng chồm lên nhưng kẻ đang phá cổng thành. Cây gỗ đã bị hạ xuống. Ồ, tốt lắm, tốt lắm. Cổng thành đã mở ra: một phân đội phá vòng vây xông ra. Ba người dẫn đầu. Vua Lune đi giữa, anh em Darr và Darrin mỗi người đi ở một bên. Đi ở hàng sau là Tran, Shat và Cole cùng với người anh em Colin. Bây giờ thì có mười – hai mươi – gần ba mươi người xông ra. Đội quân Calormen đã tập hợp lại. Vua Edmund là một tay kiếm cừ khôi. Chàng ta vừa vung gươm lên đã làm bay đầu Corradin. Nhiều người Calormen bỏ kiếm xuống chạy vào rừng để thoát thân. Những người còn lại dồn lại. Những người khổng lồ khép bên cánh phải – bọn mèo khép bên cánh trái – vua Lune cầm quân đến từ phía sau. Quân Calormen chỉ còn lại một dúm nhỏ, chống trả lại bằng cách xây lưng lại với đồng đội. Ông chủ của ngươi đã ngã xuống, Bree ạ. Vua Lune và Azrooh đấu tay đôi. Nhà vua nắm được phần thắng – ông xông tới từng bước – rất tốt – bây giờ thì ông thắng rồi. Azrooh ngã ngựa. Vua Edmund cũng ngã xuống – không, chàng đã đứng thẳng dậy: chàng đấu tay đôi với Rabadash. Họ đánh nhau ngay trước cổng thành. Một vài người Calormen đã đầu hàng. Darrin đã giết được Ilgamuth. Ta không thấy rõ chuyện gì đã xảy ra với Rabadash. Ta nghĩ hắn đã chết, bị ngã vào bức tường thành, nhưng ta không rõ lắm. Chlamash vẫn chiến đấu với vua Edmund nhưng cục diện trận đánh đã thấy rõ ở tất cả mọi nơi. Chlamash đã bó tay xin hàng. Trận chiến kết thúc. Quân Calormen thất bại thảm hại. Khi Shasta ngã khỏi lưng ngựa, nó cho rằng mình đã thất bại. Nhưng loài ngựa, dù trong một trận chiến khốc liệt cũng đạp lên con người nhẹ nhàng hơn là bạn tưởng. Sau mười phút giao tranh dữ dội, Shasta chợt nhận ra không còn tiếng vó ngựa nện ở khu vực giao tranh nữa và tiếng động (cho dù vẫn còn rất nhiều âm thanh náo động) đã không còn là âm vang của một cuộc giao tranh khốc liệt nữa. Nó ngồi dậy, nhìn quanh. Mặc dù nó chẳng hiểu gì về chiến đấu, chẳng mấy chốc nó cũng đã nhận ra là quân Archenland và Narnia đã thắng. Những người Calormen còn sống bây giờ đã trở thành tù binh, cổng thành mở rộng, vua Lune và vua Edmund bắt tay nhau qua thân cây phá cổng thành của địch để lại. Từ các nhóm quý tộc và chiến binh vọng ra những tiếng kêu náo nức đầy phấn khích và rõ ràng câu chuyện diễn ra quanh chiến thắng chớp nhoáng. Rồi bất thình lình tất cả các nhóm tập hợp lại, không gian nổ ra với những tiếng cười hả hê rộ lên từng đợt. Shasta cố trấn tĩnh để thắng cảm giác gượng gạo của một kẻ thất bại từ phút đầu để chạy về phía đám đông xem có trò gì vui đến thế. Một cảnh tượng kỳ lạ đập ngay vào mắt nó. Hoàng tử Rabadash hắc ám hình như bị treo lơ lửng trên bức tường thành. Chân hắn cao hơn mặt đất khoảng hơn nửa mét đang vùng vẫy đá như điên như dại. Cái áo giáp sắt chẳng hiểu vì sao lại co rút lên cao thành thử nó bó chặt lấy hai cánh tay hắn và một phần rút lên che nửa mặt hắn. Trong thực tế, trông hắn giống như một người mà bạn bắt gặp đúng vào lúc chui vào một cái áo hồ cứng ngắc, quá chật đối với anh ta. Sau này Shasta mới biết mọi chuyện đã xảy ra như sau: Vào lúc đầu trận đánh một trong những người khổng lồ đã không thành công trong việc nện chiếc ủng đinh lên người Rabadash – không thành công bởi vì nó đã không giẫm nát hắn như dụng ý của người khổng lồ, nhưng cú đá cũng không hẳn là vô dụng bởi vì một trong những chiếc đinh đã làm rách áo giáp cũng như bạn hoặc tôi có thể xé một chiếc áo sơ mi bình thường. Thế là Rabadash trong lúc đánh nhau với vua Edmund ngay trước cổng thành đã có một lỗ thủng trên lưng áo giáp sắt. Khi Edmund ép hắn mỗi lúc một sát vào tường hơn, hắn nhảy lên một cái trụ và đứng ở đấy bổ xuống những nhát kiếm liên tiếp như mưa về phía Edmund. Nhưng đứng ở vị trí ấy hắn cao vượt lên mọi người và trở thành tâm điểm cho tất cả các mũi tên ở bên Narnia bắn về, thế là hắn quyết định nhảy xuống đất. Hắn nhìn quanh và la lớn – bạn không có gì phải nghi ngờ đâu, vào cái lúc mà hắn nhìn quanh và thét lớn trông hắn cũng dũng mãnh và đáng sợ lắm đấy… - Đây là hiện thân thành Tash xuất hiện từ trên trời cao… – Nhưng hắn phải nhảy xuống lối đi bởi vì đám đông hỗn loạn trước mặt không chừa chỗ cho hắn làm như vậy, cái lỗ thủng sau lưng áo giáp vướng ngay vào một cái móc trên tường. (Cái móc ở đấy hàng thế kỷ với công dụng để cho người ta buộc dây cương ngựa). Bị dính vào tường trông hắn như một mảnh áo vừa giặt, được hong lên cho khô, làm trò cười cho mỗi người. - Để ta xuống, Edmund! – Rabadash gào lên. – Hãy để cho ta xuống rồi đánh nhau với ta như một ông vua và như một thằng đàn ông; hoặc nếu ngươi quá vĩ đại cho một hành động hèn nhát thì hãy giết ta đi. - Được rồi. – Vua Edmund bắt đầu nhưng vua Lune đã cắt ngang: – Xin nhà vua cứ để việc đó lại cho tôi. – Vua Lune nói với vua Edmund. Đoạn quay lại chỗ Rabadash, ông nói: – Thưa hoàng tử, nếu ngài đưa ra lời thách thức một tuần trước đây, tôi xin trả lời đây không thuộc lãnh địa của vua Edmund và từ Peter Đại đế cho đến con chuột bé nhỏ nhất biết nói cũng sẽ từ chối điều đó. Nhưng với việc tấn công thành Anvard vào một giai đoạn hữu hảo và không có phòng vệ, ngài đã chứng minh rất rõ ràng ngài chẳng hề là một hiệp sĩ gì hết mà là một kẻ đánh lén bỉ ổi, một kẻ đáng bị đánh bằng một mũi gươm như bất cứ một người có danh dự nào. Hãy cho hắn ta xuống, trói lại và mang hắn đi trong khi niềm vui chiến thắng của chúng ta còn chưa nguội. Những cánh tay rắn chắc tước thanh gươm khỏi tay Rabadash và hắn bị mang vào trong lâu đài trong lúc hắn la hét, đe dọa, chửi bới, thậm chí còn khóc lóc nữa. Bởi vì, mặc dầu không thể chịu đựng được việc trở thành trò hề trước mặt người khác. Ở Tashbaan ai cũng phải kính trọng hắn. Đúng lúc ấy Corin chạy đến chỗ Shasta, nắm lấy tay bạn rồi lôi bạn về phía vua Lune. - Đây là bạn con, thưa phụ vương. – Corin kêu lên. - Cuối cùng, con cũng đã ở đây. – Nhà vua kêu lên với giọng khàn khàn. – Con đã tham gia một trận đánh… hoàn toàn không phải là đứa con ngoan ngoãn biết vâng lời. Một đứa con trai bị dứt ra khỏi trái tim người làm cha. Ở tuổi con, một cái que thông nòng súng còn thích hợp hơn thanh gươm trong tay con. A ha! Tuy nói vậy nhưng tất cả mọi người, kể cả Corin, đều có thể thấy là ông rất tự hào về hoàng tử nhỏ Corin. - Đừng quở trách hoàng tử nữa, tâu bệ hạ, nếu điều đó làm bệ hạ vui lòng. – Ngài Darrin nói. – Hoàng tử sẽ không phải là con trai của bệ hạ nếu không thừa hưởng sự táo bạo của bệ hạ và bệ hạ sẽ lấy làm đau khổ hơn nếu một lần nữa cậu ấy lại chứng minh cho một lỗi lầm khác hẳn. - Thôi được, – vua làu bàu, – lần này chúng ta cho qua chuyện này. Và bây giờ… Điều xảy ra tiếp theo làm cho Shasta còn ngạc nhiên hơn bất cứ chuyện gì đã xảy ra trong đời nó. Đột nhiên nó thấy mình được vua Lune ôm đến nghẹt thở với vòng tay như hộ pháp, rồi ông hôn chùn chụt lên hai má nó. Sau đó vua Lune thả nó ra và nói: - Hãy đứng lên bên nhau, các con, để cho tất cả mọi người có mặt ở đây thấy các con bên nhau. Nào ngẩng cao đầu lên. Bây giờ các quý ngài hãy nhìn cả hai nào. Có bất cứ ai đem lòng nghi ngờ điều gì không? Shasta vẫn không thể hiểu được vì sao mọi người lại chằm chằm hết nhìn nó lại nhìn sang Corin cũng như không hiểu vì sao mọi người lại tỏ vẻ sung sướng đến thế. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 14
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 14 Bree trở thành con ngựa khôn ngoan Chúng ta phải quy về với Aravis và hai con ngựa. Ẩn sĩ nhìn xuống mặt hồ, nói với chúng là Shasta không bị giết, thậm chí cũng không bị thương nặng vì ông thấy nó đứng dậy và được vua Lune đón chào một cách đầy yêu thương như thế nào. Bởi ông chỉ nhìn thấy hình ảnh mà không nghe được tiếng nói nên ông không biết người ta nói với nhau cái gì, một khi trận đánh kết thúc và các câu chuyện bắt đầu thì cũng không còn gì đáng nhìn xuống hồ nữa. Sáng hôm sau trong lúc ẩn sĩ đang ở trong nhà, cả ba thảo luận xem chúng nên làm gì tiếp theo. - Với tôi thế này là quá đủ. – Hwin nói. – Ẩn sĩ đối với chúng ta rất tốt và tôi biết rất rõ là tôi mang ơn ông. Nhưng tôi đã phát phì như một con ngựa được cưng chiều. Suốt ngày chỉ có ăn mà chẳng vận động gì cả. Trở về Narnia thôi. - Nhưng không phải hôm nay, cô bạn ạ. – Bree nói. – Tôi không thấy có gì phải gấp gáp trong chuyện này. Một ngày nào đó, các vị có nghĩ thế không? - Trước tiên chúng ta phải gặp Shasta nói lời tạm biệt… và cả lời xin… lỗi nữa. – Aravis nói. - Đúng thế. – Bree reo lên vẻ hồ hởi. – Đó đúng là điều tôi đang định nói. - Tất nhiên rồi. – Hwin nói. – Tôi nghĩ cậu ấy đang ở Anvard. Lẽ tự nhiên chúng ta sẽ tìm cậu ấy để tạm biệt. Đằng nào thì cũng trên đường đến Narnia mà. Nhưng mà tại sao chúng ta không lên đường ngay nhỉ? Sau cùng, tôi nghĩ Narnia là nơi tất cả chúng ta đều muốn đến cơ mà. - Tôi cũng cho là thế. – Aravis chậm rãi nói. – Nó bắt đầu tự hỏi thực ra nó muốn làm gì khi đến đây vì nó bắt đầu ít nhiều có cảm giác cô đơn, lạc lõng. - Tất nhiên, tất nhiên. – Bree nói hấp tấp. – Nhưng đâu có cần phải gấp gáp như vậy, không biết cô có hiểu ý tôi không nữa? - Không, tôi không hiểu đâu. – Hwin nói. Mà tại sao anh lại không muốn đi ngay? - Hừm, thì… – Bree ấp úng. – Hừm, cô thấy không, đây là một sự kiện trọng đại… trở về cố hương… buộc chân vào xã hội… một xã hội tốt đẹp nhất… thì việc quan trọng nhất là cũng phải gây một ấn tượng tốt chứ, cũng… có lẽ… cũng phải coi cho ra dáng chứ hả? Hwin cười lăn cười bò, theo kiểu cười của ngựa. - Đó là vì cái đuôi của anh, Bree ạ. Bây giờ thì tôi hiểu hết rồi. Anh muốn đợi cho đến khi đuôi anh mọc dài lại. Ôi, thật là… Bree anh đã trở nên phù phiếm như một tiểu thư Tarkheena ở Tashbaan từ bao giờ vậy? - Ngươi thật ngớ ngẩn hết chỗ nói, Bree ạ. – Aravis nói. - Nhân danh Bờm Sư Tử, tôi không phải như thế đâu, Tarkheena. – Bree thanh minh với vẻ phật ý. – Tôi chỉ tự tôn trọng bản thân mình với những bạn ngựa khác mà thôi. - Bree, – Aravis hỏi, nó không quan tâm đến chuyện đuôi ngựa dài hay ngắn, – tôi muốn hỏi anh một câu từ lâu rồi. Tại sao anh luôn miệng nói: “Nhân danh Sư Tử” hay “Nhân danh Bờm Sư Tử” vậy? Tôi tưởng anh ghét sư tử lắm mà. - Thì đúng thế. Nhưng khi tôi nói đến sư tử, tất nhiên là tôi muốn nói đến Aslan, nhà giải phóng vĩ đại ở Narnia, người đã đánh đuổi phù thủy mùa đông băng giá ra khỏi Narnia. Tất cả những người Narnia đều nói câu này. - Vậy ông ấy là một con sư tử à? - Không, không, tất nhiên là không. – Bree nói bằng một giọng có vẻ rất sững sờ. - Tất cả những câu chuyện về ông ấy được người ta kháo nhau ở Tashbaan đều là như thế, – Aravis nói, – nếu ông ấy không phải là một con sư tử vậy tại sao người ta lại gọi ông ấy là sư tử? - Phải, cô khó mà hiểu được điều đó ở cái tuổi của cô. – Bree nói. – Tôi cũng chỉ là một con ngựa non mới đẻ lúc còn ở Narnia nên bản thân tôi cũng không thể hiểu mọi chuyện thật đầy đủ được. Bree quay lưng về phía hàng rào xanh khi nói điều này, Hwin và Aravis quay mặt về phía nó. Nó nói với giọng bề trên, đôi mắt nó khép lại, đó là lý do nó không thấy biểu hiện trên nét mặt hai người. Aravis và Hwin có lý do chính đáng để có dáng điệu mắt chữ o mồm chữ a bởi vì trong lúc Bree say sưa nói, chúng nhìn thấy một con sư tử lớn bên ngoài nhảy lên hàng rào, đi thăng bằng trên mặt hàng rào. Chỉ có một điều khác biệt là con sư tử này có bộ lông vàng rực hơn, hình dáng đẹp đẽ hơn và cũng đáng sợ hơn bất cứ con sư tử nào mà chúng đã gặp. Sau đó sư tử nhảy vào bên trong hàng rào và bắt đầu đi đến gần Bree từ phía sau, không hề gây một tiếng động nào. Cả Aravis và Hwin đều đứng bất động như thể chúng bị đóng thành băng. - Không có gì phải nghi ngờ, – Bree tiếp tục, – khi người ta nói đến ông ấy trong thân xác một con sư tử, họ chỉ có ý muốn nói ông ấy mạnh như sư tử hoặc (đối với kẻ thù của họ, tất nhiên) ông ấy dữ tợn như một chúa tể sơn lâm. Hoặc là một cái gì gần giống như vậy. Ngay cả khi một cô gái bé nhỏ như cô, Aravis à, thì cô cũng phải hiểu rằng thật là một sự báng bổ khi coi ông ấy là một con sư tử thật. Đúng vậy, như thế là thiếu tôn trọng. Nếu ông là một con sư tử, chẳng hóa ra ông ấy cũng chỉ là một con thú như hầu hết chúng tôi sao? Tại sao vậy? (nói đến đây Bree bắt đầu cười khặc khặc theo kiểu cười của ngựa). Là một con sư tử ông ấy phải có bốn chân, một cái đuôi và một hàng ria…! Ô hô hô! Cứu tôi! Vì khi Bree nói đến từ “ria”, một trong những sợi ria của Aslan chọc vào tai nó. Bree bắn đi như một mũi tên sang tận đầu bên kia bãi cỏ rồi từ đấy nó lại vọt về chỗ cũ; bức tường quá cao để có có thể nhảy qua mà nó thì không thể bay được. Cả Aravis và Hwin đều nhìn lại. Có một sự im lặng căng thẳng kéo dài khoảng một giây. Đoạn Hwin rung rinh toàn thân, hí lên một tiếng nghe là lạ rồi phi nước kiệu tới chỗ sư tử, nói: - Xin mời, ngài thật đẹp đẽ uy phong. Ngài có thể ăn thịt tôi nếu muốn. Tôi thà để ngài ăn thịt còn hơn làm mồi cho bất cứ kẻ nào khác. - Con gái thân yêu nhất của ta! – Aslan nói, đặt một cái hôn lên chiếc mũi mượt như nhung co rúm lại của Hwin. – Ta biết con sẽ không để quá lâu mới chạy đến chỗ ta. Niềm vui sẽ ở lại cùng con. Đoạn Aslan ngẩng đầu lên, nói bằng một giọng cao hơn: - Bây giờ thì Bree, con ngựa vừa kiêu hãnh vừa hoảng sợ một cách tội nghiệp kia, con hãy đến gần đây nào, gần hơn nữa, con trai. Đừng sợ làm điều cần phải làm. Chạm vào người ta đi. Ngửi ta đi. Đây là móng vuốt của ta. Đây là đuôi của ta, còn đây là hàng ria. Ta là một con thú thật sự đấy. - Aslan, – Bree nói bằng một giọng run rẩy, – con sợ rằng mình đúng là một kẻ ngu xuẩn. - Thật là một điểm đáng mừng khi con ngựa biết rõ như thế nào vào lúc nó còn non trẻ. Cả con người cũng thế. Lại gần đây Aravis, con gái của ta. Coi đây. Móng vuốt của ta mềm như nhung. Con sẽ không bị thương lần nữa đâu. - Lần ấy chính là ngài ư? – Aravis hỏi. - Phải, chính ta đã đả thương con. Trước sau ta cũng là con sư tử con đã gặp trong toàn bộ cuộc hành trình. Có biết tại sao mà ta làm con bị thương không? - Thưa không. - Những vết cào trên lưng con – nước mắt trả bằng nước mắt, cái tát đền cho cái tát, máu trả nợ máu – như thế mới công bằng với những vết roi đã hằn trên lưng người hầu gái vô tội bởi vì con đã bỏ thuốc mê cho cô ta. Con cần phải biết cái cảm giác ấy như thế nào. - Thưa vâng, ngài làm ơn… - Cứ hỏi đi, con gái yêu… - Cô ấy có bị liên lụy gì thêm về cái lỗi con gây ra không ạ? - Con gái. Ta chỉ nói với con chuyện có liên quan tới con chứ không phải chuyện về cô gái ấy. Không có ai được bảo cho biết chuyện gì không phải của mình. Đoạn sư tử lắc đầu và nói với một giọng nhẹ nhàng hơn: - Hãy vui lên, những đứa con bé nhỏ. Chúng ta rồi sẽ sớm gặp lại nhau thôi. Nhưng trước đó các con sẽ có một vị khách khác. – Rồi chỉ với một cú nhảy, sư tử đặt bốn chân lên hàng rào và biến mất. Mọi việc thật quá kỳ lạ, không ai có ý muốn đề cập đến Aslan sau khi ông đi khỏi. Mỗi người trong bọn họ chậm rãi tìm đến những chỗ khác nhau trong khoảnh đất rào kín của ẩn sĩ, những bước đi lặng lẽ dọc ngang và mỗi người chìm đắm trong những suy nghĩ của riêng mình. Nữa giờ sau hai con ngựa quay lại phía sau túp lều của ẩn sĩ ăn những món ngon lành mà ông đã chuẩn bị cho chúng còn Aravis vẫn đi đi lại lại, vẩn vơ suy nghĩ, chợt nó giật mình vì tiếng kèn trumpet hùng tráng vang lên ngay ngoài cổng. - Ai đấy? – Aravis hỏi. - Hoàng tử Cor xứ Archenland. – Một giọng nói bên ngoài vọng vào trả lời. Aravis tháo chốt cửa và mở rộng cánh cổng, hơi lùi lại phía sau một chút để cho những người lạ mặt bước vào. Hai người lính cầm kích bước vào trước, đứng hai bên lối đi. Sau đó là người truyền lệnh và người thổi kèn trumpet. - Hoàng tử Cor xứ Archenland muốn được gặp tiểu thư Aravis. – Người truyền lệnh thông báo. Sau đó anh ta và người thổi kèn đứng tránh sang hai bên cúi chào long trọng. Quân lính bên ngoài cất tiếng chào và hoàng tử bước vào. Tất cả những người tháp tùng rút lui, cánh cổng khép lại sau lưng họ. Hoàng tử cúi đầu chào, một cái cúi đầu quá lóng ngóng, vụng về so với một hoàng tử. Aravis cúi đầu đáp lễ theo lối người Calormen (không giống với kiểu chào hỏi của chúng ta) nó chào rất khéo bởi vì nó được dạy dỗ chu đáo về khoản này. Đoạn nó ngước lên coi xem hoàng tử là người như thế nào. Người ta thấy chỉ là một thằng bé không hơn không kém. Đầu để trần, mái tóc vàng quăn lại thành từng lọn nhỏ và mảnh như những sợi vàng, khó mà dày hơn một sợi dây. Chiếc áo choàng khoác bên ngoài được may bằng thứ lanh màu trắng mịn như loại dùng làm khăn mùi xoa, làm nổi bật chiếc áo nịt mặc bên trong màu đỏ thắm, bàn tay trái đang đặt trên chuôi gươm bằng men sứ thì quấn băng trắng. Aravis nhìn vào mặt hoàng tử thêm một lần nữa, trước khi há to miệng thốt lên: - Trời ơi! Đây là Shasta! Shasta đỏ mặt cho đến tận chân tóc và nó hấp tấp nói nhanh: - Nghe đây, Aravis, – Shasta nói. – Tôi hy vọng bạn không nghĩ tôi đến đây như thế này (với cả người thổi kèn trumpet và quân lính) là để cố gây ấn tượng với bạn hoặc giả làm cho tôi khác với chính mình… giống như một loại cặn bã nào đó. Thực ra tôi thích đến đây với bộ quần áo cũ của tôi hơn, nhưng nó đã bị đốt và cha tôi nói… - Cha anh? - Vua Lune chính là cha tôi. Lẽ ra tôi phải đoán ra điều này. Corin giống tôi như đúc. Chúng tôi là anh em sinh đôi, rồi bạn gặp sẽ biết. À mà tên tôi không phải Shasta mà là Cor. - Cái tên Cor nghe êm tai hơn Shasta. – Aravis nói. - Ở Archenland anh em trai thường được cha mẹ đặt tên như thế. – Shasta (hoặc hoàng tử Cor như chúng ta phải gọi theo nghi thức) nói. – Giống như Dar và Darrin, Cole và Colin vân vân. - Shasta… tôi muốn nói hoàng tử Cor. Không, hãy để cho tôi nói. Tôi có một điều phải nói ra ngay bây giờ. Cho tôi xin lỗi vì đã có thái độ kiêu căng, ngạo mạn. Nhưng tôi đã hiểu ra điều này từ trước khi biết anh là một hoàng tử, tôi… tôi nói thật đấy, tôi… tôi đã thay đổi khi thấy anh quay lại đối mặt với sư tử. - Ông không định giết bạn đâu, sư tử ấy mà! - Tôi biết. – Aravis nói, gật gật đầu. Cả hai đứng yên, vẻ nghiêm trang hồi lâu vì cả hai đều hiểu là người kia đã biết về Aslan. Bất chợt Aravis nhớ ra cái tay băng bó của Cor. - Ôi, tôi quên mất! Anh đã tham gia trận chiến đấu. Đây là vết thương à? - Chỉ là một vết cào xước. – Cor nói, lần đầu tiên có điệu bộ của một nhà quý tộc. Nhưng chỉ ngay sau đó nó đã bật cười và nói. – Nếu bạn muốn biết sự thực thì đó không phải là một vết thương đúng nghĩa. Tôi chỉ làm cho các đốt ngón tay bị trầy da như một thằng ngốc tự gây ra chuyện cho mình khi xớ rớ gần chỗ người ta đánh nhau. - Dù sao thì anh cũng đã tham gia một trận đánh. Chắc là tuyệt vời lắm. - Không giống như tôi tưởng chút nào. – Cor nói. - Nhưng Sha… Cor, tôi muốn nói, anh còn chưa kể cho tôi nghe về vua Lune và làm cách nào mà ông ấy lại nhận ra anh. - Được, nhưng chúng ta hãy ngồi xuống đã. Bởi vì đây là một câu chuyện dài. Dù sao thì cha tôi cũng là một người chính trực. Tôi rất sung sướng – hoặc cũng gần như thế – khi biết ông là cha tôi cho dù ông không phải vua chăng nữa, mặc cho việc học tập và tất cả những chuyện kinh khủng sẽ xảy đến với tôi. Nhưng bạn cần biết rõ mọi chuyện. Là thế này, Corin và tôi là anh em sinh đôi. Khoảng một tuần sau khi chào đời người ta mang chúng tôi đến chỗ một nhân mã già, nổi tiếng thông thái ở Narnia để được chúc phúc gì đó. Lúc ấy nhân mã này đã là một nhà tiên tri giỏi như nhiều nhân mã khác. Có lẽ bạn còn chưa gặp bất cứ một nhân mã nào, phải không? Trong trận đấu ngày hôm qua cũng có một vài nhân mã. Những người đặc biệt nhất, nhưng tôi không thể nói là mình quen được với họ. Phải, Aravis ạ, có nhiều cái cần phải làm quen ở những đất nước phương bắc này. - Phải, chính thế. Nhưng anh kể tiếp đi. - Vâng, khi gặp em Corin và tôi, có vẻ nhân mã chỉ chú ý đến tôi và nói: Một ngày kia cậu bé này sẽ cứu Archenland khỏi cảnh nước mất nhà tan. Tất nhiên cha mẹ tôi rất sung sướng khi nghe thế. Nhưng một người có mặt ở đó lại không thích điều này chút nào. Đó là nhà quý tộc tên Bar – chính là quan chưởng ấn của cha tôi. Chắc ông ta đã làm điều gì không phải – về điểm này tôi không được rõ lắm và cha tôi đã đuổi ông ta đi. Ngoài ra chẳng có chuyện gì xảy ra, ông ta vẫn được phép tiếp tục sinh sống ở Archenland. Nhưng ông quan này bụng dạ xấu xa hiểm độc bởi vì sau đó cha tôi mới vỡ lẽ ra rằng ông ta đã bán mình cho Tisroc với rất nhiều tin tức tuyệt mật gửi đến Tashbaan. Ngay khi biết được rằng tôi là kẻ sẽ cứu Archenland khỏi họa xâm lăng, ông ta đã đi đến quyết đinh, tôi sẽ phải bị loại bỏ. Phải, ông ta đã thành công trong việc bắt cóc tôi rồi bỏ trốn xuống vùng Mũi Tên Bay, rồi từ đó chạy ra biển. Ông ta đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Có một con tàu với những người tòng phạm đang đợi sẵn để mang tôi đi. Nhưng cha tôi đã nhận được tin tức, dù không kịp thời lắm, và đã hết sức đuổi theo kẻ phản bội. Ngài Bar đã ra ngoài khơi thì cha tôi mới đuổi theo đến bờ biển, nhưng chưa bị mất dấu. Cha tôi chỉ mất hai mươi phút để chuẩn bị một con tàu chiến và ra khởi đuổi theo. Chắc đó là một cuộc đuổi bắt ngoạn mục. Sáu ngày liền họ đuổi theo con thuyền galây của Bar và dồn nó vào một cuộc giao tranh vào ngày thứ bảy. Đó là một cuộc thủy chiến dữ dội (tối hôm qua tôi được nghe kể rất nhiều về nó) kéo dài từ lúc mười giờ sáng cho đến tận lúc mặt trời lặn. Cuối cùng người của cha tôi đã chiếm được con tàu nhưng tôi lại không có mặt trên đó. Bản thân ngài Bar cũng đã bị giết. Nhưng một người của ông ta khai rằng vào lúc sáng sớm, khi nhận định mình chắc chắn sẽ bị thua, Bar đã trao tôi cho một trong những người phò tá thân tín của mình và để cả hai trốn đi trên một con thuyền nhỏ. Không ai thấy con thuyền đó. Nhưng tất nhiên đó là con thuyền mà Aslan (dường như ông có mặt trong tất cả những chuyện này) đã đẩy vào bờ đúng chỗ Arsheesh đang ngồi và ông ta đã cứu tôi. Ước gì tôi có thể biết tên người hiệp sĩ ấy bởi vì chắc chắn ông ta đã cố hết sức để giữ mạng sống cho tôi và ông đã chết vì đói khi làm thế. - Tôi chắc rằng Aslan sẽ nói đó là chuyện của một người khác. – Aravis nói. - Ồ phải, tôi đã quên mất điều đó. - Tôi tự hỏi không biết lời tiên đoán có hiệu nghiệm không và nỗi nguy hiểm mà anh cứu Archenland thoát khỏi là cái gì vậy? - À, – Cor nói vẻ ngượng ngập, – có vẻ như mọi người nghĩ tôi đã làm được việc đó. Chợt Aravis vỗ hai tay vào nhau. - Ồ tất nhiên rồi, sao tôi lại ngốc thế không biết. Thật tuyệt vời! Archenland không bao giờ có thể gặp một tai họa nào lớn hơn việc Rabadash đem quân đến đánh úp, và hẳn đó sẽ là đại họa nếu không có anh vượt qua bao gian khổ đến báo tin. Anh có cảm thấy tự hào không? - Tôi nghĩ… tôi cảm thấy sờ sợ. - Bây giờ anh sẽ sống ở Anvard? – Aravis nói vẻ đăm chiêu. - Ồ suýt nữa thì tôi quên mất lý do tôi đến đây. Cha tôi muốn mời bạn đến sống với chúng tôi. Ông nói không có một quý bà quý cô nào trong triều (họ gọi là triều đình, tôi cũng không hiểu tại sao nữa) từ khi mẹ tôi mất đi. Xin bạn hãy vui lòng chấp nhận. Rồi bạn sẽ thích cha tôi và cả Corin nữa. Họ không giống như tôi; họ là những người học thức và rất mực quý phái, tao nhã. Bạn không cần phải sợ là… - Ôi thôi đi, – Aravis cắt ngang, – nếu không chúng ta lại cãi nhau mất. Tất nhiên, tôi sẽ đến. - Bây giờ chúng ta hãy đi gặp các bạn ngựa nào, – Cor nói. Đó là một cuộc gặp mặt vui vẻ và đầy ý nghĩa giữa Bree và Cor. Anh bạn Bree dù vẫn trong tâm trạng buồn buồn đã đồng ý khởi hành đến Anvard ngay. Cả bốn chào từ biệt ẩn sĩ và hứa sẽ nhanh chóng quay lại thăm ông. Hai con ngựa nghĩ là Aravis và Cor sẽ cưỡi lên người chúng nhưng Cor giải thích là trừ trong chiến tranh còn thì không ai ở Narnia và Archenland nghĩ đến chuyện ngồi lên lưng một con ngựa biết nói. Điều này lại nhắc anh bạn Bree đáng thương là vốn hiểu biết của nó về phong tục Narnia hạn hẹp ra sao và vừa rồi nó mắc lỗi như thế nào. Vì thế mà trong lúc Hwin sải bước như trong mơ, vui vẻ bao nhiêu thì Bree lại mỗi lúc một hồi hộp và hoang mang bấy nhiêu. - Vui lên đi anh bạn Bree. – Cor động viên. – Với tôi mọi chuyện còn tệ hơn nhiều. Anh sẽ không phải bị dạy dỗ gì trong khi tôi lại phải học đọc, học viết, học giao tế, khiêu vũ, học lịch sử, và âm nhạc… Anh chỉ có mỗi việc là phi nước đại và lăn lưng trên những quả đồi Narnia với niềm vui sướng trong tim mà thôi. - Nhưng đấy mới là vấn đề. – Bree rên rỉ. – Thế bọn ngựa biết nói ấy có lăn như thế không? Giả sử họ không làm thế? Tôi không thể chịu đựng việc phải từ bỏ thói quen đó. Cô nghĩ sao hả Hwin? - Dù sao thì tôi cũng sẽ làm như thế. Tôi không cho là có bất cứ ai trong bọn họ chịu từ bỏ hai cục đường phèn để chú ý đến chuyện anh có lăn lưng trên cỏ không. - Chúng ta đi gần đến lâu đài chưa? – Bree hỏi Cor. - Đi khỏi chỗ rẽ sắp tới là đến. - Nếu vậy, – Bree nói, – tôi sẽ lăn ngay bây giờ, đây có thể là lần cuối cùng. Chờ tôi một phút nhé. Nhưng phải mất năm phút sau nó mới chịu đứng lên, thở phì phò, trên người lấm tấm lá dương xỉ khô. - Tôi sẵn sàng rồi. – Bree nói với giọng âu sầu trầm lắng. – Dẫn đường đi hoàng tử Cor, Narnia và phương Bắc! Nhưng trông nó có vẻ của một con ngựa đi đến một đám ma hơn là một kẻ buộc phải tha hương lâu ngày bây giờ được trở về cố hương và về với tự do. |
Biên niên sử Narnia - Phần 3 - Chương 15
PHẦN 3 - CON NGỰA VÀ CẬU BÉ CHƯƠNG 15 Rabadash lố bịch Ở ngã rẽ kế tiếp, con đường đưa họ rời khỏi rừng cây rồi đi ngang qua những đồng cỏ xanh mượt, được che chắn khỏi những ngọn gió bắc tàn bạo, bởi một quả núi cây cối mọc rất cao, đi hết đồng cỏ là đến tòa lâu đài Anvard. Đó là một tòa lâu đài rất cổ, được xây bằng những phiến đá nâu đỏ ấm áp. Trước khi họ về đến cổng, vua Lune đã ra tận bên ngoài đón họ và theo ý của Aravis, ông chẳng có vẻ gì giống với một ông vua cả, đã thế ông lại mặc bộ quần áo cũ nhất trong những bộ quần áo cũ nữa; đó là bởi vì ông vua này vừa đi một vòng chăm sóc bầy chó săn với người phụ trách bầy chó của ông và chỉ dừng lại trước đấy một phút để rửa sạch đôi tay đầy mùi chó. Tuy vậy, cái cúi đầu chào khách lúc ông cầm tay Aravis có đủ vẻ tao nhã và tôn nghiêm của một bậc đế vương. - Thưa tiểu thư, – ông nói, – chúng tôi xin đón chào cô với tất cả tấm thịnh tình. Nếu bà vợ thân yêu của tôi còn sống, chúng tôi có thể làm cho tiểu thư vui hơn nhưng cũng không thể làm thế với một tấm lòng nhiệt thành hơn được nữa. Tôi lấy làm tiếc là tiểu thư đã gặp phải những chuyện không vui và đã phải bỏ trốn khỏi nhà như thế, một điều không chỉ là nỗi buồn của riêng ai. Con trai tôi có kể cho tôi nghe về cuộc phiêu lưu của hai người và về lòng dũng cảm vô song của tiểu thư. - Chính con trai ngài mới dũng cảm, thưa ngài. Cậu ấy đã lao về phía sư tử để cứu tôi. - Ôi, có chuyện đó à? – Vua Lune hỏi, khuôn mặt sáng bừng lên. – Thế mà tôi chưa được nghe điều này đấy. Thế là Aravis kể lại tường tận đầu đuôi. Và Cor, người rất mong câu chuyện này được biết đến dù nó cảm thấy không thể tự mình kể ra được đến lúc này lại không cảm thấy thích thú như nó chờ đợi, thực tế nó còn thấy mình ngốc nghếch nữa là đằng khác. Nhưng cha nó thì khoái chuyện này đến nỗi trong suốt mấy tuần lễ sau đó ông hào hứng kể lại chuyện này rất nhiều lần và cho rất nhiều người khiến thằng bé phải thầm mong là một chuyện như vậy đừng bao giờ xảy ra thì tốt hơn. Đoạn vua quay sang chào Bree và Hwin, cũng lịch thiệp như chào Aravis, hỏi chúng nhiều câu về hoàn cảnh của mỗi con, chúng từng sống ở đâu trước khi bị bắt cóc v.v… Bọn ngựa cảm thấy lưỡi chúng như bị buộc chặt lại bởi vì chúng không quen với việc được nói chuyện ngang hàng với con người – người lớn hẳn hoi – tất nhiên chúng không tính đến Aravis và Cor. Đúng lúc ấy nữ hoàng Lucy bước ra khỏi lâu đài, đi đến gần mọi người và vua Lune giới thiệu với Aravis: - Cháu thân yêu, đây là một người bạn ở nhà chúng ta. Cô ấy sẽ coi sóc những việc liên quan đến nơi ăn chốn ở của cháu tốt hơn ta. - Em có muốn đi cùng chị xem qua không? – Lucy hỏi, hôn lên hai má Aravis. Họ mến nhau ngay lập tức và chẳng bao lâu sau đã cùng nhau đi khỏi, vừa đi vừa nói chuyện về khuê phòng của Aravis cùng chuyện áo quần và tất cả những thứ mà các cô gái thích nói với nhau trong những trường hợp tương tự. Sau bữa trưa mà họ ăn ngoài hàng hiên (một bữa ăn gồm có món thịt chim ướp lạnh, bánh tạc mát lạnh, rượu vang, bánh mì và bơ), vua Lune nhíu lông mày, thở dài và nói: - Ái chà! Chúng ta vẫn còn anh bạn Rabadash chết tiệt này trong tay. Cần phải làm một cái gì đó để giải quyết mọi chuyện với anh bạn này. Lucy ngồi bên tay phải của vua Lune và Aravis ngồi bên tay trái. Vua Edmund ngồi ở một đầu bàn còn ngài Darrin ngồi đối diện với vua ở đầu bàn bên kia. Dar và Peridan, Cor và Corin ngồi ở cùng phía với nhà vua. - Bệ hạ hoàn toàn có quyền chém đầu hắn. – Peridan nói. – Chính cái tội danh tấn công thành Anvard mà không khiêu chiến đã đặt y ngang hàng với những tên thích khách. - Điều đó rất đúng. – Edmund nói. – Nhưng kể cả một tên phản bội thì cũng có thể cải tà quy chính. Tôi biết một người đã làm được điều đó. – Khuôn mặt nhà vua trẻ có một vẻ đăm chiêu tư lự. – Giết cái tên Rabadash rất có thể sẽ dấy lên nạn binh đao đẫm máu với Tisroc. - Một quả vả cho Tisroc, – vua Lune nói. – Sức mạnh của hắn là ở quân số mà quân số thì chẳng bao giờ vượt qua được sa mạc. Nhưng tôi không có lòng dạ nào muốn giết người (dù đó là những tên phản bội) với một dòng máu lạnh. Nếu cắt cổ hắn ở trong một trận giao tranh thì trái tim tôi sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều, nhưng đây lại là một vấn đề khác. - Theo ý kiến của tôi, – Lucy lên tiếng, – đức vua hãy tạo cho hắn một cơ hội. Hãy trả lại tự do cho hắn với điều kiện hắn cam kết sẽ làm việc tốt trong tương lai. Rất có thể là hắn sẽ giữ lời. - Có thể loài vượn còn có khả năng giữ lời hơn hắn em gái ạ. – Edmund nói. – Nhưng thề có Bờm Sư Tử, nếu hắn tráo trở thì có thể vào một lúc nào đó, ở một nơi nào đó bất cứ ai trong chúng ta cũng sẽ lấy đầu hắn trong một trận đấu công bằng. - Cũng đáng thử một phen. – Vua Lune nói và những người có mặt đều tán đồng. Mang tù nhân lên đây, các bạn. Rabadash được giải đến, tay và chân bị trói lại. Nhìn hắn, bất kì ai cũng có thể nghĩ là hắn đã trải qua một đêm trong địa ngục trần gian, không thức ăn, nước uống, nhưng thực ra hắn chỉ bị nhốt trong một căn phòng đầy đủ tiện nghi và có một bữa ăn tối ngon tuyệt. Nhưng bởi vì hắn quá giận dữ và tuyệt vọng để có thể đụng đến thức ăn nên đã suốt đêm giậm chân đi đi lại lại la lối, chửi rủa om sòm, vì thế mà mặt mũi hắn mới có cái vẻ khó coi như thế. - Hoàng tử không cần có người bảo cho mới biết được rằng, – vua Lune nói, – theo pháp luật hiện hành của các quốc gia cũng như với tất cả những lý do của một chính sách thận trọng, chúng tôi hoàn toàn có quyền xử trảm hoàng tử như một người vi phạm quyền lợi của một người khác. Tuy vậy xét thấy hoàng tử trẻ người non dạ và hấp thu một nền giáo dục yếu kém, thiếu vắng những yếu tố nhân bản và tinh thần thượng võ, mà rõ ràng hoàng tử đã thẩm thấu trên mảnh đất của các nô lệ và các bạo chúa; chúng tôi quyết định trả lại tự do cho hoàng tử, không làm phương hại đến bất cứ mặt nào nhưng với những điều kiện như sau: thứ nhất… - Ta nguyền rủa ngươi, đồ chó man rợ! – Rabadash tuôn ra những lời lẽ độc địa. – Ngươi nghĩ ta thèm nghe những điều kiện của ngươi hay sao? Kinh tởm! Ngươi nói nhiều đến một sự giáo dưỡng mà ta không hiểu. Thật dễ nói như thế với một người đàn ông bị xiềng, a ha ha. Bỏ những sợi dây xiềng này đi, đưa cho ta một thanh gươm, bất cứ kẻ nào trong bọn bay có gan hãy ra đây tranh thiệt hơn với ta rồi hãy nói lý lẽ. Gần như tất cả những người quý tộc đều đứng bật dậy, Corin thét lên giận dữ. - Trật tự! Xin mời vua Edmund và các ngài quý tộc! – Vua Lune nói. – Chẳng phải giữa chúng ta còn có những chuyện quan trọng hơn là để cho mình bị chọc giận bởi lời chế nhạo của một kẻ không coi ai ra gì? Ngồi xuống đi Corin, nếu không con phải rời khỏi bàn ăn ngay. Tôi yêu cầu hoàng tử một lần nữa: Hãy lắng nghe điều kiện của chúng tôi. - Ta không nghe điều kiện của bọn man di mọi rợ và phù thủy các ngươi. – Rabadash nói. – Không một kẻ nào trong số các ngươi có gan chạm lên một sợi tóc trên đầu ta đâu. Mỗi sự sỉ nhục mà các ngươi đổ lên đầu ta hôm nay sẽ phải trả giá: cả sông và biển ở Narnia và Archenland sẽ nhuộm đầy máu. Tisroc sẽ thực hiện một cuộc báo thù kinh khủng nhất. Có thể điều đó đang diễn ra vào ngay lúc này. Cứ giết ta đi rồi mảnh đất phương bắc này bị thiêu rụi và chà đạp sẽ trở thành một câu chuyện kinh động thế giới đến cả ngàn năm sau. Chờ đấy! Chờ đấy! Chờ đấy! Tầm sét của thần Tash sẽ bổ xuống đầu các ngươi. - Không phải là đi nửa đường nó bị vướng vào một cái móc rồi sao? – Corin hỏi. - Phải biết xấu hổ chứ Corin? – Nhà vua nhắc. – Con không bao giờ nên chế giễu người thất thế, cứ để danh đấy cho đến khi người ấy mạnh hơn con; khi ấy con có thể làm như con muốn. - Ôi, Rabadash, ngươi thật ngu muội! – Lucy thở dài. Ngay sau đó Cor tự hỏi cớ sao mỗi người ngồi bên bàn lại đứng dậy, người thẳng tắp trang nghiêm. Tất nhiên nó cũng làm theo mọi người và sau đấy nó biết rõ nguyên do. Aslan đang ở giữa mọi người nhưng không một ai nhìn thấy ông đi vào. Rabadash giật bắn cả người khi hắn nhìn thấy thân hình to lớn của sư tử nhẹ nhàng đứng giữa hắn và những người buộc tội hắn. - Rabadash, – Aslan nói, – hãy nghe ta nói đây. Số phận của ngươi đang đến gần nhưng ngươi vẫn có thể tránh được. Hãy quên đi niềm kiêu hãnh của bản thân (mà ngươi kiêu hãnh vì cái gì mới được chứ) và cơn giận dữ của ngươi (có ai làm gì sai trái với ngươi nào) mà chấp nhận lòng tốt của những vị vua nhân đức này. Nghe đến đây Rabadash trợn mắt lên, ngoác cái miệng hắn ra thành một nụ cười kinh khủng, chẳng có gì giống với nụ cười mà giống như đang nhe răng cắn và vẫy vẫy đôi tai của hắn (ai cũng có thể học cách làm được điều này nếu người ấy gặp rắc rối). Bao giờ hắn cũng làm cái trò này rất hiệu nghiệm với người Calormen. Cả những người can đảm nhất cũng run lên như giẽ khi thấy hắn tạo ra vẻ mặt trên, những người bình thường thì lăn quay ra sàn, còn những kẻ yếu bóng vía thì thường bất tỉnh. Nhưng điều Rabadash không nhận ra được là thật dễ làm hoảng vía những người mà hắn có thể cho vào vạc dầu sôi chỉ với một lời từ miệng hắn. Cái mặt nhăn gớm ghiếc ấy không hề có vẻ đe dọa ở đất Archenland này; sự thật thì Lucy nghĩ là hắn bị bệnh. - Con quỷ! Con quỷ! Con quỷ! – Hoàng tử Rabadash ré lên. – Ta biết rõ ngươi. Ngươi chính là con quỷ xấu xa ở Narnia. Ngươi, kẻ thù của các thánh thần. Biết ra là ai không, con quỷ kinh tởm kia? Ta chính là hậu duệ của thần Tash – Không ai có thể khuất phục được và không biết nhượng bộ ai. Lời nguyền rủa của thần Tash bổ xuống đầu ngươi. Ánh sáng trong hình dạng của những con bò cạp sẽ đổ như mưa xuống ngươi. Những ngọn núi ở Narnia sẽ bị nghiền ra thành cám… - Hãy cẩn thận đấy Rabadash. – Aslan nói giọng nhẫn nại. – Số phận đã đến gần hơn; nó đang đợi ngoài cửa, nó đã nâng then cài lên. - Cứ để cho trời sập xuống đi! – Rabadash gào lên. – Cứ để cho mặt đất nứt ra đi. Nhưng hãy nhớ là ta sẽ không bao giờ nhượng bộ cho đến khi ta cầm tóc cái con gọi là nữ hoàng man rợ lôi vào trong cung điện của ta, cái con chó cái, cái… - Giờ đã điểm, – Aslan nói và Rabadash thấy – trước sự kinh hoàng tột độ của hắn – tất cả mọi người cười rộ lên. Họ không thể nhịn cười được. Rabadash cứ vẩy đôi tai suốt và khi Aslan vừa nói xong câu – giờ đã điểm – thì đôi tai của hắn bắt đầu thay đổi. Nó mọc dài ra, nhọn hơn, chẳng bao lâu sau đã phủ đầy lông xám. Trong lúc mọi người đang tự hỏi mình đã nhìn thấy đôi tai giống như thế bao giờ chưa thì khuôn mặt hắn cũng biến đổi, nó dài ra, dày lên ở phần trên và đôi mắt to ra; cái mũi lại tụt xuống phía dưới khuôn mặt (hoặc giả cả cái mặt phồng lên thành một cái mũi to tướng) lông phủ kín cả khuôn mặt. Đôi tay hắn dài hơn, buông thõng phía trước, chấm đất, chỉ có điều nó không còn là bàn tay nữa mà hiện thành móng vuốt. Bây giờ hắn đứng trên bốn chân, bộ quần áo biến mất, và mọi người cười to hơn, cười sặc sụa (bởi vì họ không thể nhịn được, ngay trước mặt họ, cái trước đây là Rabadash bây giờ – thật đơn giản và không nhầm lẫn vào đâu được – chính là một con lừa. Điều kinh khủng là cái kẻ vừa mới nói tiếng người bây giờ không còn hình người nữa, khi hắn nhận ra sự thay đổi hình dạng của chính mình, hắn kêu lên: - Ôi, đừng, đừng biến tôi thành lừa! Làm ơn đi! Nếu được là một con ngựa… be-be… be! – Và thế là cả ngôn ngữ cuối cùng cũng biến thành tiếng lừa kêu. - Bây giờ hãy nghe ta nói đây, Rabadash! – Aslan nói. – Sự công bằng chính là điều có lý, có tình. Ngươi sẽ không phải là một con lừa mãi mãi. Và tất nhiên con lừa vểnh tai lên nghe – với một dáng điệu tức cười khiến tất cả lại ồ lên. Họ đã cố không cười nhưng không sao nhịn nổi. - Ngươi có thể cầu khẩn thánh Tash. – Aslan nói. – Trong đền thờ thần Tash ngươi sẽ được cứu vớt. Ngươi phải đứng trước bàn thờ thần Tash ở Tashbaan vào lễ hội mùa thu trong năm nay. Trước sự chứng kiến của toàn dân thành Tashbaan, tấm da lừa sẽ rơi xuống và mọi người sẽ nhận ra ngươi là hoàng tử Rabadash. Nhưng trong suốt cuộc đời ngươi, có lúc nào ngươi đi ra khỏi đền thờ lớn ở Tashbaan dù chỉ mười dặm ngươi sẽ lập tức có cái hình dạng như lúc này. Nếu chuyện đó xảy ra sẽ không có chuyện biến đổi thành người lần thứ hai đâu. Có một sự im lặng ngắn ngủi, rồi tất cả mọi người đều động đậy chân tay, người này nhìn người kia như thể đây là một giấc mơ. Aslan đã đi khỏi. Nhưng vẫn còn quầng sáng trong không gian và trên bãi cỏ, còn niềm hân hoan trong lòng mọi người, điều đó đảm bảo với họ là họ không còn chiêm bao, và dù sao thì con lừa vẫn còn đứng đó, ngay trước mặt họ. Vua Lune là một người có trái tim nhân từ nhất, khi thấy kẻ thù của mình rơi vào hoàn cảnh trớ trêu đáng tuyệt vọng như vậy, ông đã quên mất cơn giận của mình. - Hoàng tử Rabadash, – ông nói, – tôi thật lấy làm tiếc vì mọi chuyện đã xảy ra như vậy. Hoàng tử cũng thấy điều này xảy ra không phải theo ý chúng tôi. Tất nhiên, chúng tôi lấy làm sung sướng được cấp cho hoàng tử một con tàu để trở về Tashbaan để… à để thực hiện những điều Aslan đã dự báo. Hoàng tử sẽ cảm thấy tiện nghi và thoải mái xứng với vị trí của mình trên một con tàu đẹp nhất của hoàng gia, có cà rốt tươi nhất và quả kế… Nhưng tiếng kêu be be chói tai và một cái đá trúng phóc của con lừa vào một trong những người lính đã chứng tỏ rõ ràng rằng lời đề nghị nghĩa hiệp đó không được tiếp nhận với một thiện chí. Và đến đây để xếp hắn vào một xó, tôi cũng nên kể vắn tắt câu chuyện về hắn. Rabadash (hoặc con lừa) được đưa lên thuyền trở về Tashbaan rồi được mang đến đền thờ thần Tash vào lễ hội mùa thu và sau đó hắn lại được trở lại làm người. Nhưng tất nhiên có đến 4 hoặc 5 ngàn người chứng kiến sự biến đổi này, và vụ việc này không thể ém nhẹm được. Sau khi Tisroc già qua đời, Rabadash trở thành một Tisroc nối ngôi, hắn là một ông vua chuộng hòa bình nhất mà người dân Calormen biết đến. Đó là vì hắn đâu dám đi quá Tashbaan mười dặm thì làm sao có thể tiến hành các cuộc chiến tranh, vả chăng hắn đâu muốn các Tashbaan của mình gặt hái được chiến công dựa trên những phí tổn của hắn… bởi vì đó cũng là cách mà các Tisroc bị mất ngôi báu. Nhưng dù sao thì cũng nhờ những lý do cá nhân ấy mà những nước láng giềng nhỏ hơn cũng được hưởng thái bình. Thần dân của hắn không bao giờ quên rằng hắn từng là một con lừa, trong thời kỳ hắn trị vì và trước mặt hắn, người ta xưng tụng hắn là Rabadash Thái Bình – Hoàng đế, sau khi hắn chết và sau lưng hắn người ta gọi hắn là Rabadash Lố Bịch và bạn muốn tra cứu về hắn trong một cuốn lịch sử đáng tin cậy về Calormen (bạn cứ thử tìm trong thư viện địa phương xem sao), bạn sẽ tìm thấy hắn dưới cái tên này. Cho đến tận hôm nay trong các trường học ở Calormen nếu bạn làm một việc gì đó ngu xuẩn một cách khác thường bạn sẽ có khả băng bị gọi là “một Rabadash thứ hai”. Trong khi đó ở Anvard ai nấy đều vui sướng là hắn đã bị đưa đi trước khi những niềm vui thực sự bắt đầu. Đó là một bữa tiệc lớn được tổ chức ngay tối hôm đó ở bãi cỏ trước lâu đài có hàng chục chiếc đèn lồng hỗ trợ cho mặt trăng. Rượu vang chảy như suốt, những câu chuyện nổ như pháo ran, những chuyện đùa chốc chốc lại làm rộ lên tiếng cười và rồi im lặng được lập lại. Một thi sĩ cung đình cùng hai người kéo vĩ cầm bước ra giữa vòng tròn. Aravis và Cor chuẩn bị tâm lý đón nhận một sự nhàm chán vì loại thơ Calormen duy nhất mà chúng biết là của người Calormen mà bây giờ thì bạn biết nó là như thế nào rồi đấy. Nhưng ngay từ lúc cái vĩ chạm vào dây đàn làm nảy lên những hợp âm đầu tiên thì dường như những âm thanh này đã đi vào tâm hồn hai đứa trẻ rồi, nhà thơ cao giọng ngâm nga một bài thơ cổ về Olvin tóc vàng, việc chàng chiến đấu với khổng lồ Pire và biến hắn thành đá như thế nào (đó cũng là bài thơ kể sự tích về Mount Pire – có nghĩa là một người khổng lồ hai đầu) sau đó chàng đã chiếm được trái tim người đẹp Liln và cuối cùng nàng đã trở thành vợ chàng ra sao. Khi bài thơ kết thúc cả hai đứa lại ao ước được nghe thêm lần nữa. Mặc dầu Bree không biết ngâm thơ, nó cũng kể lại câu chuyện về cuộc chiến của Lalindreh. Lucy kể lại – mọi người, trừ Aravis và Cor đã nghe chuyện này không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn muốn nghe lại – câu chuyện về cái tủ áo phiêu lưu đầu tiên của bốn anh em Peter, Susan, Edmund và Lucy ở Narnia. Và sau đó chắc chắn là vua Lune không chóng thì chầy cũng nhắc nhở là đã đến giờ các cô bé, cậu bé đi ngủ. - Ngày mai, – ông nói thêm, – Cor sẽ đi tham quan toàn bộ lâu đài với cha, kiểm tra toàn bộ pháo đài, đánh dấu điểm mạnh điểm yếu của chúng, bởi vì sẽ đến lượt con coi giữ vương quốc này một khi cha qua đời. - Không có chuyện đó đâu ạ, và nếu nó có xảy ra thì Corin mới là người lên làm vua cha ạ. – Cor nói. - Không đâu anh bạn, – vua Lune nói, – con là người kế vị của cha. Vương miện sẽ trao cho con. - Nhưng con không muốn. – Cor phản đối. – Con còn lâu mới… - Không có vấn đề con muốn hay không muốn, ta muốn hay không. Đây là luật. - Nhưng chúng con là anh em sinh đôi, chúng con ngang quyền với nhau. - Không. – Vua nói với một nụ cười. – Sinh đôi cũng có người ra trước ra sau. Con ra trước Corin 20 phút. Em con cũng rất tốt, hãy hy vọng như thế, mặc dù không ở vị trí cao nhất. – Và ông nhìn Corin với một ánh mắt long lanh. - Nhưng thưa cha, cha không thể chọn người mà cha tín nhiệm hơn lên làm vua hay sao? - Không! Vua phải sống theo phát luật vì chính luật pháp đã đưa ông ta lên làm vua. Không có nhiều quyền lực dành cho một người ngồi trên ngai vàng hơn một anh lính tốt ở vị trí đứng gác đâu, con trai ạ. - Ôi cha thân yêu! – Cor kêu lên. – Con không muốn điều này chút nào. Và Corin, anh thật sự lấy làm tiếc. Anh chẳng bao giờ nghĩ là việc anh trở về lại tước đi cây quyền trượng trong tay em. - Hoan hô! Hoan hô! – Corin kêu vang. – Em sẽ không phải làm vua, em sẽ không phải làm vua. Bao giờ cũng là một hoàng tử. Làm hoàng tử sẽ có tất cả những trò vui! - Đó là điều đúng đắn nhất mà em con đã lãnh hội được đấy, Cor ạ! – Vua Lune nói. – Bởi vì đây là ý nghĩa của việc làm vua: con phải là người đầu tiên xông ra mặt trận, chiến đấu hết sức mình, là người lính cuối cùng trong mỗi cuộc rút lui vô vọng. Và khi có nạn đói xảy ra (thỉnh thoảng vẫn có vào những giai đoạn tồi tệ) thì con phải là người mặc áo vải thô và cười vô tư trước một bữa cơm đạm bạc hơn bất cứ thần dân nào. Khi hai anh em lên cầu thang về phòng ngủ, Cor hỏi em xem có thể làm được điều gì để thay đổi tình thế không. Corin nói: - Nếu anh chỉ nói thêm một lời nữa về điều này, em sẽ… em sẽ đánh cho anh ngã lăn quay ra. Sẽ hay hơn nếu kết thúc câu chuyện này bằng cách nói rằng hai anh em không bao giờ bất đồng ý kiến trong bất cứ chuyện gì nữa, nhưng tôi e rằng nói thế thì không đúng sự thật. Trong thực tế chúng đánh nhau, cãi nhau thường xuyên như bất cứ hai anh em trai nào và những cuộc đánh nhau ấy bao giờ cũng kết thúc (nếu không bắt đầu) với việc Cor bị đánh nốc ao. Sau này khi họ lớn lên và trở thành những tay kiếm ngoại hạng, Cor là người có những ngón đòn rất “độc” thì cả Cor và bất cứ ai khác ở các nước phương Bắc đều không phải là đối thủ của Corin. Đó là lý do vì sao hoàng tử có biệt danh là Corin – Bàn tay sấm sét và tại sao chàng lập được kỳ tích vang dội trước gấu Lapsed ở Đỉnh Bão Táp, đó là một con gấu biết nói nhưng từ lâu đã trở về với nếp sống của gấu hoang. Corin trèo lên tận hang ổ của gấu ở sườn Đỉnh Bão Táp vào một ngày mùa đông khi băng tuyết phủ kín các triền đồi và đánh nhau tay bo với nó mà không cần có người bấm giờ trong vòng 33 hiệp. Cuối cùng gấu tối tăm mặt mũi không nhìn thấy gì cả và nó đã tu tâm dưỡng tính trở nên khác hẳn. Aravis cũng nhiều lần to tiếng (và tôi e là có cả những lần đấu chân tay) với Cor. Nhưng bao giờ cả hai người cũng làm lành với nhau và thế là năm tháng qua đi khi cả hai cùng lớn lên, họ đã quá quen thuộc với những cuộc cãi vã nảy lửa rồi lại làm hòa đến nỗi họ quyết định lấy nhau để tiếp tục làm những việc đó một cách thuận lợi hơn. Sau khi vua Lune băng hà, họ trở thành một ông vua và một bà hoàng hậu nhân đức sáng suốt của xứ Archenland. Và Ram Đại đế, vị vua nổi tiếng nhất trong tất cả những đời vua ở Archenland chính là con trai họ. Bree và Hwin đều sống hạnh phúc cho đến già ở Narnia, cả hai đều có vợ có chồng nhưng lại không lấy nhau. Cũng có khi trong nhiều tháng trời không có ai trong bọn họ chịu vượt qua đèo đến thăm bạn bè cũ ở Anvard. HẾT PHẦN 3 |
Biên niên sử Narnia - Phần 4 - Chương 1
BIÊN NIÊN SỬ NARNIA PHẦN 4 - HOÀNG TỬ CASPIAN CHƯƠNG 1 Phế tích lâu đài cổ Đã từng có bốn đứa trẻ, tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy, câu chuyện về cuộc phiêu lưu kỳ thú của chúng đã được kể trong một cuốn truyện khác có tên là Sư tử, phù thủy và cái tủ áo. Bọn trẻ mở cánh cửa một cái tủ áo màu nhiệm và chúng bước vào một thế giới khác hoàn toàn không giống gì với thế giới của chúng ta. Ở trong cái thế giới khác biệt ấy chúng trở thành vua và nữ hoàng của một đất nước có tên là Narnia. Trong khi chúng trị vì ở Narnia rất nhiều năm thì khi trở về qua cánh cửa tủ nọ, chúng thấy mình đang có mặt tại nước Anh cũng vào cái thời điểm mà chúng từ đấy ra đi. Ít nhất thì cũng không ai nhận ra sự vắng mặt của chúng và bọn trẻ không kể chuyện này cho ai biết ngoài một ông già rất mực thông thái. Tất cả những chuyện này xảy ra một năm về trước và bây giờ cả bốn anh em đang ngồi trên một băng ghế ở phòng chờ trong nhà ga xe lửa với những vali hành lý để bên cạnh. Chúng đang trên đường quay về trường và có mặt ở nhà ga này như một trạm chuyển tiếp, từ đây trong ít phút nữa một con tàu sẽ đến đón hai cô bé đến một trường dành cho nữ sinh, và khoảng nửa tiếng sau một chuyến tàu khác sẽ mang hai đứa con trai đến một trường dành cho nam sinh. Đây là chặng đầu của cuộc hành trình, khi bốn anh em bên nhau bao giờ thời gian cũng trôi qua như trong một kỳ nghỉ hè, nhưng giờ đây chúng sắp phải nói lời tạm biệt và chẳng bao lâu sẽ về hai ngả khác nhau. Đứa nào cũng có cảm giác kỳ nghỉ vui tươi đã qua và một học kỳ mới lại bắt đầu, tất cả đều cảm thấy lòng se buồn và không đứa nào nghĩ ra được bất cứ cái gì để nói với Lucy bởi vì đây là lần đầu tiên cô bé đến trường nội trú. Một sân ga xép vắng vẻ, buồn hiu như mơ ngủ và hầu như không có một ai trên sân ga trừ bốn đứa nhỏ. Thình lình Lucy kêu lên một tiếng thất thanh đúng như người ta vẫn kêu khi bị một con ong bắp cày đốt vào tay. - Có chuyện gì vậy, Lu? – Edmund hỏi và rồi cũng bất ngờ giãy nảy lên rồi la oai oái. - Có chuyện quái quỷ gì vậy… – Peter bắt đầu nhưng rồi ngoài ý muốn của nó cũng nói một điều khác hẳn. Bởi vì nó quay sang bảo cô em kế: – Su, em đang làm gì đấy? Em định lôi anh đi đâu vậy? - Em đâu có chạm vào người anh. – Susan cãi lại. – Có ai đang kéo em thì có. Ôi…ôi… dừng lại ngay! Khi cả bọn nhận ra chuyện gì đang diễn ra, mặt đứa nào đứa nấy đều trắng bệch. - Em cũng cảm thấy như thế. – Edmund nói bằng một giọng như bị hụt hơi. – Như thể em bị lôi đi. Kinh khủng, cứ như bị hút xuống đáy. Đấy, nó lại bắt đầu đấy. - Em nữa. – Lucy kêu to. – Ôi, em không thể chịu nổi! - Nhìn cho rõ. – Edmund la lên. –Tất cả nắm tay nhau, thật chặt. Chắc có pháp thuật gì đây… em có thể nói như thế… qua linh cảm. Nhanh lên nào! - Phải rồi. – Susan nói. – Nắm chặt lấy tay nhau. Ôi, ước gì nó dừng lại. Một phút sau cả hành lý, băng ghế, sân ga, phòng chờ đều hoàn toàn bị xóa mờ. Bốn đứa trẻ, nắm tay nhau, thở hổn hển, thấy mình đang đứng trong một khu rừng, cây cối rậm rịt đến mức cành cây đâm cả vào người chúng và không còn hở ra chỗ nào để chúng cựa mình. Cả bốn đứa lấy tay dụi dụi mắt và hít một hơi thật sâu. - Ôi anh Peter! – Lucy kêu lên. – Anh có nghĩ là có thể chúng ta đã bị lôi trở lại Narnia không? - Đây có thể là một nơi nào khác. – Peter nói. Anh không thể nhìn xa quá một mét khi ở giữa rừng cây này. Thử tìm một khoảng trống nào xem – nếu như ở đây có bất kỳ khoảng trống như vậy. Với một chút cố gắng lách qua những sợi dây tầm ma mọc chằng chịt và những cành gai nhọn chích rất đau, rốt cục bọn trẻ cũng chui ra được khỏi bụi rậm. Đến đây lại có một ngạc nhiên nữa. Mọi thứ trở nên sáng sủa hơn và sau vài bước chúng thấy mình đang ở ngoài bìa rừng, nhìn xuống một bãi cát. Xã hơn nữa là mặt biển êm ả, trườn lên cát là những con sóng nhỏ lăn tăn tuyệt không gây nên một tiếng động nào. Nhìn ra xa không thấy có một doi đất nào, ngước lên bầu trời không có một gợn mây, biển có một màu xanh đến chói chang. Cả bọn đứng hít hít cái bầu không khí vừa mặn mặn vừa sảng khoái trong lành của biển. Nhìn vị trí của mặt trời có thể đoán lúc này cũng vào khoảng 10 giờ sáng. Peter kêu lên: - Như thế này cũng đủ tốt rồi. Năm phút sau, cả bọn bỏ giày ra, đi chân trần khỏa vào làn nước trong lành mát rượi. - Thế này còn tốt hơn là bị lèn vào một con tàu chật chội trở về với cái môn Latin, tiếng Pháp và môn lượng giác! – Edmund phụ họa. Sau câu nói của Edmund là một quãng im lặng kéo dài, không có tiếng trò chuyện chỉ có tiếng lội nước bì bõm và bọn trẻ vui vẻ chạy đi tìm bắt con tôm con cua. - Đã thế thì, – cuối cùng Susan nói, – chúng ta cũng phải lên một vài kế hoạch chứ. Cũng cần nạp năng lượng trước khi… - Chúng ta có bánh sandwich mẹ làm để ăn đường. – Edmund nói. – Ít nhất thì em cũng có phần của mình. - Em thì không. Phần của em lại để trong cặp sách mất rồi. – Lucy nói. - Chị cũng thế. - Còn phần của anh lại để trong túi áo khoác, để trên bãi kia kìa. – Peter nói. – Như vậy, có hai phần ăn cho bốn người. Cũng không nhiều nhặn gì đâu. - Bây giờ, – Lucy nói, – em chỉ muốn có một cái gì để làm dịu cái khát hơn là cái đói. Mấy đứa kia cũng cảm thấy khát như người ta thường có cảm giác ấy sau khi chơi đùa trên bãi biển dưới một mặt trời nóng bỏng. - Cũng giống như bị đắm tàu, – Edmund nhận xét. – Trong những cuốn du ký bao giờ cũng thấy nói đến việc đi tìm nước ngọt – những dòng suối chảy trên đảo. Vậy chúng ta nên đi tìm nước. - Thế thì chúng ta lại phải quay vào khu rừng rậm kia? – Susan hỏi. - Không cần thế. – Peter nói. – Giả sử có một dòng suối, tất nó phải chạy ra biển, nếu ta cứ đi dọc theo bờ biển, thế nào cũng gặp một con suối nếu như ở đây có suối. Cả bọn lội lên bờ, đầu tiên bước lên lớp cát mịn sau đó đi lên lớp đất thịt khô và lổn nhổn, cát và đất cồm cộm trong các kẽ ngón chân. Bốn anh em mang giày và tất vào. Edmund và Lucy muốn để giày và tất lại bờ biển để thám hiểm vùng đất mới bằng đôi chân trần nhưng Susan cho rằng chỉ có khùng mới làm như vậy. - Rất có thể chúng ta sẽ không tìm thấy giày, – Susan chỉ rõ, – mà chúng ta thì vẫn cần đến nó trong trường hợp chúng ta phải ở lại đây khi đêm xuống và trời có thể sẽ rất lạnh. Sau khi đã mặc áo khoác và mang giày vào, bốn đứa bắt đầu cuộc thám hiểm. Biển nằm bên tay trái còn rừng cây thì lại nằm bên tay phải. Trừ một hoặc hai con hải âu ra, vùng biển này hoàn toàn vắng vẻ. Rừng cây dày và rậm rịt đến nỗi bạn khó lòng nhìn xuyên qua và chẳng có một thứ gì chuyển động trong đó – không một con chim, cả đến một con côn trùng cũng không. Sò, rong biển, cỏ chân ngỗng và những con cua bé tí trong những vùng nước hoặc trong sau hòn đá thì rất nhiều nhưng bạn sẽ mau chán những thứ đó khi bạn khát nước. Sau khi chuyển từ nước mát sang mang giày, những đôi chân trở nên bức bối và nặng như chì. Susan và Lucy còn mang theo áo mưa. Edmund đã bỏ áo khoác của nó trên băng ghế ngoài ga ngay trước khi phép lạ xảy ra vì thế nó và Peter thay phiên nhau mang chiếc áo măng tô của Peter. Đi được một đoạn, bờ biển bắt đầu lượn về phía tay phải. Khoảng 15 phút sau, bốn anh em đi qua một đỉnh núi đá thấp chạy ra xa bờ như một mũi tàu. Con đường dọc theo bờ biển đột ngột tạo thành một khúc cua rất gấp. Sau lưng chúng bây giờ lại là một đoạn bờ biển mà chúng đã thấy khi vừa ra khỏi rừng cây và giờ đây nhìn về phía trước mặt, có thể thấy bên kia dải nước xanh là một bờ biển khác cũng mọc đầy cây cối như khu rừng sau lưng. - Em tự hỏi không biết đây có phải là một hòn đảo không hay là chúng ta vừa đi đến một chỗ nối? – Lucy hỏi. - Không biết. – Peter nói và cả bọn lê bước nặng nề trong im lặng. Bờ biển mà chúng đang đi mỗi lúc lại nhích đến gần cái bờ đối diện bên kia và mỗi khi đi vòng qua một doi đất bọn trẻ lại chờ đợi tìm ra chỗ nối hai bờ biển với nhau. Nhưng ở điểm này chúng đã không được như ý. Con đường dẫn chúng đến một nơi có những tảng đá lớn chồng lên nhau. Cả bọn trèo lên, từ trên đỉnh có thể nhìn bao quát ra bốn chung quanh. - Chán quá! – Edmund thốt lên. – Chả có gì hay ho cả. Chúng ta sẽ không thể đến gần rừng cây bên kia đâu. Chúng ta đang ở trên một hòn đảo! Đúng thế. Dòng nước ngăn cách chúng với cái bờ đối diện chỉ rộng khoảng từ 30 đến 40 mét, nhưng chúng có thể thấy đó là chỗ eo biển thắt lại nhỏ nhất. Từ chỗ bọn trẻ đứng, bờ biển lượn vòng về bên phải và bọn trẻ có thể nhìn thấy mặt biển trải rộng giữa hòn đảo và đất liền. Rõ ràng chúng đã đi được quá nửa một vòng quanh hòn đảo. - Coi kìa! – Lucy thình lình kêu lên. – Cái gì thế kia? – Nó chỉ tay vào một vật dài, lấp lánh, uốn lượn như một con rắn chạy ngang qua bãi biển. - Một dòng suối! Một dòng suối! – Những đứa kia reo lên và mặc dù đã thấm mệt chúng cũng không mất nhiều thời gian vào việc trèo xuống mấy tảng đá và chạy như bay về phía dòng suối nhỏ. Bọn trẻ hiểu rằng sẽ tốt hơn nếu uống nước ngược lên nguồn, cách xa bờ biển thế là chúng liền đi ngược dòng nước, vào sâu trong rừng. Cây cối vẫn rậm rạp như toàn bộ khu rừng, nhưng con suối làm thành một dòng chảy sâu giữa đôi bờ cao cao mộc đầy rêu, nhờ thế, nếu đi lom khom theo bờ bạn có thể đến chỗ nước trong hơn, dưới một con đường cây lá um tùm làm thành một cổng chào. Đến nơi bọn trẻ quỳ xuống, đầu tiên, chúng còn cúi đầu xuống dòng nước gợn lăn tăn và uống, uống mãi, sau đó vục cả mặt xuống nước rồi nhúng cả hai tay xuống đến tận khuỷu. - Bây giờ đến tiết mục bánh sandwich chứ? – Edmund hỏi. - Không, tốt nhất là cứ để dành lại, – Susan nói, – sau này chúng ta còn cần đến nó hơn. - Em thực sự muốn, – Lucy nói, – là bây giờ khi chúng ta không khát chúng ta sẽ có cảm giác không đói nữa. - Nhưng hai chiếc bánh sandwich thì thế nào? – Edmund hỏi. – Còn có lợi ích gì khi cứ để dành cho đến lúc bánh bị thiu. Mọi người nên nhớ là ở đây nóng hơn ở Anh rất nhiều và bánh để ở trong túi mấy giờ rồi. Thế là bánh được lấy ra khỏi túi chia đều ra làm bốn phần, không đứa nào cảm thấy thế là đủ nhưng ít còn hơn không. Sau đó chúng bàn bạc với nhau về kế hoạch cho bữa ăn sắp tới. Lucy muốn quay lại bờ biển bắt tôm cho đến lúc có người vạch cho nó thấy chúng không có lưới. Edmund có ý kiến nên đi nhặt trứng chim hải âu ở các vách đá nhưng tất cả đều nhớ ra cho đến lúc ấy chúng chẳng thấy có quả trứng nào mà nếu có tìm thấy thì cũng không có phương tiện chế biến. Riêng Peter thầm nghĩ, trừ phi chúng có một cơ may nào khác chứ có trứng để húp sống cũng còn tốt chán, nhưng nó thấy không nên nói ra cái chuyện ấy. Susan nói rằng thật đáng tiếc là chúng đã ăn bánh sandwich quá sớm. Một hai đứa đã hoang mang đến độ gần như mất bình tĩnh. Cuối cùng Edmund nói: - Coi đây. Tình thế này chỉ có một giải pháp. Chúng ta cần phải khám phá ra khu rừng này. Các ẩn sĩ, những hiệp sĩ lang thang và những người rơi vào trường hợp tương tự như chúng ta bao giờ cũng tìm cách sống được bằng một cách nào đó khi ở trong rừng. Họ tìm các loại rễ, củ, cây dại và trái cây rừng. - Loại rễ nào? – Susan hỏi. - Em bao giờ cũng nghĩ có một loại rễ cây nào đó có thể ăn được. – Lucy nói. - Thôi nào. – Peter nói. – Edmund nói đúng đấy. Chúng ta hãy thử làm một việc gì đó. Như thế còn tốt hơn là đi ra ngoài bãi biển ngắm mặt trời một lần nữa. Thế là cả bọn đứng dậy, men theo dòng suối vào sâu trong rừng. Có lúc chúng phải chui luồn qua các cành cây, lại có lúc phải trèo qua một cành cây sà thấp. Chúng phải chui rúc vào những bụi cây rậm rạp như bụi đỗ quyên để cho gai cào rách cả áo. Có khi chúng phải lội qua suối làm cho giày và tất đều ướt sũng. Trong rừng yên tĩnh đến nỗi, tiếng nước chảy êm êm giữa đôi bờ và tiếng động do bọn trẻ gây ra là những âm thanh duy nhất. Bọn trẻ đã cảm thấy khó lòng đi xa hơn thì ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu và rồi khoảng rừng trước mặt sáng dần lên ở đầu bờ suối bên phải. - Em dám nói! – Lucy reo lên. – Em tin rằng đó là một cây táo. Đúng như thế. Bọn trẻ thở dốc leo lên cái bờ cao, tìm đường đi qua mấy bụi cây mâm xôi rồi chúng thấy mình đang đứng dưới một gốc cây cổ thụ trĩu trịt những trái táo lớn vàng ửng, vừa rắn chắc vừa đầy mật ngọt như bạn cũng sẽ ao ước muốn có một quả. - Không chỉ có một cây nhé. – Edmund kêu lên, mồm vẫn đầy táo. – Nhìn kìa… ở chỗ kia kìa. - Ừ nhỉ, có đến hàng chục cây ấy. – Susan nói, ném lõi quả táo đầu tiên đi, hái quả thứ hai. – Chắc đây từng là một vườn cây ăn quả… đã lâu, lâu lắm rồi trước khi nơi này bị bỏ hoang và cây cối mọc lên thành rừng rậm. - Nếu vậy thì đây là một hòn đảo đã từng có người ở. – Peter nói. - Vậy, cái gì thế kia? – Lucy hỏi, chỉ tay về phía trước mặt. - Chúa ơi, đó là một bức tường. – Peter kêu lên. – Một bức tường đá hoang phế. Bọn trẻ len lỏi tìm đường giữa những cành cây ken dày vào nhau để đến gần bức tường. Đó là một bức tường cổ, có nhiều chỗ đã bị rạn nứt, xiêu vẹo. Rêu và các loài hoa có dây leo phủ kín cả bức tường, nhưng bản than nó còn cao hơn cả những cái cây cao nhất mọc xung quanh. Khi bọn trẻ đến gần, chúng tìm thấy một mái vòm đồ sộ chắc trước đây từng là một cái cổng còn giờ đây thì gần như bị che khuất bởi một cây táo lớn nhất trong vườn. Mấy đứa con trai phải bẻ bớt một vài cành để lấy lối đi vào. Khi mọi việc đã xong, tất cả đều lóa mắt bởi ánh ngày đột nhiên trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết. Bốn anh em nhà Pevensie chợt thấy mình ở một khu vực thoáng rộng có tường cao bao quanh. Trong khuôn viên không có cây lưu niên chỉ có thảm cỏ mềm điểm những bông hoa cúc trắng, dây thường xuân và bức tường đá xám. Nơi này sáng sủa, bí ẩn, tuyệt đối yên ả và cũng rất buồn. Cả bốn đứa hối hả đi vào trong, sung sướng khi có thể uốn thẳng lưng và bước đi với những bước chân thoải mái. |
Biên niên sử Narnia - Phần 4 - Chương 2
PHẦN 4 - HOÀNG TỬ CASPIAN CHƯƠNG 2 Kho giấu vàng ngày ấy - Đây không phải là khu vườn. – Susan thốt lên. – Đây là một tòa lâu đài và chỗ chúng mình đang đứng là cái sân. - Anh hiểu. – Peter nói. – Đây chính là phần còn lại của một cái tháp. Ở đây có một cái gì từng là những bậc thang để trèo lên một bệ cao hơn. Nhìn những bậc thang này coi – rộng và thấp – dẫn đến một cái cửa, chắc đã từng là cửa dẫn vào đại sảnh. - Bao nhiêu năm rồi, cứ nhìn cái vẻ ngoài của nó mà xem – Edmund nói. - Phải, đã lâu lắm rồi. – Peter nói. – Ước gì chúng ta có thể tìm ra được ai là người sống trong tòa lâu đài này và việc ấy đã xảy ra bao lâu rồi. - Nó khiến em có một cảm giác thật kỳ lạ. – Lucy nói. - Đúng thế chứ, Lu? – Peter nói, quay sang chăm chú nhìn cô em út. – Bởi vì anh cũng có cảm giác giống em. Thật là điều lạ kỳ xảy ra trong một ngày kỳ lạ. Anh tự hỏi, chúng ta đang ở đâu và tất cả những điều này có ý nghĩ gì? Vừa đi vừa trao đổi, bọn trẻ đi ngang qua sân đến một lối đi đã từng là một hành lang. Nhưng giờ đây nó cũng giống phần sân còn lại, bởi vì mái che đã biến mất từ lâu và bây giờ nó thuần túy chỉ là một khoảng đất dành cho cỏ và hoa cúc, nếu có gì khác thì chỉ là chỗ này ngắn hơn, hẹp hòi và tường bao cao hơn mà thôi. Ở cuối lối đi có một nền đất cao hơn phần còn lại chừng một mét rưỡi. - Em tự hỏi, đây có phải là một cái bục không? – Susn hỏi Peter. – Cái nền đất này được xây theo kiểu gì không biết đây? - Em thật ngốc, – Peter nói (nó có một cảm giác hưng phấn kỳ lạ), – em không thấy à? Đây là một đài cao, nơi đặt một cái bàn dài để vua và quan lại đại thần ngồi. Không ai dám nghĩ là em lại quên mất việc chúng mình đã từng là vua và nữ hoàng và đã ngồi ở những cái đài cao như thế này trong chính điện của chúng ta. - Trong lâu đài của chúng ta ở Cair Paravel, – Susan nói tiếp giọng mơ màng, nghe ngân nga như tiếng hát, – ở cửa một con sông lớn ở Narnia. Sao em có thể quên được? - Và bây giờ, thời xa xưa ấy đã quay trở lại. – Lucy nói. – Chúng ta có thể giiả vờ là mình đang ở Cair Paravel. Cái sảnh này rất giống đại sảnh mà chúng ta từng ngồi ăn tiệc. - Chỉ đáng buồn là hiện chẳng có tiệc tùng gì cả. – Edmund nói. – Mọi người thấy không, trời sắp tối rồi đó. Nhìn những cái bóng trải dài kia kìa. Có ai nhận thấy là trời không còn nóng như lúc nãy không? - Chúng ta cần đốt lên một đống lửa, nếu muốn nghỉ đêm ở đây. – Peter nói. – Anh có diêm đấy. Bây giờ hãy đi ra ngoài xem có thể lượm được một ít cành khô hay không. Tất cả đều thấy đề nghị này rất hợp lý và trong vòng nửa giờ sau chúng rất bận rộn. Vườn cây mà chúng đi qua để đến tòa lâu đài đổ nát hóa ra không phải là một nơi có nhiều củi đốt. Chúng thử khám phá toàn bộ lâu đài bằng cách đi qua đại sảnh, qua một cái cửa nhỏ đi vào một mê cung những gò đất đá mấp mô và những lô đất, chắc trước đây từng là hành lang và những căn phòng nhỏ còn bây giờ mọc đầy cây tầm ma và hồng dại. Vượt ra ngoài, chúng tìm thấy một hố lớn lọt trong mấy bức tường đá và sau khi lội qua cái hố đó chúng đi vào một rừng cây tối hơn với những thân cây đồ sộ hơn, nơi đó chúng tìm thấy nhiều cành cây khô, rễ cây thối, que củi, lá cây khô và rất nhiều lá cây thông. Mấy đứa trẻ đi lại nhiều lần mang về những ôm củi cho đến lúc chúng gom được một đống củi lớn để trên bục đất cao. Đến lần đi kiếm củi thứ 5 chúng tìm thấy một cái giếng nằm ở ngay bên ngoài sảnh, giấu mình trong những bụi cỏ mọc um tùm. Phần còn lại của con đường lát đá chạy được một nửa vòng quanh giếng. Sau đó hai cô bé đi ra ngoài trẩy thêm một ít táo trong lúc bọn con trai nhóm lửa trên nền đất cao ở một góc giữa hai bức tường, là chỗ mà chúng nghĩ là kín gió và ấm cúng nhất. Hai đứa gặp nhiều khó khăn trong việc nhóm lửa và tốn khá nhiều diêm nhưng cuối cùng thì chúng đã nhóm lên được một đống lửa. Sau cùng cả bốn đứa ngồi xuống, lưng tựa vào tường, quay mặt về phía đống lửa. Chúng thử xiên táo vào mấy cái que để nướng. Nhưng món táo nướng chả có gì ngon nếu không có đường mà lại nóng giãy trên bàn tay cho đến khi táo đủ nguội để ăn. Thế là bọn trẻ phải tự lấy làm hài lòng với những trái táo mới hái trên cành xuống, sự thật này làm cho cả bọn nhận ra bữa tối ở trường cũng không đến nỗi quá tệ. - Em sẽ không lấy làm phiền lòng nếu có một lát bánh mì dày với một lát bơ mỏng phết lên trên vào lúc nào. – Edmund nói. Dù vậy, niềm phấn khích của một cuộc phiêu lưu tràn ngập trong tâm hồn mỗi đứa và không có ai thực sự muốn quay lại trường học chỉ vì bữa ăn. Sau khi những trái táo cuối cùng được thanh toán hết, Susan đi ra giếng uống nước. Lúc trở lại nó cầm trong tay một vật. - Coi đây! – Nó nói với giọng như có gì nghèn nghẹn trong cổ. – Em tìm thấy vật này ở ngòai giếng. – Nó đưa vật đó cho Peter rồi ngồi xuống. Những đứa còn lại nghĩ nó có giọng nói và vẻ mặt như sắp khóc đến nơi rồi. Edmund và Lucy háo hức cúi người về phía trước nhìn vào cái vật nằm trên tay Peter – một vật nhỏ sáng lấp lánh trong ánh lửa. - Chà mình thật là… khỉ quá! – Peter nói, cả giọng nó cũng nghe là lạ. Đọan nó đưa vật đó cho đứa kia. Bây giờ thì tất cả đều nhìn rõ đó là vật gì – một quân mã trên bàn cờ và vật này có kích thước bình thường bởi vì nó được đúc bằng vàng ròng, đôi mắt trên đầu con ngựa là hai viên hồng ngọc nhỏ xíu – hoặc chính xác là một con mắt bởi vì con mắt kia đã bong đi đâu mất. - Trời ơi! – Lucy kêu lên. – Nó giống y quân cờ vàng mà chúng ta vẫn chơi khi còn là vua và nữ hòang ở Cair Paravel. - Vui lên đi, Su. – Peter quay sang an ủi cô em lớn. - Em không thể! – Susan nghẹn ngào. – Nó đưa em trở lại quãng đời tuyệt đẹp ấy. Em nhớ lại những lúc chơi cờ với các thần rừng hoặc những người khổng lồ tốt bụng, nhớ những người cá hay trồi lên mặt biển ca hát, đến con tuấn mã của em… và… và… - Bây giờ, – Peter nói bằng một giọng khác, – đã đến lúc chúng ta bắt đầu khởi động bằng óc. - Để làm gì? – Edmund hỏi. - Có ai đoán ra chúng ta đang ở đâu không? – Peter hỏi. - Tiếp đi, tiếp đi! – Lucy nói. – Suốt từ đầu đến giờ em cứ có cảm giác là một bí ẩn tuyệt vời nào đó đang quanh quất đâu đây. - Tiếp tục đi anh Peter! – Edmund giục. – Chúng mình đang nghe đây. - Chúng ta đứng ở đống đổ nát của lâu đài Cair Paravel. – Peter thông báo. - Nhưng, – Edmund nói, – Em muốn nói, sao anh đoán được? Chỗ này đã bỏ hoang hàng thế kỷ rồi còn gì. Nhìn những cây đại cổ thụ mọc ngay ngoài cổng kia kia. Nhìn những bức tường đá kia nữa. Ai cũng có thể thấy là không có ai từng sống ở đây có đến mấy trăm năm rồi. - Anh biết. Đó là một điểm làm anh bí nhất. Nhưng bây giờ hãy gác chuyện đó lại. Anh muốn nêu ra mấy điểm sau. Thứ nhất, đại sảnh này giống như đúc với đại sảnh ở Cair Paravel cả về kiến trúc lẫn kích thước. Hãy hình dung ra một cái mái bên trên, một cái sàn lát đá hoa nhiều màu sắc thay cho cỏ dại… những tấm thảm treo trên tường, các em sẽ có đại sảnh trong lâu đài của chúng ta. Không ai nói gì. - Điểm thứ hai, – Peter nói tiếp, – cái giếng ở tòa lâu đài này nằm ở đúng vị trí cái giếng nước của chúng ta, hơi chếch một chút về hướng nam so với đại sảnh; mà nó cũng có kích thước và hình dáng như thế. Một lần nữa, không có ai mở miệng. - Điểm thứ ba, Susan vừa tìm thấy một trong những quân cờ cũ của chúng ta – hoặc một cái gì giống với nó như hai hạt đậu. Vẫn không ai lên tiếng. - Điểm thứ tư, các em không nhớ sao – đó là một ngày trước khi sứ giả của vua Calormen đến – các em không nhớ đó là ngày chúng ta trồng một vườn cây ở phía ngoài cổng bắc của lâu đài Cair Paravel sao? Người rừng to lớn nhất – chính là Pomona đã tới đây đặt những là bùa tốt lành. Rồi những người bạn chuột chũi bé nhỏ, tốt bụng đã đào những cái hố trồng cây. Chẳng lẽ cái em lại quên bác chuột chũi già vui tính tên là Lilygloves, bậc trưởng lão của loài chuột vừa tựa người vào cái xẻng vừa nói: Tin tôi đi thưa bệ hạ, một ngày nào đó bện hạ sẽ được thưởng lãm những trái cây ngọt lành! – Và lạy Chúa, ông ta đã nói đúng. - Em nhớ! Em nhớ! – Lucy nói, vỗ hai tay vào nhau. - Nhưng coi đây anh Peter. – Edmund nói. – Tất cả những thứ này đã đổ nát. Với lại, lúc bắt đầu, chúng ta không trồng một vườn cây ngay sát tường. Chúng ta đâu có ngu như vậy? - Không, tất nhiên. – Peter đáp. – Nhưng thời gian qua nó đã mọc lan vào trong. - Còn một điểm nữa, Cair Paravel không ở trên một hòn đảo. – Edmund nói. - Anh cũng đã nghĩ về chuyện này. Nhưng nó từng là một cái mà em gọi là bán – đảo. Khá giống với một hòn đảo. Nó không thể biến thành một hòn đảo kể từ khi chúng ta ra đi sao? Có một ai đó đã đào một con kênh chảy qua. - Nhưng hượm đã, – Edmund lại nói. – Anh cứ luôn miệng nói kể từ thời chúng ta. Nhưng chúng ta mới đi khỏi Narnia được một năm. Và anh… anh tưởng tượng là trong vòng một năm qua lâu đài vững như bàn thạch đã biến thành một nơi tan hoang với những hố sâu và rừng rậm, những cây con con mà chúng ta tự tay trồng đã biến thành những cây đại thụ rêu phong và chỉ có Chúa biến được còn những chuyện gì nữa. Tất cả những điều này không thể xảy ra. - Có một điều, – Lucy nói, – nếu đây đúng là Cair Paravel thì ở đây phải có một cái cửa… để em coi nào. Sự thật thì chúng ta đang ngồi tựa lưng vào nó. Các anh chị cũng biết – cái cửa này dẫn đến kho châu báu. - Anh cho rằng không có cái cửa đó. – Peter nói rồi đứng lên. Bức từng sau lưng chúng phủ đầy dây thường xuân. - Chúng ta có thể phát hiện ra điều ấy ngay bây giờ. – Edmund nói, nhặt lên một cái que dùng để cời lửa. Nó bắt đầu dùng cái que gõ gõ lên bức tường và rồi chợt vang lên tiếng bồm bộp, một âm thanh khác hẳn với tiếng đập vào tường đá. Chính là tiếng gõ vào một cái gì bằng gỗ. - Lạy Chúa tôi! – Edmund kêu lên, giọng kích động. - Chúng ta phải bứt hết chỗ dây thường xuân này đi. – Peter nói. - Ồ, cứ để nó đấy. – Susan nói. – Chúng ta sẽ tìm hiểu về nó vào sáng ngày mai. Nếu chúng ta phải trải qua một đêm ở đây tôi không muốn mở cánh cửa sau lưng để làm lộ ra một khoảng trống đen ngòm, sâu hút mà bất cứ cái gì cũng có thể xông ra cùng với những đống rác thải và mục nát. Trời sắp tối đến nơi rồi. - Susan! Sao chị lại thế? – Lucy kêu lên với cái nhìn trách móc. Nhưng hai đứa con trai quá kích động để chú ý đến lời khuyên của Susan. Chúng say sưa chặt đứt những sợi dây thường xuân dai và chắc bằng con dao bỏ túi của Peter cho đến lúc con dao gãy đôi. Chẳng bao lâu chỗ chúng ngồi chất đầy dây thường xuân và cuối cũng cái cửa hiện ra. - Cửa khóa, tất nhiên rồi. – Peter nói. - Nhưng gỗ đã mục hết rồi còn gì. – Edmund nói. – Chúng ta sẽ không mất nhiều thời gian phá cửa đâu, hơn nữa chúng ta lại có thêm củi đốt. Nào bắt đầu đi. Nhưng chúng lại mất nhiều thời gian hơn dự tính và trước khi chúng làm xong, từ trên trời đã đổ xuống làn ánh sáng màu tro, một hoặc hai vì sao đã le lói trên đầu. Susan không phải là người duy nhất cảm thấy gai ốc một lên khắp người khi bọn con trai đứng trước đống gỗ mục, xoa tay vào nhau phủi bụi, nhìn chằm chằm vào cái khoảng tối đen và lạnh lẽo mới mở ra. - Bây giờ cần một ngọn đuốc. – Peter đề xướng. - Ôi, chuyện này thì có gì tốt? – Susan hỏi. – Và như Edmund nói… - Bây giờ em không nói như thế nữa. – Edmund cắt ngang. – Em vẫn chưa hiểu rõ, nhưng chúng ta sẽ giải quyết những gút mắc này sau. Giả sử anh đi xuống, Peter? - Chúng ta cần làm việc này. – Peter nói. – Vui lên đi Susan. Không có lý nào lại cư xử như con nít một khi chúng ta đã quay lại Narnia. Ở đây em là một nữ hoàng cơ mà. Với lại làm gì có ai lại nhắm mắt ngủ được khi có một bí ẩn như thế này trong đầu? Chúng cố dùng những cành cây dài làm đuốc nhưng không thành công. Nếu bạn giơ cao lên lửa sẽ tắt, còn nếu bạn cầm bằng cách khác lửa sẽ tạt vào tay và khói xông vào mắt. Cuối cùng chúng phải dùng đến ngọn đuốc điện của Edmund, may thay nó là món quà sinh nhật chưa được đầy một tuần và pin hầu như vẫn còn nguyên. Edmund đi đầu, tay cầm đuốc rồi đến Lucy, Susan và cuối cùng là Peter. - Em đã lên đến bậc thang trên cùng. – Edmund thông báo. - Đếm đi! - Một, hai, ba… – Edmund nói khi nó thận trọng đi xuống và đi lên, đếm được tất cả 16 bậc. - Xuống dưới đáy rồi! – Nó hét lên. - Vậy thì đây đúng là Cair Paravel rồi? – Lucy reo lên. – Có tất cả 16 bậc Không ai nói thêm điều gì cho đến lúc tất cả đứng tụm lại dưới chân cầu thang. Sau đó Edmund chầm chậm khoát ngọn đuốc của nó một vòng. - Ối…ối trời ơi! – Tất cả đồng thanh kêu lên. Bởi vì vào lúc này tất cả đã rõ ràng chúng đang ở trong căn phòng chứa châu báu cổ của Cair Paravel, nơi chúng đã từng trị vì ở đây với tư cách là các ông vua và các nữ hoàng. Có một cái gì như một lối đi giữa phòng (giống như trong một ngôi nhà kính), ở ngay ngoài cùng, trấn giữ ở hai bên, là hai bộ áo giáp như những hiệp sĩ canh giữ cái kho báu. Ở giữa các bộ áo giáp và trên mỗi lối đi là những cái kệ trưng bày đầy những đồ vật quý giá – vòng đeo cổ, lắc đeo tay, nhẫn, bát to, vương miện và dây chuyền vàng; có cả một đống đá quý chưa mài giũa đổ dưới đất như thể đó chỉ là những viên đá hoa cương hoặc những củ khoai tây – kim cương, ruby, đá thạch lựu đỏ, ngọc lục bảo, đá tôpa, và đá thạch tím v.v… Bên dưới những cái kệ là những cái rương bằng gỗ sồi, bốn chung quanh có nẹp những thanh sắt cho vững chắc và những chiếc khóa móc nặng nề. Không khí lạnh buốt như kim châm và lặng như tờ nên bọn trẻ có thể nghe thấy rõ tiếng thở của nhau. Tất cả những món đồ quý giá này đều phủ đầy bụi bặm, nếu bọn trẻ không nhận ra nơi để từng món và nhớ ra hầu hết các món đồ, bọn chúng khó có thể nghĩ đây là một kho báu. Có một cái gì tang thương và rờn rợn ở nơi này, bởi vì tất cả đã bị bỏ quên lâu rồi. Đó là lý do tại sao không đứa nào nói gì trong khoảng thời gian ít nhất là một phút. Rồi sau đó, tất nhiên, bọn trẻ bắt đầu đi lại trong phòng, nhặt món này món kia lên ngắm nghía. Nếu bạn ở đây, bạn sẽ nghe được những câu như thế này: - Ồ coi này! Đây là những chiếc nhẫn đăng quang của chúng ta – có còn nhớ lần đầu tiên đeo những chiếc nhẫn này vào tay không? - Đây là cái trâm mà tất cả chúng ta nghĩ là đã bị mất; còn đây không phải là cái áo giáp anh đã mặc trong cuộc đấu thương lớn ở quần đảo Đơn Côi hay sao? - Chị có nhớ chú lùn đã làm cái này cho em không? - Em còn nhớ đã uống rượu trong chính cái rừng này không? - Em có nhớ? Anh còn nhớ…? Nhưng chợt Edmund lên tiếng: - Coi nè! Chúng ta không nên lãng phí pin: có Chúa mới biết chúng ta còn thường xuyên cần đến nó như thế nào. Chúng ta có nên mang ra ngoài những thứ mà chúng ta cần không? - Chúng ta chỉ nên lấy những món quà. – Peter nói. Bởi vì đã lâu lắm rồi, vào một dịp Giáng sinh ở Narnia, nó và hai em gái đã nhận được những món quà còn giá trị hơn toàn bộ vương quốc. Edmund không có quà bởi vì nó không có mặt với anh em nó vào lúc đó. (Đây là lỗi của nó, các bạn có thể biết về điều này trong một cuốn sách khác). Tất cả đều đồng ý với Peter và cùng bước vào lối đi dẫn đến bức tường cuối gian phòng và kia như chúng tính toán, những món quà vẫn treo ở chỗ cũ. Món quà của Lucy nhỏ nhất bởi vì nó là một cái lọ nhỏ. Nhưng đây là một cái lọ làm bằng kim cương thay vì làm bằng thủy tinh và trong lọ vẫn còn già nửa cái hợp chất có thể chữa lành hầu hết các vết thương và các căn bệnh. Lucy không nói gì, khuôn mặt lộ vẻ nghiêm trang khi nó lấy món quà của mình ra khỏi chỗ kệ và tròng sợi dây buộc cổ lọ qua vai, một lần nữa nó lại có cảm giác cái lọ ở vị trí cũ của nó như ngày nào. Quà của Susan là cây cung, một bó tên và chiếc tù và. Chiếc cung vẫn còn đó, bao đựng tên bằng ngà vẫn đầy những mũi tên có cắm lông chim. - Nhưng… chị Susan, – Lucy kêu lên, – chiêc tù và đâu rồi? - Chán quá, chán quá! – Susan nói sau một hồi nhíu mày suy nghĩ. – Bây giờ chị nhớ ra rồi. Chị mang nó theo người vào ngày cuối cùng, cái ngày chúng ta đuổi theo một con hươu trắng. Chắc là nó đã rơi mất khi chúng ta len lỏi quay lại nơi kia – quay về nước Anh. Edmund huýt sáo. Đấy đúng là một mất mát rất đáng tiếc bởi vì đó là một chiếc tù và thần kỳ, khi bạn thổi tù và một sự giúp đỡ sẽ đến với bạn, bất kể là bạn đang ở đâu. - Đó là việc có thể xảy ra, ở một nơi như thế này. – Edmund nói. - Không sao, – Susan nói, – chị vẫn còn cây cung. – Và nó cầm cây cung lên. - Dây cung không sao chứ, Su? – Peter hỏi em gái. Nhưng cho dù có không khí huyền bí trong kho châu báu hay không thì cây cung vẫn tuân thủ thứ tự làm việc. Bắn cung và bơi lội là những món mà Susan rất giỏi. Susan cúi xuống bên cây cung, gảy nhẹ lên dây làm bật lên một tiếng tưng tưng và cái âm thanh ấy làm cả gian phòng như rung lên. Chính cái âm thanh ấy hơn bất cứ những gì đã xảy ra từ nãy đến giờ đã đưa bọn trẻ trở về những năm tháng đã qua. Tất cả những trận chiến, những cuộc đi săn và những bữa tiệc cùng ùa về trong ký ức của cả bọn. Sau đó Susan tháo dây cung ra đeo bao cung tên lên vai. Đến lượt Peter lấy món quà của nó xuống – cái khiên khắc hình một con sư tử đỏ uy nghiêm, oai vệ và một thanh gươm dành cho các bậc vua chúa. Peter thổi phù phù, đập những món đồ đó xuống sàn để giũ bụi. Cái khiên cầm trên tay còn thanh gươm giắt một bên người. Đầu tiên nó đã lo là thanh gươm bị rỉ sét. Nhưng không có chuyện như thế. Với một động tác nhanh như cắt, nó rút gươm ra, giơ thẳng lên, lưỡi gươm sáng loáng dưới ánh đuốc. - Đây là thanh gươm Rhindon của anh, – nó nói, – với thanh gươm này anh đã giết chết chó sói! Có một âm hưởng mới trong giọng nói của Peter và bây giờ trước mặt ba đứa em, nó đúng là một Peter Đại đế chân chính. Rồi sau đó một chút im lặng, bọn chúng hiểu là cần phải tiết kiệm pin. Cả bọn trèo lên bậc thang, nhóm lại cho lửa cháy thật đượm rồi nằm sát bên nhau cho ấm. Mặt đất cứng và lổn nhổn sỏi đá nhưng cuối cùng cả lũ cũng ngủ say. |
Biên niên sử Narnia - Phần 4 - Chương 3
PHẦN 4 - HOÀNG TỬ CASPIAN CHƯƠNG 3 Người tử tội Điểm bất lợi nhất của việc ngủ ngoài trời là bạn thức giấc rất sớm. Một khi đã thức giấc thì bạn lại không muốn nằm tiếp nữa vì mặt đất cứng và lạnh làm cho bạn khó chịu. Mọi việc lại còn tồi tệ nếu tối hôm trước trong bụng bạn chỉ có táo và nước lã để giờ bụng đói cồn cào mà bạn cũng chẳng có gì ngoài nước lã và táo để lót dạ. Khi Lucy nói – cũng đủ độ chính xác – rằng đó là một buổi sáng huy hoàng thì đó không có vẻ là một điều nên nói. Edmund nói ra cái điều mà ai cũng nghĩ: - Đơn giản là chúng ta nên biến khỏi hòn đảo này! Sau khi đã uống nước giếng trừ cơm và khoát nước rửa mặt, tất cả lại men theo bờ suối ra ngoài bãi biển, nhìn dòng nước chia cách chúng với đất liền. - Chúng ta phải bơi qua thôi. – Edmund gợi ý. - Điều ấy sẽ ổn với Su. – Peter nói (Susan đã giật được giải bơi lội trong trường). – Nhưng anh không biết với những người còn lại chúng ta thì sao nữa. Với cụm từ “những người còn lại chúng ta”, nó ngụ ý đến Edmund còn chưa bơi qua được hai vòng chiều dài bể bơi ở trường và Lucy chẳng hề biết bơi. - Dù sao thì, – Susan nói, – có thể có dòng nước xoáy. Ba nói chẳng khôn ngoan chút nào khi bơi ở một nơi mà mình còn chưa biết. - Nhưng anh Peter, anh coi nè, – Lucy nói, – em biết là em bơi không quá một sải tay ở nhà, – ở Anh, ý em muốn nói thế. Nhưng chẳng phải là chúng ta đã cùng bơi với nhau lâu rồi – nếu đó thật sự là một khoảng thời gian dài – khi chúng ta cùng làm vua ở Narnia sao? Chúng ta cũng cùng cưỡi ngựa nữa, cùng làm tất cả những việc như vậy. Anh không nghĩ… - Nhưng khi ấy chúng ta đã là những người lớn hẳn hoi. – Peter nói. – Chúng ta đã trị vì ở đây một thời gian dài và học được rất nhiều thứ. Chẳng lẽ bây giờ chúng ta không trở về với cái tuổi thích hợp của chúng ta được hay sao? - Ôi! – Edmund nói bằng một cái giọng làm cho tất cả những đứa khác phải thôi nói chuyện mà đưa mắt nhìn nó và lắng nghe. - Em hiểu mọi chuyện rồi. – Nó nói. - Hiểu cái gì? – Peter hỏi. - Toàn bộ những chuyện này. – Edmund tiếp tục. – Anh cũng biết là đêm hôm qua chúng ta còn chưa giải quyết được khúc mắc. Chúng ta mới chỉ rời Narnia có một năm thôi mà tất cả đã thay đổi rất nhiều, đúng là vật đổi sao dời. Dường như không có ai ở nơi này đến hàng mấy trăm năm rồi. Thế mọi người không nhận thấy điểm này sao? Ai cũng biết là mặc dầu chúng ta sống ở Narnia thật lâu nhưng khi đi qua cái tủ áo về nhà thì dường như thời gian không nhích đi một phút nào, đúng không? - Tiếp tục đi. Chị nghĩ là chị bắt đầu hiểu ra rồi đó. – Susan nói vẻ nghĩ ngợi. - Điều đó có nghĩa là, – Edmund tiếp tục, – một khi một người đã rời khỏi Narnia, người ấy sẽ không có ý niệm về cách thời gian vận hành ở Narnia nữa. Chẳng phải là mấy trăm năm ở Narnia cũng chỉ tương đương với thời gian một năm ở Anh sao? - Lạy chúa, Ed. – Peter bắt đầu. – Anh tin là anh ấy cũng đã hiểu ra rồi. Theo cái nghĩa ấy, khoảng mấy trăm năm trước chúng ta đã sống ở Cair Paravel. Và giờ đây quay lại chốn này chúng ta cũng như người Thập Tự Chinh hoặc người Anglo-Saxons hoặc người Briton cổ quay lại nước Anh hiện đại. - Họ sẽ kích động như thế nào khi thấy chúng ta? – Lucy bắt đầu, nhưng cùng lúc đó những đứa khác “suỵt” hoặc “coi kìa” với nó. Bởi vì có một chuyện đã xảy ra. Thẳng ngay trước mặt chúng là một mũi đất nhô ra biển, cây cối mọc um tùm. Bọn trẻ nghĩ phía sau mũi đất ấy chắc là nơi cửa sông. Và bây giờ đang vượt qua mũi đất là một con thuyền. Khi con thuyền đã hiện ra rõ hơn nó quay mũi lại bơi dọc theo con kênh về phía bọn trẻ. Có hai người ngồi trên thuyền, một người cầm chèo, người còn lại ngồi phía đuôi thuyền giữ một bọc gì đó đang vặn vẹo và chuyển động tựa hồ đó là một vật sống. Cả hai người đều có vẻ là quân nhân, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp loại nhẹ. Khuôn mặt họ cạo nhẵn nhụi và có vẻ khắc nghiệt. Bọn trẻ rút lui vào trong một lùm cây quan sát mà không nhúc nhích một ngón tay. - Đây, làm đi! – Người lính ngồi ở đuôi thuyền nói khi con thuyền bơi đến vị trí đối diện với chỗ bọn trẻ nấp. - Thưa hạ sĩ, buộc đá vào chân nó được không ạ? – Người kia nói, thôi không chèo thuyền nữa. - Hừm! – Viên hạ sĩ gầm gừ. – Không cần phải làm thế, mà chúng ta cũng không mang đồ theo. Nó sẽ chìm xuống mà không cần buộc đá chừng nào chúng ta siết dây thừng thật chặt. Nói xong hắn nhấc cái bọc lên. Bây giờ thì Peter có thể thấy vật trong bao còn sống và trên thực tế là một chú lùn bị trói cả chân lẫn tay nhưng vẫn giãy giụa điên cuồng. Ngay sau đó nó nghe roạt một cái ngay sát mang tai và trong chớp mắt người lính bỏ hai tay xuống, ném chú lùn xuống lòng thuyền, rồi nhảy vội xuống nước. Hắn loạng choạng chạy lên bờ bên kia và Peter biết rằng mũi tên của Susan đã bắn trúng mũ hắn. Peter quay lại nhìn thấy mặt em gái tái đi, nhưng nó đã lắp mũi tên thứ hai vào cây cung. Mũi tên này không cần phải dùng đến. Ngay khi thấy đồng đội của mình đã bị ngã, tên lính còn lại kêu lên một tiếng thất thanh rồi cũng nhảy ra khỏi thuyền lóp ngóp bơi vào bờ (nước rõ ràng cũng chỉ sâu cỡ hai mét) và biến mất trong rừng cây trên đất liền. - Nhanh lên! Trước khi nó trôi đi! – Peter hét lên. Nó và Susan vẫn để nguyên quần áo, lao xuống nước; trước khi nước dâng đến vai, tay hai đứa đã với lên bên mạn thuyền. Trong vòng vài giây, chúng đẩy con thuyền vào bờ, kéo chú lùn ra ngoài và Edmund bận rộn cắt dây trói bằng con dao bỏ túi. (Thanh gươm của Peter sắc hơn nhưng gươm không phải loại dụng cụ thuận tiện dùng cho loại công việc này bởi vì bạn không thể nắm vào chỗ nào thấp hơn chuôi gươm). Cuối cùng khi chú lùn đã được cởi trói, chú ngồi dậy xoa chân xoa tay rồi kêu lên: - Mặc cho ai nói gì thì nói, các người không phải là ma! Giống như hầu hết những người lùn, chú lùn này có dáng người chắc nịch, bộ ngực vạm vỡ. Chắc chú chỉ cao khoảng 90 phân là cùng. Bộ râu vĩ đại cùng với hàng ria mép đỏ quạch, thô cứng che gần hết khuôn mặt và người ta chỉ nhìn thấy cái mũi diều hâu nhọn hoắt và đôi mắt đen sáng lóng lánh như hạt cườm. - Dù sao đi nữa, – chú tiếp tục, – dù là người hay ma thì các người cũng đã cứu sống tôi và tôi hết sức biết ơn. - Nhưng vì cớ gì mà chúng tôi lại là ma? – Lucy hỏi. - Suốt đời mình, tôi đã nghe nói rằng những cánh rừng dọc bãi biển có bao nhiêu cây cối thì có bấy nhiêu con ma. Ấy là những câu chuyện kể thế. Đó là lý do tại sao khi muốn hóa kiếp cho một ai đó người ta thường mang người đó đến dìm chết ở đây (như cái việc bọn chúng định làm với tôi). Nhưng tôi bao giờ cũng tự hỏi không biết người ta có thực sự dìm chết người hay cắt cổ họ không, tôi chưa bao giờ tin hẳn là có ma. Nhưng hai cái tên hèn nhát mà cô bé kia vừa bắn thì tin đấy. Chúng còn sợ cái việc phải giết tôi hơn là bản thân tôi nữa. - Ồ, – Susan tư lự, – đó là lý do tại sao cả hai đều bỏ chạy bán sống bán chết như vậy. - Cô nói chuyện gì vậy? – Chú lùn hỏi. - Họ đã bỏ chạy, – Edmund nói, – vào đất liền. - Tôi không định bắn chết, ông cũng biết đấy. – Susan nói. Nó không thích bất cứ ai nghĩ là nó bắn trượt ở một khoảng cách ngắn như vậy. - Hừm! – Chú lùn ậm ừ. Như thế chưa hẳn đã tốt, có thể điều đó sẽ chỉ mang đến những rắc rối. Trừ khi bọn chúng biết giữ mồm giữ miệng vì cái mạng của mình. - Tại sao họ lại muốn dìm chết ông? – Peter hỏi. - Ồ, tôi là một tên tội phạm nguy hiểm, chính thế đấy. – Chú lùn nói, giọng vui như không. – Nhưng đó là cả một câu chuyện dài. Còn bây giờ thì tôi tự hỏi không biết quý vị có đãi tôi một bữa ăn sáng không. Các vị không biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với một kẻ suýt bị tử hình đâu. - Chỉ có táo thôi ạ. – Lucy nói, giọng ỉu xìu. - Thế cũng còn hơn là không có gì, nhưng không tốt bằng cá tươi. – Chú lùn nói. – Xem ra có vẻ tôi mới là người mời quý vị ăn sáng. Tôi thấy có dụng cụ bắt cá trong con thuyền kia. Dù sao thì chúng ta cũng phải đưa nó sang phía bên kia đảo. Không nên để cho bất cứ ai trên đất liền đi xuống nhìn thấy nó. - Lẽ ra tôi phải nghĩ ra điều đó. – Peter nói. Bốn đứa trẻ cùng chú lùn đi xuống chỗ buộc thuyền, đẩy thuyền ra xa với chút ít khó khăn, rồi trèo lên thuyền. Chú lùn lập tức cầm lấy mái chèo, nhưng tất nhiên nó quá to đối với chú, thế là Peter cầm lái, chú lùn hướng dẫn, đưa con thuyền xuôi theo con kênh rồi rẽ về hướng đông quanh hòn đảo. Từ đây bọn trẻ có thể nhìn bao quát con sông, tất cả các vịnh biển, mũi đất dọc theo bờ biển xa xa. Chúng nghĩ mình cũng có thể nhận ra dáng dấp của những gì đã qua, dù rừng cây mọc lên sau khi chúng ra đi đã làm cho chúng khó có một mối liên tưởng. Khi họ chèo thuyền về phía bên kia hòn đảo, chú lùn lấy bộ đồ câu cá ra. Nhiều con cá pavender nhảy lộp độp trong sàn thuyền. Đó là một loại cá có tất cả những sắc màu của cầu vồng mà bọn trẻ nhớ là đã từng được ăn ở Cair Paravel cái ngày xa xưa ấy. Khi đã bắt đủ cá, họ lái con thuyền vào một cái lạch nước nhỏ, neo thuyền vào một gốc cây. Chú lùn là người giỏi giang nhất (trong thực tế có thể người ta gặp những chú lùn xấu xa, nhưng tôi chưa nghe ai nói có chú lùn ngu ngốc bao giờ), chú mổ cá, làm sạch và bảo: - Bây giờ cái chúng ta cần là một ít củi. - Chúng tôi có lượm được một ít ở trong lâu đài. – Edmund nói. Chú lùn huýt sáo nho nhỏ: - Rêu và khung giường. Thế ra có cả tòa lâu đài cơ à? - Nó chỉ là một đống tàn tích thôi ạ. Lucy nói. Chú lùn nhìn cả bốn đứa một lượt với một vẻ mặt lạ lùng. - Vậy, quý vị là… – Ông ta bắt đầu nhưng lại bỏ dở giữa chừng và tặc lưỡi, – không có vấn đề gì. Ăn sáng cái đã. Nhưng còn một chuyện trước khi chúng ta tiếp tục đi: quý vị có thể đặt tay lên tim mình mà khẳng định rằng tôi vẫn còn sống không? Các vị có chắc là tôi chưa chết đuối và tất cả chúng ta không phải là ma không? Khi tất cả sốt sắng khẳng định và trấn an chú lùn thì lại nảy ra một vấn đề khác: làm thế nào để mang cá về nhà? Họ không có dây để xâu cá lại với nhau mà cũng chẳng có sọt. Cuối cùng phải dùng đến mũ của Edmund để đựng bởi vì ngoài Edmund chẳng có ai có mũ cả. Nó sẽ làm nhặng xị lên vì vụ này nếu bản thân nó không đói cồn cào. Đầu tiên chú lùn có vẻ không thoải mái trong lâu đài cổ. Ông cứ dáo dác nhìn quanh, hít hít ngửi ngửi và lẩm bẩm: “Hừm! Nơi này như thể có quỷ ám. Ngửi mùi như có ma ấy!”. Nhưng ông vui vẻ hơn khi ngọn lửa được đốt lên và đã biểu diễn cho bọn trẻ thấy tài nghệ nướng cá pavender tươi trên những cục than hồng. Ăn món cá nóng mà không có nĩa chỉ có một con dao xếp cho năm người là một việc khá mất công, có đến mấy ngón tay bị bỏng trước khi bữa ăn kết thúc nhưng bởi vì bọn trẻ thức dậy vào lúc 5 giờ sáng và lúc ấy đã là 9 giờ nên không ai bận lòng nhiều đến những vết bỏng ấy như bạn nghĩ. Ăn xong, mọi người tráng miệng bằng một ngụm nước giếng và một, hai quả táo. Chú lùn rút ra một cái tẩu dài bằng sải tay, nhồi thuốc vào và mồi lửa, rồi thổi ra một đám mây thơm thơm và nói: - Bây giờ… - Ông kể cho chúng tôi nghe chuyện của mình trước. – Peter cắt ngang. – Sau đó chúng tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện của bốn anh em chúng tôi. - Được, bởi vì quý vị đã cứu mạng tôi nên các vị có thể làm theo cách của mình. Nhưng quả là tôi khó mà biết được nên bắt đầu từ đâu. Trước tiên xin giới thiệu tôi là sứ giả của vua Caspian. - Ông ấy là ai? – Cả bốn đứa đồng thanh hỏi. - Caspian thứ mười – vua của Narnia và có thể ngài sẽ trị vì nơi này thật lâu! – Chú lùn trả lời. – Điều đó có nghĩa là ngài xứng đáng làm vua Narnia và chúng tôi hết lòng hi vọng vào điều đó. Hiện nay ngài chỉ là vua của chúng tôi, những cư dân Narnia cũ… - Ông có ý gì khi nói đến những người Narnia cũ? – Lucy hỏi. - Đó là chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ phiến loạn, phải, tôi cho là thế. - Tôi biết. – Peter nói. – Như vậy Caspian là thủ lĩnh của những người Narnia cũ. - Phải, đó cũng là một cách nói. – Chú lùn nói, gãi gãi đầu. Nhưng vấn đề là ở chỗ ngài là một Narnia mới, một người Telmarine, nếu quý vị theo kịp điều tôi nói. - Tôi chẳng hiểu gì hết. – Edmund nói. - Điều này còn tệ hơn là Chiến tranh Hoa hồng nữa. – Lucy nhận xét. - Xin các bạn tha lỗi, chú lùn nói, – tôi nói chẳng có đầu cua tai nheo gì cả. Coi này: tôi nghĩ chắc tôi phải quay lại từ đầu mà nói với các bạn là Caspian đã được nuôi dưỡng trong hoàng cung của ông chú như thế nào và ngài đã chuyển sang phe của chúng tôi ra sao. Nhưng đây là cả một câu chuyện dài. - Tốt quá. – Lucy nói. – Chúng tôi thích nghe chuyện lắm. Thế là chú lùn ngồi xuống và bắt đầu câu chuyện của mình. Tôi sẽ không kể lại bằng lời của ông ấy cùng tất cả những câu hỏi và sự cắt ngang của bọn trẻ bởi vì như thế quá dài mà lại còn dễ gây hiểu lầm, đó là chưa kể lúc ấy câu chuyện còn thiếu những dữ kiện mà mãi sau này bọn trẻ mới ráp nối vào nhau được. Tôi sẽ kể cho các bạn nghe cốt lõi một câu chuyện hoàn chỉnh như sau: |
| Múi giờ GMT. Hiện tại là 09:33 AM. |
Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.