V-Nhìn nhận
Một hòn núi cao phải đứng cách xa một quãng mới nhìn rõ hình thù, dáng vẻ của nó trong cảnh sắc chung quanh. Những sự kiện, những nhân vật đã qua cũng cần một khoảng cách kiểm nghiệm của thời gian để nhìn cho đúng với giá trị thật.
Chủ nghĩa xã hội về lý thuyết và hiện thực cần được đánh giá ra sao? Mác, Lê Nin, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê-Nin cần được đánh giá đứng đắn ra sao? Staline là con người thế nào, có công hay là có tội đối với đất nước Liên Xô và các nước khác? Chủ tịch Hồ Chí Minh có thật vĩ đại và sáng suốt? Lịch sử đất nước Việt Nam ta cần được viết như thế nào cho đứng đắn, khách quan và khoa học? Trong lịch sử ấy, biết bao phong trào, nhân vật cần được đánh giá đầy đủ, không bị định kiến, không thiên vị.
Đây là một việc hệ trọng của nhiều nhà sử học, nhà chính trị và lý luận, nhà tư liệu và thống kê. Tất cả những nhân vật đương thời thường bị đánh giá sai lệch do nhu cầu chính trị từng lúc, người thì được thổi phồng lên, thêu dệt thêm, người bị thu hẹp lại, tô vẽ cho xấu xí thêm...Con cháu ta hiện nay rất băn khoăn, không hiểu những nhân vật lịch sử hiện thời tốt xấu, công tội ra sao...Tôi chỉ xin nói lên vài ý kiến thô thiển của mình, cố gắng có một cách nhìn khách quan và công bằng, tránh chủ quan và thiên lệch.
Về Các Mác và Lê Nin, tôi thấy đó là những nhà học gia uyên bác, những nhà lý luận và tư tưởng có tầm cỡ. Trong 4 năm, từ năm 1958 đến 1962 tôi là giáo viên lý luận chính trị của quân khu 4, phụ trách việc nghiên cứu và giảng dạy chính trị cho cán bộ trung cấp và cao cấp trong toàn quân khu, bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa vào đến Quảng Bình và Vĩnh Linh, trong đó có hai sư đoàn (sư đoàn 324 và sư đoàn 325), cùng với một lữ đoàn ở giới tuyến. Học viên bao gồm từ thiếu tưóng tư lệnh Quân khu, thiếu tướng chính ủy Quân khu, hàng chục đại tá, thượng tá và gần một trăm trung tá, thiếu tá, chung với hơn ba trăm đại úy và trung úy. Đó là những bài cơ bản về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tôi đã để hàng mấy năm đọc những tác phẩm của Mác, Ăng ghen, Lê Nin, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh...từ những nguyên bản hoặc bản dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, chữ Hán và tiếng Nga. Đó là những buổi học tại chức. Mỗi bài rải ra làm 2 tháng, có lên lớp giới thiệu nội dung, nghiên cứu tài liệu tại chức (mỗi tuần hai buổi sáng và hai buổi tối), có thảo luận tổ (hai buổi) và giải đáp (thường là một buổi sáng), do bộ phận chỉ đạo việc học tập lý luận của Tổng cục chính trị trong quân đội nhân dân thuộc cục Tuyên Huấn xếp đặt chương trình rất chặt chẽ. Cả Quân khu có 3 giáo viên lý luận, tôi là phụ trách chính. Đó là thời kỳ tương đối hòa bình, việc chiến đấu ở miền Nam chỉ mới khởi đầu. Theo tôi, những công trình nghiên cứu và tìm tòi của Các Mác và Ăng ghen là quan trọng, phong phú, nhất là việc phân tích và mổ xẻ chủ nghĩa tư bản ở thời khởi thủy và ở dạng thức tiêu biểu, nguyên mẫu. Việc khám phá ra lao động cũng là một loại hàng hóa, ra giá trị thặng dư là rất có giá trị. Việc xây dựng nên biện chứng pháp duy vật cũng là một bước sáng tạo lớn, tạo nên một nền tảng cho phương pháp tư duy khoa học. Thế nhưng không thể coi chủ nghĩa Mác là sự phát triển đến tột cùng rồi của trí tuệ, cùng không thể coi đó là giá trị duy nhất của trí tuệ. Mác và Âng-ghen lúc sinh thời không hề có ý định coi mình là những nhà sáng tạo nên một học thuyết, một chủ nghĩa tuyệt :Dnh, các vị chỉ có ý muốn đóng góp phần của mình vào trong kho tàng trí thức chung, cùng với vô vàn phát kiến có giá trị khác. Đấu tranh giai cấp và chuyên chính giai cấp là những nguyên lý quan trọng nếu bật động lực của phát triển xã hội và bản chất của chính quyền trong xã hội, cần vận dụng những nguyên lý ấy và nhiều nguyên lý khác để tím hiểu và lý giải các hiện tượng xã hội. Cái sai là có người đã tuyệt đối hóa những nguyên lý ấy, coi đó là những nguyên lý duy nhất tồn tại và lại còn vận dụng một cách máy móc, giản đơn theo kiểu giáo điều và thô sơ, do đó chuốc lấy thất bại tất nhiên...Cần nhận rõ tính chất hạn chế của những điều kiện lịch sử nhất định. Mác sinh ra năm 1818 và mất năm 1883, khi khoa học và kỹ thuật còn chưa phát triển như vũ bão trong thời đại ngày nay, khi các chế độ xã hội và chính trị chưa có nhiều hình vẽ phong phú như hiện nay, mang nhiều tính đặc thù (các đảng phái chính trị với những mầu sắc, khuynh hướng khác nhau đại diện cho những thế lực chính trị, kinh tế, tài chính, tôn giáo, xã hội, dân tộc, văn hóa nhiều vẻ khác nhau) như hiện nay. thời của Mác và Ăng ghen, chủ nghiã tư bản chưa phát triển đến mức cao. Mối quan hệ quốc tế của nó chưa phát triển đến độ sâu sắc trên quy mô toàn cầu. Sự tận dụng khoa học kỹ thuật cũng chưa đến mức độ cao và những biện pháp thích ứng với tình hình, để điều chỉnh đường đi nuớc bước của nó cũng chưa đạt đến mức có hiệu lực như ngày nay...Công nhân thời ấy mỗi ngày phải làm việc từ 12 đến 16 giờ, còn ngày nay đã giành quyền làm 8 giờ, hoặc 7 giờ rưỡi và quyền nghĩ 1 đến 2 ngày một tuần. Xưa tiền lương của công nhân là tiền lương đói khổ, nay ở Pháp lương tối thiểu cho một công nhân làm việc cho nhà nước hoặc tư nhân được ấn định là 5300 quan. Có cả một lọat luật pháp và quy định mang tính chất luật nhằm bảo vệ quyền lợi mọi mặt của người lao động. Mác và Ăng ghen chỉ mới thấy sự áp dụng của máy hơi nước và máy nổ, chưa chứng kiến sức mạnh của lò phản ứng nguyên tử, những kỳ công trong chinh phục vũ trụ, những bước tiến lớn lao của cuộc cách mạng thông tin viễn thông, trong sinh học, trong vật liệu mới, sự xuất hiện đủ loại máy tính điện tử cực lớn với những nét đặc trưng của nền văn minh tin học ngày nay. Nếu Mác và Ăng ghen còn sống ắt các vị sẽ bổ sung thêm nhiều nhận thức và nhận định mới mẻ, cập nhật, phát triển và điều chỉnh những tư duy lý luận của mình cho phù hợp với thực tiễn mới.
Coi chủ nghĩa Mác là chân lý tuyệt đới, chết cứng và bất biến, vận dụng nó một cách máy móc là trái với tinh thần khoa học, trái với chỉnh tư duy biện chứng của Mác.
Lê-Nin và chủ nghĩa Lê-Nin có vị trí to lởn trong cuộc cách mạng tháng Mười ở nước Nga. Lê-Nin là nhà lý luận và là nhà hoạt động thực tiễn. Tôi cho rằng nghiên cứu một số kinh nghiệm của Lê-Nin là cần thiết, nhưng dựng nên chủ nghĩa Lê-nin là không thể được vì làm vậy dễ rơi vào bệnh giáo điều và bệnh kinh viện nguy hiểm. Tất cả chỉ nên coi là gợi ý của người đi trước, là những công cụ của nhận thức để sử dụng và tham khảo. Luận điểm chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản và là giai đoạn tột cùng, giai đoạn rẫy chết của chủ nghĩa tư bản cần được xem xét lại trọng những điều kiện mới, những điều kiện chưa có khi Lê-Nin còn sống. Không có một nhà tiên tri thông thái nào có thể chỉ ra con đường và biện pháp phải theo, cho gần 100 năm (như Lê-Nin) hoặc hơn 100 năm (như Mác) về sau cả. Chỉ có thế hệ đương thời với tất cả trí tuệ của chính thế hệ mình mới có thể tìm ra con đưòng phải đi để xây dựng xã hội mới cho đất nước và tham gia xây dựng thế giới mới ngày càng tốt đẹp hơn. Thế hệ đương thời cần đem kinh nghiệm của người đi trước, cần tôn trọng những giá trị lý luận và nhận thức của tiền nhân, nhưng không thể mù quáng và nô lệ mất sáng tạo để trở thành bất lực đi đến mất tự tin.
Vị trí và vai trò của Staline đối với nước Nga, đối với Liên bang Xô viết và đối với thế giới đã và đang được đánh giá lại một cách đầy đủ. Tháng 7 năm 1990, ban Tư tưởng và Văn hóa của đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị cấm các báo, đài truyền hình đề cập dến Staline. Tôi cho rằng đây là một sự cấm đoán sai lầm. Trong khi báo chí Liên Xô đưa ra liên tục những bài báo, tư liệu, sách, phim...về Staline thì việc tránh né, bịt tai, nhắm mắt lại ở Việt Nam là điều không bình thường. Tại sao người ta lại sợ sự thật đến thế? Đó là vì một thời gian dài, Việt Nam đã theo Liên Xô và Trung Quốc ca ngợi một chiều và quá đáng Staline. Sách báo phim ảnh tô vẽ nên một anh hùng kiệt xuất của nhân loại đã cứu loài người khỏi tai họa phát xít và tạo điều kiện cho hơn một chục nước ổ Châu Âu và Châu vùng dậy giành độc lập, trong đó có Việt Nam. Những câu thơ của Tố Hữu còn đó, từ hồi tháng 5. 1953:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương ông thương mười Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu.
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có Người mới có ít nhiều vui tươi,
Ngày xưa đói rách tơi bời,
Có Người mới có được nồi cơm no...
Các thầy cô giáo dạy văn đã được bồi dưỡng đặc biệt để giảng cho các em học sinh rẳng ông Staline đã mang lại cơm, áo và nụ cười cho các em! Thời đó tôi cũng xót xa, khóc thương Staline với tất cả tấm lòng thành thật của mình. Staline đã được đánh giá lại từ Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô nhất là qua tập báo cáo mật của Krouchev. Gần đây trong thời kỳ Perestroika, nhiều điều có thật về Staline lại được đưa ra trên báo chí Liên Xô. Từ những vụ án Hồng quân Liên Xô trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, vụ thủ tiêu hàng ngàn sĩ quan Ba Lan ở một khu rừng biên giới đến các vụ ám sát Kirov, Trosky, vụ tàn sát Koulak (thực chất là tầng lớp trung nông rất giỏi nghề nông) làm cho sức sản xuất xã hội bị hủy hoại, tai hại cho nên nông nghiệp Liên Xô, tác hại kéo dài đến tận ngày nay, ngoài ra là hàng trăm cuộc thanh trừng nội bộ khác. Đó còn là căn bệnh mệnh lệnh, độc đoán, đàn áp mọi ỷ kiến khác biệt, trả thù một cách tàn bạo và diệt những người không ăn cánh với mình. Không thể lấy công là đã chỉ huy kiên quyết và tài giỏi cuộc chiến tranh chống phát xít (ngay cái công này cũng đã được thổi phồng lên quá đáng) để che lấp biết bao tội ác liên quan đến hàng chục triệu gia đình lương thiện. Trách nhiệm nặng nề hơn nữa của Staline là đã dắt dẫn dân Liên Xô vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách quan liêu, nóng vội và độc đoán, dẫn đến sự đổ vở bi thảm gần đây. Tai họa này còn đè nặng lên một số nước châu Âu, châu , châu Phi, châu Mỹ trong đó có Việt Nam đã nôi theo Liên Xô để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng các đảng cộng sản theo mô hình Staline. Đây là tấm bi kịch mang tầm vóc thời đại, kéo dài hơn nửa thế kỷ, tàn phá biết bao xã hội và con người! Thế mà ổ Việt Nam, người lãnh đạo lại chù trương nhắm mắt làm ngơ! Họ cho rằng lờ vấn đề Staline đi mới là "khôn", là sáng suốt, là giữ được ổn định! Lẽ ra họ phải nhanh nhậy rút ra bài học lịch sử, kiểm điểm kỹ đã bị Staline ảnh hưởng ra sao, dẫn đến hậu quả thế nào để tạ tội với nhân dân và bắt tay sữa chữa sai lầm thật sòng phẳng, ngay thật. Họ không thể và không dám làm như thế. Họ sợ sự phẫn nộ của nhân dân và hơn nữa còn muốn giữ một số cung cách cầm quyền của Staline, như luôn thổi phồng nguy cơ từ bên ngoài của chủ nghĩa đế quốc cấu kết với phản động quốc tế và phản động trong nước hòng lật đổ chính quyền. Họ kết tội những người ngay thật có ý kiến trái với mình là phản động, là phản bội, là bị đế quốc mua chuộc, là tay sai của CIA..., như chính họ đang đối xử với một số người và bản thân tôi hiện nay vậy...
Về ông Hồ Chí Minh, tôi dùng chử "ông" có hơi lạ với một số người, vì ở Việt Nam ai cũng quen gọi là Bác Hồ, Bác Hồ Chí Minh, trong khi thường nói: ông Lê Lợi, ông Quang Trung. Dân chủ và bình đẳng giữa các nhân vật lịch sử tôi cũng xin gọi là ông Hồ. Bản thân tôi trước kia từng quý trọng ông Hồ, trước đây tôi cho ông là người hy sinh cho đất nước, bôn ba ở nước ngoài, bị tù tội, là người có công trong cuộc đấu tranh giành độc lập, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Ông sống giản dị, liêm khiết. Ông có lòng nhân ái, quý mến trẻ em, cảm thông với phụ nữ, động lòng trước kẻ nghèo đói. Ông ghét thói hư danh, phô trương, hình thức. Ông Hồ và cha tôi đã kết bạn thân trong suốt thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp ổ chiến khu Việt Bắc, tình bạn dựa trên sự quý trọng nhau giữa một người cộng sản và một người không đảng phái. Tháng 9. 1945, sau cách mạng tháng Tám, ông Hồ gửi cho cha tôi bức thư ngắn, hiện gia đình tôi còn giữ, mời cha tôi tham gia công việc của đất nước, có câu: Tôi được biết, cụ là người có tài đức, rất mực thanh liêm, nên mời cụ ra chung sức, gánh vác việc nước...Thầy tôi từ chối, viện cớ tuổi cao (56 tuổi), sức yếu. Đến lần thứ ba nhận thư ông Hồ (tháng 10. 1945) sau khi có sự đồng ý của hai ông anh ruột: Bùi Bằng Phấn và Bùi Bằng Thuận đều là tuần phủ vừa về hưu, và sau khi trao đổi với gia đình, cha tôi nhận lời. Từ cuối năm 1946, cha tôi là Trưởng ban Thường trực quốc hội (như chức vụ Chủ tịch Quốc hội hiện nay) và thường thay mặt quốc hội dự các cuộc họp của chính phủ kháng chiến. Như tôi đã từng kể, ông Hồ và cha tôi đôi lúc đã cùng nhau họa thơ, kiểu thơ Đường. Bài "Tặng Bùi Công" của ông Hồ gửi cha tôi cuối năm 1948 là một trong những bài thơ hay nhất của ông, rất đẹp về hình ảnh, tôi còn nhớ như sau:
Khán thư sơn điểu thê song hãn
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần lai lao dịch mã
Tư công tức cảnh tặng tân thi...
dịch là:
Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài
Cha tôi họa lại như sau:
Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc
Giang sơn vạn lý thủ thành trì
Tư công quốc sự vô dư hạ
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi
dịch là:
Một lòng sắt đá phò nòi giống
Vạn dặm giang sơn giữ thành trì
Chăm lo việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù
Lúc đó, tôi quý trọng ông Hồ, vì tôi vào bộ đội ở Chi đoàn Quang Trung, trung đội tôi làm nhiệm vụ cảnh gác ở Bắc Bộ Phủ nơi ông Hồ làm việc, và tôi đứng gác ổ cổng lớn với khẩu súng các-bin Mỹ trong hơn một tuần. Chính ông Hồ có ý kiến cử tôi theo học lớp Quân Chính đầu tiên ở Hà Nội và sau đó tôi tham gia đoàn cán bộ Nam Tiến 72 ngưòi được chọn từ lớp học Quân Chính Đỗ Hữu Vy này. Khi làm báo tôi đã nhiều lần dự các cuộc gặp gỡ, tiếp khách quốc tế, tiếp các nhà báo Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác của ông Hồ. Các buổi tiếp thân tình, cởi mở, tự nhiên, không chút khách khí. Ông nhậy cảm, tinh tế trong quan hệ ứng xử, với mọi người, tùy theo tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính. Tôi hoàn toàn không cho rằng ông Hồ khéo đóng kịch, phải công nhận đó là cách ứng xử có văn hóa, có tình cảm thật ở một con người "rất người", lại lịch lãm.
Ông cũng "rất người" ở chổ không thể hoàn thiện như một ông thánh. Đây là điều gần đây tôi hay suy nghĩ về ông. Tôi rất thích thú được nhà sử gia Pháp D. Hemery cho biết ông Hồ đã có thể hai lần có vợ. Đó là cô đảng viên đảng Xã hội Marie Brière ở Paris (vào cuối những năm 1920) và cô nữ hộ sinh Tăng Tuyết Minh ỏ Quảng Châu Trung Quốc tháng 10 năm 1928.
Một con người tinh tế, giầu cảm xúc, rất "con người" ắt phải có những mối tình đẹp, có thể hồn nhiên và xúc động. Có người lẩm cẩm lại khen Cụ Hồ sống cao thượng, vì suốt đời không vướng nợ yêu đương, không mảy may nghĩ đến vợ con, đến hưởng lạc thú gia đình..., sống như một ông thánh vậy.
Nhiều người phê phán rất nặng ông Hồ về chính sách đối với công chức cũ sau khi miền Bắc được giải phóng, về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, về những oan trái trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm...
Theo tôi hồi ấy đã có chính sách lưu dung (giữ nguyên lương cho công chức cũ), một chính sách thỏa đáng, từng gây xôn xao do ý thức ganh tỵ của anh chị em cán bộ tham gia kháng chiến, đã có những lớp cải tạo chị em làm nghề mãi dâm, đào tạo tay nghề rất có kết quả nhưng chính sách lưu dung chỉ tồn tại trong 2 năm 1954-1955...Tôi được biết ông Hồ rất nghiêm túc trong việc đối xử với tù binh người Việt, người Pháp (cũng như các quốc tịch khác trong các đơn vị lê dương), cấm dùng chửi bới và đánh đập, cho họ ăn uống ngang với mức của bộ đội. Sai lầm cải cách ruộng đất làm chết hơn 10 nghìn người (bị bắn trước các tòa án nhân dân) là do áp dụng máy móc kinh nghiệm của Trung Quốc, do các cố vấn Trung Quốc trực tiếp áp đặt, do ý thức sùng bái Trung Quốc rất phổ biến lúc bấy giờ, bởi thái độ mù quáng, tự ti mà theo tôi ông Hồ cũng phạm phải. Cũng phải nói rằng cuộc cải cách ấy, từ đợt hai sang đợt ba thì phát hiện ra sai lầm. Khi thấy sai lầm thì đã có quyết tâm sửa, dù cho phía Trung Quốc còn rất ngoan cố và bảo thủ, nếu không tai họa còn mở rộng hơn nhiều nữa! Các ông Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, các ông Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương mất chức ủy viên thường vụ trung ương và chính ông Hồ đã tự phê bình về trách nhiệm của mình. Ông Hồ không trực tiếp chỉ đạo công cuộc cải cách ruộng đất, mà trong lãnh đạo đã có phân công: Ông Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo chung, ông Hoàng Quốc Việt trực tiếp chỉ đạo làm thử ở Thái Nguyên, ông Lê Văn Lương trực tiếp đảm nhận công tác chỉnh đốn tổ chức, ông Hồ Việt Thắng trực tiếp làm công tác thường trực...Theo tôi, bài học về sai lầm trong cải cách ruộng đất chưa được tổng kết nghiêm túc, triệt để. Còn về vụ Nhân Văn Giai Phẩm, thì lúc ấy không gây được dư luận gì lớn trong xã hội. Vì ý thức dân chủ và dân trí còn thấp, cả miền Bắc sống cô lập với thế giới bên ngoài, chỉ biết có Liên Xô và Trung Quốc, hai "thiên đường" tuyệt vời (ngày nay của Liên Xô và Trumg Quốc là ngày mai của Việt Nam!). Dân trong cả huyện cơm đùm, cơm gói đi xem phim Bạch Mao Nữ của Trung Quốc và xem phim một nông trường của Liên Xô dể rồi ca ngợi, bàn tán, "thu hoạch" về nhận thức và tình cảm cách mạng suồt cả nửa năm trời sau đó. Gương anh hùng của ở Thượng Cam lĩnh (Triều Tiên) là lẽ sống của tuổi trẻ Việt Nam. Một số văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm bị phê phán, toàn xã hội hùa theo ý kiến của lãnh đạo, vì thật tâm bị nhiễu loạn hơn là vì sợ sệt. Thêm nữa vấn đề cải tạo lao dộng lúc đó lại được cổ súy và đề cao! Cán bộ các cơ quan náo nức đi đắp đê Mai Lâm, đào đắp hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, mở mang các nông trường, nên các văn nghệ sĩ bị đi cải tạo lao động ở nông thôn (khuân vác giấy ở nhà máy in, chuyên chở các thùng sợi ở nhà máy dệt, đẩy xe gòng sắt thép ở nhà máy gang thép Thái Nguyên...)không làm chấn động dư luận. Gọi là vụ án nhưng không hề được nêu ngay trên báo chí. Một thời gian sau mới phê phán trên báo, nhưng theo kiểu trích dẫn để kết tội một cách vũ đoán. Lúc ấy thì không ai còn tìm ra được tờ Trăm Hoa và Nhân Văn để xét đoán. Tôi cố nhớ lại, hình dung lại tình hình lúc ấy là như thế. Tất cả bực dọc, căm giận đều đổ lên đầu "Mỹ-Ngụy" đã không chịu thực hiện Tổng tuyển cử như Hiệp định Geneve quy định, còn tố cộng, diệt cộng, gây nên những vụ thảm sát ở Vĩnh Trinh, Phú Lợi...Các cuộc tuần hành hừng hực khí thế diễn ra khắp nông thôn và thành thị, trước trụ sở các ủy ban quốc tế...Trong điều kiện như thế, ông Hồ cũng thuận theo những đối xử của các cơ quan tuyên huấn và an ninh của đảng và nhà nước. Đây là một thái độ thiếu trách nhiệm, hơn nữa, lúc ấy những nhà văn Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan đều nén phẩn uất phần nào khi được tin các văn nghệ sĩ cùng hội, cùng thuyền với mình ở Trung Quốc bị đội mũ lừa, giải đi trên đường phố để cho quần chúng đả đảo và nhỏ nước bọt, bị đưa ra xỉ vả, đấu tố trong các cuộc họp, bị đưa đi lao động khổ sai thật sự (14 giờ một ngày, xúc và gánh phân người và phân súc vật, ngủ trong chuồng bò) và bắt phải làm các cuộc phản tỉnh hàng chục đêm để thú tội và tự mạt sát mình. Theo quan điểm của tôi hiện nay, sự xâm phạm vào quyền con người dù nặng hay nhẹ đều là tội lỗi. Không thể viện cớ là tôi chưa ác độc bằng những nhà cầm quyền Trung Quốc thời ấy, hay hãy xem bọn Pôn Pốt tàn sát con người và hủy hoại xã hội ra sao để cho rằng mình xử sự như thế là nhân đạo chán rồi, có gì phải nhận tội...Ông Hồ đã quá tập trung vào công việc chỉ đạo đấu tranh ở miền Nam mà quá coi nhẹ những vấn đề trong văn học, nghệ thuật và để mặc cho người phụ trách làm sai mà không can thiệp? Hay ông có trực tiếp can dự vào những chủ trương ấy? Đây còn là một câu hỏi khó phân xử rành mạch cho thấu tình, đạt lý.
Sau này, những vụ chống "xét lại", những vụ án "phản động về chính trị" cũng làm theo kiểu bưng bít. Không có xét xử, không đưa tin trên báo, trên đài, chỉ thông báo nội bộ trong đảng, đến cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn (cơ quan an ninh, bảo vệ nội bộ đảng, bảo vệ quân đội) tự tiến hành, không qua thủ tục pháp lý...Tâm lý xã hội của tuyệt đại đã số người dân lúc ắy là phó thác mọi việc cho đảng và nhà nước, chị ít ra không tán thành thì cũng không có ý kiến, thế thôi. Tâm lý xuôi chiều và a-dua hồi ấy rất nặng. Ngay những người trong cuộc, cùng gia đình, bè bạn có khi cũng để xuôi tay, chẳng có phản kháng hay phản ứng gì quyết liệt, vì tự nghĩ làm gì cũng vô ích chỉ tổ phức tạp và tai hại thêm hay là chẳng phải đầu lại phải tai...Là người lãnh đạo cao nhất, tất nhiên ông Hồ chịu trách nhiệm về những oan trái đã xây ra. Qua lời kể lại của những người ở gần ông Hồ từ những năm 1964, 1965 sức khỏe ông Hồ suy giảm rõ, mọi việc hàng ngày do Tổng bí thư Lê Duẩn và Ban bí thư giải quyết, ít khi xin ý kiến ông Hồ. Họ viện cớ rằng "khỏi làm Bác bận tâm, khỏi làm phiền lòng lãnh tụ tối cao..."
Theo tôi, ông Hồ có ý thức độc lập khá rõ đối với Liên Xô và Trung Quốc. Cả hai nước này đều không muốn và không tin Việt Nam thắng được Mỹ bằng biện pháp quân sự. Liên Xô thì muốn giữ vững đường lối chung sống hòa bình, Trung Quốc thì khuyên cứ chiến đấu trong khuôn khổ chiến tranh du kích, chỉ nên dùng đơn vị đến cấp tiểu đoàn, nếu dùng quá cỡ đó sẽ dễ bị tiêu diệt bởi hỏa lực và phi pháo của Mỹ...Cố gắng vận động để nhận được nhiều vũ khí hiện đại của hai nứơc lớn Liên Xô và Trung Quốc, nhưng tự giải quyết lấy bầng chiến đấu kết hợp với đàm phán, đó là nét chính trọng chủ trương của ông Hồ và ban lãnh đạo Đảng trong chiến tranh. Tuy nhiên chính trong ưu điểm này, ông Hồ vẫn để lộ nhược điểm khi ông viết khá nhiều bài báo ca ngợi những bước nhẩy vọt cuả Trung Quốc (sau được in lại trong tập sách ký tên Trần Lực, một bút danh của ông Hồ). Những kinh nghiệm mang dấu ấu trĩ tả khuynh: "bước nhảy vọt kỳ diệu", sản xuất "nhiều nhanh, tốt, rẻ" (dịch của bốn chữ: "đa, khoái, hảo, tỉnh") Ông ca ngợi tài năng kiệt xuất của "Mao chủ tịch vĩ đại, việc xây dựng công xã nhân dân rồi nấu gang thép ở mỗi hộ nhân dân...cũng được ông Hồ phổ biến và giới thiệu một cách nhiệt tình, theo lối viết phổ cập. Chính ở những chỗ đó, ông Hồ Chí Minh không còn Chí Minh (rất sáng suốt). Tôi còn nhớ hồi nâm 1950 ông Hồ cũng viết bài lên án thậm tệ Titô, coi đó là tên trùm xét lại, kẻ phản bội, theo nhận định của Liên Xô, , ở ông, tư duy tỉnh táo, độc lập về chính trị đã tỏ ra không nhất quán.
Mặt khác, theo tôi, ông Hồ cũng không tỉnh táo khi viết hai cuốn sách kể chuyện về cuộc đời của chính mình. Đó là cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" ký tên Trần Dân Tiên và cuốn "Vừa đi đường vừa kể chuyện" ký tên T. Lan, trong đó có nhiều đoạn tự khen mình với những lời ca ngợi cao đẹp nhất. Tất nhiên tấm lòng cảm phục của nhân dân đối với "Bác Hồ" là vô cùng sâu sắc, ông có thể coi đó là sự thật hiển nhiên rồi, nói lên chỉ là phản ánh sự thật, thế nhưng tự mình viết ra để tự khen mình thì có điều gì đó không đẹp, không hay và có thể nói là đã vô tình tự hạ thấp mình vậy.
Tôi xin trích một câu của Trần Dân Tiên viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩa là của một người viết về chính mình:
"Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình".
(trang 7 cuốn sách trên. Nhà xuất bản Sự Thật-in lần thứ 2. 1976) vậy đây là ai đang nhắc lại thân thế của ai?
"Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đạo đức khiệm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được!" (trang 9-sđd.)
"Chúng ta còn những người yêu nước anh dũng và vĩ đại khác.
Chúng ta có Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, và những người khác nữa. Nhưng chỉ có Hồ Chủ Tịch của chúng ta hoàn thành sự nghiệp mà các tiền bối chưa hoàn thành..."-(trang 146. sđd)
"Nhân dân gọi Hồ Chủ Tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ Tịch là người con trung thành nhất của Tổ Quốc Việt Nam...(trang 149-sđd). Theo tôi có điều gì thật không ổn khi người viễt tự nói về mình như vậy...Ngay cả nhiều lúc ông Hồ tự xưng là Bác với nhân dân cũng có gì đó không ổn-xưng Bác với thanh niên, thiếu niên, nhi đồng thì có thể được-Những khi nói chuyện với nhân dân nói chung mà tự xưng là Bác là không nên, vì trong nhân dân có cả những cụ già còn lớn tuổi hơn. Năm 1945, ông Hồ mới 55 tuổi mà đã tự nhận là "cha già dân tộc"!
Năm 1989, nhân dịp 20 năm ngày mất của ông Hồ Chí Minh, ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký của ông Hồ Chí Minh đã cùng tôi bàn nhau phải đưa toàn bô Di Chúc ra ánh sáng. Không thể mập mờ mãi được. Không thể quịt của người nông dân một năm thuế.
Ông Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5. 1965, sau đó cứ vào tháng 5 hàng năm lại viết lại, viết thêm. Cho nên có tới bốn bản Di chúc bổ sung cho nhau. Ông Vũ Kỳ kể chuyện là ngày 2. 9. 1969, sau khi ông Hồ Chí Minh mất, vào buổi tối ông Phạm Văn Đồng đến nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn đựng cả bốn bản Di Chúc. Ông Phạm Văn Đồng đưa cả hai tay ra ngăn lại: "Không, tôi không nhận. Đây là chuyện hệ trọng, để sáng mai, có đầy đủ Bộ Chính trị, đồng chí đưa ra. " Sáng 3. 9. 1969, có đầy đủ Bộ Chính trị, ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn ấy. Ông Lê Duẩn liền cầm lấy rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân vào phòng nhỏ bên cạnh. Ông Duẩn tự quyết định chỉ đưa ra một bản, cắt bỏ, sửa chữa vài chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố. Tất cả các bản còn lại ông Duẩn giao cho ông Trần Quốc Hoàn giữ như văn kiện tuyệt đối bí mật. Cho đến khi ông Trần Quốc Hoàn thôi chức Bộ trưởng Bộ Công An và chức ủy viên Bộ Chính trị (tháng 3. 1982), ông Vú Kỳ không tài nào lấy lại được tập Di Chúc ấy. Chỉ đến khi ông Trần Quốc Hoàn ốm nặng, ông Vũ Kỳ mới moi được bí mật qua lời hấp hối của ông Trần Quốc Hoàn: "...trong két sắt đặt ở nhà riêng, ngăn thứ hai, tầng dưới cùng. " Thế là cả tập nguyên bản di chúc được tìm thấy.
Tháng 5. 1989, tôi bàn với ông Vũ Kỳ, đặt ông viết một bài báo đặc biệt kể chủ tịch Hồ Chí Minh viết Di Chúc như thế nào, đăng trên tuần báo Nhân Dân chủ nhật do tôi trực tiếp biên tập. Phản ứng của lãnh đạo rất mạnh. Một số žy viên Bộ Chính trị đã lên án hai chúng tôi là làm một việc tầy trời, dám công bố văn kiện quan trọng bậc nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh mà chưa được phép của Bộ Chính trị. Trước những cặp mắt nghiêm nghị cuả bốn žy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình, Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Tâm, Đổng Sĩ Nguyên và trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa Trần Trọng Tân, ông Vũ Kỳ rất điềm tĩnh. Ông trả lời: "Tôi đâu có công bố Di chúc, tôi chỉ viết theo yêu cầu của anh Thành Tín ở baó Nhân Dân. Nhân dây tôi cũng xin báo cáo suốt hai mươi năm nay tôi ăn không ngon, ngủ không yên, cho đến khi nào toàn bộ Di Chúc của Bác đến được với nhân dân. "
Sau đó Bộ Chính trị phải họp hai lần để bàn riêng về việc này và cuối cùng phải đưa ra Quốc hội bàn về việc công bố toàn bộ các bản Di Chúc đồng thời quyết định giảm thuế nông nghiệp trong hai năm, mỗi năm 50%. Ông Vũ Kỳ và tôi rất mừng, cùng nhau cụng một cốc bia, nghĩ rằng thế là bà con nông dân ta bị hy sinh nhiều nhất về người và của trong chiến tranh cũng đỡ khổ được đôi chút.
Riêng về việc xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất nhiều trí thức, cán bộ và đồng bào cho rằng không nên làm điều trái ngược với nguyện vọng thiêng liêng của người sắp từ giã cõi đời, nhất là khi nguyện vọng ấy lại cao đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu không nên phúng viếng linh đình, tốn kém, mong thi hài mình được hỏa thiêu, vậy mà nguyện vọng ấy không được thực hiện. Thi hài ông không được nhập vào đất đai của quê hương, vẫn nằm trong một chiếc lăng đồ sộ mà lạnh lẽo, tốn kém biết bao nhiêu vật liệu và công sức của nhân dân...
Nhìn tổng quát lại hiện nay, tôi cho rằng ông Hồ Chí Minh khởi đầu là một người yêu nước. Ông theo quốc tế cộng sản với ý nghĩ rằng đó là con đường đúng đắn để giành lại độc lập dân tộc. Thế nhưng càng về sau ông càng bị chủ nghĩa cộng sản "chinh phục", dẫn đến thái độ sùng bái kinh nghiệm Liên Xô và Trung Quốc, áp dụng một cách máy móc chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông, dẫn đến chế độ độc đảng, độc đóan, đi ngược lại trào lưu dân chủ của thời đại. Do đề cao nguyên lý đảng cộng sản lãnh đạo thường xuyên, toàn diện và tuyệt đối nên pháp luật bị coi rất nhẹ, đảng trùm lên bộ maý nhà nước, quyền công dân bị vi phạm rất nặng nề. Ông cũng chưa thoát khỏi ý thức hệ phong kiến, nên chế độ ở miền Bắc mang tính chất bảo thủ, trì trệ, theo một kiểu quan liêu mang tính chất đẳng cấp nặng nề.
Cùng với người lãnh đạo khác của đảng cộng sản, ông Hồ Chí Minh chịu phần trách nhiệm không nhỏ đối với tình hình đất nước ta trong mấy chục năm qua, dẫn đến cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay, với biết bao thảm họa và bất hạnh cho các tầng lớp nhân dân. Lịch sử rất công bằng. Thế hệ hiện nay và mai sau sẽ còn đánh giá ông Hồ một cách đầy đủ hơn nữa. Dưới sự lãnh đạo của ông và đảng cộng sản, nền độc lập đã phải trả giá quá đắt về sinh mạng, tài sản và thời gian. Và sau đó, chủ nghĩa xã hội trên thực tế là một chế độ nghèo khổ, bất công và phi lý cần phải gạt bỏ dứt khoát.
Ông Hồ Chí Minh là người cộng sản đóng vai trò chủ yếu đưa chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lenine đồng thời cũng đưa chủ nghĩa Staline chủ nghĩa Mao Trạch Đông vào Việt Nam. Ông cũng đóng vai trò chủ yếu trong chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở miền Bắc (sau 1954) với tất cả những sai lầm duy ý chí, nôn nóng, giáo điều và tệ quan liêu, bao cấp, được thực hiện trong cả nước từ năm 1975. Có thể là ông có thiện chí, có ý định tốt? Nhưng ý định tốt không đủ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam cũng như ở các nước khác lâm vào khủng hoảng trầm trọng, không tìm ra được sức sống, ngược lại với mục tiêu và lý luận sách vở của nó. Nếu còn sống, tất nhiên ông Hồ cũng phải xem xét lại tất cả từ ngọn nguồn, tận gốc. Cho nên Đại Hội 7 Đảng Cộng sản nhắc đi nhắc lại rằng "Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là duy nhất đứng đắn vì đã do Bác Hồ lựa chọn" là nói lấy được, là áp đặt, không có lý và hoàn toàn không có sức thuyết phục.
Có một anh bạn khi trao đổi ý kiến với tôi nhận xét rằng:
Lúc khởi đầu ông Hồ đã coi tranh đấu giành độc lập cho đất nước là mục tiêu, sự ủng hộ của đế tam quốc tế của các đảng cộng sản là biện pháp. Về sau ông lại coi muc đích là chủ nghĩa cộng sản, sai lầm là ở đó. Đây là một vấn đề cần bàn luận thêm cho kỹ lưỡng. Đã có nhiều bài viết nhận định: ông Hồ là người yêu nước hay người cộng sản? hay cả hai? mỗi phần là bao nhiêu? Theo tôi, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội không sai, mà sai ở chỗ chủ nghĩa xã hội nào? Đường đi nước bước sao cho thích hợp? Vì nếu quan niệm chủ nghĩa xã hội thật sự là một nền dân chủ cao, có công bằng xã hội, quyền tự quản của người lao động thật sự được đảm bảo, năng xuất lao động ngày càng cao, sản phẩm làm ra ngày càng dồi dào, được phân phối hợp lý, và có đủ biện pháp để thực hiện đúng như vậy thì tốt qúa chứ! Trên thực tế chủ nghĩa xã hội ở trong tất cả các nước không thực hiện được như thế, lại làm trái hẳn với những mục tiêu cao quý ấy, nên bị phá sản là lẽ đương nhiên.
Còn những ông Lê Duẩn, Trường Chính, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ...ra sao? Đánh giá cho đầy đủ và chính xác một con người thật là khó. Tôi đã được tiếp xúc khá nhiều với các ông trên đây, trong một thời gian dài. Tháng 2. 1983, ban Bí thư trung ương đảng cộng sản Việt Nam, quyết định cử ông Thép Mới và tôi làm công việc viết hồi ký cho ông Lê Duẩn. Công việc dự định trong vài năm. Trước hết là nghe ông Lê Duẩn tự kể, sau đó cùng nhau bàn về nội dung, dàn bài, rồi phân công về lại những nơi ông từng hoạt động lấy thêm tư liệu tại chỗ để viết được phong phú và sinh động. Chúng tôi mới làm được 4 buổi ở nhà nghỉ Quảng Bá, nghe ông Lê Duẩn kể. Về sau bị ngừng lại do nhiều công việc khác cuốn hút, vì không ai chuyên làm công việc này cả. Mùa hè năm 1985, tôi lại được chỉ định tham gia ban viết hồi ký cho ông Trương Chinh bao gồm các ông: Hoàng Tùng, Trần Quang Huy, Nguyễn Văn Phùng...Công việc đang triển khai thì ông Trương Chinh mất. Tôi từng nhiều lần đi theo đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm các đơn vị quân đội, các địa phương và một số nước: Trung Quốc, Liên Xô, CHDC Đức, Ba Lan, Hung ga ri...Tôi cũng làm việc gần ông Lê Đức Thọ, đặc biệt là trong thời gian chiến dịch Hồ Chí Minh đầu năm 1975, và từ đầu năm 1979 đến năm 1981 ở Cam pu chia, khi ông trực tiếp đảm nhận chỉ đạo việc giải phóng và giúp xây dựng Cam pu chia.
Nét chung của các ông là tận tụy cho mục tiêu và sự nghiệp cách mạng, rất tin tưởng và tự tin ở công việc minh làm, sống dản dị, có tấm lòng cởi mở thân tình với xung quanh. Các ông đều tiếp thu phong cách sống của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chính từ những nét ưu điểm ấy mà có những nét dở, những nhược điểm lớn dẫn đến sai lầm. Vì quá tự tin và quá tin nên tinh thần phê phán rất yếu. Do niềm tin còn phần chủ quan, mù quáng nên thái độ hoài nghi rất cần thiết cho nghiên cứu khoa học-quá yếu. Do đó tệ duy ý chí phát triển mạnh, nhất là sau toàn thắng. Khó nhất là đánh Mỹ mà đã đánh thắng thì không còn việc gì khó khăn nữa cả, dế ợt! ý thức dân chủ rất yếu, có lẽ vì các ông đều chưa sống qua một xã hội dân chủ, có ra nước ngoài thì phần lớn là các nước xã hội chủ nghĩa. Các ông lại thoát thái từ xã hội phong kiến và thuộc địa nên đi làm cách mạng mà tác phong quan liêu, quan dạng còn khá rõ. Do đó mà không khí gia đình, nể nang, gượng nhẹ với nhau, dĩ hòa vi quý rất nặng nề. Có một câu chuyện khá kỳ lạ mà có thật. Năm 1987, đoàn cán bộ của Ban Tổ chức chính quyền đi tham quan Liên Xô và Cộng hòa dân chủ Đức để nghiên cứu về cách làm việc của bộ máy nhà nước và bộ maý đảng ở Moscou và Berlin. Khi trở về, đối chiếu với tình hình Việt Nam, thì té ra ở Hà Nội, tất cả các ủy viên bộ Chính trị đều không hề làm việc ở cơ quan của trung ương, mà mỗi vị đều làm việc tại gia!
Trụ sở của Trung ương đang đặt tại trường Albert Sarraut cũ. ở đó có phòng họp lớn của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Các vị ủy viên Bộ Chính trị đều làm việc tại nhà riêng, trên các đường phố khác nhau, thường cách xa nhau. Mỗi nhà thường là một biệt thự được sửa sang, mở rộng để có đủ chỗ ở cho gia đình, cho văn phòng, thư ký, lái xe và đơn vị bảo vệ.
|