![]() |
Phỏng dịch Đường Thi của SongNguyên HànTú
SongNguyễn HànTú trân trọng gởi đến quí thi hữu bốn phương loạt bài phỏng dich Đường Thi . Bài sẽ được đăng tải theo thứ tự ABC đề bài nguyên tác *** |
![]() |
飲 酒 看 牡 丹 今 日 花 前 飲 甘 心 醉 數 杯 但 愁 花 有 語 不 為 老 人 開 劉 禹 錫 Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn *** Kim nhật hoa tiền ẩm Cam tâm túy sổ bôi Đản sầu hoa hữu ngữ Bất vị lão nhân khai. *** Lưu Vũ Tích Dịch nghĩa: (uống rượu, xem hoa mẫu đơn) (hôm nay uống rượu trước hoa) (đành lòng say sưa vài chén) (nhưng ta buồn, vì nếu hoa nói được) (sẽ nói: ta nở không phải vì ông già đâu) ***** Xem Hoa Trước hoa ly rượu vân vê Hứng cao nhấm nháp vài ly đỡ buồn Nếu hoa nói được sẽ hờn Rằng hoa chẳng nở vì thương tình già. *** SongNguyễn HànTú |
鸚 鵡 洲 鸚 鵡 來 過 吳 江 水 江 上 洲 傅 鸚 鵡 名 鸚 鵡 西 飛 隴 山 去 芳 洲 之 樹 何 青 青 煙 開 蘭 葉 香 風 起 岸 夾 桃 花 錦 浪 生 遷 客 此 時 徒 極 目 長 洲 孤 月 向 誰 明 李 白 Anh Vũ Châu *** Anh vũ lai quá Ngô giang thủy Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ Phương châu chi thụ hà thanh thanh Yên khai lan diệp hương phong khởi Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh Thiên khách thử thời đồ cực mục Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh? *** Lý Bạch Ghi chú: Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang ở tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này. bãi sông Anh Vũ *** chim anh vũ (vẹt) thường bay qua khúc sông đất Ngô này vì thế bãi cát ở quãng sông này tên là Anh Vũ vẹt bay về núi Lũng ở phía tây cây cối trên bãi cỏ thơm này xanh tốt biết bao sương khói là là, hương lan ngát trong gió sát bờ, lớp sóng mang theo hoa đào nhấp nhô như gấm kẻ lưu đầy này hờ hững ngắm cảnh lúc đó vầng trăng lẻ loi trên bãi dài soi ai vậy? ******* Bãi Anh Vũ *** Vẹt trời thường vượt Ngô giang Bay về núi Lũng họp đàn trời tây Gọi tên Anh Vũ bãi này Mùi hoa phảng phất, cỏ cây xanh rờn Nụ lan vừa hé nụ thơm Tỏa theo khói sóng một thềm gấm hoa Nơi đây trời đất bao la Vì ai trăng chiếu? Phận ta lưu đầy! *** SongNguyễn HànTú |
鸚鵡洲春望 悵望春襟鬱未開 重臨鸚鵡益堪哀 曹公尚不能容物 黃祖何因反愛才 幽島暖聞燕雁去 曉江晴覺蜀波來 誰人正得風濤便 一點輕帆萬里回 崔塗 Anh Vũ Châu Xuân Vọng *** Trướng vọng xuân khâm uất vị khai Trùng lâm Anh Vũ ích kham ai Tào công thượng bất năng dung vật Hoàng Tổ hà nhân phản ái tài U đảo noãn văn Yên nhạn khứ Hiểu giang tình giác Thục ba lai Thùy nhân chính đắc phong đào tiện Nhất điểm khinh phàm vạn lý hồi. *** Thôi Đồ Ghi chú: Anh Vũ châu là 1 bãi trên sông Trường Giang, phía tây nam huyện Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc. Thời Tam Quốc, Nể Hành có tài văn thơ, nhưng tính cao ngạo, bị Tào Tháo ghét . Tào Tháo mượn tay Hoàng Tổ giếtt, xác chôn tại bãi này. Dịch nghĩa: (ngắm cảnh xuân trên bãi Anh Vũ) (buồn bã ngắm cảnh xuân mà u uất chưa nguôi) (khi trở lại bãi sông Anh Vũ đầy xót xa này) (Tào Tháo đã không dung ai rồi) (thì Hoàng Tổ sao dám trọng tài ai) (đảo vắng nghe thấy nhạn xứ Yên bay đi) (sông lặng sáng sớm cảm được sóng xứ Thục tới) (ai là người có sóng gió huận tiện) (để đưa một cánh buồm nhẹ từ muôn dặm trở về) Ngắm cảnh xuân nơi bãi Anh Vũ *** Nhìn sầu thảm, cả lòng xuân u uẩn Xót xa thêm nơi Anh Vũ bãi sông Ai đã từng bị Tào Tháo bất dung Thì Hoàng Tổ trọng người tài sao đặng Nhạn xứ Yên bay xa rời đảo vắng Sóng Thục tràn trên sông lặng ban mai Nào ai người thuận sóng gió ý trời Cho buồm nhẹ được xuôi về bến cũ. *** SongNguyễn HànTú |
巴嶺答杜二見憶 臥向巴山落月時 兩鄉千里夢相思 可但部兵偏愛酒 乜知光祿最能詩 江頭赤葉楓愁客 籬外黃花菊對誰 歧馬望君非一度 冷猿秋雁不勝悲 嚴武 Ba Lĩnh Đáp Đỗ Nhị Kiến Ức * Ngọa hướng Ba sơn lạc nguyệt thì Lưỡng hương thiên lý mộng tương tư Khản đản bộ binh thiên ái tửu Dã tri quang lộc tối năng thi Giang đầu xích diệp phong sầu khách Ly ngoại hoàng hoa cúc đối thùy Kỳ mã vọng quân phi nhất độ Lãnh viên thu nhạn bất thăng bi * Nghiêm Võ * Dịch Nghĩa : (ở núi Ba, đáp lại bài thơ Đỗ Nhị gửi tặng) * (nằm hướng về núi Ba lúc trăng lặn) (mơ tưởng tới nhau dù hai quê cách ngàn dặm) (kẻ bộ binh này chỉ ưa thích rượu) (quan quang lộc làm thơ giỏi nhất) (lá phong đỏ ở đầu sông làm khách buồn) (hoa cúc vàng bên dậu đang nở vì ai) (đã hơn một lần ghìm ngựa hướng trông về quê ông) (chỉ thấy vượn đông nhạn thu thật là buồn) * Ghi chú: Đỗ Nhị tức là Đỗ Phủ, vì ông là con thứ hai trong gia đình. ***** Đáp Thư Đỗ Phủ *** Nằm hướng núi Ba Lúc trăng dần khuất Nhớ về người quê ngàn xa cách biệt Bên men nồng riêng gã võ quan này Quang Lộc người đã nức tiếng thơ hay Lòng buồn bã nhìn lá phong đổi sắc Nơi quan ải, bờ dậu đầy hoa cúc Đã bao lần ghìm cương ngựa ngóng ai Vượn tái tê Cánh thu nhạn... Ngậm ngùi *** SongNguyễn HànTú |
灞上秋居 灞原風雨定 晚見雁行頻 落葉他鄉樹 寒燈獨夜人 空園白露滴 孤壁野僧鄰 寄臥郊扉久 何年致此身 馬戴 Bá Thượng Thu Cư *** Bá nguyên phong vũ định Vãn kiến nhạn hàng tần Lạc diệp tha hương thụ Hàn đăng độc dạ nhân Không viên bạch lộ trích Cô bích dã tăng lân Ký ngọa giao phi cửu Hà niên trí thử thân? * Mã Đới Dịch nghĩa: * (mùa thu trên sông Bá) * (thảo nguyên bên sông Bá đã ngớt gió mưa) (chiều đến thấy nhiều cánh nhạn) (cây cối nơi đất khách đang rụng lá) (đêm đến mình ta bên đèn lạnh lẽo) (móc trắng nhiễu từng giọt trong vườn hoang) ( tường bên có vị sư chùa làng cô quả) (nằm nhờ nơi xa vắng này đã lâu) (năm nào thân này mới hữu dụng?) ***** Thu Nơi Sông Bá *** Quanh vùng sông Bá dứt mưa sa Lác đác trên không nhạn la đà Chiều xế quê người nhìn lá rụng Đèn mờ chiếc bóng đợi đêm qua Vườn hoang móc đọng rơi từng giọt Nhà khuất tường bên ẩn sãi già Miền quê năm tháng thân này gửi Việc nước năm nào được tham gia? *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
薄 暮 江 水 長 流 地 山 雲 薄 暮 時 寒 花 隱 亂 草 宿 鳥 擇 深 枝 舊 國 見 何 日 高 秋 心 苦 悲 人 生 不 再 好 鬢 髮 自 成 絃 杜 甫 Bạc mộ * Giang thủy trường lưu địa Sơn vân bạc mộ thì Hàn hoa ẩn loạn thảo Túc điểu trạch thâm chi Cựu quốc kiến hà nhật? Cao thu tâm khổ bi Nhân sinh bất tái hảo Mấn phát tự thành ty * Đổ Phủ Dịch nghĩa: (nhá nhem chiều) (chỗ này dòng sông chảy quanh co) (mây núi trên nền trời xế chiều) (hoa thấp thoáng trong đám cỏ hoang) (chim kiếm cành cao làm chỗ nghỉ đêm) (đất nước cũ ngày nào mới thấy lại?) (lòng buồn khổ trong cảnh thu man mác) (người ta ít có dịp may trở lại) (vì chẳng mấy chốc đầu đã bạc trắng) Chiều Xuống *** Chốn đây dòng nước vẫn êm trôi Nơi cuối chân mây núi sẫm rồi Hoa dại đong đưa bên đám cỏ Cành cao chim đậu giữa chiều rơi … Ngày nào trở lại núi sông xưa ? Man mác trời thu luống thẫn thờ Vận tốt hẳn đi không trở lại Lòng buồn mấy chốc tóc như tơ *** SongNguyễn HànTú |
泊秦淮 煙籠寒水月籠沙 夜泊秦淮近酒家 商女不知亡國恨 隔江猶唱後庭花 杜牧 Bạc Tần Hoài * Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa Dạ bạc tần Hoài cận tửu gia Thương nữ bất tri vong quốc hận Cách giang do xướng “Hậu Đình Hoa”. * Đỗ Mục *** Dịch Nghĩa: * (ghé bến sông Tần Hoài) * (sông lạnh mờ trong khói, ánh trăng giãi trên cát) (đêm ghé bến trên sôngTần Hoài, cạnh quán rượu) (đào hát không biết mối hận mất nước của bài hát) (nên bên kia sông vẫn hát bài “Hậu Đình Hoa”) *** Ghi chú: Tần Hoài, tức sông Hoài, phát nguyên từ t. Hà Nam, qua t. An Huy, t. Giang Tô, vào hồ Hồng Trạch rồi mới ra biển Đông. Hậu Đình Hoa: tên khúc hát ủy mị thịnh hành cuối đời Trần Hậu Chủ, ông vua hoang dâm, xa xỉ vô độ để nhà Trần mất nước về tay nhà Tùy năm 589. ***** Đậu Thuyền Trên Bến Sông Tần Hoài *** Khói lan, trăng giãi mơ hồ Đêm khuya thuyền đậu bên bờ Hoài giang Quặn lòng nghe vẳng bên sông “Hậu Đình Hoa” vẫn rượu nồng vui ca. *** SongNguyễn HànTú |
百舌 百舌來何處 重重祇報春 知音兼眾語 整翮豈多身 花密藏難見 枝高聽轉新 遇時如發口 君側有讒人 杜甫 Bách Thiệt *** Bách thiệt lai hà xứ? Trùng trùng chỉ báo xuân Tri âm kiêm chúng ngữ Chỉnh cách khởi đa thân Hoa mật tàng nan kiến Chi cao thính chuyển tân Ngộ thì như phát khẩu Quân trắc hữu xàm nhân * Đỗ Phủ Dịch nghĩa: (trăm lưỡi, ý nói con chim khiếu) (chim khiếu từ đâu lại đây?) (hàng đàn báo hiệu mùa xuân) (biết nhại tiếng mọi loài) (khi múa cánh như có nhiều thân) (ẩn trong hoa rậm khó thấy) (trên cành cao nghe càng hay) (gặp ông, nếu nó mở miệng) (bên ông như có người nói xàm) * Chim Khiếu *** Khiếu ơi từ đâu đến Làm rộn rã mùa xuân Líu lo bao giọng hót Múa như ẩn nhiều thân ... Trong bụi hoa rậm rạp Hay trên cành vút cao Vừa véo von tiếng hót Lời thế nhân xì xào *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
白雲泉 天平山上白雲泉 雲自無心水自閑 何必奔衝山下去 更添波浪向人間 白居易 Bạch Vân Tuyền *** Thiên Bình sơn thượng Bạch Vân tuyề Vân tự vô tâm thủy tự nhàn Hà tất bôn xung sơn hạ khứ Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian * Bạch Cư Dị *** Dịch Nghĩa: (suối Bạch Vân) (trên núi Thiên Bình có suối Bạch Vân) (mây tự nó vô tâm, nước tự nó êm đềm) (đâu cần phải đổ xô xuống núi) (gây thêm lụt lội cho người ta) ***** Suối Bạch Vân *** Bài 1 Bạch Vân ẩn giữa Thiên Bình Mây ôm lờ lững vui tình gió trăng Được chi bỏ núi xuống đồng Quyện trong nhân thế trùng trùng phong ba Bài 2 Quanh co dòng Bạch lưng trời Mây ôm, núi quyện êm trôi tháng ngày Phải không nhập cõi thế này Có đâu chịu cảnh đọa đầy nhân sinh *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
拜新月 開簾見新月 即便下階拜 細語人不知 北風吹裙帶 李端 Bái Tân Nguyệt * Khai liêm kiến tân nguyệt Tức tiện há giai bái Tế ngữ nhân bất tri Bắc phong xuy quần đái. * Lý Đoan Dịch nghĩa (lạy trăng non) (vén rèm lên thấy mảnh trăng non) (vội bước xuống thềm vái lạy) (lẩm bẩm khấn không ai nghe được) (gió bấc thổi dải quần bay bay) Lạy Trăng Non Bài 1 Vén rèm thấy trăng mới Vội quì xuống vái lạy Khấn gì ai biết tới Dải quần gió bay bay. Bài 2 Trăng non một giải bên rèm Bước ra quì xuống bên thềm vái van Nghe như tiếng thở lời than Trước làn gió bấc dải quần bay bay. * SongNguyễn Hàn Tú |
罷相作 避賢初罷相 樂聖且銜杯 為問門前客 今朝幾個來 李適之 Bãi Tướng Tác * Tị hiền sơ bãi tướng Lạc thánh thả hàm bôi Vị vấn môn tiền khách Kim triêu kỷ cá lai? * Lý Thích Chi Dich nghĩa: (viết bài này khi thôi làm tướng) (vừa thôi làm tướng, như các bậc hiền ở ẩn) (nào uống chén rượu như các vị thánh yên vui) (xin hỏi vị khách ở trước cửa) (sáng nay quý vị tới mấy người?) ***** Làm Khi Nghỉ Chức Tướng *** Tựa người lánh ẩn, trả quan rồi Yên nhàn như thánh uống vui chơi Này ông, khách quý đang ngoài ngõ Quý vị sáng nay tới mấy người? SongNguyễn HànTú |
貧交行 翷手作雲覆手雨 紛紛輕薄何須數 君不見管鮠貧交時 此道今人棄如土 杜甫 Bần giao hành * Phiên thủ tác vân, phúc thủ vũ Phân phân khinh bạc hà tu số Quân bất kiến Quản Bảo bần thì giao? Thử đạo kim nhân khí như thổ Đỗ Phủ * Dịch Nghĩa: (bài hành tình bạn thủa hàn vi) (bài hành tình bạn thủa hàn vi) (cái thói lật lọng đầy rẫy không đếm xuể) (ông không thấy tình bạn Quản Bảo lúc nghèo sao?) (thứ tình bạn đó người đời nay coi rẻ như cục đất) Ghi chú : Quản & Bảo, tức Quản Trọng và Bảo Thùc Nha, người thời Xuân Thu, thủa hàn vi kết bạn tri kỷ. Sau đều làm quan to. Khi Quản mắc tội có thể bị xử chém, Bảo hết sức biện bạch cho bạn thoát nạn. ******* Tình đời thủa hàn vi *** Xoay chuyển bàn tay đổi mây mưa Thói đời khinh bạc mấy cho vừa Bảo Quản nghĩa tình gương có thấy ? Đời giờ coi rẻ tựa bùn dơ. *** SongNguyễn HànTú |
班婕妤 怪來粧閣閉 朝下不相迎 總向春園裏 花間笑語聲 王維 Ban Tiếp Dư * Quái lai trang các bế Triều há bất tương nghinh Tổng hướng xuân viên lý Hoa gian tiếu ngữ thanh * Vương Duy Dịch nghĩa: (nữ quan chức Tiếp Dư họ Ban) (Quái lạ! Sao nơi làm việc đóng cửa?) (các quan trong triều lại không ai đón tiếp) (tất cả đều hướng về vườn đang xuân (nghe thấy tiếng cười trong lùm hoa) Nử Quan Họ Ban *** Bài 1 Ô lạ nhỉ lầu trang đóng kín Bạn đồng liêu chẳng được tiếp nghênh Kìa hình như nơi cuối vườn xuân Tiếng khúc khích giữa vòm hoa nở Bài 2 Lầu trang đóng kín lạ lùng chưa Bạn ghé chơi sao chẳng đón đưa Hình như cuối ngả vườn xuân đó Có tiếng vui cười giữa đám hoa *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
不見 不見李生久 佯狂真可哀 世人皆欲殺 吾意獨憐才 敏捷詩千首 飄零酒一杯 匡山讀書處 頭白好歸來 杜甫 Bất Kiến Bất kiến Lý sinh cửu Dương cuồng chân ngã ai Thế nhân giai dục sát Ngô ý độc lân tài Mẫn tiệp thi thiên thủ Phiêu linh tửu nhất bôi Khuông sơn độc thư xứ Đầu bạch hảo quy lai. Đỗ Phủ (không gặp) (đã lâu không gặp ông Lý (ta rất thương xót ông phải giả điên) (người đời ai cũng muốn giết ông) (riêng ta thì vẫn mến tài của ông) (ông làm thơ rất mau, đã có cả ngàn bài rồi) (lúc nào cũng ngất ngưởng với chén rượu) ( thư phòng ở núi Khuông) (chắc là chỗ tốt để ông trở về khi đầu bạc) Không Gặp Lâu rồi không gặp Lý huynh Người vui trăng nước mặc tình thế nhân Giả ngơ như một gã điên Người đời căm ghét, tình riêng tôn thờ Trời cho ông một túi thơ Ngả nghiêng bầu rượu, chẳng mơ công hầu Núi Khuông đèn sách ẩn sâu Chắc mai sau, lúc bạc đầu về đây. SongNguyễn Hàn Tú |
八陣圖 功蓋三分國 名成八陣圖 江流石不轉 遺恨失吞吳 杜甫 Bát Trận Đồ Công cái tam phân quốc Danh thành Bát Trận Đồ Giang lưu thạch bất chuyển Di hận thất thôn Ngô Đỗ Phủ (trận đồ Bát Quái) (có công lớn trong thế nước chia ba) (do đó Trận Đồ Bát Quái nổi danh) (nước sông chảy mà đá xếp không chuyển) (đánh Ngô, bị thua, ôm hận chạy về đây) Trận Bát Quái Ngày nào Tam Quốc phân tranh Trận Đồ Bát Quái lừng danh khắp trời Nước dâng đá chẳng chuyển rời Mãi mang hận đã lỡ thời chiếm Ngô SongNguyễn HànTú |
悲青板 我軍青板在東門 天寒飲馬太白窟 黃頭奚兒日向西 數騎彎弓敢馳突 山雪河冰野蕭瑟 青是烽煙白是骨 焉得附書與我軍 忍待明春莫倉卒 杜甫 Bi Thanh Bản * Ngã quân Thanh Bản tại đông môn Thiên hàn ẩm mã Thái bạch quật Hoàng đầu Hề nhi nhật hướng tây Sổ kỵ loan cung cảm trì đột Sơn tuyết hà băng dã tiêu sắt Thanh thị phong yên, bạch thị cốt Diên đắc phụ thư dữ ngã quân Nhẫn đãi minh xuân mạc thảng thốt. Đỗ Phủ Dich nghĩa: (thương [chiến sĩ ở] Thanh Bản) (quân ta dồn về cửa đông thành Thanh Bản) (trời lạnh, ngựa uống nước ở vũng Thái Bạch) (xế chiều, giặc Hề thuộc bộ tộc Hoàng đầu) (vài đứa giương cung xốc ngựa chạy tới [khiêu chiến]) (tuyết phủ núi, sông đóng băng, đồng cỏ tiêu điều) (khói trận xanh xanh, xương hoang trăng trắng) (ví như được gửi thư cho quân ta) ([nhắn] ráng chờ sang xuân, chớ vội [ra đánh]) Ghi chú: Đỗ Phủ làm bài này cảm thương chiến sĩ ở thành Thanh Bản do tướng Phòng Quán chỉ huy đang đương đầu với phiến quân của An Lộc Sơn. Thương Quân Trấn Đóng Thanh Bản Quân ta đóng vùng cửa đông Thanh Bản Ngựa cầm hơi nước vũng Thái giá băng Trời nhá nhem, nhóm bộ tộc Đầu Vàng Sai vài đứa soải vó câu quấy rối Núi tuyết phủ, sông băng, đồng cằn cỗi Giữa trắng xanh lẫn khói trận, xương người Ước gì thư ta gửi được tới nơi Khuyên hãy đợi sang xuân trời nắng ấm. SongNguyễn HànTú |
悲陳陶 孟冬十郡良家子 血作陳陶澤中水 野曠天清無戰聲 四萬義軍同日死 群胡歸來血洗箭 仍唱胡歌飲都市 都人回面向北啼 日夜更望官軍至 杜甫 Bi Trần Đào Mạnh đông thập quận lương gia tử Huyết tác Trần Đào trạch trung thủy Dã khoáng thiên thanh vô chiến thanh Tứ vạn nghĩa quân đồng nhật tử Quần Hồ quy lai huyết tẩy tiễn Nhưng xướng Hồ ca, ẩm đô thị Đô nhân hồi diện hướng bắc đề Nhật dạ cánh vọng quan quân chí. Đỗ Phủ (xót thương trận Trần Đào) (chớm đông, con em của gia đình mười quận) (máu tuôn đỏ nước đầm Trần Đào) (đồng rộng, trời trong, tiếng quân reo đã lặng) (bốn vạn quân nhà đã chết trong ngày) (bọn giặc Hồ trở về với những bó tên vấy đầy máu) (chúng ca hát tiếng Hồ, uống rượu khắp phố chợ) (Dân ở đô thị hướng về phía bắc kêu khóc) (ngày đêm trông ngóng quan quân nhà tới) Ghi chú: Trần Đào là địa danh ở phía đông Hàm Dương ngày nay. Khi An Lộc Sơn chiếm được kinh đô Trường An rồi, Đường Minh Hoàng chạy về Thành Đô lánh nạn ,nhưòng ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Đường Túc Tông tức vị tại Linh Vũ tỉnh Cam Túc, dùng Phùng Quán làm Tể tướng lo việc khôi phục giang sơn. Từ Linh Vũ, quân nhà Đường thu phục dần dần đất đai, nhưng tới Trần Đào thì bị thảm bại. Hơn bốn vạn quân bị thiệt mạng trong trận này. Phùng Quán bị cách chức. Dân Hàm Dương hướng về phía bắc, là hướng về Cam Túc để mong Túc Tông gửi cánh quân khác tới giải phóng họ đang bị giặc chiếm đóng. Xót Thương Trận Trần Đào Vừa chớm đông quân gom từ mười quận Máu tuôn rơi thành vũng khắp Trần Đào Trời trong xanh, đã lặng tiếng cung đao Hơn bốn vạn quân nhà đà uổng tử Tên nhuốm máu, quân Hồ đây phố chợ Uống say sưa, vui ca hát nghêu ngao Dân khắp vùng hướng phương bắc nghẹn ngào Ngày đêm vọng quan quân về dẹp loạn. SongNguyễn HànTú |
汴河亭 廣陵花盛帝東游 先劈昆崙一派流 百二禁兵辭象闕 三千宮女下龍舟 凝雲鼓震星辰動 拂浪旌開日月浮 江海義帥歸有道 迷樓何異景陽樓 許渾 Biện Hà Đình * Quảng Lăng hoa thịnh đế đông du Tiên phích Côn Luân nhất phái lưu Bách nhị cấm binh từ tượng khuyết Tam thiên cung nữ hạ long châu Ngưng vân cổ chấn tinh thần động Phất lãng tinh khai nhật nguyệt phù Giang hải nghĩa sư quy hữu đạo Mê lâu hà dị Cảnh Dương Lâu. * Hứa Hồn Ghi chú: Trần Hậu Chủ (583-587) là ông vua cuối đời nhà Trần, hoang dâm vô độ, cho xây lầu Cảnh Dương để ăn chơi xa xỉ, bị nhà Tùy cướp ngôi. Tùy Dưỡng Đề (605-616) là ông vua cuối đời nhà Tùy, cũng hoang dâm vô độ, cũng xây lầu Mê để hưởng lạc, bị nhà Đường cướp ngôi. *** Dịch Nghĩa: (đình bên sông Biện Hà) (hoa ở Quảng Lăng nở đẹp, vua đi chơi miền đông) (trước đó đã hạ lệnh đào kênh từ núi Côn Luân) (hai trăm cấm binh hộ tống vua rời hoàng thành) (ba ngàn cung nữ được đi theo thuyền rồng) (tiếng trống khiến mây ngừng bay, kinh động tinh tú (cờ xí chạm nước, rợp mặt trăng mặt trời) (nghĩa quân khắp nơi tìm về người có đạo đức) (lầu Mê đâu khác lầu Cảnh Dương) ****** Đình Biện Hà *** Quảng Lăng hoa nở rộ Vua ngoạn cảnh miền đông Từ núi Côn vua chiếu chỉ đào sông Hai trăm lính rời kinh đô rầm rộ Theo thuyền rồng cả ba ngàn cung nữ Tiếng trống, phèng rung chuyển đến thiên hà Cờ lê thê quấy động ánh trăng ngà Kẻ tiết tháo ùa kiếm người đức trọng Nhìn lầu Mê... Như Cảnh Dương... Vô vọng *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
邊詞 五原春色舊來遲 二月垂楊未掛絲 即今河畔冰開日 正是長安花落時 張敬忠 Biên Từ *** Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti Tức kim hà bạn băng khai nhật Chính thị Trường An hoa lạc thì. *** Trương Kính Trung Dich nghĩa: lời từ biên ải) (ở Ngũ Nguyên xuân sắc xưa nay vẫn đến trễ) (tháng hai rồi mà thùy dương vẫn chưa buông tơ) (bữa nay băng bên bờ sông bắt đầu tan) (cũng là lúc hoa ở Trường An đang rơi rụng) ***** Lời Từ Biên Ải *** Xuân tới Ngũ Nguyên quá muộn màng Tháng hai dương liễu vắng tơ vương Ven sông băng đã tan rồi đấy Hoa chốn Trường An rụng ngập đường. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
別董大 拾里黃雲白日曛 北風吹雁雪紛紛 莫愁前路無知己 天下何人不識君 高適 Biệt Đổng Đại * Thập lý hoàng vân bạch nhật huân Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ Thiên hạ hà nhân bất thức quân. * Cao Thích Dich nghĩa * (tiễn Đổng Đại) (đám mây vàng dài cả chục dặm, mặt trời rực rỡ) (gió bấc thổi nhạn bay đi, tuyết rơi lả tả) (đừng buồn trên đường đi không có bạn tri kỷ) (vì dưới gầm trời này ai mà chẳng biết ông) ******* Tiễn Đổng Đại *** Bầu trời rực rỡ mây vàng Nhạn bay, tuyết đổ mênh mang khắp vùng Ngại gì thiếu bạn đi cùng Đại danh họ Đổng ai không mến tài. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
別湖上亭 好是春風沽上亭 柳條藤蔓繫離情 黃鶯住久渾相識 欲別頻啼四五聲 戎昱 Biệt Hồ Thượng Đình * Hảo thị xuân phong hồ thượng đình Liễu điều đằng mạn hệ ly tình Hoàng oanh trú cửu hồn tương thức Dục biệt tần đề tứ ngủ thanh. * Nhung Dục giả từ đình trên hồ) (gió xuân ở đình trên hồ mát mẻ thay) (cây leo và cành liễu quấn quít không rời) (ở đây lâu chim hoàng oanh quen mặt) (khi giã từ nó hót 4, 5 tiếng) ******* Giã Từ Đình Trên Hồ * Bài 1 Giữa đình hồ làn gió xuân thoảng nhẹ Đám dây leo quấn thân liễu không rời Chim hoàng oanh lưu luyến khách ghé chơi Giọng thánh thót hót líu lo tiễn bước Bài 2 Gió xuân thoảng nhẹ hồ Đình Dây leo quấn liễu sợ tình biệt ly Dù quen bao cảnh tới, đi Tiếng oanh thánh thót sầu bi tiễn người *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
別房太尉墓 他鄉復行役 駐馬別孤墳 近淚無乾土 低空有斷雲 對棋陪謝傅 把劍覓徐君 惟見林花落 鶯啼送客聞 杜甫 Biệt Phòng Thái Úy Mộ *** Tha hương phục hành dịch Trú mã biệt cô phần Cận lệ vô can thổ Đê không hữu đoạn vân Đối kỳ bồi Tạ Truyện Bả kiếm mịch Từ Quân Duy kiến lâm hoa lạc Oanh đề tống khách văn Đỗ Phủ *** Dich nghia: (giã từ mộ quan Thái úy họ Phòng) (lại đi công tác xứ người) (dừng ngựa chào từ biệt ngôi mộ chơ vơ) (lệ rơi ướt đất) (cuối chân trời có đám mây lẻ tẻ) (người từng đánh cờ với Tạ Truyện) (từng luận kiếm với Từ Quân) (nay ta chỉ thấy hoa rừng rơi) (và nghe chim oanh hót tiễn khách) Ghi chú: Tất cả các nhân vật họ Phòng, Tạ Truyện, Từ Quân đều là người đương thời với Đỗ Phủ. ******* Giã Từ Mộ Quan Thái Úy Họ Phòng *** Bước công du chốn xa mờ Lỏng cương từ tạ nấm mồ lẻ loi Đầm đìa nườc mắt tuôn rơi Mây vương lác đác cuối trời xa xa Đã cùng Tạ Truyện đánh cờ Từ Quân luận kiếm lúc xưa tưng bừng Giờ đây hoa rụng ngập rừng Nghe oanh tiễn bước cõi lòng ngổn ngang. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
別盧秦卿 知有前期在 難分此夜中 無將故人酒 不及石尤風 司空署 Biệt Lư Tần Khanh *** Tri hữu tiền kỳ tại Nan phân thử dạ trung Vô tương cố nhân tửu Bất cập Thạch Vưu phong Tư Không Thự * Ghi chú: Thạch Vưu Phong, điển tích dài dòng, ý chỉ thứ gió có thể ngăn trở người ra đi. ******* Tiễn Biệt Lư Tần Khanh *** Bài 1 Biết rằng người phải ra đi Tình sâu nghĩa nặng phân ly được nào Tiễn người chẳng chuốc rượu đào Thạch Vưu gió cũng chẳng sao giữ người. * Bài 2 Đành rằng cũng phải chia tay Biệt ly ray rứt sầu này khó nguôi Tạ từ không chén ly bôi Người đi chẳng quản gió trời Thạch Vưu. *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
涪江泛舟 送韋班歸京 追餞同舟日 傷春一水間 飄零為客久 衰老羨君還 花雜重重樹 雲輕處處山 天涯故人少 更益鬢毛斑 杜甫 Bồi Giang Phiếm Chu Tống Vi Ban Quy Kinh Truy tiễn đồng chu nhật Thương xuân nhất thủy giang Phiêu linh vi khách cửu Suy lão tiện quân hoàn Hoa tạp trùng trùng thụ Vân khinh xứ xứ san Thiên nhai cố nhân thiểu Cánh ích mấn mao ban * Đỗ Phủ * Dich nghĩa (theo thuyền trên sông Bồi đưa tiễn Vi Ban trở về kinh đô) (ngày tiễn chân ông về kinh trên cùng thuyền) (trên con sông u buồn này) (tôi là kẻ phiêu dạt đã lâu) (đến lúc già yếu vui mừng được gặp lại ông) (bên bờ cây cối rậm rạp trổ đầy bông) (mây bay nhè nhẹ nơi núi non trùng điệp) (nơi phương trời này bạn bè thiếu vắng) (càng làm cho râu tóc bạc phơ thêm) ***** Trên Sông Bồi Đưa Vi Ban Về Kinh *** Bài 1 Ngày trên thuyền tiễn bác Sông xuân cảnh u sầu Bao năm trời lưu lạc Lúc già mừng gặp nhau … Hoa trên cây lớp lớp Đỉnh núi mây giăng giăng Xa nhà thiếu tri kỷ Tóc bạc càng mau tăng Bài 2 Ngồi thuyền đưa tiễn bác trên sông Mặt nước trời xuân thật não nùng Luân lạc lâu rồi thân viễn khách Về già gặp lại thú không cùng ……….. Sặc sỡ mầu hoa, lớp lớp cây Mây sầu trên đỉnh núi giăng đầy Nơi xa nào dễ tìm tri kỷ Mái tóc ngày càng trắng như mây *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
陪族叔刑部 侍郎曄及中 書賈舍人至 遊洞庭 洞庭湖西秋月煇 瀟湘江北早鴻飛 醉客滿船歌白紵 不知霜露入秋衣 李白 Bồi Tộc Thúc Hình Bộ Thị Lang Hoa Cập Trung Thư Giả Xá Nhân Chí Du Động Đình * Động Đình hồ tây thu nguyệt huy Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi Túy khách mãn thuyền ca “Bạch Trữ” Bất tri sương lộ nhập thu y Lý Bạch * Dich Nghia: (theo chú ruột là Hoa làm quan Hình Bộ Thị Lang cùng quan trực thuộc là Giả Chí đi chơi hồ Động Đình) (trăng thu vằng vặc phía tây hồ Động Đình) (chim hồng bay sớm về phía bắc sông Tiêu Tương) (khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”) (khách trên thuyền say mèm, ca bài “Bạch Trữ”) Ghi chú: Bạch trữ, có nghĩa là vải thô màu trắng. Bài ca “Bạch Trữ” có ý cảm thưong dân nghèo. ******* Đi Chơi Hồ Động Đình * Tây Động Đình lung linh bóng nguyệt Bắc Tiêu Tương ríu rít chim về Khách say “Bạch Trữ” hoan mê Chẳng màng sương móc vương nhòe áo thu * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
陪鄭廣文遊 何將軍山林 不識南塘路 今知第五橋 名園依綠水 野竹上青霄 谷口舊相得 濠梁同見招 平生為幽興 未惜馬蹄遙 杜甫 Bồi Trịnh Quảng Văn Du Hà Tướng Quân Sơn Lâm Bất thức Nam Đường lộ Kim tri Đệ ngũ kiều Danh viên y lục thủy Dã trúc thướng thanh tiêu Cốc Khẩu cựu tương đắc Hào Lương đồng kiến chiêu Bình sinh vị u hứng Vị tích mã đề diêu. Đỗ Phủ Dịch nghĩa: (theo Trịnh Quảng Văn dạo chơi vùng rừng núi của Tướng quân họ Hà) (không rành đường xá ở Nam Đường) (nay mới biết đây là cây cầu số 5) (khu vườn nổi tiếng bên dòng nước biếc) (trúc đồng nội vươn lên tận trời xanh) (kia Cốc Khẩu là nơi ưa thích cũ) (đây Hào Lương là nơi ta cùng gặp gỡ) (thườngngày chỉ thích nhàn nhã) (nay chả tiếc vó ngựa in khá xa) Vãn Cảnh Nơi Hà Tướng Quân Bài 1 Nam Đường chưa dịp ghé qua chơi Giờ lối cầu Năm đã biết rồi Đẹp quá cảnh vườn bên nước biếc Trúc đồng nghiêng ngả giữa mây trôi ....... Cốc Khẩu chốn xưa lúc tuổi xuân Hào Lương nơi gặp gỡ bao lần Tháng năm tìm thú vui thanh thản Chẳng ngại đường xa, ngựa đỡ chân Bài 2 Lúc xưa chưa biết lối Nam Đường Giờ cầu Đệ Ngũ đã đi ngang Cảnh vườn đẹp quá bên dòng nước Cao ngất trời mây đám trúc đồng ............. Cốc khẩu là nơi xưa mến thương Gặp nhau chốn ấy đất Hào Lương Quanh năm trong thú vui nhàn tản Chẳng quản xa xôi, ngựa đỡ đường * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
裴晉公 四朝憂國鬢如絲 龍馬情神海鶴姿 天上玉書傳詔夜 陣前金甲受降時 曾經庾亮三秋月 下盡羊曇兩路椇 惆悵舊堂扃綠野 夕陽無限鳥歸遲 李郢 Bùi Tấn Công Tứ triều ưu quốc mấn như ti Long mã tinh thần hải hạc tư Thiên thượng ngọc thư truyền chiếu dạ Trận tiền kim giáp thu hàng thì Tằng kinh Dữu Lượng tam thu nguyệt Hạ tận Dương Đàm nhị lộ kỳ Trù trướng cựu đường quynh Lục Dã Tịch dương vô hạn điểu quy trì Lý Sính *** Dich Nghĩa: (quanTấn quốc công họ Bùi) (lo việc nước trải bốn triều vua tóc bạc như tơ) (tinh thần như ngựa rồng, cốt cách như hạc biển) (nhớ đêm vua ban chiếu phong chức) (nhớ lúc mặc giáp vàng nhận giặc đầu hàng) (giúp nước lâu hơn Dữu Lượng ba năm) (mưu lược cao hơn Dương Đàm hai nước) (lòng buồn trước Lục Dã xưa, nay đóng kín) (nắng chiều bao la, chim chậm chạp bay về) *** Ghi chú: Bùi Tấn Công: đời Đường Hiến Tông, Bùi Độ nhờ công dẹp giặc Hoài tây, được phong quan Trung thư lệnh, tướcTấn Quốc Công. Khi về hưu, ông cất một biệt thự ở Đông Đô (Lạc Dương) đặt tên là Lục Dã Đường. Dữu Lượng: người đời Tấn, cũng được phong quan Trung thư lệnh, nổi tiếng về phong cách và lễ tiết. Dương Đàm: người đời Tấn, giỏi cơ mưu quân sự. ***** Quan Quốc Công Họ Bùi *** Lo quốc sự bốn triều đầu bạc trắng Tinh thần cao tựa hạc biển, rồng trời Còn đâu khi vua chiếu ngọc thưởng người Hay giữa trận áo giáp vàng trị giặc Hơn Dữu Lượng trên ba năm giúp nước Mưu họ Dương cao hơn hẳn hai chiêu Lục Dã Đường giờ cửa đóng quạnh hiu Chiều ngả bóng, chim la đà về tổ Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
閣夜 歲暮陰陽催短景 天涯霜雪霽寒宵 五更鼓角聲悲壯 三峽星河影動搖 野哭千家聞戰伐 夷歌數處起漁樵 臥龍躍馬終黃土 人事音書漫寂寥 杜甫 Các Dạ * Tuế mộ âm dương thôi đoản cảnh Thiên nhai sương tuyết tế hàn tiêu Ngũ canh cổ giác thanh bi tráng Tam giáp tinh hà ảnh động dao Dã khốc thiên gia văn chiến phạt Di ca sổ xứ khởi ngư tiều Ngọa long dược mã chung hoàng thổ Nhân sự âm thư mãn tịch liêu. Đỗ Phủ Dịch nghĩa (đêm Tây Các) (ngày cuối năm qua mau) (những ngày lạnh ở góc trời này đã ngưng tuyết) (suốt đêm tiếng trống, tiếng tù và bi ai, hùng tráng) (làm rung động cả dải ngân hà ở vùng Tam Giáp) (tin giao tranh làm ngàn nhà than khóc) (dân chài và tiều phu đâu đó vẫn ca hát nghêu ngao) (Khổng Minh, Công Tôn Thuật cũng ra đất vàng) (việc đời, thư tín tất cả đều vắng lặng) *** Ghi chú: Tây Các là một xã thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, nơi có nhiều di tích nổi tiếng như Bát Trận Đồ của Khổng Minh. Bạch Đế thành của Công Tôn Thuật.... Ngọa long: con rồng nằm, chỉ Không Minh, quân sư của Lưu Bị, thời Tam Quốc. Dược mã: con ngựa nhảy, chỉ Công Tôn Thuật, người nổi lên chiếm đất Thục rồi xưng đế, lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán. *** Đêm Nơi Tây Các * Năm tàn vầng thái ngủ mê Chốn đây tuyết lạnh tan đi hết rồi Suốt đêm kèn trống liên hồi Bóng ngân hà vỡ tả tơi mặt hồ Chiến chinh lời oán vô bờ Đó đây tiếng hát ngu ngơ ngư tiều Khổng, Công thì cũng xanh rêu Tin thư mờ mịt, tịch liêu vô cùng. * Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
垓下 百戰未言非 孤軍驚夜圍 山河意氣盡 淚濺美人衣 儲嗣宗 Cai Hạ *** Bách chiến vị ngôn phi Cô quân kinh dạ vi Sơn hà ý khí tận Lệ tiễn mỹ nhân y. * Trừ Tự Tông *** Dịch Nghĩa: (trận Cai Hạ) (đánh trăm trận chưa thua) (đêm nay bị vây, quân ít, kinh hãi) (hết ý khí tranh đoạt sơn hà) (nước mắt ứa trên áo người đẹp) *** Ghi chú: Cai Hạ là tên đất, ở đông nam huyện Linh Bích, tỉnh An Huy ngày nay. Cuối đời Tần, Lưu Bang và Hạng Võ tranh hùng. Trận cuối, Hạng bị vây ở Cai Hạ, quân sĩ nghe tiếng tiêu ai oán bên quân Lưu thổi sang, nhớ nhà, bỏ trốn gần hết. Vợ Hạng là Ngu Cơ rút gươm tự tử. Hạng khóc vợ. Khi chạy tới Ô Giang, Hạng cũng tự sát. ******* Trận Cai Hạ *** Bài 1 Đã từng trăm trận tung hoành Quân tàn, cường địch vây quanh đêm này Bá vương mộng đã xuôi tay Lệ anh hùng đẫm vai gầy mỹ nhân *** Bài 2 Đã từng trăm trận Khắp cõi tung hoành Đêm dài cô thế địch vây quanh Than ôi ! Mộng gom sông núi không thành Gục vai mỹ nữ lệ tình rơi tuôn *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
感故張僕射 諸妓 黃金不惜買蛾眉 揀得如花三四枝 歌舞教成心力盡 一朝身去不相隨 白居易 Cảm Cố Trương Bộc Xạ Kỹ nữ *** Hoàng kim bất tích mãi nga mi Giản đắc như hoa tam tứ chi Ca vũ giáo thành tâm lực tận Nhất triêu thân khứ bất tương tùy. Bạch Cư Dị * Dich nghĩa (cảm nghĩ về các kỹ nữ ông Trương Bộc Xạ chết đi để lại) (không tiếc vàng bỏ ra mua gái mày ngài) (lựa ra được ba bồn cô đẹp như hoa (dạy được các cô ca múa giỏi thì ông kiệt sức) (một sáng kia ông chết, chẳng cô nào theo ông *** Cảm Nghĩ Về Các Đào Hát Của Trương Bộc Xạ *** Gái xuân sắc đem bạc vàng mua đổi Được mấy cô đẹp lộng lẫy như hoa Đem tâm can luyện cho giỏi hát ca Lúc nằm xuống đâu nàng nào thương xót. *** SongNguyễn HànTú |
琴臺 茂陵多病後 尚愛卓文君 酒肆人間世 琴臺日著雲 野花留寶厭 蔓草見羅裙 歸鳳求凰意 寥寥不復聞 杜甫 Cầm Đài * Mậu Lăng đa bệnh hậu Thượng ái Trác Văn Quân Tửu tứ nhân gian thế Cầm đài nhật mộ vân Dả hoa lưu bảo yếm Mạn thảo kiến la quần Quy phụng cầu hoàng ý Liêu liêu bất phục văn. Đỗ Phủ ******* Dich Nghia (sân khấu tấu đàn) (sau khi mê say gái ở Mậu Lăng) (yêu thương Trác Văn Quân trở lại) ([sinh nhai nhờ] quán rượu trong cõi đời) (sẩm tối tấu đàn dưới mây (cho khách nghe]) (hoa đồng nội rơi trên đồ ăn [ngon] thừa) (cỏ dại vương trên quần lụa [của nàng]) (ý tứ trong bài “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”) (vắng bặt không còn được nghe nữa) Ghi chú: Mậu Lăng là địa danh nay ở huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây. Tư Mã Tương Như, người đời nhà Hán (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) là một nghệ sĩ giỏi chơi đàn và làm phú, nhưng nghèo khó. Trác Văn Quân là một góa phụ, ở với cha là một danh gia cự phú. Trác mê tiếng đàn khi Tư Mã tấu khúc “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”, bỏ nhà trốn đi theo làm vợ Tư Mã. Hai người mở một quán rượu sinh nhai vất vả ở Mậu Lăng. Được ít lâu, Tư Mã mê say một cô gái ở đây và muốn cưới cổ làm thiếp. Trác phản đối. Tư Mã bỏ ý định..v..v.. ******* Đài Đàn * Mậu Lăng sau cơn bệnh Càng lưu luyến Văn Quân Cố vui đời bán rượu Dưới mây chiều tấu đàn Hoa đồng rơi trên chén Gấu quần lấm cỏ vàng Ý nhạc “Phụng Hoàng” cũ Chẳng còn tiếng tơ vang. SongNguyễn HànTú |
感鏡 美 人 與 我 別 留 鏡 在 匣 中 自 從 花 顏 去 秘 水 無 芙 蓉 經 年 不 開 匣 紅 埃 覆 青 銅 今 朝 一 拂 拭 自 顧 憔 悴 容 照 罷 重 惆 悵 背 有 雙 盤 龍 白 居 易 Cảm Kính *** Mỹ nhân dữ ngã biệt Lưu kính tại hạp trung Tự tòng hoa nhan khứ Thu thủy vô phù dung Kinh niên bất khai hạp Hồng ai phú thanh đồng Kim triêu nhất phất thức Tự cố tiều tụy dung Chiếu bãi trùng trù trướng Bối hữu song bàn long. Bạch Cư Dị * Dịch nghĩa (cảm xúc trước gương) (người đẹp rời xa tôi) (để lại chiếc gương soi trong hộp) (kể từ khi mặt hoa [nàng] đi rồi) (làn nước thu [mặt gương] không còn sen) (cả năm không mở hộp) (bụi hồng đã phũ lên đồng xanh) (sáng nay nhân phủi bụi) (tôi thấy mặt mình bơ phờ) (soi gương xong tôi còn buồn bã) (khi thấy sau gương có hình hai con rồng quấn quít) ***** Đối Gương *** Từ khi đôi ngả chia ly Nét xưa còn lại dấu gì trong gương Xa nhau rồi Khối sầu vương Hồ thu chẳng thấy phù dung khoe mầu Hộp gương xưa Chẳng thèm lau Tháng ngày bụi bám phủ mầu đồng xanh Sáng nay phủi bụi vô tình Đối gương chợt nhận vẻ mình xác xơ Ngó sau lưng bỗng thẫn thờ Thấy rồng quấn quít …buồn ngơ ngẩn lòng *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
感 遇 期 一 孤 鴻 海 上 來 池 潢 不 敢 顧 側 見 雙 翠 鳥 巢 在 三 珠 樹 矯 矯 珍 木 巔 得 無 金 丸 懼 美 服 思 人 指 高 明 逼 神 惡 今 我 遊 冥 冥 弋 者 何 所 慕 張九齡 Cảm Ngộ Kỳ nhất * Cô hồng hải thượng lai Trì hoàng bất cảm cố Trắc kiến song thúy điểu Sào tại tam châu thụ Kiểu kiểu trân mộc điên Đắc vô kim hoàn cụ Mỹ phục hoạn nhân chỉ Cao minh bức thần ố Kim ngã du minh minh Dặc giả hà sở mộ ? * Trương Cửu Linh *** Dich nghĩa: (cảm xúc trước cảnh ngộ) (kỳ 1) ta là]chim hồng lẻ loi từ biển bay tới) (không dám nhìn những chỗ có ao hồ) (liếc nhìn đôi chim thúy) (tổ ở trên cây tam châu) (chót vót trên ngọn cây quý) (đã chắc đâu không sợ tên đạn) (mặc áo đẹp ngán người chỉ trỏ) (khôn ngoan quá e thần ghen ghét) (nay ta ngao du cõi vô biên (thì bọn thợ săn nào còn dòm ngó được?) *** Ghi chú: Tam châu thụ, như cây bách, lá có hạt như ngọc ******* Cảm Ngộ *** Kỳ 1 Cánh hồng một bóng lẻ loi Lìa vùng biển rộng, ngán nơi ao hồ Kia nhìn cặp thúy nhởn nhơ Cây châu kết tổ khuất mờ tít cao Cho dù ẩn lánh cách nào Chắc đâu đã thoát hiểm nghèo đạn tên ? Phục trang hiếm quý chả yên Khôn ngoan thần cũng tị hiềm ghét ghen Nhởn nhơ giữa cõi vô biên Ngại gì cung nỏ lụy phiền đến thân *** Phỏng dịch: SongNguyễn HànTú |
感 遇 期 二 蘭 葉 春 葳 蕤 桂 花 秋 皎 潔 欣 欣 此 生 意 自 爾 為 佳 節 誰 知 林 棲 者 聞 風 坐 相 悅 草 木 有 本 心 何 求 美 人 折 張九齡 Cảm Ngộ *** Kỳ nhị * Lan diệp xuân uy nhụy Quế hoa thu hạo khiết Hân hân thử sinh ý Tự nhĩ vi giai tiết Thùy tri lâm thê giả Văn phong tọa tương duyệt Thảo mộc hữu bản tâm Hà cầu mỹ nhân chiết. * Trương Cửu Linh *** Dich Nghĩa: (cảm xúc trước cảnh ngộ) (lá lan mơn mởn mượt mà gọi xuân về) (hoa quế tươi sáng trong trắng báo thu sang) (những lẽ sống tưng bừng ấy) (tự chúng đã là thời tiết tốt rồi) (ai biết được người sống trong rừng sâu) (chỉ ngồi nghe gió thổi mà vui cùng gió?) (cây cỏ cũng có tình riêng) (đâu cần người đẹp vin bẻ) ************ Cảm Ngộ * Kỳ 2 Mùa xuân lan đẹp mưọt mà Tiết thu trong sáng, nõn nà quế hoa Nét thắm tươi Tỏa chan hòa Ngập đầy sinh khí Bao la đất trời Núi rừng ngày tháng quên đời Lá thu xào xạc, lả lơi gió đùa Tình riêng cây cỏ đong đưa Ai cần tay ngọc bẻ tua lá cành * SongNguyễn HànTú |
Múi giờ GMT. Hiện tại là 12:29 AM. |
Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.