Suốt một tuần lễ rưỡi kế đó hình như chỉ có hai nhân vật trong đời tôi: Brenda và cậu bé da màu yêu Gauguin. Mỗi sáng trước khi thư viện mở cửa, cậu bé đã chờ sẵn; có khi cậu nhảy lên ngồi trên lưng con sư tử, có khi chui dưới bụng nó, có khi cậu chỉ đứng đâu đó chọi những viên sỏi vào mái bờm sư tử. Rồi cậu sẽ vào trong, đi lộp cộp ở sảnh chính cho đến khi Otto trừng mắt khiến cậu phải nhón gót lên, và sau cùng leo hết cái cầu thang đá hoa dẫn tới Tahiti của cậu. Không phải lúc nào cậu cũng ở tới tận trưa, nhưng một ngày rất nóng nực nọ cậu đã ở đó khi tôi đến vào buổi sáng và theo tôi bước ra khỏi cửa khi tôi ra về vào buổi tối. Sáng hôm sau, té ra, cậu không ló mặt tới, và cứ như để thế chỗ cậu, một ông rất già xuất hiện, da trắng, bốc mùi thuốc Life Savers, mũi và quai hàm ông ta lộ rõ những mạch máu dưới da. “Cậu chỉ giùm khu sách nghệ thuật được không?”
“Dãy Ba,” tôi nói.
Vài phút sau, ông ta trở lại với một cuốn sách lớn bìa nâu trong tay. Oâng ta đặt nó lên bàn của tôi, rút tấm thẻ thư viện trong một cái ví dài lâu nay chẳng còn đựng tiền bạc gì và chờ tôi đóng dấu cho mượn.
“Ông muốn mượn cuốn này về à?” tôi hỏi.
Ông ta mỉm cười.
Tôi cầm thẻ của ông ta và nhét phần mép bọc kim loại vào máy đóng dấu, nhưng tôi không dập máy. “Khoan đã,” tôi nói. Rồi lấy ra một xấp hồ sơ dưới hộc bàn và làm bộ lật lật vài trang, trên đó chỉ vẽ mấy trò chơi bắn tàu và cờ ca rô tôi vẫn chơi một mình trong tuần. “Tôi e rằng nó bị giữ trước rồi.”
“Tức là sao?”
“Giữ trước. Có người gọi tới và yêu cầu chúng tôi giữ cuốn này cho họ. Hay để tôi ghi tên và địa chỉ của ông và gửi phiếu khi nó được trả về…”
Và thế là tôi có thể đưa cuốn sách về chỗ của nó, tuy cũng phải đỏ mặt một hai phát. Sau đó khi cậu bé da đen xuất hiện, nó đã nằm nguyên ở chỗ cậu bỏ lại vào chiều hôm trước.
Còn về Brenda, tôi gặp nàng mỗi tối và khi không có trận đấu đêm nào khiến ông Patimkin phải thức coi trong phòng tivi, hoặc một sòng bài nào đó lôi bà Patimkin ra khỏi nhà và chỉ về nhà vào những giờ không đoán trước được, thì chúng tôi làm tình trước màn hình tivi câm lặng. Một tối trời thấp nóng ẩm nọ Brenda rủ tôi đi bơi ở câu lạc bộ. Chỉ có hai chúng tôi ở hồ, và tất cả những ghế gổng, đèn đóm, bạt dù, ván nhảy cầu và ngay cả mặt nước hình như tồn tại chỉ để chúng tôi vui thôi. Nàng mặc một bộ đồ xanh dương mà dưới ánh đèn trông cứ như tím và khi ở dưới nước nó ánh lên lúc thì màu xanh lá cây lúc thì đen. Về khuya một cơn gió nhẹ từ sân golf thổi lên và chúng tôi cuộn chung một tấm khăn tắm lớn, kéo hai cái ghế dài lại cạnh nhau, và mặc kệ tay đứng quầy rượu cứ đi đi lại lại suốt bên cửa sổ quán bar nhìn ra hồ, chúng tôi vẫn cứ nằm bên nhau trên ghế. Sau cùng ngọn đèn trong quán cũng tắt, và rồi, tách một tiếng, những đèn quanh hồ cũng tắt luôn. Tim tôi chắc là đập nhanh hơn, hay cái gì đó, vì Brenda hình như đoán ra nỗi e dè đột nhiên của tôi – mình phải về thôi, tôi nghĩ.
Nàng nói: “Thế được đấy.”
Chung quanh tối mò, bầu trời thấp và không ánh sao, phải mất một lúc tôi mới nhìn rõ được tấm ván nhảy hơi sáng hơn trời đêm, và phân biệt được mặt nước với những ghế gổng xếp quanh mé bên kia hồ.
Tôi kéo quai áo tắm của nàng xuống nhưng nàng bảo đừng và lăn cách khỏi tôi vài phân, và lần đầu tiên trong hai tuần qua tôi thấy nàng hỏi một câu về đời riêng của tôi.
“Bố mẹ anh đâu?” nàng hỏi.
“Ở Tuscon,” tôi nói. “Sao vậy?”
“Mẹ em hỏi em.”
Bây giờ tôi nhìn rõ được cái ghế của nhân viên cứu hộ, gần như trắng.
“Vậy sao anh ở đây? Sao anh không sống với bố mẹ?” nàng hỏi.
“Anh không còn đứa trẻ nữa, Brenda,” tôi nói, gắt gỏng hơn tôi dự định. “Anh đâu phải tò tò theo bố mẹ đi bất cứ đâu.”
“Nhưng sao anh sống với chú dì anh?”
“Họ đâu phải bố mẹ anh.”
“Họ tốt hơn à?”
“Không. Tệ hơn. Anh cũng không biết sao anh lại sống với họ.”
“Tại sao?” nàng hỏi.
“Tại sao anh không biết à?”
“Tại sao anh sống với họ? Anh biết mà, phải không?”
“Chắc do công việc. Sống ở đó tiện hơn, lại đỡ tốn nữa, và nó làm bố mẹ anh yên tâm. Thực ra bà dì của anh cũng tốt… Anh có phải giải thích cho mẹ em lý do anh sống ở chỗ hiện nay không?”
“Cái này không phải cho mẹ em. Chính em muốn biết kìa. Em tự hỏi sao anh không sống với bố mẹ, vậy thôi.”
“Em lạnh không?” tôi hỏi.
“Không.”
“Em muốn về chưa?”
“Chưa, trừ khi anh muốn. Anh không thấy thoải mái sao, Neil?”
“Anh ổn chứ,” và để nàng biết tôi vẫn bình thường, tôi kéo nàng sát vào người, tuy lúc đó tôi chẳng có chút thèm muốn nào.
“Neil?”
“Cái gì?”
“Công việc thư viện ra sao?”
“Ai muốn biết điều này đây?”
“Bố em,” nàng bật cười.
“Còn em?”
Nàng im lặng không trả lời một lát. Mãi nàng mới nói, “Cả em nữa.”
“Được, muốn biết chuyện gì? Anh có thích nó không hả? Nó tốt thôi. Anh đã từng đứng bán giày và thấy thích làm thư viện hơn. Sau khi xuất ngũ bố mẹ cho anh làm thử ít tháng ở công ty địa ốc của Chú Aaron – bố của Doris đó – và anh thấy thích làm thư viện hơn…”
“Sao anh xin được việc ở đó?
“Anh có làm ở đó một thời gian khi còn ở đại học, rồi khi anh bỏ chỗ làm với chú Aaron, ồ, anh chẳng biết nữa…”
“Ở đại học anh học gì?”
“Ở cơ sở Newark của Đại học Rutgers anh theo khoa triết. Lúc đó anh hăm ba tuổi. Anh…”
“Sao anh lại ăn nói khó chịu nữa rồi?”
“Vậy sao?”
“Ừ.”
Tôi chẳng nói xin lỗi quái gì cả.
“Anh có kế hoạch sống luôn với nghề thư viện không?”
“Bren, anh chẳng kế hoạch gì cả. Anh đã chẳng kế hoạch cái gì trong ba năm rồi. Ít nhất là trong năm anh vừa xuất ngũ. Hồi trong lính anh thừơng có kế hoạch đi chơi cuối tuần. Anh… anh không phải nhà kế hoạch.” Sau tất cả những sự thật tôi đã bất ngờ cho nàng hay, hẳn tôi đã phá hủy sạch mọi thứ của mình bằng lời nói dối sau cùng đó. Tôi thêm, “Anh là kẻ sống.”
“Còn em là kẻ chín,” nàng nói.[1]
Rồi nàng dẹp trò nói giỡn ngốc nghếch sang một bên; nàng muốn nghiêm túc.
“Anh có yêu em không, Neil?”
Tôi không đáp.
“Em sẽ ngủ với anh dù anh có yêu hay không, nên cứ nói thật với em đi.”
“Như thế hơi thô đấy.”
“Đừng thối tha thế,” nàng nói.
“Không, ý anh là nói về mình thì thô quá.”
“Em không hiểu,” nàng nói, và nàng không hiểu thật, và việc nàng không hiểu khiến tôi đau; tuy nhiên tôi vẫn tự cho mình một cái cớ vớ vẩn để bỏ qua sự thiếu tinh tế của nàng. “Anh có yêu không?”
“Không.”
“Em muốn anh yêu.”
“Thế còn thư viện?”
“Thư viện thì sao?”
Lại thiếu tinh tế nữa phải không? Tôi nghĩ rằng không – và nó không thật, vì Brenda nói, “Khi anh yêu em thì chẳng có gì phải ưu tư cả.”
“Thế thì dĩ nhiên anh sẽ yêu em.” Tôi mỉm cười.
“Em biết anh sẽ yêu,” nàng nói. “Sao anh không xuống bơi, và em sẽ nhắm mắt lại đợi anh, rồi khi trở lại anh sẽ ướt mem làm em ngạc nhiên. Đi đi.”
“Em thích chơi trò chơi phải không?”
“Đi đi. Em sẽ nhắm mắt lại.”
Tôi bước tới mép hồ và phóng xuống. Nước coi bộ lạnh hơn hồi nãy, và khi tôi lao vào và mù lòa chúi xuống sâu tôi chợt thấy hơi hoảng. Trồi trở lên, tôi bắt đầu bơi dọc hồ và đến cuối hồ thì lộn người bơi trở lại, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy chắc rằng khi tôi rời khỏi hồ thì Brenda đã đi mất. Tôi sẽ trơ trọi một mình ở cái chỗ thổ tả này. Tôi bơi về mép hồ rồi bò lên và chạy tới chỗ mấy cái ghế, Brenda vẫn còn đó và tôi hôn nàng.
“Trời,” nàng run lên, “anh bơi có chút xíu à.”
“Anh biết.”
“Đến lượt em,” nàng nói, và rồi nàng đứng dậy và một giây sau tôi tiếng nước toé lên rồi chấm hết. Không nghe thấy gì cả hồi lâu.
“Bren,” tôi gọi khe khẽ, “em ổn không?” nhưng chẳng ai trả lời.
Tôi thấy mắt kiếng của nàng trên ghế cạnh tôi và cầm nó trong tay. “Brenda?”
Im re.
“Brenda?”
|