View Single Post
  #7  
Old 01-07-2010, 03:13 PM
NghiDung's Avatar
NghiDung NghiDung is offline
Member
 
Tham gia ngày: Jan 2010
Bài gởi: 41
Default

“Khu tim. Đây không có khu tim à?”
Cậu nói giọng miền nam đặc sệt và âm duy nhất tôi nghe rõ là âm nghe như chữ tim.
“Đánh vần chữ đó làm sao?” tôi nói.
“Thì tờ im tim. Trời đất, hình vẽ đó. Sách có hình vẽ. Thứ đó để đâu?”
“Cậu muốn nói sách hội họa. In lại họa phẩm hả?”
Cậu ta đồng ý ngay với thuật ngữ loằng ngoằng của tôi. “Ờ, nó đó.”
“Ở vài ba chỗ lận,” tôi bảo cậu. “Cậu muốn xem họa sĩ nào?”
Cậu ta nheo mắt lại khiến cả khuôn mặt chỉ còn là màu đen. Cậu giật lui ra, như khi đứng trước con sư tử. “Tất cả bọn họ…” cậu làu bàu.
“Được rồi,” tôi nói. “Cậu cứ đi xem bất cứ họa sĩ nào cậu muốn. Theo cầu thang kế lên trên. Đi theo mũi tên đến chỗ ghi Dãy Ba. Nhớ không? Dãy Ba. Lên lầu rồi hỏi.”
Cậu ta chẳng nhúc nhích; có vẻ cậu ta đang xem sự tò mò của tôi về đề tài tìm hiểu của cậu như một kiểu điều tra thuế thân. “Đi đi,” tôi nói, bày ra một nụ cười trên khuôn mặt, “ngay trên kia…”
Và như một phát đạn cậu ta len lỏi và lộp cộp đi lên khu tim.
Sau bữa trưa tôi trở lại bàn mượn và trả sách và John McKee đã chờ sẵn ở đó trong áo sơ mi đeo băng thun, quần xanh nhạt và giày đen, và một cà vạt đan lớn, màu xanh lá cây, thắt kiểu Winsor thành cái nút to tướng cứ giật tưng tưng khi hắn ta nói chuyện. Hơi thở hắn thì sặc mùi dầu chải tóc còn tóc hắn sặc mùi hơi thở và khi hắn nói, nước bọt tụ lại ở khoé miệng. Tôi không ưa hắn và có những lúc tôi có thôi thúc muốn kéo giãn sợi băng thun và bắn hắn đi như bắn bằng dàn thun bay qua chỗ Otto và những con sư tử ra tới ngoài đường.
“Có thấy một cậu bé da đen ra khỏi đây không? Có giọng nói rất khó nghe? Nó chúi đầu vào sách nghệ thuật suốt sáng nay. Ông biết những đứa như vậy thường làm gì trong đó mà.”
“Tôi có thấy nó đi vào, John.”
“Tôi cũng thấy. Nhưng vấn đề là nó ra chưa kìa.”
“Tôi không để ý. Chắc ra rồi.”
“Thứ sách đó rất đắt tiền.”
“Đừng ưu tư như vậy, John. Mình biết người ta đương nhiên sẽ lục lọi sách mà.”
“Thì lục lọi,” John nói một cách nghiêm trọng, “lúc nào cũng lục lọi. Phải có ai coi chừng nó chứ. Tôi không dám rời khỏi bàn này. Ông biết họ cư xử thế nào với những dự án gia cư chúng ta dành cho họ mà.”
“Ông dành cho họ hả?”
“Thành phố chứ. Ông thấy họ làm gì ở Seth Boyden không? Họ vất đầy những chai bia, thứ lớn đó, ra bãi cỏ. Họ chiếm cả thành phố này mất.”
“Chỉ những khu da đen thôi.”
“Cười thì dễ lắm. Ông đâu có sống gần họ. Tôi sẽ báo cho văn phòng ông Scapello để kiểm tra khu nghệ thuật. Ông ấy từng tìm ra chỗ nào về nghệ thuật nhỉ?”
“Ông sẽ làm ông Scapello loét bao tử mất, ngay khi ông ấy vừa ăn sandwich với trứng có rắc tiêu. Để tôi đi kiểm tra, đằng nào tôi cũng phải lên lầu mà.”
“Ông biết là chúng vẫn làm gì trong đó mà.” John nhắc chừng tôi.
“Đừng lo, Johnny, đó là những người có chai sần đầy tay.”
“Hơ hơ. Mấy cuốn sách đó lại đắt đến…”
Vậy là ông Scapello sẽ không ghé vào chỗ cậu bé với những ngón tay đầy phấn, tôi leo ba cầu thang lên Dãy Ba, qua phòng tiếp nhận sách, nơi Jimmy Boylen mắt kèm nhèm, một ông năm mươi mốt tuổi, đang chất sách từ một xe đẩy xuống; đi qua phòng đọc, nơi dân lang thang của phố Mulberry ngủ gục trên những tờ Popular Mechanics; qua hành lang hút thuốc nơi những sinh viên trường luật trán rịn mồ hôi ngồi xả hơi, một số hút thuốc, số khác đang cố chùi thuốc màu dính trên ngón tay từ các giáo trình về tội phạm; và sau cùng, đi qua phòng tạp chí, nơi có mấy bà già được chở từ Upper Montclair xuống hiện đang co người trên ghế, rà kiếng trên những trang tin về giới thượng lưu của tờ Newark News cũ xì vàng ố. Tới Dãy Ba tôi thấy cậu bé. Cậu ngồi bệt dưới sàn giữ một cuốn sách rộng mở trên lòng, một cuốn sách, thực tình, còn bự hơn lòng cậu và cậu phải dùng hai đầu gối chõi nó lên. Với ánh sáng từ cửa sổ phía sau cậu tôi có thể thấy hằng trăm khoảng trống chen giữa hằng trăm những sợi tóc loăn xoăn lò xo của cậu. Cậu rất đen và bóng và đôi môi của cậu không có vẻ mang một màu khác mà nó trông như chưa hoàn tất và còn chờ tu sửa thêm. Đôi môi ấy hở ra, đôi mắt mở rộng, và ngay cả đôi tai coi bộ cũng có độ tiếp nhận cao. Cậu trông cực kỳ khoái chí – tức là, cho đến khi nhìn thấy tôi. Vì cậu cứ ngỡ tôi là John McKee.
“Được rồi,” tôi nói trước khi cậu kịp cử động, “tôi chỉ đi ngang qua đây thôi. Cứ đọc đi.”
“Có gì đâu mà đọc. Toàn là hình.”
“Tốt.” Tôi xem xét loanh quanh những tầng kệ thấp nhất trong một lát, giả như đang làm việc.
“Này, ông ơi,” lát sau cậu ta kêu, “cái này ở đâu?”
“Cái gì ở đâu?”
“Những hình này ở đâu? Những người này, trời, coi họ lì thiệt. Họ không kêu la gì hết trơn, ông coi nè.”
Cậu giơ cuốn sách cho tôi xem. Đó là một cuốn sách khổ lớn đắt tiền in lại tranh Gauguin. Trang cậu đang xem có in màu một bức tranh vẽ ba phụ nữ bản xứ đứng lộâi tới gối trong một dòng nước màu hoa hồng. Đó vốn là một bức tranh im lặng, cậu ta nói đúng.
“Đó là Tahiti. Một hòn đảo ở Thái Bình Dương.”
“Không phải chỗ mình tới được, đúng không? Giống một điểm du lịch hả?”
“Tới được chứ, tôi nghĩ thế. Nó xa lắm. Người ta sống ở đó…”
“Nè, coi nè, coi cái này nè.” Cậu lật ngược tới một trang có một thiếu nữ da nâu đang khom người tới trước, như đang hong tóc. “Trời,” cậu ta nói, “Thật là một cuộc đời chó đẻ.” Nỗi hào hứng trong lối ăn nói của cậu hẳn sẽ khiến cậu bị cấm cửa vĩnh viễn đối với Thư viện công cộng Newark và các chi nhánh của nó nếu như John hoặc ông Scapello – hoặc, xin Chúa thương, bà Winney nằm nhà thương – là người đi kiểm tra.
“Ai chụp những hình này vậy?” cậu hỏi tôi.
“Gauguin. Ông ta không có chụp, mà vẽ đấy. Paul Gauguin. Ông ta người Pháp.”
“Ông ấy da trắng hay da màu?”
“Ông ấy da trắng.”
“Trời trời,” cậu mỉm cười, gần như khúc khích thành tiếng, “Tôi hiểu rồi. Ông ta không chụp hình như người da trắng thường làm. Ông ta chụp hình giỏi đấy… Coi cà, coi cà, coi hình này nè. Cuộc đời vầy không chó đẻ quá sao?”
Tôi đồng ý nó là thế và bỏ đi.
Lát sau tôi nhờ Jimmy Boylen phóng xuống thang để cho McKee hay rằng mọi chuyện đều ổn. Rồi hết ngày đó cũng chẳng có chuyện gì. Tôi ngồi ở Bàn hướng dẫn nghĩ về Brenda và tự nhắc mình rằng tối hôm đó tôi phải đổ xăng trước khi đi Short Hills, nơi mà bây giờ tôi thấy rõ, bằng con mắt trí nhớ, đang lúc hoàng hôn, đỏ quạch màu hoa hồng, như một dòng nước của Gauguin.
Khi tôi đậu xe trước nhà Patimkin tối hôm đó, mọi người, ngoại trừ Julie, đang đợi tôi ở hàng hiên: ông bà chủ nhà, Ron, và Brenda, mặc một cái váy dài. Trước đây tôi chưa từng thấy nàng mặc váy dài và trong thoáng chốc nàng trông không giống cô gái tôi quen nữa. Nhưng đó mới chỉ là một nửa nỗi ngạc nhiên. Có quá nhiều sinh viên nữ té ra có giò cẳng chỉ để mặc soóc. Brenda thì không. Trong chiếc váy, trông nàng cứ như cả đời chỉ ăn mặc như thế, như thể nàng chưa từng mặc soóc, hay đồ tắm, hay áo ngủ, hay bất cứ gì khác ngoài cái váy vải gai màu nhạt ấy. Tôi bước đi hơi hăng hái ngược lên vuông cỏ, qua chỗ cây liễu già rũ nhánh, về phía nhà Patimkin đang đứng chờø mà lòng cứ áy náy phải chi mình đã đem xe đi rửa. Tôi chưa đến được chỗ họ thì Ron đã bước xuống và bắt tay tôi, nồng nhiệt, cứ như anh ta không được gặp tôi kể từ thời Diaspora.[1] Bà Patimkin mỉm cười còn ông Patimkin ậm ừ điều gì đó và cứ giật giật cổ tay, rồi giơ lên một cây gậy đánh golf tưởng tượng và quất bóng ma của một trái banh golf bay về phía dãy núi Orange, tôi tin rằng nó được gọi là Orange (màu cam) vì trong ánh sáng ngoại ô rất hay thay đổi này thì đó là màu duy nhất mà dãy núi đó không có.
“Nhà em sẽ về liền,” Brenda nói với tôi. “Anh coi chừng Julie. Carlota hôm nay nghỉ.”
“Được mà,” tôi nói.
“Nhà em đưa Ron ra phi trường.”
“Được.”
“Julie không muốn đi. Nó nói chiều nay Ron đẩy nó trong hồ tắm. Nhà em đã chờ anh đến, để khỏi trễ chuyến bay của Ron. Được chứ?”
“Được.” Ông bà Patimkin và Ron đã cho xe chạy ra, và tôi cho Brenda một cái nhìn tỏ ý bực bội. Nàng thò tay ra cầm lấy tay tôi một lúc.
“Em thích em cỡ nào?” nàng nói.
“Được chăm sóc em thì quá tuyệt. Anh có được dùng mọi thứ sữa và bánh tùy ý không?”
“Đừng bực, cưng. Nhà em sẽ về liền mà.” Rồi nàng đợi một lát, và khi thấy tôi không xẹp được cái chu mỏ bực bội, nàng cũng cho tôi một cái nhìn tóe lửa luôn, chẳng úp mở gì cả. “Em muốn nói anh thích em cỡ nào trong cái váy này!” Rồi nàng chạy về phía chiếc Chrysler, lóc cóc trên đôi gót cao như một con ngựa non.
Sau khi bước vào nhà, tôi sập khung cửa lưới cái rầm sau lưng mình.
“Đóng cửa ngoài lại luôn,” một giọng trẻ con la lên. “Có máy lạnh mà.”
Tôi vâng lời đóng luôn cửa ngoài.
“Neil hả?” Julie kêu.
“Ờ.”
“Chào anh. Chơi bóng rổ nghe?”
“Thôi.”
“Sao vậy?”
Tôi không đáp.
“Em ở phòng tivi nè,” cô bé kêu lên.
“Tốt.”
“Anh được giao ở nhà với em hả?”
“Ờ.”
Cô bé bất ngờ xuất hiện ở ngõ phòng ăn. “Muốn đọc bài tóm lược sách của em không?”
“Bây giờ thì không.”
“Thế anh muốn làm gì?” nó hỏi.
“Chẳng gì cả, bé ạ. Sao em không coi tivi đi?”
“Được rồi,” nó nói với vẻ bực bội, và dằn dỗi đi trở lại phòng tivi.
Tôi đứng một lát trong tiền sảnh, quay quắt với ý muốn lặng lẽ ra khỏi căn nhà, chui vào xe, và trở về Newark, nơi tôi có lẽ chỉ ngồi trong lối ngõ công viên và nhai kẹo một mình. Tôi cảm thấy giống Carlota; không, thậm chí cũng không được thoải mái như thế. Sau cùng tôi rời tiền sảnh và bắt đầu đi vô đi ra khắp các phòng ở tầng trệt. Cạnh phòng khách là một phòng nghiên cứu, một căn phòng lót ván thông thô đầy những ghế vuông bọc da và toàn tập bộ Information Please Almanacs. Trên tường có ba bức vẽ theo ảnh chụp; đó là loại tranh, bất kể đề tài là ai, dù họ khoẻ mạnh hay ốm yếu, già hay trẻ, thì đều có đặc trưng là má phính, môi mọng, răng trắng tinh, và mái tóc sáng bóng, như kim loại. Đề tài trong trường hợp này là Ron, Brenda và Julie vào khoảng mười bốn, mười ba và hai tuổi. Brenda có mái tóc nâu dài, cái mũi có khối kim cương, và không đeo kính; tất cả kết hợp lại để làm nàng trông cứ như một cô gái hoàng tộc mười ba tuổi vừa mới biết buồn. Ron trông mập hơn và đường chân tóc thấp hơn, nhưng lòng yêu mến các vật thể hình cầu và những sân chơi có đường biên đã nhấp nháy trong đôi mắt trẻ thơ của cậu ấy. Cô bé Julie biến mất tiu trong quan niệm quá lý tưởng về tuổi thơ của người vẽ; chút xíu chất người của cô bé bị bóp chết ngạt đâu đó đàng sau những mảng màu hồng và trắng.
Quanh đó còn có những bức ảnh khác, nhỏ hơn, chụp bằng máy Brownie Reflex trước khi trò vẽ theo ảnh chụp trở thành thời thượng. Có một bức nhỏ chụp Brenda trên lưng ngựa, một bức khác chụp Ron trong bộ đồ ngày lễ thêm sức của trẻ con Do Thái, với khăn quấn đầu và áo chùng, và hai ảnh trong cùng một khung – gồm một ảnh phụ nữ xinh đẹp, đã phai màu, mà nhìn đôi mắt tôi đoán chắc là mẹ bà Patimkin, và ảnh kia chính là bà Patimkin, mái tóc có quầng sáng, đôi mắt vui vẻ chứ không như đôi mắt hiện nay của một bà mẹ đứng tuổi chậm chạp có đứa con gái nhanh nhẹn và dễ thương.
Trả Lời Với Trích Dẫn