Ðề tài: Mây mù thế kỷ
View Single Post
  #10  
Old 05-20-2004, 05:18 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Mặt khác, trong các buổi sinh hoạt chính trị, ở trường quân sự cao cấp, ở trường đảng Nguyễn ái Quốc và khi tổng kết chiến tranh, các nhà lãnh đạo cộng sản lại nói khác. Đại thể là: chúng ta đã luôn giữ thế chủ động trong chiến tranh. Chúng ta đã biết nhìn xa, chôn dấu khá nhiều vũ khí ở khắp các địa phương miền Nam, đã để lại một số nòng cốt cán bộ quần chúng và cán bộ quân sự, cán bộ lãnh đạo; từ 1959 đã sớm phát động các cuộc đồng khởi ở Nam Bộ, Tây Nguyên; đã sớm xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh làm đường vận chuyển chiến lược; đã luôn coi Lào Miên là thuộc chiến trường thống thất ba nước Đông Dương của quân đội nhân dân; chúng ta không bao giờ để cho các hiệp định quốc tế trói chân trói tay và khi thời cơ đến đã không ngần ngại dốc hầu hết lực lượng vào miền Nam để giành toàn thắng.

Đến nay, qua các lập luận trên, tôi thấy lộ ra sự thật là những người lãnh đạo cộng sản đã chủ động trong các bước tiến công để chiếm lĩnh miền Nam bằng vũ lực bằng mọi giá, bất kể phải hy sinh đến mấy triệu sinh mạng đồng bào mình. Họ có ý đồ rõ rệt là đưa cả nước gia nhập vào phe xã hội chủ nghĩa - trên thực tế là một nước đàn em của Liên bang xô viết. Đó là thực chất, được che dấu khá kỹ.

Ông có đồng ý với cách giải thích trên đây của những người lãnh đạo cộng sản không?

Hồi còn chiến tranh, tôi rất đồng tình, còn thích thú về cách giải thích của họ. Từ ngày chiến tranh kết thúc, với diễn biến bị đát của tình hình, tôi xem xét lại toàn bộ nhận thức, suy nghĩ của mình, và dần dần rời xa cách giải thích theo lối tuyên truyền lấy được trên đây. Những mây mù trong nhận thức được giải tỏa.

Có 3 điểm quan trọng dưới đây:

Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận. Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa, nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao... còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là "giải phóng!" Vậy thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập, nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận. Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết...

Hai là tiêu chí của chế độ là độc lập, tự do, hạnh phúc. Vậy mà độc lập thì chưa đầy đủ; tự do là con số không, hạnh phúc thì mờ mịt; mà bất hạnh thì tràn đầy, không bút nào tả xiết. Vậy cái chế độ này là một chế độ dị dạng, không xứng đáng để mang tính mạng ra mà giành lấy! Các oan hồn của triệu triệu anh hùng, chiến sĩ, liệt sĩ, nhân dân ở các bên bỏ mình trong chiến tranh đang đứng dậy chất vấn, hỏi tội những người lãnh đạo cộng sản mù quáng, tham lam, vị kỷ.

Ba là: trong chiến tranh, một số trí thức quan tâm đến thời cuộc nghĩ rằng những hạn chế tự do là điều cần thiết trong thời chiến, nhằm giành chiến thắng trước hết. Sau chiến tranh, cuộc sống sẽ trở lại bình thường, với quyền tự do đầy đủ của công dân. Và nhiều lúc một số người lãnh đạo cộng sản cũng trấn an dư luận như vậy. Thế nhưng sau chiến tranh vẫn là chế độ hà khắc, mang tính chất cảnh sát với chế độ hộ khẩu, lý lịch phi lý, những hành động đàn áp tôn giáo và kiểm duyệt báo chí, đôi khi còn quá quắt hơn thời chiến. Người ta nhận ra ngày càng rõ chế độ độc đoán độc quyền đảng trị là hoàn toàn ngược với bản chất của dân, do dân và vì dân mà chế độ từng rêu rao. Đây là một quả lừa nữa của một chế độ lạc lõng với thời đại. Thật đáng xấu hổ, chế độ mang tên cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, về mặt tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, được dư luận và các tổ chức quốc tế xếp cùng một loại với các chế độ tàn bạo, độc tài ở Miến Điện, Ly-bi, Uganđa, Irak!

Theo ông Việt nam Cộng Hòa có thể thắng được trong cuộc chiến tranh này không?

Các bạn Mỹ đã hỏi tôi câu hỏi gần như vậy: phía Hoa Kỳ có thể thắng không? Tôi đã trả lời trong phần trên. Các bạn Mỹ tỏ ra hài lòng. Với các bạn Việt nam, thật là khó cho tôi để trả lời cho rõ. Khó vì tôi không muốn làm phật lòng các bạn. Nhưng tôi nghĩ lại thấy rằng đối với nhau ngay thật là hơn cả. Chiến tranh huynh đệ tương tàn đã chấm dứt hơn 20 năm. Nay chúng ta là anh em, ôn tồn nói chuyện với nhau. Chiến tranh đã chấm dứt và sẽ không bao giờ có thể tái diễn. Cái khó của các bạn trước hết là về chính trị, là thuyết phục được nhân dân rằng chính nghĩa là thuộc về phía mình.

Tôi đã nghĩ thật nhiều. Nếu như sau 1954 ở miền Nam, xuất hiện một tổ chức lãnh đạo có uy tín hơn, từ đó cũng xuất hiện một người lãnh đạo tài giỏi, một tập thể lãnh đạo tài giỏi hơn là chính quyền ông Ngô Đình Diệm, thì tình hình có thể khác. Nhìn lại tình hình miền Nam thời chiến tranh, về nhân sự lãnh đạo, một số chuyên viên trẻ có nhiệt tình, tâm huyết và kiến thức chưa kịp trưởng thành và tạo lập uy tín. Các ông Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh cũ quá. Cụ Hương quá già nua. Có lẽ lề lối gia trưởng, tuần tự mà tiến còn nặng nên việc đưa nhân tài lên một cách vượt bậc bị vướng víu. Ngay từ đầu, cái thế của ông Diệm đã không hấp dẫn với nhân dân. Ông là một cụ lớn cũ của triều Bảo Đại thời thuộc Pháp, do người Mỹ đưa về lại cai trị theo lối gia đình với ông Nhu là cố vấn bên cạnh, cộng thêm bà vợ kiêu căng, ngạo mạn, lắm tham vọng; với ông Cẩn là lãnh chúa miền Trung, ông Thục đầy quyền thế cả về chính quyền và thần quyền ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, và bà Cả Lễ rất cổ xưa, sành buôn bán...

Sau ông Diệm là các ông tướng, tất cả đều là hạ sĩ quan, cai, đội hoặc sĩ quan sơ cấp thiếu úy, trung úy thời quân đội thực dân Pháp, nên uy tín chính trị không thể lớn được?

Nam Việt nam không thể xây dựng một chính thể tương đương như ở Đại Hàn hay Xinh-ga-po. Tại đó, được Hoa Kỳ, Nhật Bản và phương Tây giúp đỡ chế độ bảo vệ được mình, còn phát triển phồn vinh và trên quá trình dân chủ hóa. Vì sao vậy? Tôi tự hỏi và thật khó tìm ra trả lời.

Hồi ấy, Nam Việt nam có ít nhiều dân chủ, ít nhiều quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình, điều hành... thế nhưng nạn tham nhũng quá nặng, quá rộng tàn phá nặng nề công bằng xã hội, và viện trợ Mỹ vào càng nhiều càng làm xã hội bê bối thêm. Đó là những chỗ yếu chí mạng mà không có người đủ tài năng, đủ uy tín khắc phục nổi. Lòng dân không yên thì mọi việc đều khó. Cũng như tình hình hiện nay trong cả nước.

Về quân đội, nếu Mỹ có chủ trương chiến lược đúng, hợp thời (như tôi đã nói với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và cựu chiến binh Mỹ ở trên) thì Mỹ tuy rất khó có thể thắng, nhưng có thể tránh thất bại quân sự nặng nề đến như đã xảy ra. Và đó là do lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ không ngang tầm, các tướng lãnh chỉ đạo chiến tranh thiếu năng động, sáng kiến... Tôi nghĩ các ông tướng Việt nam Cộng Hòa cũng cần nhìn nhận phần khuyết điểm, thiếu sót, phần trách nhiệm khá lớn của mình, vì ít có chế độ nào được sự chi viện về quân sự từ bên ngoài to lớn đến vậy.

Anh em binh sĩ Việt nam Cộng Hòa không kém, các sĩ quan sơ cấp, trung cấp không kém so với quân đội Nhân Dân. Tuy có đơn vị ít nhiều thiện chiến, có đơn vị yếu kém, nhưng nhìn chung là hai quân đội ngang nhau. Chịu đựng gian khổ, bền bỉ, lanh lẹn tháo vát, thông minh sáng tạo, họ không khác nhau, không hơn kém nhau gì nhiều. Cùng một gốc dân tộc, cùng từ nông dân, hoặc tầng lớp trung lưu mà ra.

Do đó tôi nghĩ các tướng lãnh Việt nam nên nhìn lại mình để thấy phần trách nhiệm của mỗi người trong cục diện bị thảm chung. Điều đó sẽ làm cho uy tín được phục hồi, lòng quý mến của thuộc cấp được lưu giữ lâu bền.

Theo ông việc loại bỏ ông Ngô Đình Diệm có phải là một điều tai hại cho Việt nam Cộng Hòa không?

Theo tôi, điều ấy tùy thuộc vào việc đưa ai lên thay ông Diệm. Nếu đưa lên một nhà lãnh đạo chính trị thông minh, trong sạch, có uy tín, trẻ trung hấp dẫn nhân dân về nhiều mặt, được quân đội trọng nể thì đó là điều tốt. Tôi nghĩ ở đâu cũng có thể kiếm ra nhân tài. Nhưng vấn đề là tìm ra, phát hiện ra, bồi dưỡng lên, gây vốn chính trị rồi vun vén vào. Ông Clinton trước đây chưa hề ở thủ đô, chỉ là một chánh án của một tiểu bang, thua mấy keo bầu cử ở bang Arkansas, thế mà được phát hiện, bồi dưỡng, vun đắp lên làm thống đốc, rồi tổng thống...

Ông Leonel Jospin thủ tướng Pháp, mấy năm trước là giáo sư, còn ở hàng thứ 8 của đảng Xã Hội Pháp, chỉ ở hàng 20 trong giới chính trị Pháp, thế mà được tuyển lựa, bồi dưỡng, để thành thủ tướng có uy tín cao bậc nhất từ trước đến nay trước nhân dân Pháp.

Sau khi ông Diệm chết, các ông tướng cầm quyền chỉ lo lật nhau, đảo chánh liên miên, tình hình sa sút nhanh, vì vậy mới có nhiều người cho rằng biết vậy thì để ông Diệm lại, chỉ đưa ông Nhu về nghỉ thôi, thì tình hình sẽ không đến nỗi nào... Nhận định ấy có vẻ có lý.

Hội Cựu chiến binh Việt nam hiện nay ra sao? Hội Cựu chiến binh Việt nam hiện nay chỉ là một tổ chức quần chúng phục vụ cho sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch danh dự của Hội, thượng tướng Trần Văn Quang làm chủ tịch, ba phó chủ tịch là người miền Bắc, miền Trung và miền Nam.

Năm 1984, ở miền Nam có Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ, có báo riêng, có tinh thần đấu tranh chống độc đoán và tham nhũng. Nhưng những người lãnh đạo cao nhất coi tổ chức ấy là nguy hiểm và đã giải tán nó. Những người cầm đầu bị đàn áp, như ông Nguyễn Hộ, ông Tạ Bá Tòng và một số người khác hoặc bị khai trừ khỏi đảng, hoặc bị quản thúc. Tôi mong muốn sau này khi tình hình trong nước đã biến chuyển sâu sắc, chế độ độc đoán được thay thế bằng một chế độ dân chủ, các Hội cựu chiến binh của Việt nam và của Hoa Kỳ cùng với các Hội cựu chiến binh của quân đội Việt nam Cộng hòa cũ trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ liên lạc với nhau trên tinh thần hòa hợp, hòa giải, hóa giải các oán thù cũ trong chiến tranh, xây dựng tình hữu nghị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau theo khẩu hiệu "chúng ta là anh em". Trong chiến tranh, mỗi bên đều có những việc làm đáng tiếc. Nay, hãy quên đi những gì cần quên, làm những điều tốt đẹp, bấc cầu hữu nghị, đi đầu trong xây dựng tình bạn giữa hai dân tộc. Biết bao nhiêu việc cần hợp tác với nhau. Chấm dứt mọi toan tính có tính chất bạo động, dùng vũ lực. Mở rộng du lịch giữa các cựu chiến binh, đi thăm các danh lam thắng cảnh giữa Việt nam và Hoa Kỳ, đi thăm các chiến trường cũ ở Việt nam. Giúp đỡ nhau, tương trợ chăm sóc các thương binh nặng bất kể thuộc về phía nào trước kia, chăm sóc các gia đình liệt sĩ các trẻ em mồ côi... Cung cấp chân tay giả, xe đẩy cho thương binh. Trao đổi các đoàn thăm viếng, sách báo, tranh ảnh, phim, thư từ. Kết bạn với nhau giữa những người trước kia từng dự một trận đánh, một chiến dịch.

Có thể mở rộng quan hệ giữa các Hội cựu chiến binh Việt nam và Hoa Kỳ với các Hội cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu ở Việt nam tại các nước Ca-na-đa, úc, Tân Tây Lan và các nước Đông Nam á.

Không những giữa các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cựu chiến binh quân đội Nhân dân Việt nam cần hòa giải với nhau, mà giữa các cựu chiến binh Hoa Kỳ với các cựu chiến binh quân đội Việt nam Cộng hòa cũ cũng cần hiểu biết nhau hơn. Đã có quan chức Mỹ dùng lời lẽ quá đáng, nặng nề, tỏ ý khinh thị khi nói về chế độ Sài Gòn và quân đội Nam Việt nam Cộng hòa. Cũng có một số sĩ quan Sài Gòn cũ mang hận thù nặng với Mỹ, như có định kiến rằng, Hoa Kỳ ích kỷ, vô trách nhiệm, chỉ có mục đích dùng chiến trường Việt nam để thử vũ khí mới, để bán vũ khí kiếm lời, có chủ định đánh không cần chiến thắng... Họ vô tình bỏ qua cố gắng, nỗ lực, hy sinh của phía Mỹ, quên sự đón tiếp hơn một triệu người Việt nam vào đất Mỹ sinh sống. Cần tỉnh táo, công bằng và bình tĩnh hơn. Tôi mong có những cuộc họp trên tình bạn giữa các Hội cựu chiến binh trong chiến tranh Việt nam (Veteran Vietnam War, VVW) của các nước. Khi đó người ta sẽ bàn về nhiều việc thiết thực, cần thiết, bổ ích, như: hoạt động thông tin, phối hợp để viết sử, tham quan, du lịch và kết bạn, học nghề cho con em, cấp học bổng cho gia đình cựu chiến binh, giúp nhau sửa sang nghĩa trang quân sự (hiện nay ở Việt nam, các nghĩa trang cũ của Việt nam Cộng hòa bị phân biệt đối xử rất tệ hại, bị di chuyển, phá bỏ, để cho bê bối...) Giúp đỡ các cựu chiến binh nghèo khổ, tàn tật.

Ông có thể nói thêm về khả năng hợp tác giữa các Hội cựu chiến binh ở trong nước với ngoài nước.

Hiện nay ở Việt nam có Hội cựu chiến binh là tổ chức duy nhất tập trung đông đảo các cựu chiến binh của quân đội nhân dân Việt nam. Tôi nghĩ, sau này đất nước có thay đổi theo hướng dân chủ hóa, Hội cựu chiến binh Việt nam nên có mối quan hệ bình thường với các hội Cựu chiến binh Việt nam Cộng hòa ở Mỹ, úc, Pháp... Hiện nay Hội cựu chiến binh Việt nam đã có những mối quan hệ với một số Hội cựu chiến binh Hoa Kỳ, tất nhiên, chỉ là trên một vài lĩnh vực như phát triển du lịch và trên chừng mực nào đó đem lại một số lợi ích cho Hội cựu chiến binh Việt nam. Khi đã có tinh thần hòa giải hòa hợp, coi nhau là anh em, thì có thể có quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa Hội cựu chiến binh ở trong nước với Hội cựu chiến binh Việt nam Cộng hòa. Tôi nghĩ, sự giúp đỡ lẫn nhau dó không phải như hiện nay ở trong nước, kiểu kiêu ngạo, tự phụ, tự coi mình là người chiến thắng để coi khinh các cựu chiến binh ở ngoài nước. Ví dụ, như việc chăm sóc và tu bổ lại các nghĩa trang liệt sĩ của các bên. Hiện nay ở trong nước có chiều hướng phán biệt đối xử rất tệ hại, chỉ chằm lo sửa chữa, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ của Quân đội Nhân dân Việt nam, các liệt sĩ của cách mạng mà họ quan niệm là "chính thống". Còn các nghĩa trang cũ của Việt nam Cộng Hòa thì bỏ bê, bệ rạc, thậm chí phá hủy, rời đi nơi khác như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi nằm giữa Sài Gòn. Sau này, với tinh thần tôn trọng những người đã khuất, dù thuộc bên nào, các nghĩa trang sẽ được trùng tu lại trên tinh thần dân tộc, cũng như việc chăm sóc thương binh của các bên. Cựu chiến binh của hai bên có thể giúp đỡ cho nhau để chăm sóc những người thương binh nặng, có thể Hội này giúp những hội viên của Hội bên kia. Các Hội cựu chiến binh nên có trách nhiệm giúp đỡ cho các anh em thương binh cụt chân, cụt tay hiện giờ đang sống lay lắt ngoài vỉa hè. Trong tương lai, những người tàn tật, ốm đau do chiến đấu gian khổ lâu năm, do bị những di hại của chiến tranh, như chất độc hóa học màu da cam... nên được Hội của các bên cùng nhau chăm sóc, giúp đỡ. Tôi hình dung đến thời kì hòa hợp, hòa giải của các cựu chiến binh, họ giúp đỡ nhau trên tinh thần thượng võ, bình đẳng của những người đã buông cây súng và bây giờ tất cả là anh em. Đây cũng là xua tan những mây mù, di sản của một thời mù quáng trong thế kỷ 20.

Xung quanh vấn đề tù nhân của các bên, ông thấy có gì khác nữa không?

Tôi nghĩ, sau này phải hóa giải lại, vì trong chiến tranh có những người bị phía bên kia bắt, khi trở về cũng đều rất bi đát. Nhiều anh em trong diện H.O. đã bị tù lâu năm, bây giờ không muốn sống trong nước, đã được ra nước ngoài. Nhưng cũng có nhiều anh em vì tù đày chưa đủ năm dể cứu xét hiện vẫn còn sống trong nước, cũng cần được Hội cựu chiến binh của quân đội Việt nam Cộng hòa ở ngoài nước liên lạc và chính quyền trong nước cần tạo điều kiện để họ liên lạc bình thường, phát huy sự giúp đỡ. Tôi cũng muốn đề cập tới một đối tượng khác ít được chú ý, rất thương tâm. Đó là hàng chục ngàn anh em từng ở trong Quân đội nhân dân Việt nam bị bắt và bị giam ở nhà tù Phú Quốc ở miền Nam. Đặc biệt số anh em vào Nam chiến đấu bị chiêu hồi vì những nguyên nhân nào đó như đau ốm, bệnh tật, bị rơi vào những tình huống đặc biệt phải bỏ cuộc, hoặc vì thất vọng, không thấy rõ ý nghĩa hành động chiến đấu của mình, nên dã bị chiêu hồi, bỏ ngũ sang phía bên kia. Sau ngày 30.4.1975 họ phải trình diện trở lại, một số bị đưa đi "cải tạo một lần nữa. Tình trạng những anh em này rất bị đát. Tôi có quen biết ở đường Khâm Thiên, quận Đống đa-Hà Nội một số anh em như vậy. Họ đang ở trong tình trạng rất khó khăn về kinh tế, chính trị, tâm lý và gia đình, không có ai đoái hoài đến. Vì những người lãnh đạo Hà Nội rất định kiến với bất cứ ai đã từng nằm trong tay địch, dù bỏ cuộc với bất cứ lý do gì. Những người này coi như bị quăng ra ngoài lề xã hội. Sau khi bị đi học tập cải tạo, đặc biệt là những anh em trước đây bị chính quyến miền Nam chiêu hồi rồi thả về theo Hiệp Định Paris, họ bị phân biệt đối xử, bị cắt mọi đường sinh sống và định kỳ phải đến trình diện cơ quan công an, bị hoạnh họe đủ thứ. Qua đây tôi muốn lưu ý dư luận trong và ngoài nước đến thảm trạng đó. Xã hội ít biết đến họ, cũng giống như những người trên tàu Thương Tín khi họ trở về sau ngày đất nước thống nhất, hy vọng sẽ được đất nước đón tiếp trở lại, mở rộng cánh tay chào đón, trở về là may, là tốt. Nhưng ngược lại, khi họ về đến nơi, tất cả đều bị tống giam một thời gian khá dài, không được dùng vào bất cứ một cương vị nào. Chính quyền cho là trong số họ có kẻ trá hàng, được địch huấn luyện... Chế độ ở Việt nam nói rất nhiều đến bác ái đùm bọc lẫn nhau, "lá lành đùm lá rách". Nhưng trong thời kì mở cửa, chạy theo đồng đô-la, có thể nói người ta ít quan tâm đến số phận của đồng bào của mình. Khi sống và có thời gian quan sát ở Pháp, Canada, tôi thấy chính ở những nước tư bản, tinh thần xã hội của nhà nước và xã hội cao hơn nhiều lần ở những xã hội gọi là "xã hội chủ nghĩa". Ví dụ như ở Pháp, chính sách xã hội do cánh tả giành được trong mấy chục năm tranh đấu lâu dài, dã cho tất cả những người không có việc làm, bị thất nghiệp, về hưu cũng được trợ cấp một khoản không phải là nhỏ. Tôi có một số người quen được hưởng trợ cấp xã hội đủ cho cuộc sống bình thường, giá trị tương đương hai lạng vàng mỗi tháng. Vậy tiền mà xã hội và nhà nước bỏ ra là ở đâu? Đó là tiền trích ở thu nhập của những người làm việc, sản xuất, kinh doanh v.v... trong thời gian còn tuổi lao động. Tất cả phải có trách nhiệm trích khoản tiền đó bỏ vào quỹ xã hội và nhà nước có trách nhiệm dùng số tiền đó để chăm lo cho toàn thể xã hội: Tất cả mọi người đều được quan tâm, không người nào bị bỏ rơi ngoài lề xã hội. Hơn nữa, ở các nước này có rất nhiều tổ chức từ thiện quan tâm đến mọi người, nảy nở hàng trăm, hàng vạn tấm lòng vàng, như bà mẹ Theresa, bà hoàng Diana[26] v.v... Mặc dù họ có nhiều của cải, nhưng họ không lấy đó để hường thụ riêng mà nghĩ đến việc bênh vực số phận của những người bất hạnh, yếu đuối hơn mình, chia sẻ tình cảm, vật chất để xoa dịu đau khổ của con người. Cái nhức nhối ở Việt nam hiện nay là nhà nước, xã hội hầu như bỏ mặc số phận con người. Có người nói, hiện tượng đó là "hiệu ứng con lắc" đồng hồ, tức là từ thời gian quả lắc ở bên cực tả thì tất nó phải chuyển sang phía cực hữu. Sau thời kì xã hội coi trọng đạo đức, cổ súy con người xả thân vì nghĩa lớn, đến nay đang chuyển sang thái cực đồng tiền là trên hết, bỏ rơi tất cả mọi giá trị đạo đức. Tôi nghĩ, bây giờ nên điều chỉnh lại quả lắc đồng hồ để nó trở lại trạng thái cân bằng, làm sao con người quan tâm đến nhau, thông cảm và chia sẻ nỗi đau của nhau. Đó chính là cái nghĩa thực của chủ nghĩa xã hội.

Có người đặt vấn đề, vì sao ông lại đề xuất và nhiều lần nhắc lại vụ án "Nhân văn-giai phẩm " và vụ án "Xét lại chống đảng" là những vụ án nội bộ của cộng sản đã xảy ra quá lâu rồi, mà không nói đến những vụ khác lớn hơn và liên quan đến nhiều người hơn?

Đúng là vụ án "Nhân văn-giai phẩm" xảy ra cách đây hơn 40 năm, vụ án "Xét lại chống đảng xảy ra đã hơn 30 năm. Những vụ án này quả thật động chạm không đến vài trăm người. Có những bạn bên Hoa Kỳ góp ý với chúng tôi, cộng đồng chúng ta ở ngoài nước không cần quan tâm đến những việc nội bộ của đảng cộng sản, mà có những vụ việc lớn hơn nhiều. Đây cũng là một ý kiến. Nhưng tôi phải nói rõ, vụ "Nhân văn-giai phẩm" và vụ xét lại chống đảng", tuy mỗi vụ chỉ đụng chưa đến vài trăm người, nhưng đã bị đảng cộng sản che giấu, bưng bít rất lâu và gần đây mới đưa được ra ánh sáng. Ngay những người miền Bắc sống ở trong nước trước đây cũng không biết. Bây giờ mới có những người đưa ra, như cuốn sách "Đêm giữa ban ngày" của ông Vũ Thư Hiên đang được dư luận độc giả hết sức quan tâm. ở châu Âu, đã có những cuộc hội thảo lớn trong cộng đồng thanh niên, sinh viên, những người Việt Đông Âu làm báo để nhắc đến vụ án này. Tôi thấy cần như vậy. Cho rằng đây là chuyện nội bộ của đảng cộng sản, đụng đến vài trăm người, không thấm vào đâu so với vụ cường bức cải tạo hàng trăm ngàn người sau ngày 30.4.1975 hoặc so với vụ "thuyền nhân", là không thỏm đáng. Bởi vì, chúng ta đấu tranh chống sự lãnh đạo dốc đoán của đảng cộng sản, trước đây họ khoe là họ chỉ có đúng và không có gì sai, đúng từ đầu đến cuối, ngay cả trong các vụ "Xét lại chống đảng", "Nhân văn-giai phẩm" họ cũng đúng, thì chúng ta phải làm cho ra sự thật. Đưa các vụ đó ra ánh sáng, trình bày vấn đề, tạo nên dư luận và ép buộc họ phải công khai thừa nhận rằng đấy là sai lầm của họ, họ phải công khai xin lỗi những nạn nhân và phục hồi danh dự cho những người đó. Đấy là đòi hỏi hết sức chính đáng. Khi đảng cộng sản buộc phải nhận những sai lầm lớn ấy họ phải làm tiếp những đòi hỏi chính đáng khác. Như trong những cuốn sách của tôi, tôi đã viết, đã đề cập đến việc họ kiêu ngạo và dại dột tống hàng trăm ngàn người vào cái gọi là "trại cải tạo", nhưng thực chất là các nhà tù tệ hại. Biết bao người công chức già của các đảng phái, của chính quyền cũ đã chết ở trong tù như các ông Trần Văn Tuyên, Phan Huy Quát và nhiều viên chức khác. Buộc họ phải thú nhận vụ án "Xét lại chống đảng", mà trong vụ này có rất nhiều nạn nhân thuộc những gia đình có công với cách mạng, đã từng ở trong Trung ương đảng cộng sản, sẽ dễ tạo nên sức ép từ trong đảng cộng sản, từ ở trong nước buộc họ phải nhận sai lầm. Đến lúc đó họ phải nhận tiếp những sai lầm khác, trong đó tôi đặc biệt nhấn mạnh chủ trương đày đọa những người thất trận đã đầu hàng, bắt họ đi cải tạo trong những nhà tù khổ sai. Rồi tiếp đó đi đến buộc phải nhận chính họ đã gây ra thảm kịch "thuyền nhân". Chúng ta phải đi từ cái dễ buộc tội họ đến cái khó buộc tội họ hơn để họ không thể không nhận tội. Những người nào đòi bỏ qua những vụ án trên vì chúng xảy ra đã quá lâu, là việc nội bộ đảng cộng sản là không hiểu bản chất sự việc không biết tận dụng thời cơ để đấu tranh và không biết lợi dụng những cơ hội ấy để dồn đối thủ chính trị vào chân tường, buộc họ phải lùi bước. Khi họ đã phải lùi một bước trước dư luận và công luận trên thế giới, họ sẽ phải lùi những bước tiếp theo. Và trong đó có những việc thiết thân, liên quan đến hàng triệu người thuộc cả hai phía. Chúng ta không nên phân biệt đâu là chuyện cũ, đâu là chuyện mới, việc của phía này, việc của phía kia, mà cần nhận thức là tất cả sự bất công, nỗi bất hạnh của bất cứ ai, xảy ra bất cứ lúc nào đều là nỗi bất hạnh chung. Chúng ta phải có phương pháp đấu tranh khôn khéo, nhưng kiên quyết để buộc những người phạm sai lầm phải thừa nhận tội lỗi của họ và giải quyết từng trường hợp từ nhỏ đến lớn, cả cũ lẫn mới.

Theo ông, vấn đề hòa hợp và hòa giải dân tộc được đặt ra như thế nào? Vân đề này gây tranh cãi rất nhiều trong cộng đồng chúng ta, có người phản đối, có người tán thành, còn ông?

Hòa giải và hòa hợp dân tộc là chủ trương hết sức cần thiết. Không những thế, nó còn là một vấn đề được hình thành trong thực tế diễn ra từ lâu rồi. Theo tôi, chúng ta nên đặt vấn đề tại sao lại phải hòa giải và hoà hợp dân tộc? Bởi vì có những đố kị lẫn nhau, không thông hiểu nhau, định kiến với nhau, hiểu sai về nhau giữa những người bị ảnh hưởng của chế độ miền Bắc với những người bị ảnh hường của chế độ miền Nam, nên cần đặt ra vấn đề hòa giải và hòa hợp. Nhưng ai thực hiện và thực hiện hòa giải hòa hợp như thế nào? Đây là vấn đề có một thời kì tôi thấy bàn cãi rất sôi nổi trong cộng đồng.

Có người cho là không thể đặt vấn đề hòa giải hòa hợp với những người cộng sản, thậm chí với cả những người liên quan với chế độ cộng sản. Những người cộng sản phải ra đi, phải trao quyền, phải nhận tội, phải bị xét xử, chế độ cộng sản phải bị đập tan, hòa giải hòa hợp dân tộc không kiên định lập trường chống cộng (!)

Theo tôi, chúng ta cần đặt câu hỏi hòa giải hòa hợp như thế nào? Ai là người hòa hợp hòa giải và hòa giải hòa hợp với ai?

Đây là vấn đề rộng, tôi có thể phát biểu vắn tắt mấy quan điểm như sau. Thứ nhất, hòa giải hòa hợp là cần thiết. Bởi vì rõ ràng tồn tại những nhóm người sống ở hai chế độ khác nhau trong thời gian hàng chục năm, bị ảnh hưởng tuyên truyền giáo dục của mỗi chế độ. Do đó, giữa họ đã có mối hiềm khích, nhìn nhận sai lệch về nhau, hiểu lầm nhau. Bây giờ sau khi chiến tranh chấm dứt, họ cần hòa hợp, hòa giải với nhau. Đáng lý ra vấn đề hòa hợp hòa giải phải được đặt ra ngay sau ngày 30.4.1975, bây giờ đã muộn. Thứ hai, tất cả những người trước đây hiểu sai về nhau, từ đó dối địch với nhau, giờ nên giải quyết vấn đề tồn tại đó để đi đến chỗ hòa hợp hòa giải.

Về phía những người cầm quyền ở miền Bắc, cũng có quan điểm cho rằng không hòa hợp hòa giải với những kẻ "bán nước, "tay sai đế quốc". Những người chiến thắng luôn luôn là chính nghĩa. Những người bại trận là phi nghĩa, phải phục tùng. Chúng ta (chính quyền cộng sản) là chân lý, không thể có vấn đề nào khác? Trong hàng ngũ những người lãnh đạo cộng sản còn có những người cố chấp, kiêu ngạo, đố kị, tự cho đảng cộng sản là giỏi nhất vì đã chiến thắng, hơn hẳn những người thất trận. Đấy cũng là một cách nhìn cực đoan. Chính những người cầm quyền đã từ chối hòa hợp hòa giải hồi năm 1973-1974, điều đã được ghi trong Hiệp định Paris mà họ là một bên ký kết. Họ đã cố tình bỏ qua cam kết và đã cho mình toàn thắng, trịch thượng, tự phụ trong vấn đề này. Đáng lẽ phải hòa giải hòa hợp dân tộc thì họ lại thực hiện chính sách trả thù những người thua trận. Đây là một thái độ mù quáng, trái với truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.

Về phía những người chống cộng cực đoan hiện nay cũng vậy, thái độ của họ giống hệt như những người cộng sản cực đoan. Những người này tự nhận là quốc gia và coi những tổ chức của họ là duy nhất đúng đắn, là chính nghĩa. Họ coi thường những người trước từng là cộng sản hoặc hiện còn ở trong hàng ngũ cộng sản. Họ nhìn tất cả những người cộng sản bằng con mắt hận thù. Họ cho rằng những người quốc gia "giỏi giang hơn hắn những người cộng sản, coi những người cộng sản là bỏ đi, là tay sai cho nước ngoài. Họ lập luận rằng không cần hòa giải với cộng sản, vì cộng sản phạm nhiều tội lắm rồi. Bây giờ cộng sản phải trao quyền bính cho những người quốc gia và không còn lý do gì để tiếp tục cầm quyền vì đã phá nát đất nước, làm cho đất nước ngày một lạc hậu.

Đấy là hai biểu hiện cực đoan đối lập với nhau, tìm mọi cách triệt tiêu nhau. Tôi nghĩ, cần nhìn tỉnh táo, bình tĩnh và nhân ái về vấn đề này. Trong đại bộ phận nhân dân đã có sẵn quan điểm hòa hợp truyền thống giữa người ở miền Bắc và miền Nam khi họ đoàn tụ, họ đã có cơ hội thực hiện hòa giải dễ dàng và tự nhiên. Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, họ đã nói chuyện ngay thẳng với nhau, có khi tranh luận quyết liệt chế độ bên nào tốt hơn bên kia, bên nào là chính nghĩa v.v... Nhưng cuối cùng, họ lại hòa nhã với nhau, nhân nhượng nhau, không phải vì những chuyện đó mà mất tình họ hàng, anh em, tình bạn bè xưa. Chính trong nhân dân đã thực hiện dược phần nào hòa hợp một cách tự phát và tự nhiên ngay từ sau ngày 30.4.1975.

Họ nói rất ít, hoặc không nói gì về hòa giải, hòa hợp, nhưng họ làm rất nhiều. Do đó, những người bị tuyên truyền một chiều về xã hội thối nát ở miền Nam dần hiểu miền Nam đúng với thực tế hơn và ngược lại, những người bị truyền bá về chủ nghĩa chống cộng cực đoan, khi tiếp xúc với người miền Bắc cũng thông hiểu hơn và có thái độ đúng mực hơn. Bây giờ phải đi sâu hơn trong vấn đề hòa hợp hòa giải giữa bà con ở miền Bắc và miền Nam, giữa những người có hoàn cảnh khác nhau, giữa những người ở trong quân đội ở miền Bắc và ở miền Nam, trước kia từng đối chọi nhau, nay nên nhìn lại tìm hiểu nhau để giải quyết tận gốc sự thù hận, coi nó bắt nguồn từ điều kiện lịch sử. Tôi đã từng lựa chọn và kết bạn với nhiều anh em từng ở trong quân đội Việt nam Cộng hòa nay có cùng chưng chí hướng, có tinh thần dán chủ, yêu nước thương dân thật sự, không hẹp hòi đố kỵ.

Không thể chấp nhận thái độ chống cộng cực đoan, quá tả đến mức coi ông Đoàn Viết Hoạt là "đại tá tay sai của Việt Cộng", coi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện[27] là "con bài tay sai của cộng sản cử ra vận động ở nước ngoài", cho nữ văn sĩ Dương Thu Hương[28] là "con bài của cộng sản" và cả bản thân tôi cũng là "cò mồi", "do những người lãnh đạo trong nước cử ra để vận động"... Không nên vơ đũa cả nắm. Trên thế giới ngày nay có rất nhiều loại cộng sản khác nhau. Có đảng cộng sản nằm trong trào lưu phái tả, tiến bộ như đảng cộng sản Pháp hiện nay. (Đảng cộng sản Pháp hiện có 36 đại biểu trong Hạ viện, có 8 bộ trưởng trong chính phủ, đã công khai từ bỏ chủ nghĩa Sta-lin, học thuyết chuyên chính vô sản; ở ngoại Ô Paris còn có một số thị trưởng cộng sản, tại đó nhân dân được hưởng nhiều phúc lợi xã hội). Nhưng cũng có những đảng cộng sản rất cực đoan, vẫn sùng bái học thuyết Sta-lin, học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Không nên coi tất cả những người cộng sản là kẻ thù không đội trời chung, phải phân biệt đó là người cộng sản nào, có quan điểm ra sao, có hành động gì để có thái độ tương xứng với họ.

Theo tôi, trừ trường hợp cá biệt, như tên trùm phát-xít Hít-le, tên độc tài tàn ác Staline, tên khát máu Pon Pốt, còn nhìn chung, không có người quốc gia hoặc cộng sản tuyệt đối tốt và ngược lại, cũng không có người cộng sản hay quốc gia tuyệt đối xấu. Ví dụ, thời chiến tranh những người lãnh đạo miền Bắc gọi tất cả những nhân vật lãnh đạo của chính quyền miền Nam là "thằng", là "phản động", là "bán nước" (như thế mới là có quan điểm lập trường vững), tạo ra mầm mống chia rẽ hận thù, là trở ngại cho chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cũng cần nhận ra rằng, có người quốc gia khi cầm quyền họ cũng tham nhũng, quan liêu, cũng bất lực và kém tài năng đức độ. Đồng thời cũng có những người cộng sản có đức độ, tài năng và có tấm lòng đối với nhân dân. Vì thế, chúng ta không nên chống quốc gia một cách thiếu phê phán và chống cộng một cách cực đoan. Hòa giải và hòa hợp dân tộc chính là hóa giải những quan điểm cực đoan, nhìn mỗi con người là một thực thể sinh động, phân biệt mỗi con người là tốt hay xấu, tốt, xấu đến đâu, có thể kết bạn được không, nói chuyện được không, bắt tay hợp tác được không, chứ không nên có định kiến từ trước. Qua kinh nghiệm bản thân, để có nhận định về ai nên có quan điểm trực tiếp, nên có cơ hội gặp gỡ trực diện và đánh giá trực tiếp con người đó về nhận thức tư tường. Không nên chưa gặp người ta, chưa đọc sách, đọc báo của người ta đã vội kết luận kẻ này là cực xấu, hoặc người kia là cực tốt. Chỉ khi gặp gỡ, trao đổi với nhau, nhìn thấy nhau qua cuộc sống, mới có điều kiện để hiểu đúng thực tế những người mà mình muốn đánh giá. Cũng có người trước khi gặp, tôi tưởng con người này phải hết sức cực đoan, không thể kết bạn được. Nhưng đến khi gặp gỡ trao đổi thì lại không phải như vậy, đấy là một người biết điều, có thể trao đổi được, thậm chí dần dần hiểu ra thì lại có thể kết bạn được. Ta không nên định kiến, phải tìm gặp trực tiếp, trao đổi mới thấy được quan điểm, nhận thức của người ta có phù hợp với tình hình hoặc có thể có điều kiện để kết bạn như thế nào. Có người khi tôi đọc báo của họ thấy không thể chấp nhận được. Đến khi gặp thì lại thuyết phục được họ và họ đã có những thay đổi nhận thức đúng với thực tế hơn so với trước. Có những người không tìm gặp tôi đã đánh giá rất sai, chụp mũ cho tôi đủ mọi thứ. Nhưng đến khi họ gặp tôi, họ xin lỗi tôi vì đã có những nhận thức không đúng về tôi. Còn những người khó hòa hợp hòa giải, gây trở ngại cho hòa hợp hòa giải là những người có cách nhìn cứng nhắc, hoặc là quá kiêu ngạo, tự phụ, tự cho mình là trung tâm của thế giới, là kho hiểu biết chân lý nhất. Nhưng thực tế không phải như thế, những người ấy sợ tiếp xúc ngại tranh luận một cách bình đắng, ngay thật, cảm thấy đuối lý. Còn những người nào có quan điểm khoa học, hiểu biết rộng, khiêm tốn, tôn trọng lẽ phải và sự thật, tôi nghĩ những người ấy rất phù hợp với chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Hòa hợp và hòa giải dân tộc không có nghĩa là hòa giải hòa hợp với giới cầm quyền, vì giới cầm quyền hiện có chủ trương đường lối giáo điều mù quáng, cứng nhắc, chống lại dân chủ, ta không thể nào hòa hợp với những người lãnh đạo như thế. Hòa hợp hòa giải là tùy theo dối tượng, tùy theo điều kiện. Đây là hòa giải trong xã hội, giữa nhân dân với nhau, giữa cá nhân với nhau, giữa các nhóm tập thể với nhau, giữa những người từng ở miền Bắc và ở miền Nam... để đi đến một chủ trương chung là dân chủ hóa đất nước, để đất nước phát triển thực sự, phồn vinh, bình đẳng và hạnh phúc. Nhân dân bình thường có nhiều sáng kiến hòa hợp và hòa giải. Như ở tỉnh M
Trả Lời Với Trích Dẫn