Ðề tài: Mây mù thế kỷ
View Single Post
  #6  
Old 05-20-2004, 05:16 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Vân đề ba tài liệu nói trên đã có thể khép lại chưa?

Lầu năm góc vẫn còn "nhức đầu về sự thật, giả của ba tài liệu trên đây. Nếu là giả, thì ai đã sáng tạo, bịa ra nó? Bịa ra để làm gì? Phía Việt nam bịa, hay phía Liên xô bịa ra? Nếu là từ phía Việt nam, thì do ai bịa ra, do đảng, chính phủ, hay do một nhân vật nào đó bịa ra để "bán" cho phía Liên xô? Gần đây, Lầu năm góc lại mong tôi giúp vài ý kiến để tiếp cận sự thật. Tôi chỉ ra hai hướng (pistes): một là khả năng ở Hà Nội, hai là khả năng ở Mát-xcơ-va.

Tôi cho rằng, nếu có việc che giấu, lừa dối, thủ tiêu tù binh Mỹ thì chắc chắn liên quan đến hàng vài chục người thực hiện. Một vài sĩ quan thân tín không thể làm được việc tày trời ấy mà không để lại dấu vết. Chuyện mới xảy ra hơn hai mươi năm, nên số người biết trực tiếp hoặc gián tiếp chuyện này, nếu có, ắt có nhiều người còn sống.

Những sĩ quan có tránh nhiệm ở Tổng cục Chính trị ở Cục địch vận, ở các trại giam tù binh Mỹ (từ trưởng, phó trại, phiên dịch, quản giáo, canh gác, quản lý, tiếp phẩm, nấu cơm...), ở Văn phòng bộ Quốc phòng, ở Cục đối ngoại, ở Cục quân báo Bộ tổng Tham mưu... hiện đã di chuyển đi nơi khác, hoặc đã về hưu đều có thể cung cấp tin tức thật. Cuộc đấu tranh chống độc đoán, chống lừa dối, phơi bày sự thật, cải thiện quan hệ tốt đẹp Việt-Mỹ, đòi dân chủ... có thể là động cơ tìm ra sự thật.

Hướng ở Mát-xcơ-va, trong các kho lưu trữ của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Cục quân báo, Cục đối ngoại thuộc Bộ Quốc phòng Liên xô.. chắc chắn còn nhiều tài liệu quý. Cần bỏ công sức tiếp cận, khai thác chúng. Hiện nay kho lưu trữ tuyệt mật của nước Nga đang trải qua củng cố. Tướng Vôn-cô-gô-nốp (Volkogonov), tổng giám đốc kho lưu trữ mật đã qua đời. Cán bộ lưu trữ lâu năm Vla-đi-mia Che-nútx (Vladimir Chernous) bị sa thải vì tham nhũng. Sau vụ "Stê-phan Mo-rítx", kho lưu trữ tạm thời đình lại việc cho người nước ngoài vào kho khai thác tài liệu, để củng cố. Bạn tôi ở Mát-xcơ-va cho biết, sau khi bà Quin-giớt (Quinn Judge) tiết lộ tài liệu lưu trữ về quan hệ vợ chồng giữa ông Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Minh Khai, đã có một số nhà nghiên cứu (hoặc an ninh mật đội lốt nhà nghiên cứu?) từ Việt nam sang đến đến kho lưu trữ để tìm cách lấy đi (lén bỏ vào túi?) hoặc mua (với giá cao bằng đô-la) một số tài liệu "nhạy cảm" nhất. Ký ức, tài liệu của cá nhân (các cán bộ lãnh đạo của đảng, của bộ Ngoại giao, bộ Quốc phòng Liên xô cũ) cũng có thể có giá trị nếu tiếp cận, phỏng vấn, tìm hiểu.

Tôi tin rằng, người Mỹ đang cố gắng theo hai hướng này để tìm ra sự thật rõ ràng.

Một sĩ quan chuyên về POW-MIA ở Lầu năm góc cho tôi biết, cán bộ kho lưu trữ ở Mát-xcơ-va cho biết, có thể họ còn giữ băng ghi âm buổi báo cáo của tướng Trần Văn Quang tháng 2.1972 về tù binh Mỹ, khi Hiệp định Paris sắp được ký. Nếu quả vậy, tôi sẵn sàng giúp để nghe băng ghi âm ấy và xác định giọng trong băng có đúng là của tướng Quang hay không, vì tôi rất quen ông Quang, tôi từng ghé thăm gia đình và quê ông ở huyện Nghi Lộc (Nghệ An), nơi giọng nói có âm sắc rất đặc biệt và tướng Quang đi nhiều nơi vẫn giữ nguyên giọng nói của vùng Nghi Lộc.

Ông nhận xét ra sao về cuộc Hội thảo Việt-Mỹ về chiến tranh Việt nam tháng 6.1997 ở Hà Nội.

Có lẽ ông Mc Namara và các nhà nghiên cứu trường đại học Brown dự hội thảo đó mới đưa ra được những nhận xét chính xác nhất. Ông Mc Namara nguyên là bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong thời kì chiến tranh với Việt nam. Ông là người đề xướng cuộc Hội thảo ở Hà Nội từ ngày 21 đến 23.6.1997, sau chuyến ông sang thăm Việt nam vào năm 1996. Trường đại học Brown được giao liên lạc và phối hợp tổ chức Hội thảo. Tham dự Hội thảo, phía Mỹ có hơn 40 học giả, gồm những tướng lĩnh, các nhà nghiên cứu, nhà sử học, các nhà lý luận quân sự, tình báo... như tướng William Smith, cựu trợ lý đặc biệt của Tổng tham mưu trưởng trước đây, ông (C. Cooper, người của cơ quan CIA; ông F. Peter, phó trợ lý bộ Quốc phòng và ông Mc Namara. Phía Mỹ mong rằng đây là một hội nghị mang tính khoa học và biểu thị sự tổng kết cuối cùng sau hơn 20 năm chấm dứt chiến tranh để bước sang một trang sử mới trong quan hệ Việt-Mỹ, khởi đầu một sự thân thiện. Nhưng đáng tiếc, phía Việt nam đã không đáp ứng được yêu cầu này. Việt nam đối với Mỹ vẫn đầy nghi kị, lo người Mỹ lật đổ, làm "diễn biến hòa bình"; họ không để ông Võ Nguyên Giáp tham dự hội nghị đó mà không nói rõ lý do. Ông Võ Nguyên Giáp chỉ tiếp phái đoàn Mỹ trong một buổi, hoàn toàn trái với mong đợi của phía Mỹ. Tôi biết nhiều người Việt nam ở Hà Nội cũng thất vọng. Những người cầm quyền ở đất nước vẫn chỉ quen độc thoại

Ngay trong quân đội Việt nam vẫn chưa có tổng kết chiến tranh. Có chăng là ba cuốn hồi ký dài, do ba ông tướng viết, mục đích để "tranh công", như dư luận Việt nam nhận xét. Nhiều cán bộ lão thành phàn nàn rằng: chiến tranh kéo dài, hy sinh bạo nhiêu, thắng to như vậy, mà đến nay, hơn 20 năm rồi vẫn không có một bản tổng kết lịch sử ra trò? Trong quân đội và trong đảng, mọi việc đều phải tỏ ra nhất trí. Tranh luận hầu như bị gạt bỏ. Cho nên, cứ phải "nói theo nghị quyết". Mà nghị quyết thì gọn, khô. Các diễn văn, tổng kết đều theo một kiểu công thức lưỡi gỗ khô không khốc, nghe cứ như là xã luận báo Nhân Dân vậy...

Các "học giả" Việt nam dự Hội thảo như các ông Nguyễn Cơ Thạch (nguyên Ngoại trưởng từ đầu thập kỷ 90), Đinh Nho Liêm (nguyên thứ trưởng Ngoại giao), Trần Quang Cơ (thứ trưởng Ngoại giao), Đào Huy Ngọc (viện trưởng Viện quan hệ quốc tế), tướng Đặng Vũ Hiệp (Tổng cục Chính trị) hầu hết đều là viên chức mà phía Mỹ gọi là "lưỡi gỗ", quen viết các văn kiện sáo rỗng của chế độ cung đình. Họ đâu có nói lên được những suy nghĩ cá nhân, những tìm tòi cá nhân, những ý kiến riêng độc đáo, sắc sảo? Tất cả đã được xét duyệt, uốn nắn, sửa kỹ từ trước. Hơn nữa, lãnh đạo ở Hà Nội coi đây là dịp tốt để "lên án mạnh mẽ tội ác đế quốc Mỹ" và bắt đền, ăn vạ, buộc chính phủ Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Tư duy lãnh đạo của họ lạ lùng, thật không giống ai cả!

Trước khi Hội thảo ba ngày, cũng là trước một tuần lễ bà Ngoại trưởng Mỹ Me-đơ-lai On-brai (Madeleine Albright) đến Hà Nội, Thông tấn xã Việt nam (VNA) phóng ra những con số về tổn thất trong chiến tranh là 3 triệu người chết; 4,4 triệu người bị thương, trên 2 triệu người bị ảnh hưởng của chất độc hóa học, trong đó có chất độc màu da cam (orange agent), 50 ngàn quái thai sinh ra trong mười năm hậu chiến; 50% gia đình nạn nhân chiến tranh hiện sống trong tình trạng cơ cực, cần trợ giúp... Hà Nội không làm điều gì một cách ngẫu nhiên. Rõ ràng bản tin này để nhắn với Hội thảo về "tội ác chồng chất" của Mỹ, "nghĩa vụ bồi thường chiến tranh" của Mỹ - những kẻ phạm tội - cần phải thức tỉnh lương tâm.

Tên của Hội thảo là: "Những cơ hội bị bỏ lỡ". Ông Mắc Na-ma-ra thất vọng nói: "Tôi không ngờ phía Việt nam lại tính toán sai lầm đến như vậy. Đây là một cơ hội mới mà chính phía Việt nam bỏ lỡ lần nữa". Do căn bệnh giáo điều, bảo thủ, căn bệnh "đấu tranh giai cấp không khoan nhượng với kẻ thù đế quốc", Hà Nội đã lại bỏ qua một cơ hội để hòa giải với Hoa Kỳ, để hòa nhập với thế giới hiện đại, để giở sang trang mới trong quan hệ Việt-Mỹ.

Tôi nghĩ, đó cũng là ý kiến của tướng William Smith, của cả ông Chester Cooper, Francis M.Bator và của cả ông Mc Namara nữa, khi họ rời Hà Nội ngày 24.6.1997 vừa qua.

Tôi hy vọng rằng một thời gian nữa, khi Việt nam chấp nhận dân chủ và đa nguyên, đổi mới về chính trị đi cùng với đổi mới kinh tế, các cuộc hội thảo Việt-Mỹ sẽ rất sôi nổi và lý thú. Quân đội Việt nam không thiếu những sĩ quan tài giỏi, có trình độ khoa học. Hiện nay họ trao đổi ý kiến sôi nổi với nhau, nhưng còn bị như "dán băng keo ở miệng khi tiếp xúc với nước ngoài, nhất là khi tiếp xúc với những "kẻ thù cữ. Khi có dân chủ, đa nguyên, mỗi người Việt nam sẽ có thể là một ngôi sao lóng lánh với những vẻ đẹp khác nhau, mà nay họ vẫn chỉ là những hạt cát thụ động trong một chế độ độc đoán đậm mùi phong kiến, gia trưởng. Mấy năm qua, tôi đã dự những hội nghị khoa học về cuộc chiến tranh Việt nam tại các trường đại học và viện quân sự Hoa Kỳ. Thật là bổ ích và đúng là hội thảo khoa học. Những người tham dự hội thảo đều có trình độ, kinh nghiệm thực tế và lý luận, có ý kiến cá nhân sâu sắc, tranh luận sôi nổi, thẳng thắn. Không có tình trạng nhất trí xuôi chiều với nhau. Nhưng mỗi cuộc họp lại mở rộng hiểu biết, một số ý kiến đối lập nhích lại gần nhau, các kết luận đều phong phú, kích động những suy nghĩ mới.

ở Lúp-bốc, bang Tếch-dớt, khi thăm Trung tâm nghiên cứu những cuộc xung đột ở Việt nam, tôi thấy tài liệu lưu trữ ở đó thật đồ sộ. Cuộc gặp gỡ với ông giám đốc Giam Rếch-xnơ (J. Rechner) và giáo sư Đu-glátx Pai-cơ (Douglas Pi ke) từ trung tâm lưu trữ Đông Dương (Indochine Archives) ở Xan Phran-xít-xcô (San Francisco) rời sang, thật lý thú vô cùng?

Ông đánh giá ra sao về chiến sự năm 1975?

Đầu năm 1975, không một ai trong chúng tôi, kể cả người lạc quan nhất, nghĩ rằng chiến sự sẽ kết thúc trong năm 1975 với toàn thắng của chúng tôi.

Đầu tháng 12.1974, trước trận tiến công vào tỉnh lỵ Bình Long, chúng tôi chưa chiếm được một tỉnh ly nào ở miền Nam. Trước đó tỉnh lỵ Quảng Trị bị chiếm nhưng sau đó đã bị lấy lại. Chỉ có vài quận lỵ bị đánh chiếm là Lộc Ninh, Cam Lộ, Đắc Tô...

Chúng tôi nghĩ cuộc chiến đấu còn lâu dài. Trong cuộc họp cán bộ cấp cao cuối năm 1974 về tình hình và nhiệm vụ quân sự, về ý định của Bộ Chính trị giành thắng lợi cao nhất trong hai năm 1975 và 1976, năm 1976 là năm bầu tổng thống Hoa Kỳ, cũng chẳng ai nghĩ rằng cuối năm 1976 sẽ có thể chiếm được toàn miền Nam.

Trong chúng tôi, nhiều người lo rằng Liên xô và Trung Quốc đều mong muốn hòa dịu với Mỹ trong chuyến đi của tổng thống Ních-xơn (R. Nixon) sang Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, do đó sự ủng hộ, chi viện cho chúng tôi sẽ gặp khó khăn với thời gian. Hướng suy nghĩ của phần lớn cán bộ cấp cao ở Hà Nội là còn phải đấu tranh lâu dài, kết hợp quân sự và ngoại giao, tiến công và đàm phán, tạo sức ép dư luận để miền Nam phải thay người lãnh đạo là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tạo nên một kiểu chính phủ liên hiệp ở miền Nam Việt nam... Sau đó, sẽ có nhiều bước đấu tranh nữa.

Trước đó, tháng 8.1974, chúng tôi được cổ vũ bởi một tin bất ngờ từ Mỹ: tổng thống Ních-xơn bị kẹt cứng trong vụ Oa-tơ-ghết (Watergate), đã thoái vị. Phó tổng thống ác-niu (Agnew) lên thay cũng bị bê bối. Và tổng thống Pho lên làm tổng thống, không có một lá phiếu bầu. Ông Pho sẽ là một tổng thống yếu. Dịp may hiếm có, bất ngờ đã đến.

Chúng tôi thấm thía câu châm ngôn của Pháp "tự giúp trời sẽ giúp". Cứ cố gắng, sẽ tận dụng được nhiều cơ hội bất ngờ, quả vậy! Tháng 3.1975, chúng tôi lại tận dụng được thời cơ bằng vàng: sự hỗn loạn của các đơn vị quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên sau cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt nam vào Buôn Ma Thuộc, do quyết định rút bỏ Tây Nguyên của ông Thiệu tạo nên.

Một sĩ quan cấp cao của Mỹ nói với tôi trong một hội thảo ở Chi-ca-gô (năm 1996) rằng: tháng 4.1975, sau khi làm chiến tranh nhân dân mấy chục năm, các ông đã thực hiện "chiến tranh của người lính" thay vì chiến tranh nhân dân ( Replace Peoples war by Soldiers war). Còn chúng tôi, trước kia chúng tôi chỉ mong các ông tác chiến như thế, binh đoàn cơ giới ngang nhiên kéo đi trên đường quốc lộ để phía chúng tôi tha hồ có mục tiêu mà tiêu diệt, khỏi ao ước tìm kiếm. Nhưng thật trớ trêu, khi có thừa mứa mục tiêu thì chúng tôi đành ngồi nhìn. Chính chúng tôi lại bỏ chạy, tan biến vào thiên nhiên, ra đại dương!

Ngày 30-4-/975 ông có mặt ở Sài Gòn, nay nhìn lại ông có những suy nghĩ riêng ra sao?

Nhìn lại một cách ngay thật thì cảm giác của tôi hôm ấy, hơn 23 năm trước, là: mệt, đói, khát, vui. Lo viết cho tốt bài tường thuật, tìm cách gửi ra Hà Nội được sớm.

Tôi không tự đề cao mình, không hề tự nhận là người nhận đầu hàng? Tôi chỉ là một nhà báo, có may mắn đi cùng một đơn vị đầu tiên đến trung tâm Sài Gòn để kịp chứng kiến một sự kiện lịch sử chiến tranh chấm dứt.

Tôi chỉ nhớ một câu nói với các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Hữu Có... hôm ấy: "Chỉ có người Mỹ thua, còn người Việt nam chúng ta đều thắng!" làm cho các ông ấy đang ưu tư, lo lắng bằng vui vẻ và bắt đầu cười (tôi còn giữ bức ảnh có hình ông Mẫu với nụ cười hôm ấy).
Từ khi ở trong nước, tôi rất buồn thấy ba hồi ký của ba ông tướng: Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà, đều cố nhấn mạnh vai trò của cá nhân mình, một sự tranh công lộ liễu sau khi hằng triệu người đã bỏ mình. Cụ Ngô Thức, một nhân sĩ Thăng Long có lý khi trách rằng từ sau chiến tranh đến nay vẫn chưa có một văn kiện tổng kết chiến tranh, sâu sắc, hóa giải các thù hận, mở ra một kỷ nguyên hòa bình, phát triển trên cơ sở đồng thuận quốc gia và dân tộc...

Sau ngày 30.4.1975, tình hình Việt nam diễn biên ra sao?

Sau 30.4.1975, tôi ở Sài Gòn liền hơn bốn năm, thỉnh thoảng mới ra Hà Nội. Tôi làm nhiệm vụ tổ chức in báo Quân đội nhân dân ở Sài Gòn và thu lượm tin tức về mọi mặt ở miền Nam cho báo này. Người dân miền Nam yên lòng vì không có tắm máu, không có tòa án nhân dân ở góc đường. Nhưng một loạt chủ trương làm họ lo sợ đến hốt hoảng. Các sĩ quan cũ, viên chức cũ, người thuộc các đảng phái cũ phải trình diện, học tập cải tạo, thực tế là ở tù mút mùa. Việc đổi tiền giáng vào cuộc sống của dân nghèo và tiểu thương (vì nhà giàu giữ vàng, chứ không giữ tiền). Các nhà buôn lớn, sản xuất lớn bị kiểm kê trong cái gọi là "cải tạo công thương nghiệp". Các khu "kinh tế mới" ở các vùng heo hút được mọc lên để tư bản, tiểu thương, dân nghèo "trở nên người lao động lương thiện", thực tế là đày đọa họ theo kiểu "đem con bỏ chợ".

Các chủ trương trên làm tôi sững sờ, nản chí, hoài nghi. Việc thải loại các nhân vật trong chính phủ Cách mạng lâm thời, trong Mặt trận dân tộc giải phóng, giao cho họ những chức vụ hình thức (mặc dù họ là những trí thức tương đối trong sạch và có kiến thức hơn những người lãnh đạo đảng cộng sản) làm tôi nản lòng thêm. Làn sóng di tản lan rộng, hàng ngàn người, hàng chục ngàn người mỗi tháng lao ra biển cả, đi tìm một nơi xa xôi, bất định, để thoát cảnh nghèo khổ, tủi nhục, bị khinh thị, con cái không có tương lai ở trong nước. Tôi gặp và hỏi chuyện một số người di tản bị công an chặn giữ cốt để moi thêm vàng. Đây là những "giọt nước làm tràn cốc" trong lương tâm tôi. Đảng mà tôi tin cậy, tự hào... đã trở nên xa lạ với những chủ trương kỳ quặc, ngu dốt, dại dột của những người say chiến thắng.

Tôi đã suy ngẫm và cho rằng đó là do tệ kiêu ngạo sau khi giành được toàn thắng quá lớn, ngoài mong đợi, những người lãnh đạo say mê với chiến thắng bất ngờ, tự cho phép mình làm mọi điều phi lý Tôi từng nghe họ nói: trên đời không gì khó bằng đánh thắng đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, siêu cường số một của thế giới. Thắng Mỹ rồi thì làm gì cũng được cả! Từ đó là những chủ trương làm mất lòng dân, làm mất uy tín với thế giới, đẩy cả một bộ phận dân tộc ở miền Nam vào thế thù hận, đối kháng dai dắng.

Cách đây hơn 20 năm, sau khi kết thúc chiến tranh, tình hình lúc ấy ra sao và gây cho ông ấn tượng gì? ông nhận định như thế nào về diễn biến xã hội Việt nam sau ngày 30.4.1975?

Tôi eòn nhớ vào thời điểm sau ngày 30.4.1975, đại đa số nhân dân hết sức phấn khởi. Phấn khởi nhất là vì đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, với biết bao hy sinh, đổ nát, bây giờ đã bước vào thời kì hòa bình. Đất nước bị chia cắt từ năm 1954, sau hơn 20 năm, nay đã thống nhất. Tôi nghĩ, vào thời điểm ấy nếu có sự lãnh đạo sáng suốt, chu đáo, có thảo luận một cách đầy đủ để có chủ trương đúng, làm thế nào để xây dựng đất nước Việt nam phát triển nhanh nhất, tận dụng ưu thế đất nước đã thống nhất và hòa bình, Việt nam sẽ tiến nhanh hơn nhiều. Nhưng ngay sau đó, tình hình diễn ra không như nhiều người mong đợi. Nay có dịp nhìn lại thì thấy rằng, ngay sau khi giành thắng lợi trọn vẹn, tình hình không diễn ra theo chiều hướng sáng sủa, mà càng ngày càng đi xuống một cách rõ rệt. Người ta nối cũng có lý rằng, sau chiến thắng thường bước vào kì thất bại, sau một thắng lợi lớn có khi lại rơi vào một thời kì hết sức đen tối. Những người lãnh đạo cộng sản bảo thủ ở Việt nam đã bắt đầu thua ngay sau thắng lợi huy hoàng, vì tầm nhìn nông cạn, vì hiếu thắng, chủ quan, vì sự kiêu ngạo, tự phụ của họ. Khi thắng lợi, nếu không tỉnh táo, sẽ dễ bị chất men tự phụ làm ngây ngất. Khi đã mất tỉnh táo tất sẽ mù quáng, cho mình là nhất thiên hạ, làm gì cũng thành công mà không có gì khó khăn trở ngại. Cho nên, họ không cân nhắc thận trọng và đầy đủ, không tính toán chu đáo và khoa học để có những chủ trương đúng. Sau đó, tôi thấy họ đề ra những chủ trương rất nguy hiểm và tệ hại.

Đó là:

- Cải tạo vội vã nền kinh tế miền Nam do tham vọng đi lên chủ nghĩa xã hội, hợp tác hóa vội vàng, dự định trong vòng hơn một năm là hoàn thành hợp tác hóa toàn miền Nam. Cải tạo công thương nghiệp ở miến Nam nhằm xóa bỏ công thương nghiệp tư nhân ngay tức thời, dưới danh nghĩa "đánh gian thương" Chính do cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ tầng lớp tư sản dân tộc đã làm cho tình hình kinh tế miền Nam nói riêng và cả nước nói chung bị ảnh hưởng trầm trọng và ngày càng xuống dốc.

- Chiến lợi phẩm thu được sau chiến tranh, như 27 tấn vàng trong ngân khố do phía Việt nam Cộng Hòa giao lại, và nhất là thiết bị, dụng cụ, máy móc, vật liệu. phục vụ chiến tranh do quân đội Mỹ để lại trong tổng kho Long Bình và ở nhiều nơi khác, có thể dùng trong hai, ba chục năm vẫn chưa hết. Chỉ tính riêng số bản kẽm dùng để in báo, tôi đã đến xem, thấy có thể dùng mấy chục năm không hết. Nếu số chiến lợi phẩm đó được bảo quản chặt chẽ, thống kê đầy đủ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, thì đây là một nguồn vốn lớn để phát triển đất nước. Nhưng thực tế, tất cả số chiến lợi phẩm đó không được quản lý tốt và đã bị phung phí, thất thoát, "rơi vãi" hết, thậm chí chui vào túi cá nhân, không phát huy tác dụng có lợi cho đất nước.

Sau khi giành thắng lợi, đáng lẽ quân đội có thể giảm quân số hoặc chuyển một số lực lượng quân đội, lúc bấy giờ khoảng 1 triệu 700 ngàn quân, vào những công việc cần thiết về kinh tế hoặc xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, cầu cống... Nhưng lực lượng đó vẫn được giữ nguyên dưới cờ. Sau dó mấy năm tôi được theo một phái đoàn cao cấp của tổng bí thư đảng sang thăm ấn Độ và In-đô-nê-xi-a. Trong lúc dự hội đàm, tôi giật mình và hết sức băn khoăn, vì như In-đô-nê-xi-a chẳng hạn, dân số gần 200 triệu người, gấp ba lần dân số của Việt nam lúc đó mà quân đội của họ chưa bao giờ lên trên 1 triệu quân. Những người lãnh đạo In-đô-nê-xi-a nói, nếu chúng tôi tăng quân đội lên trên 1 triệu người, thì nền kinh tế sẽ nguy ngập. Còn ấn Độ có số dân đông gấp gần mười lần Việt nam, nhưng quân chính quy của họ chưa bao giờ vượt quá 1 triệu 200 người, bằng khoảng hai phần ba quân số của quân đội Việt nam. Số quân lớn như vậy là gánh rất nặng đối với nền kinh tế Việt nam vốn đã nghèo nàn lại càng thêm gay go. Điều đó làm tôi nản chí, muốn viết những bài báo để báo động vấn đề này, nhưng những người lãnh đạo không muốn nghe. Lập luận của họ là sau khi thắng lợi, nền kinh tế nhất định bay bổng và Việt nam sắp trở thành "con rồng mới" trong một thời gian ngắn.

- Tôi đã đề cập nhiều lần về chủ trương chính quyền trong nước đưa hơn 200 ngàn viên chức và sĩ quan trong chính quyền miền Nam đi cải tạo trong các trại kiểu nhà tù để đày đọa, hạ nhục họ. Lúc đầu nói "đi học tập ba tháng nhưng sau đó cứ kéo dài, ba năm, mười năm, có người tới mười ba năm. Tôi thấy chủ trương này rất sai lầm, độc ác, mang tính trả thù hèn hạ, đáng ra không nên có ở người chiến thắng và tự cho là "chính nghĩa

Xin ông cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân diễn ra như thế nào? Nguyên nhân do đâu? Sự kiện thuyền nhân đã ảnh hưởng gì đến tình hình chung của Việt nam?

Sự kiện "thuyền nhân" ("boat people") có thể nói là một sự kiện bất hạnh cho Việt nam, nhiều người đã phải bỏ đất nước ra đi. Việc một số người Việt nam di tản vào tháng 4.1975 trước khi quân đội miền Bắc vào Sài Gòn là một vấn đề thực tế xảy ra khi cuộc chiến chuyển sang giai đoạn cuối. Người ta lo sợ cái gọi là "cuộc tắm máu" được bộ máy tuyên truyền của Mỹ và chính quyền miền Nam tung ra lúc đó Tuy nhiên, cái gọi là "cuộc tắm máu" đã không xảy ra. Nhưng điều tôi cho là cay nghiệt không kém là chính sách phân biệt đối xử như tôi đã nói ở trên. Sau ngày 30.4.1975, vẫn có nhiều người ra đi kéo dài qua các năm 1975, 1976, 1977, :Dnh cao là năm 1978, trong chiến dịch bài Hoa, xua đuổi người Hoa đang sinh sống ở Việt nam, nhằm kích động mâu thuẫn giữa hai dân tộc Việt và Hoa, để tiếp tục đợt cải tạo tư sản. Sự kiện "thuyền nhân" là một sự kiện chính trị đè nặng lên xã hội Việt nam, vì không phải chỉ có người từ miền Nam, mà có không ít người từ miền Bắc ra đi. Hà Nội giải thích sự kiện này như thế nào? Tôi đã từng nghe trực tiếp nhiều cán bộ lãnh đạo giải thích là, "không việc gì phải lo ngại cả, số đó là những phần tử xấu, họ đã phản bội Tổ quốc, bỏ đất nước ra đi, họ là những phần tử ngụy quân, ngụy quyền, làm tay sai cho đế quốc, bây giờ bám gót chủ chạy sang châu Âu châu Mỹ, Trung Quốc, Ca-na-đa... thì không có gì đáng tiếc, không cần ngăn cản, thậm chí, họ đi là một cơ hội tốt cho chúng ta". Có người lãnh đạo họp ở chỗ đông người nói là "bọn đó (ám chỉ thuyền nhân) như Việt gian bán nước, mất gốc dân tộc". Có người còn ví "thuyền nhân" như là "cục thịt thừa, đoạn ruột thừa của đất nước, nó đã bị viêm, bị ung thư thì phải cắt bỏ, cơ thể đất nước càng lành mạnh"... Sau này, tôi được biết một bí mật còn thậm tệ hơn nữa. Hồi ấy ở miền Nam, chính cơ quan an ninh được phép bán bãi, bán tàu, thu vàng của mỗi người vượt biên từ một đến ba lượng, rồi tổ chức cho họ đi, để lấy tiền thu vào "ngân sách". Ngân sách nào và bao nhiêu thì không ai biết, ngay Quốc hội cũng không biết. Tôi biết trong Trung ương đảng cũng không thảo luận về vấn đề này. Thế thì số tiền này rơi vãi đi đâu? Chắc chắn vào những túi tham nhũng. Lúc bấy giờ có vụ giám đốc Công an Biên Hòa Mười Vân bị tử hình vì nhiều tội khác nữa, thì người ta mới được biết có những chuyện tham nhũng hàng mấy ngàn lượng vàng xung quanh sự kiện vượt biên, "thuyền nhân" này.

Quan sát sự kiện "thuyền nhân" lúc bấy giờ, tôi thấy trong số những người ra đi có nhiều trí thức, công chức trong chính quyền cũ. Nguyên nhân là do chính sách của những người lãnh đạo đảng cộng sản đã bắt hàng trăm ngàn người vào tù, đương nhiên, gia đình và người thân của họ phải ra đi, vì tất cả đều bị coi là kẻ thù. Nguyên nhân nữa là chính sách phân biệt đối xử, phân loại ngụy quân, ngụy quyền. Báo chí, đài phát thanh tiếp tục miệt thị họ là tay sai của đế quốc. Chính sách tuyển dụng làm việc, học tập, đào tạo đối với con cái của họ cũng khắt khe, bất công. Cho nên người ta nghĩ, ở lại trong chế độ cộng sản, con cái của họ sẽ không có tương lai, không được học tập, đào tạo, phát huy và đối xử một cách bình đẳng, luôn cảm thấy mình là công dân loại hai trong xã hội. Nhân dân Việt nam, nói chung, trọng danh dự có tính tự trọng cao. Cho nên, khi đã bị khinh miệt, chà đạp danh dự, bị coi là ở ngoài lề xã hội, không có tương lai, khi có cơ hội, tất nhiên người dân sẽ tìm đường ra đi, mặc dù thuyền bè vượt biển ọp ẹp, đại dương sóng gió nguy hiểm vô cùng. Họ phải liều mình, buộc lòng gạt nước mắt từ biệt người thân, nhắm mắt lao vào màn đêm hãi hùng của biển cả để ra đi, đánh đổi tính mạng lấy cuộc sống tự do, tương lai sáng sủa hơn. Đây là cái tội lớn của những người lãnh đạo tàn nhẫn, giáo điều và bảo thủ.

Theo tài liệu công bố ở Liên hiệp quốc, con số thống kê "thuyền nhân" bị chết ngoài biển có thể đến một phần năm, phần sáu tổng số người ra đi. Nghĩa là, cứ một triệu người ra đi, thì có khoảng 200 ngàn người chết. Sau này chúng ta phải thống kê qua khai báo của các gia đình xem số người mất tích là bao nhiêu, phân loại nguyên nhân tử nạn, do thuyền bè hỏng, do hải tặc, hay do bão tố, do mất phương hướng... Vì những người tổ chức vượt biên tham lam, muốn lấy được nhiều vàng, nên chở quá tải gấp hai, ba lần tải trọng cho phép, dẫn đến lật thuyền cũng cho là nguyên nhân rủi ro ngoài biển. Những người lãnh đạo cộng sản không bao giờ muốn nhắc tới chuyện này, cho nên chúng ta càng cần phải nói rõ và thảo luận công khai, làm rõ những nguyên nhân, chỉ rõ sự kiện "thuyền nhân" bắt nguồn từ đâu.

Theo ông, Quân đội Nhân dân Việt nam và Quân lực Việt nam Cộng hòa, quân đội nào có chính nghĩa?

Câu hỏi này khó có thể trả lời một cách rõ ràng, thỏa đáng, bởi vì tùy chỗ đứng của mỗi người và cũng tùy thời điểm lịch sử mà có những cách lý giải khác nhau. Bên phía Quân đội Nhân dân Việt nam, tôi thấy anh em nhập ngũ, vào đảng trong quân đội, vào Nam chiến đấu, họ được giáo dục, tuyên truyền để nghĩ rằng, "đánh Mỹ", "giải phóng miền Nam" là một sứ mệnh lịch sử. Bởi vì Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đã chia đôi đất nước do sự áp đặt của các cường quốc. Nghĩa vụ của toàn dân là phải thống nhất đất nước Việt nam. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, dự kiến sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử và thống nhất đất nước. Nhưng hai năm đồ phía Mỹ, Pháp, phía chính quyền miền Nam không muốn thực hiện tổng tuyển cử. Chính vì vậy, sau này phía cộng sản đặt ra chuyện vùng dậy của nhân dân, tất nhiên cũng do sự lãnh đạo của những người cộng sản còn nằm ở phía Nam, thúc đẩy phong trào đồng khởi, tạo ra phong trào nổi dậy tại chỗ ở miền Nam. Họ đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân ở phía Nam để xây dựng lực lượng Quân giải phóng nhỏ bé ban đầu, sau này được tăng cường bằng lực lượng vũ trang tập kết ra Bắc trở về miền Nam và sau nữa là các đơn vị hùng hậu của miền Bắc được đưa vào. Họ lập luận: đây là sự nghiệp thống nhất đất nước, đánh đuổi ngoại xâm, trước kia là Pháp và hiện nay là Mỹ. Còn Quân lực Việt nam Cộng hòa ở miền Nam, như tôi đã nói ở trên, là do nước ngoài dựng lên từ quân đội cũ do thực dân Pháp thành lập.

ở miền Nam, người ta lại lập luận rằng, miền Bắc đã cưỡng chiếm miền Nam, đã đưa quân ồ ạt vào miền Nam, do đó họ phải có lực lượng tự vệ một cách chính đáng. Cũng như ngày 30.4.1975, một bên gọi là ngày "giải phóng", ngày "thống nhất đất nước", còn phía bên kia gọi là ngày "quốc hận", ngày "mất nước". Tôi nghĩ, đây là hai suy nghĩ đối lập nhau, một lúc nào đó chúng ta phải thảo luận cho ra lẽ, hoặc có một quan điểm nhất trí tương đối gần nhau. Tất nhiên, trong điều kiện như thế chúng ta phải lưu tâm đến dư luận của tuyệt đại đa số nhân dân. Bất cứ bên nào cũng không nên độc đoán, áp đặt mọi người phải nghe theo quan điểm của mình, hoặc trong khi thảo luận chưa ngã ngũ, không nên tự cho quan điểm của mình là chân lý. Mỗi người nên tự tìm hiểu và có chính kiến của mình, làm thế nào để con cháu mình có nhận thức đúng đắn về những gì đã xảy ra. Do đó, tôi nghĩ dần dần người ta sẽ đi đến chấp nhận ý kiến của nhau và nhận ra rằng chân lý không phải là điều dễ đi tới. Bản chất cuộc chiến tranh Việt-Mỹ diễn ra trên đất nước Việt nam có nội dung chồng chéo lên nhau. Nó không phải là đơn thuần, mà vừa là cuộc nội chiến, vừa là cuộc đọ sức giữa hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, vừa mang tính quốc tế, mang vai trò tiền đồn giữa phe này đối với phe kia, vừa có tính dân tộc và có tính chất đảng phái nữa, tùy theo lập trường, chỗ đứng và góc độ xem xét. Những điều đó phải có ý kiến phân tích của các nhà sử học, các nhà khoa học, các nhà chính trị, trao đổi một cách bình tĩnh thì mới có thể ngã ngũ được. Tốt nhất, trong lúc này hãy hết sức lắng nghe nhau, không nên có một ý định cố chấp, càng không nên có sự áp đặt.

Lập trường của tôi là chúng ta phải thấy được các bản chất ấy xen kẽ lẫn nhau. Cuộc chiến Việt-Mỹ không hoàn toàn là cuộc nội chiến, không hoàn toàn là cuộc chiến tranh ý thức hệ, cũng không hoàn toàn là cuộc chiến tranh vì độc lập đơn thuần, mà cũng không phải chỉ là cuộc chiến tranh giành lấy sự thống nhất và quyền sống của một dân tộc. Cần nhận định bản chất cuộc chiến tranh ấy đúng như nó có. Thấy được về phía này có mặt đúng, mặt sai, phía kia cũng có điều cần làm, có điều đáng tiếc Cuộc chiến này không phải là định mệnh, nhất thiết phải có. Nói chung, cả dân tộc Việt nam là nạn nhân của thời thế, của những thế lực lãnh đạo độc đoán, nạn nhân của những ý thức hệ, của những học thuyết ngoại lai. Ngoài ra, ý muốn chân chính của dân tộc Việt nam được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc và thời cuộc xoắn chặt với nhau, lại bị những người lãnh đạo tuân theo một học thuyết ngoại lai, nuôi dưỡng những ý đồ xa lạ của các thế lực quốc tế mà họ phụ thuộc, tạo lên một cuộc chiến tranh bị thảm, đáng tiếc, đáng lý ra có thể tránh được Do vậy, cuộc tranh luận về bản chất chiến tranh Việt-Mỹ, hay Nam-Bắc, tranh luận về chính nghĩa thuộc về phía nào, tôi nghĩ không dễ đi đến chỗ rõ ràng. Nói thế không phải là ba phải, mà là thực tế nó như thế. phải tách những người lãnh đạo cao nhất ra khỏi quần chúng chiến sĩ và nhân dân, thậm chí tách những người lãnh đạo đảng cộng sản với số đông đảng viên ở cơ sở mới phân tích rành mạch vấn đề này được. Bởi vì tuy ở cùng một bên, nhưng suy nghĩ, mục đích của họ lại có điểm trùng nhau, cũng lại có điểm khác nhau. Chúng ta phải có thời gian để làm nguôi đi các hận thù thì mới có thể lắng nghe nhau và có thể tiếp cận được chân lý vốn khá phức tạp. Cũng từ đó mới nảy sinh ra vấn đề là, có những việc đã xảy ra đều do cả hai bên cùng làm, nhưng bên này gọi đó là "tội ác", còn bên kia lại cho là "chính đáng" và không gọi là "tội ác". Tôi lấy ví dụ: nạn nhân chiến tranh ở phía Quân đội Nhân dân Việt nam là rất lớn, bố mẹ bị bom Mỹ giết hại, anh chị em bị chết ở chiến trường miền Bắc có, miền Nam có, con số lên đến mấy triệu người. Những cái chết này đều được tố cáo là "tội ác của đế quốc và tay sai". Đây là một tổn thất rất lớn khó có thể nguôi ngoai, do phía Mỹ cùng một bộ phận đồng bào ở miền Nam gây nên. Và ở miền Nam cũng thế. Rất nhiều gia đình bị gọi là "cộng sản", nhưng thật ra là gia đình của những anh em đi tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ bị chính quyền địa phương của Sài Gòn phát động những phong trào "tố Cộng", "diệt Cộng", chiến dịch Phượng Hoàng nhằm phát hiện "tay chân của Việt Cộng... Chúng tôi nghĩ, lúc bấy giờ những người do lòng yêu nước, giúp đỡ Quân giải phóng miền Nam đã bị bắt bớ bị tù đày, bị tra tấn, bị thủ tiêu, con số cũng không phải là ít, có người nói đến hai, ba chục vạn...

Còn Quân lực Việt nam cộng hòa cũng bị tổn thất bởi các cuộc tấn công trong các cuộc giao tranh, bị pháo kích, trong đó có cả đồng bào bị chết lây, có nơi chợ búa, trường học cũng bị pháo kích, rồi có người hoặc bà con thân thích bị thủ tiêu qua các đợt "diệt tề, trừ gian"... tức là thủ tiêu những người gọi là "tay sai của địch".

Bây giờ nhìn lại, chúng ta không nên coi người nào là của riêng một phía bên mình. Tinh thần chung của chúng ta là "gà cùng một mẹ... chớ hoài đá nhau".

Chúng ta phải đau với cái đau khi lấy tay phải đánh vào tay trái, dùng tay trái đâm vào tay phải, anh em với nhau mà tàn sát lẫn nhau, điều mà chúng ta không hề muốn và do hoàn cảnh của lịch sử đưa đẩy dẫn đến bị đát như vậy. Có tinh thần hòa hợp, chúng ta mới thấy cái đau ấy là nỗi đau chung của dân tộc. Không nên lấy cái gọi là "ta" đã diệt bên này nhiều hơn bên kia, hay cái tổn thất của bên này nặng nề hơn bên kia, vui mừng hả hê vì đã diệt được đồng bào của mình... mà phải tỉnh táo nhìn lại. Đúng như ý kiến của một vị ủy viên Trung ương đảng Cộng sản Việt nam là anh Hoàng "lửa", đã về hưu, có tinh thần dân chủ, đang bị chính quyền trong nước phân biệt đối xử: "Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại cuộc chiến bằng con mắt anh em với nhau để hòa giải hòa hợp, nên tổ chức một buổi cầu siêu chung của tất cả bà con anh em dân tộc Việt nam ta đã bị chết, bị hy sinh trong cuộc chiến này ở cả hai bên".

Xét cho cùng, thù địch giữa hai bên chỉ là giả tạo do bị lừa dối, lầm lẫn và thúc ép. Về thực chất, bên ta đã đánh nhau với bên mình.

Có một số ý kiến của những người từng trong đảng Cộng sản Việt nam nhưng có quan điểm dân tộc sâu sắc đề xuất là sau này nên tổ chức một buổi lễ an táng cho ông Hồ Chí Minh đàng hoàng theo nghi thức dân tộc, để ông ta có thể được chôn cất tử tế, hoặc được thiêu xác theo như nguyện vọng của ông, nắm tro còn lại được chôn ở một nơi nào đấy làm thành một di tích cho gia đình, người thân và những ai còn quí mến ông ta có nơi đến để tưởng niệm. Có người mê tín cho rằng vì ông Hồ không được hỏa thiêu, thi hài không được nhập thổ như ông muốn, hồn ông còn vất vưởng làm đất nước không yên ổn. Còn lăng của ông ở giữa thủ đô Hà Nội hiện nay nên chuyển thành Đài tưởng niệm tất cả những người đã hy sinh trong cuộc chiến của tất cả các bên trong suốt 40 năm ròng rã. Đấy là đài kỷ niệm những oan hồn của đất nước đã chết trong chiến tranh. Qua lễ cầu siêu được tổ chức trong cả nước, chúng ta cầu nguyện cho hương hồn những người đã chết, bất kể họ thuộc dân tộc nào, địa phương nào, đơn vị nào, thời điểm nào, để thể hiện chúng ta quí trọng tất cả những người đã chết oan trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Tôi nghĩ, đó cũng là một cách hòa giải. Việc tranh luận bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa, cái chết bên nào là chính đáng... nên cho qua và coi đây là một nỗi đau, một sự kiện bị thương của lịch sử, nhưng điều cuối cùng chúng ta đã đạt được là độc lập, thống nhất. Và bây giờ chung sức để xây dựng đất nước, để bù lại những thời gian chiến tranh đã mất, nhìn nhau bằng con mắt không còn phân biệt "ta-địch", bên này-bên kia như trước nữa. Tôi mong rằng đã đến lúc chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện bằng được điều đó

Có nhận xét rất có tình có lý rằng trong cuộc chiến vừa qua, bên "ta" đã đánh với bên "mình cho nên nói đến ai thắng ai thua là điều vô nghĩa. Thật thâm trầm vậy.

Ông đã ở trong quân đội miền Bắc trong một khoảng thời gian rất dài, gần 40 năm. Ông có luyến tiếc thời gian đó không?

Tôi ở trong Quân đội nhân dân Việt nam 37 năm rưỡi. Bây giờ nghĩ lại, tôi thừa nhận mỗi người đều là một sản phẩm của những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể nhất định. Nếu như tôi sống ở miền Nam, có khi tôi đã không ở trong Quân
Trả Lời Với Trích Dẫn