View Single Post
  #6  
Old 01-07-2010, 03:12 PM
NghiDung's Avatar
NghiDung NghiDung is offline
Member
 
Tham gia ngày: Jan 2010
Bài gởi: 41
Default

Sáng hôm sau tôi tìm được một chỗ đậu xe trên đường Washington ngay đối diện thư viện. Do tới sớm hai mươi phút nên tôi quyết định thả bộ vào công viên hơn là băng qua đường vào làm việc; nhất là tôi không muốn nhập bọn với lũ đồng nghiệp, những đứa tôi biết chắc đang ngồi nhâm nhi cà phê ở phòng đóng bìa sách, trên người vẫn còn bốc mùi món cam vắt mà chúng uống cuối tuần đó ở công viên Asbury. Tôi ngồi trên một băng ghế và nhìn ra đường Broad và dòng xe cộ buổi sáng. Những chuyến xe lửa từ Lackawanna đang rầm rì chạy qua cách đó vài khu phố về phía bắc và tôi có thể nghe âm thanh của chúng, tôi thầm nghĩ – những toa xe màu xanh lá cây tỏa nắng, cũ mà sạch, với những cửa sổ mở suốt tuyến đường. Nhiều buổi sáng có giờ rảnh trước khi làm việc, tôi thường đi bộ xuống tận đường tàu nhìn những khung cửa mở chạy qua, trên bậu cửa là những khủyu tay trong y phục mùa hè và mép của những cái cặp, tài sản của những doanh nhân đi vào thành phố từ Maplewood, Oranges, và những ngoại ô xa hơn nữa.
Khu công viên, giáp đường Washington ở phía tây và đường Broad ở phía đông, thì vắng người, nhiều bóng râm và còn mùi cây cối, trời đêm, và tàn tích của bọn chó; và cũng thoang thoảng mùi ẩm ướt nữa, chứng tỏ cái xe tưới nước tổ bố vừa đi qua đây, chạy vội vã và làm ướt đầm những con đường chính. Trên đường Washington, tuốt phía sau tôi, là Viện bảo tàng Newark – tôi có thể thấy nó mà không cần nhìn: hai cổ bình phương Đông ở phía trước cứ như ống nhổ cho một tiểu vương, và kế đó là khu nhà phụ nhỏ mà chúng tôi đã đi qua bằng những cỗ xe bus riêng hồi còn học tiểu học. Khu nhà phụ xây bằng gạch, cũ kỹ và đầy dây leo, và luôn gợi tôi nghĩ về mối liên quan của New Jersey với buổi đầu của quốc gia này, với George Washington, người đã huấn luyện đội quân ô hợp của mình – một tấm bảng đồng nhỏ cho lũ nhóc học sinh chúng tôi biết như thế- ngay trong cái công viên tôi đang ngồi đây. Ở đầu đàng kia công viên, xa hơn cả Viện bảo tàng, là tòa nhà ngân hàng nơi tôi đã học đại học. Mấy năm trước nó được tu sửa thành một cơ sở của Đại học Rutgers; cụ thể là, ở nơi từng là phòng đợi chủ tịch ngân hàng tôi đã học giáo trình Những Vấn Đề Đạo Đức Hiện Đại. Tuy bây giờ là mùa hè, và tôi đã rời khỏi đại học ba năm rồi, tôi vẫn thấy dễ dàng nhớ ra những sinh viên khác, những bạn bè từng làm ca đêm ở hãng Bamberger và Kresge và đã dùng hoa hồng kiếm được nhờ đi gạ bán những đôi giày nữ đã hết mốt để đóng lệ phí thí nghiệm. Rồi tôi lại nhìn ra đường Broad. Nằm chen giữa tiệm sách có mặt kính đầy bụi và một tiệm bán thức ăn trưa loàng xoàng là cổng vào một nhà hát nghệ thuật nhỏ – bao nhiêu năm đã qua rồi kể từ thời tôi còn đứng ở lối cổng ấy, nói láo về năm sinh của mình để được mua vé vào xem Hedy Lamarr bơi trần truồng trong phim Ectasy; và rồi, sau khi đã nhét cho tay soát vé thêm hăm nhăm xu nữa, đã cảm thấy thất vọng làm sao trước nét đẹp đơn sơ của dân Slave ở cô ta… Ngồi đó trong công viên, tôi cảm nhận một hiểu biết sâu xa về Newark, một sự gắn bó đã ăn sâu đến độ nó chẳng thể làm gì khác hơn là phát triển thành tình cảm.
Đột nhiên đã tới chín giờ và mọi thứ vội vàng cả lên. Các cô gái gót cao ngả nghiêng xoay theo khung cửa quay của tòa nhà công ty điện thoại bên kia đường, xe cộ bấm còi cáu kỉnh, cảnh sát quát tháo và xua xe cộ chạy hướng này hướng kia. Ở nhà thờ St. Vincent đàng kia những khung cửa to tướng sẫm màu mở ra và những đôi mắt mệt mỏi vì dậy sớm dự lễ giờ hấp háy vì ánh sáng. Rồi những tín đồ bước khỏi các bậc thềm nhà thờ và phóng theo các ngả đường để đến với những bàn giấy, tủ hồ sơ, thư ký, cấp trên, và – nếu thượng đế thấy thuận tiện có thể cất bớt một ít khó nhọc cho họ- đến với cái dễ chịu của máy điều hòa không khí gắn bên cửa sổ của họ. Tôi đứng dậy và băng qua đường sang thư viện, bụng tự hỏi không biết Brenda đã dậy chưa.
Những con sư tử xi măng đứng gác không thuyết phục lắm trên bậc thềm thư viện, chịu đựng sự phối hợp giữa chứng phù chân voi với chứng xơ cứng động mạch và tôi sẵn sàng để ý tới chúng càng ít càng tốt trong suốt tám tháng qua nếu không có một chú bé da màu đứng trước một trong những con sư tử đó. Con sư tử đã gãy hết những ngón chân vào mùa hè trước do một lũ thiếu niên phá phách, và bây giờ kẻ phá hoại mới đang đứng trước nó, khum khum đầu gối và đang gầm gừ. Nó sẽ gầm gừ, trầm và dài, ngồi phịch xuống, chờ đợi, rồi gầm gừ tiếp. Rồi nó sẽ đứng thẳng dậy, và, lắc đầu, nó sẽ nói với con sư tử, “Ôi trời, mày chết nhát…” Rồi, nó lại gầm gừ.
Một ngày bắt đầu như mọi ngày. Từ sau bàn giấy trong sảnh chính, tôi quan sát lũ con gái choai choai ngực nở bước lẹ làng lên cầu thang cẩm thạch to tướng dẫn tới phòng đọc chính. Cái cầu thang này nhái theo một đường cầu thang ở đâu đó tại Versailles, tuy rằng trong những chiếc quần bò và áo cổ lọ các cô con gái của các vị thợ da Ý, thợ nấu bia Ba Lan, và nhà buôn lông thú Do Thái khó có thể là những nữ công tước. Họ cũng không phải Brenda, và mọi ham muốn lóe lên trong tôi suốt một ngày rầu rĩ chỉ là mang tính học thuật và cho qua thời gian. Thỉnh thoảng tôi lại coi đồng hồ, nghĩ tới Brenda, và chờ đến bữa trưa, khi tôi sẽ ngồi vào Bàn hướng dẫn trên lầu còn John McKee, cái gã mới hăm mốt mà đã đeo băng thun quanh tay áo, sẽ lờ đờ đi xuống tầng trệt để hì hục với việc đóng dấu sách mượn và trả. Tên John Mc Băng-Thun này đang học năm cuối Đại học Sư phạm Newark nơi hắn nghiên cứu hệ thập phân Dewey chuẩn bị cho sự nghiệp một đời của hắn. Thư viện không phải là sự nghiệp trọn đời của tôi, tôi biết thế. Tuy vậy, đã có phong thanh – từ ông Scapello, một lão thái giám già đã học được cách giả nói giọng đàn ông bình thường – rằng sau kỳ nghỉ hè tôi sẽ được giao coi sóc Phòng tham khảo, một vị trí đã bỏ trống kể từ buổi sáng nọ khi Martha Winney trong Phòng bách khoa tự điển ngã từ cái đôn cao xuống và bị gãy hết những cái xương mỏng manh hình thành nên bộ phận mà ở một phụ nữ bằng nửa tuổi bà ta chúng tôi sẽ gọi là hông.
Tôi có những đồng nghiệp kỳ lạ ở thư viện và, nói thật, có nhiều giờ liền tôi hoàn toàn không biết làm sao tôi đến được đó và tại sao mình ở lại đó. Nhưng tôi đã ở lại và sau một thời gian đã kiên nhẫn chờ đợi một ngày tôi được vào phòng nghỉ nam ở tầng chính để hút một điếu thuốc và ngắm nghía mình trong khi thổi khói thuốc vào mặt gương, được thấy rằng vào lúc nào đó trong buổi sáng mình tái nhợt đi, và thấy dưới lớp da của tôi, cũng như của McKee với Scapello và bà Winney, đã có một lớp đệm khí mỏng tách máu ra khỏi da thịt. Có ai đó đã bơm khí vào đó khi tôi đóng dấu cho mượn sách, và thế là cuộc sống từ nay sẽ chẳng còn là chuyện bỏ đi, như đối với dì Gladys, và cũng chẳng phải chuyện giành được, như với Brenda, mà là chuyện văng từ chỗ này sang chỗ kia, một sự đờ đẫn. Tôi bắt đầu thấy sợ điều này, tuy rằng, trong sự chú ý không chút sinh lực dành cho công việc, tôi hình như nhích dần tới điều đó, một cách lặng lẽ, như bà Winney vẫn thường nhích đến bộ Britanica. Cái đôn của bà hiện bỏ trống và đang chờ tôi.
Ngay trước giờ ăn trưa, cậu nhỏ luyện sư tử đá mở to mắt bước vào thư viện. Cậu đứng yên một lát, chỉ có những ngón tay động đậy, làm như đang đếm những bậc cầu thang đá hoa trước mặt. Rồi cậu e dè bước đi loanh quanh trên nền đá hoa, cười khùng khục với tiếng đế giày lạch cạch của cậu và cái kiểu những âm thanh nho nhỏ ấy vọng lên tới trần vòm của đại sảnh. Otto, ông bảo vệ ở cửa, bảo cậu đừng để giày kêu như thế, nhưng chuyện đó coi bộ không phiền gì cậu. Cậu vẫn kêu lộp cộp khi nhón gót cao lên, một cách lặng lẽ, khoái chí với cơ hội mà Otto đã cho cậu để tập luyện tư thế này. Cậu ta rón rén tới chỗ tôi.
“Nè,” cậu nói, “khu tim ở đâu?”
“Khu gì?” tôi hỏi.
Trả Lời Với Trích Dẫn