“Được,” nàng nói.
Chúng tôi ở dưới nước suốt buổi chiều còn lại. Có tám đường vạch sơn suốt chiều dài của đáy hồ và đến cuối ngày tôi nghĩ hai đứa tôi đã trụ ở mỗi đường bơi được một lúc, đủ gần sát những vạch đen để có thể thò tay ra chạm vào chúng. Lâu lâu chúng tôi lại trở lên ghế ngồi và ngâm nga những đoạn thơ tự do êm ái, bồn chồn, dí dỏm, ngập ngừng về chuyện chúng tôi bắt đầu cảm nghĩ gì về nhau. Thực tình thì chúng tôi chẳng hề có những cảm giác mà chúng tôi nghĩ rằng mình có cho đến khi nói được chúng ra thành lời – ít nhất là tôi thấy mình như thế; nói chúng ra thành lời tức là sáng tạo và có được chúng. Chúng tôi quậy cảm giác lạ lẫm và mới quen của mình thành một thứ bọt từa tựa như tình yêu, và chúng tôi không dám đùa quá lâu với nó, nói quá nhiều về nó, e rằng nó sẽ xẹp xuống và tan đi. Nên chúng tôi hết trên ghế lại dưới nước, hết nói chuyện lại im lặng, và nếu xét theo cảm giác bồn chồn khôn nguôi của tôi trước Brenda, và những bức tường cái tôi cao vòi vọi dựng lên, cùng trụ ốp các thứ, chắn giữa nàng và nhận thức của nàng về chính mình, thì chúng tôi xoay xở cũng tạm.
Tới khoảng bốn giờ, từ đáy hồ, Brenda đột nhiên rời xa tôi và trồi lên mặt nước. Tôi trồi lên theo.
“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.
Đầu tiên nàng vuốt tóc khỏi trán. Rồi nàng chỉ một tay xuống cuối hồ. “Thằng anh của em,” nàng nói, ho văng chút nước trong người ra.
Và đột nhiên, giống như một Proteus[1] húi cua từ dưới biển hiện lên, Ron Patimkin từ đáy sâu ngay dưới chỗ chúng tôi vừa bơi trồi lên và thù lù một đống trước mặt chúng tôi.
“Ê, Bren,” anh ta nói, và quạt bàn tay trên mặt nước khiến cả một cơn bão nhỏ hắt vào mặt tôi với Brenda.
“Anh khoái chí chuyện gì vậy?” nàng nói.
“Đội Yankees gác hai cú.”
“Vậy là mình lại ăn tối với Mickey Mantle à?” nàng nói. “Mỗi khi đội Yankees thắng,” nàng bảo tôi, bước đi dễ dàng có vẻ như nàng vừa biến chất clor thành đá hoa dưới chân mình, “chúng tôi lại đặt thêm một chỗ cho Mickey Mantle.”
“Em muốn đua không?” Ron hỏi.
“Không, Ronald. Đua một mình đi.”
Chẳng ai nói gì tới tôi. Tôi cố lặng lẽ bỏ đi, như một kẻ thứ ba, không được giới thiệu, sẽ bước sang một bên và chẳng nói gì cả, chờ đợi những điều vui thú. Tuy nhiên, tôi đã mệt vì thể thao cả buổi chiều, và cầu mong hai chị em quái qủi kia đừng tào lao tán dóc thêm nữa. May thay lúc đó Brenda lại giới thiệu tôi. “Ronald, đây là Neil Klugman. Đây là anh tôi, Ronald Patimkin.”
Từ tất cả những thứ có dưới ba thước nước, Ron thò tay ra bắt. Tôi bắt lại, không đầy ấn tượng như anh ta có vẻ trông đợi; cằm tôi chìm xuống nước mấy phân và lập tức tôi thấy mình mệt rũ.
“Muốn đua không?” Ron vui vẻ hỏi.
“Tới đi, Neil, đua với ảnh đi. Em muốn gọi điện về nhà báo là anh sẽ ghé ăn tối.”
“Anh hả? Vậy anh cũng phải gọi cho bà dì. Em đâu có nói trước. Áo quần của anh…”
“Nhà em ăn tối cởi mở lắm.”
“Cái gì?” Ronald hỏi.
“Bơi đi, cha,” Brenda nói với anh ta và tôi thấy ngứa chút đỉnh khi nàng hôn vào mặt anh chàng.
Tôi thoái thác vụ bơi đua, nói rằng phải đi gọi điện, và khi đến được mép gạch xanh của hồ bơi, tôi nhìn lại thấy Ron đang quạt những sải tay mạnh mẽ dọc hồ. Anh ta khiến mình có cảm giác rằng sau khi bơi sáu bảy lần chiều dài hồ thì anh ta sẽ được quyền uống nước trong hồ đó; tôi tưởng tượng anh ta, giống chú Max của tôi, có chứng khát nước khủng khiếp và một bàng quang to tướng.
Dì Gladys có vẻ không nhẹ nhõm hơn chút nào khi tôi bảo tối nay dì chỉ phải làm ba suất ăn thôi. Qua điện thoại dì ấy chỉ nói, “Ly kỳ.”
Chúng tôi không ăn trong bếp, mà sáu người – Brenda, tôi, Ron, ông bà Patimkin và Julie, em gái Brenda- ngồi quanh bàn trong phòng ăn, trong khi cô giúp việc Carlota, một chị da đen có nét của bộ tộc Navaho với những lỗ xỏ trên tai nhưng không đeo gì cả, dọn ăn cho chúng tôi. Tôi được xếp ngồi cạnh Brenda, nàng ăn mặc theo kiểu gọi là cởi mở của nàng: quần kaki, thứ bó, áo thun trắng, giày tennis với vớ trắng. Đối diện tôi là Julie, mười tuổi, mặt tròn, sáng sủa, cô bé mà trước giờ ăn tối, trong khi những cô bé khác còn ở ngoài đường chơi với nhau hay với bọn con trai, thì cô ở sân sau chơi đánh golf với bố. Ông Patimkin làm tôi nhớ đến bố tôi, ngoại trừ chuyện ông không bọc mỗi âm tiết trong hơi gió nặng nề. Ông ta cao, khoẻ mạnh, phi văn phạm và ăn mạnh. Khi ông tấn công món rau trộn, sau khi đã xịt ngập vào đó thứ dầu dấm Pháp đóng chai – những mạch máu dưới làn da cánh tay của ông phồng lên. Ông ăn ba suất rau trộn, Ron ăn bốn, Brenda với Julie ăn hai, chỉ có bà Patimkin và tôi mỗi người dùng một. Tôi không thích bà Patimkin, tuy bà là người xinh đẹp nhất trong bàn. Bà lịch sự với tôi một cách quá tai hại, và với đôi mắt tím, mái tóc đen, và vóc người đẫy đà, quyến rũ, bà tạo cho tôi cảm giác của một nhan sắc bị tù hãm, một công nương hoang dã, kẻ đã bị thuần hóa và biến thành gia nhân cho con gái của một ông vua – đó là Brenda.
Bên ngoài, qua khung cửa sổ lớn, tôi có thể thấy bãi cỏ sau nhà với hai cây sồi sinh đôi. Tôi gọi là sồi, tuy qua tưởng tượng, người ta có thể bảo đó là cây dụng cụ thể thao. Dưới những cành nhánh, như trái cây vừa rụng, là hai cây gậy đánh golf, một trái banh golf, một ống banh tennis, một cây gậy bóng chày, quả bóng rổ, một găng tay bóng chày, và một cái trông như cán roi quất ngựa. Xa hơn, ở chỗ những bụi cây bao quanh sở đất của nhà Patimkin và ngay trước một sân bóng rổ nhỏ, có một cái chăn vuông màu đỏ, với một chữ O trắng đính ở giữa, trông cứ như đang bốc cháy giữa thảm cỏ xanh. Ngoài đó chắc đang có gió nhẹ, vì lưới bóng rổ giao động; trong này chúng tôi ăn trong bầu khí mát mẻ nhờ máy điều hòa Westinghouse. Cảm giác thật dễ chịu, có điều là ăn uống giữa những người Brobdingnag,[2] tôi có cảm tưởng trong một lúc lâu là đôi vai tôi đã bị cắt đi cả tấc, chiếu cao của tôi bị giảm mất bảy phân, và thêm vào đó, có ai đã gỡ mất xương sườn của tôi và lồng ngực tôi đã bẽn lẽn nép sát vào lưng.
Chẳng có trò chuyện gì nhiều trong bữa ăn; việc ăn thì nặng nề, có phương pháp và nghiêm trọng, và sẽ là công bằng khi ghi lại những gì được nói ra một mạch hơn là chỉ rõ những câu bị thức ăn nhận chìm, những lời lẽ lọc ọc trong miệng đầy thức ăn, cấu trúc câu bị cắt đoạn và bỏ qua khi trút thức ăn vào dĩa, làm đổ tháo, và nhai nuốt ừng ực.
NÓI VỚI RON: Harriet gọi lúc nào?
RON: Năm giờ.
JULIE: Lúc đó sáu giờ rồi.
RON: Giờ ở chỗ họ đó.
JULIE: Tại sao giờ ở Milwaukee lại sớm hơn? Nếu như anh cứ đi máy bay từ đây tới đó suốt ngày. Anh sẽ không bao giờ già.
BRENDA: Đúng đó, cưng.
BÀ P.: Mày giải thích bậy cho nó làm gì? Đó là lý do nó phải đi học đó hả?
BRENDA: Con đâu biết tại sao nó đi học.
ÔNG P. (giọng thương yêu): Cô sinh viên.
RON: Carlota đâu rồi? Carlota!
BÀ P: Carlota, dọn thêm cho Ronald.
CARLOTA (gọi lên): Thêm cái gì?
RON: Mọi thứ.
ÔNG P: Tôi nữa.
BÀ P.: Tụi nó chắc phải lăn ông bằng xích quá.
ÔNG P. (kéo áo lên và vỗ vào cái bụng ú nụ ngăm đen của mình): Bà nói cái gì đó? Nhìn thấy chưa?
RON (tuột áo thun ra): Nhìn nè mẹ.
BRENDA (nói với tôi): Anh có muốn phơi bụng ra không?
TÔI (lại là chú bé trong dàn đồng ca): Không.
BÀ P.: Được đó, Neil.
TÔI: Dạ, cám ơn.
CARLOTA (nói qua vai tôi, như hồn ma không gọi mà tới): Anh muốn thêm không?
TÔI: Không.
ÔNG P.: Cậu ấy ăn như chim.
JULIE: Có loài chim ăn dữ lắm.
BRENDA: Chim gì?
BÀ P.: Không nói chuyện loài vật ở bàn ăn. Brenda, sao mày lại xúi nó?
RON: Carlota đâu rồi, tối nay con phải thi đấu.
ÔNG P.: Nhớ bó cổ tay lại.
BÀ P.: Cậu sống ở đâu, Bill?
BRENDA: Neil chứ.
BÀ P.: Không phải tao nói Neil sao?
JULIE: Mẹ nói ‘Cậu sống ở đâu, Bill?’ mà.
BÀ P.: Chắc là tao mải nghĩ cái gì khác.
RON: Con ghét bó lắm. Làm quái gì chơi được khi bị bó cổ tay?
JULIE: Đừng văng tục.
BÀ P.: Phải đó.
ÔNG P.: Bây giờ Mantle đánh gì?
JULIE: Ba hăm tám.
RON: Ba hăm lăm.
JULIE: Hăm tám.
RON: Hăm lăm, dẹp đi! Nó đánh trúng ba trên bốn quả trong ván hai.
JULIE: Bốn trên bốn.
RON: Trái đó bị lỗi, Minoso lẽ ra ăn quả đó.
JULIE: Em không tin.
BRENDA (với tôi): Thấy chưa?
BÀ P.: Thấy gì?
BRENDA: Con đang nói chuyện với Bill.
JULIE: Neil chứ.
ÔNG P.: Im mồm lo ăn đi.
BÀ P.: Nói ít đi một chút, tiểu qúi nương.
JULIE: Con có nói gì đâu.
BRENDA: Bả đang nói chuyện với chị, cưng.
|