Tô Huệ chức cẩm hồi văn
Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ có tài văn chương và có nghề thêu rất khéo. Năm nàng 20 tuổi, cha mẹ gả nàng cho chàng hàn sĩ tên Đậu Thao.
Cưới nhau chưa được bao lâu thì đất nước bị giặc Phiên từ phương Bắc kéo binh vào đánh phá Trung nguyên. Vua ra lịnh trưng binh, các thanh niên phải sung quân, lên đường chinh chiến, giữ gìn bờ cõi đất nước.
Đậu Thao, chồng của nàng Tô Huệ, cũng tuân lịnh vua, nhập ngũ tòng chinh.
Thời gian kéo dài ngót 3 năm, nàng Tô Huệ quá nhớ chồng, khiến dung nhan thêm tiều tụy. Đêm đêm bên ngọn đèn khuya leo lét, lòng mong nhớ chồng không nguôi, hồn thơ xúc động, nàng viết ra 10 bài thi tứ tuyệt, lời thơ đầy tình cảm nhớ nhung chan chứa, nàng cầu xin đấng quân vương xét cho hoàn cảnh của nàng, tha cho chồng trở về sum họp cùng nàng.
Nàng lại lấy một bức gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc dệt 10 bài thơ tứ tuyệt ấy lên bức gấm, đọc theo lối hình trôn ốc từ ngoài xoay tròn vào trung tâm bức gấm. Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông rất đẹp.
Xong nàng đem dâng lên vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng không ai đọc được, vua phải truyền gọi nàng Tô Huệ.
Đứng giữa triều đình, nàng Tô Huệ cất giọng ngâm 10 bài thơ, với một giọng não nùng bi thảm.
Nhà vua thương tài nàng nên đặc cách cho Đậu Thao trở về sum họp cùng nàng.
Bài thơ dệt trên gấm của nàng Tô Huệ được gọi là : CHỨC CẨM HỒI VĂN.
Sau đây là 10 bài tứ tuyệt của Tô Huệ dệt trên gấm :
I/ Quân thừa hoàng chiếu an biên thú, Tống quân tống biệt hà kiều lộ. Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn, Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
II/ Hà kỳ nhứt khứ âm tín đoạn, Ý thiếp bình vi xuân bất noãn. Quỳnh diêu giai hạ bích đài không, San hô trướng lý hồng trần mãn.
III/ Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn, Tương tâm hà thác cánh phùng quân. Nhứt tâm nguyện tác thương hải nguyệt, Nhứt tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
IV/ Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện, Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên. Phi lai phi khứ đáo quân bàng, Thiên lý vạn lý diêu tương kiến.
V/ Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách, Hận quân tái ngoại trường vi khách. Khứ thời tống biệt lư diệp huỳnh, Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch.
VI/ Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo, Xuân ý thôi nhơn hướng thùy đạo. Thùy dương mãn địa vị quân phan, Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
VII/ Đình tiền xuân tảo chánh phân phương, Bão đắc Tần tranh hướng họa đường. Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc, Phụ ký tình thâm đáo sóc phương.
VIII/ Sóc phương thiều đệ sơn hà việt, Vạn lý âm thơ trường đoạn tuyệt. Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y, Kim lũ la thường hoa giai liệt.
IX/ Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh, Thử thị ly nhơn đoạn trường tình. Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn, Oán kết tiên thành khúc vị thành.
X/ Quân kim ức thiếp trọng như san, Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn. Chức tương nhứt bổn hiến Thiên Tử, Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn ./.
GIẢI NGHĨA TỪNG CÂU :
C.1 : Chàng tuân chiếu chỉ của vua đi lính thú giữ yên biên giới.
C.2 : Đưa chàng tiễn biệt lối cầu sông.
C.3 : Ngậm sầu nén lệ nói với chàng,
C.4 : Chớ quên ân tình thuận tiện đi xa.
C.5 : Sao lần đi bặt vô âm tín,
C.6 : Lòng của thiếp ở trong phòng the không ấm hơi xuân.
C.7 : Dưới thềm Quỳnh dao bỏ không, mọc rêu xanh.
C.8 : Nơi màn San hô đầy bụi đỏ.
C.9 : Thử thời đường ly biệt, mỗi khi nghĩ tới lòng lo sợ.
C.10 : Đem lòng làm sao gởi đến gặp chàng ?
C.11 : Một lòng nguyện làm trăng ngoài biển xanh,
C.12 : Một lòng nguyện làm mây trên đầu núi.
C.13 : Mây trên núi năm nào cũng gặp chàng,
C.14 : Trăng ngoài biển năm nào cũng chiếu khắp biên thùy.
C.15 : Bay đi bay lại đến bên cạnh chàng,
C.16 : Ngàn muôn dặm xa nhìn thấy nhau,
C.17 : Xa xôi, đường xa, quan san cách trở,
C.18 : Hận chàng ở ngoài biên giới làm khách lâu dài,
C.19 : Khi đi tiễn chàng thì lá cây lau vàng,
C.20 : Ai tin mấy độ hoa mai trắng,
C.21 : Trăm hoa tan tác sớm gặp xuân,
C.22 : Ý xuân thúc giục người hướng về đường nào ?
C.23 : Nhành dương rủ xuống đầy đất vì chàng níu xuống,
C.24 : Hoa rơi đầy đất không ai quét.
C.25 : Trước sân xuân sớm hoa thơm phức,
C.26 : Ôm được cây đàn Tần tranh hướng đến nhà vẽ,
C.27 : Vì chàng mà khảy khúc nhạc Giang Nam,
C.28 : Nhờ gởi mối tình thâm đến phương Bắc,
C.29 : Phương Bắc xa xôi núi sông vượt qua,
C.30 : Ngàn dặm tin thơ cắt đứt đã lâu.
C.31 : Áo bạc trên gối nước mắt thấm vào áo,
C.32 : Tơ vàng, xiệm lụa hoa đều bị chia xé.
C.33 : Ba mùa xuân, chim hồng nhạn qua sông cất tiếng kêu,
C.34 : Ấy là ly biệt người, tình yêu đứt ruột.
C.35 : Dây đàn tranh chưa đứt, ruột đứt trước,
C.36 : Nỗi oán hờn kết thành trước khúc nhạc chưa thành.
C.37 : Nay chàng nhớ thiếp nặng như núi,
C.38 : Thiếp cũng nhớ chàng chẳng tạm yên.
C.39 : Dệt lụa một bức dâng lên Đức Vua,
C.40 : Cầu xin tha cho chồng thiếp kịp sớm trở về ./.
Diễn Nôm bằng thơ :
(của Hoàng Quang)
I/ Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại
Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông
Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng
Chớ tham chốn khác mà vong tình này
II/ Trông tin tức tớinay thăm thẳm
Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân
Từ ngày đôi ngả cách phân
Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong
III/ Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ
Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau
Nguyện làm trăng giữa biển sâu
Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao
IV/ Trăng giữa biển năm nào cũng thấy
Mây đầu non dầu mấy cũng thông
Bay qua bay lại bên chồng,
Dầu ngàn muôn dặm, xa trông như gần
V/ Quan sơn ấy mấy lần trở cách
Hềm nỗi chàng làm khách rất lâu
Chàng đi mới ố bóng lau,
Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai
VI/ Hoa trăm thức xuân tươi hớn hở,
Xuân giục người than thở với ai ?
Liễu kia rủ những tơ dài
Hoa kia rã cánh không người quét cho
VII/ Sân xuân sớm thơm tho trăm thức
Chốn hoa đường lựa bậc đàn tranh
Giang Nam khúc nhạc đành rành
Mượn đầu năm móng gởi tình sóc phương
VIII/ Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi
Âm thư nầy nhắn gởi không thông
Gối riêng nước mắt tuôn dòng
Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan
IX/ Ba xuân tới, tiếng nhàn nhắn gởi
Xuân giục người bối rối như tơ
Năm dây còn đó sờ sờ
Buồn đà đứt ruột, khảy chưa rồi đàn
X/ Chàng thương thiếp tình hơn núi nặng
Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua
Dệt đem bức gấm dâng vua,
Xót lòng dạ thiếp tha cho chàng về .
Sưu Tầm
|