“Tiền gì?” tôi hỏi.
“Mấy tờ trăm đô. Từ hồi em còn nhỏ…” nàng hít thở thật sâu. “Hồi em còn nhỏ và nhà em mới dọn khỏi Newark, một bữa ba em dẫn em lên đây. Ông đưa em vào phòng này rồi nói nếu có gì xảy ra cho ông, thì ông muốn em biết chỗ nào có một ít tiền bạc để em dùng. Ông bảo số tiền đó chẳng dành cho ai khác ngoài em, và bảo em không được nói cho ai biết, kể cả Ron. Hay mẹ em cũng vậy.”
“Có chừng bao nhiêu?”
“Ba tờ một trăm đô. Trước đó em chưa từng thấy. Lúc đó em mới chín tuổi, cỡ Julie bây giờ. Em tưởng nhà em chỉ sống ở đây chừng một tháng. Em nhớ mình thường lên đây khoảng mỗi tuần một lần, khi không có ai ở nhà ngoài Carlota, rồi chui xuống gầm trường kỷ để kiểm tra chắc là nó còn đó. Và lúc nào nó cũng còn đó. Bố không hề nhắc tới nó lần nào nữa. Không hề.”
“Nó ở đâu? Có thể ai đã ăn cắp rồi.”
“Em không biết, Neil à. Em nghĩ chắc bố đã lấy lại.”
“Khi nó mất,” tôi nói, “Chúa ơi, em không cho bố biết sao? Có thể Carlota…”
“Em không hề biết nó mất, cho đến lúc này. Em nghĩ em đã thôi không kiểm tra nó một đôi lần… Rồi em quên nó luôn. Hay chỉ đơn giản không nghĩ về nó nữa. Ý em là em lúc nào cũng đủ tiền xài, em không cần đến khoản này. Chắc bố một lúc nào đó đã cho rằng em không cần đến nó nữa.”
Brenda bước tới khung cửa sổ hẹp đầy bụi và vẽ tên tắt của nàng lên đó.
“Thế sao bây giờ em cần nó?” tôi hỏi.
“Em không biết…” nàng nói rồi bước tới tắt đèn.
Tôi không rời khỏi ghế và Brenda, trong chiếc áo thun và quần soóc bó sát, cứ như đang trần truồng đứng cách tôi vài bước. Rồi tôi thấy đôi vai nàng run run. “Em muốn tìm được mớ tiền đó rồi xé nát ra bỏ cái mớ chết tiệt đó vào ví của mẹ! Nếu nó còn đó, em thề là em sẽ làm thế.”
“Anh không để em làm đâu, Bren.”
“Anh không chịu sao?”
“Không.”
“Yêu em đi, Neil. Ngay bây giờ.”
“Ở đâu?”
“Làm đi! Ngay đây. Trên cái trường kỷ thối tha thối tha thối tha này.”
Và tôi nghe lời nàng.
Sáng hôm sau Brenda làm bữa sáng cho hai đứa tụi tôi. Ron đã đi làm ngày đầu tiên – tôi có nghe anh ta hát ê a trong phòng tắm độ một giờ sau khi tôi trở lại phòng mình; thực sự, tôi đã thức khi chiếc Chrysler ra khỏi nhà xe, mang theo ông chủ và anh con trai xuống cơ xưởng Patimkin ở Newark. Bà Patimkin cũng không có nhà, bà đã lấy xe và đi tới đền thờ để nói chuyện với giáo sĩ Kranitz về vụ đám cưới. Julie đang ở sân sau chơi trò giúp Carlota phơi quần áo.
“Anh biết sáng nay em muốn làm gì không?” Brenda nói. Chúng tôi đang ăn bưởi chùm, chia nhau một cách hơi bầy hầy, vì Brenda không tìm ra con dao xẻ, nên chúng tôi quyết định cứ lột nó ra như cam rồi ăn từng múi một.
“Cái gì?” tôi hỏi.
“Chạy,” nàng nói. “Anh có bao giờ chạy không?”
“Em muốn nói trên đường đua hả? Ồ, có chứ. Hồi học trung học mỗi tháng tụi anh phải chạy một dặm. Nên tụi anh hết còn bám váy mẹ. Anh nghĩ buồng phổi mình càng lớn thì chắc mình càng ghét mẹ mình.”
“Em muốn chạy,” nàng nói, “và muốn anh chạy nữa. Được không?”
“Ồ, Brenda…”
Nhưng một giờ sau, sau bữa điểm tâm gồm một trái bưởi nữa, coi bộ đó là tất cả những gì mà một tay chạy bộ nên ăn trong buổi sáng, chúng tôi lái chiếc Volkswagen lại trường trung học, phía sau đó có đường chạy một phần tư dặm. Mấy đứa trẻ đang chơi với một con chó ở bãi cỏ bên trong đường chạy, và ở tuốt đàng kia, gần bìa rừng, một bóng người mặc quần soóc trắng có đường xẻ bên đùi, không mặc áo, đang quay, quay, rồi đẩy một quả tạ đi bằng hết sức mình. Đẩy tạ khỏi tay, anh ta làm một màn loạng choạng trong khi nhìn theo nó bay vòng rồi rơi xuống đàng xa.
“Anh biết không,” Brenda nói, “anh trông giống em. Có điều bự hơn.”
Chúng tôi mặc đồ giống nhau, giày đế mềm, vớ dày, quần kaki Bermuda, áo thun dài tay, nhưng tôi có cảm giác Brenda không nói chuyện tình cờ ăn mặc giống nhau – nếu đó là tình cờ. Tôi chắc nàng muốn nói rằng ít nhiều tôi đã bắt đầu nhìn sự việc theo kiểu nàng muốn. Giống như nàng.
“Để xem ai nhanh hơn,” nàng nói, rồi chúng tôi khởi hành theo đường chạy. Trong phần tám dặm đầu tiên ba đứa bé với con chó của chúng chạy theo bọn tôi. Khi qua chỗ có anh chàng ném tạ, anh ta vẫy tay chào; Brenda kêu lên “Chào!” và tôi mỉm cười, chuyện đó, bạn có thể biết hoặc không, khiến những ai muốn chạy một cách nghiêm túc cảm thấy quá sức ngốc nghếch. Được một phần tư dặm thì mấy đứa trẻ bỏ cuộc và trở vô bãi cỏ, con chó quay đầu chạy theo hướng ngược lại, và tôi thấy nhoi nhói bên hông. Tôi vẫn chạy ngang với Brenda, ở vòng thứ hai nàng lại kêu “Chào!” với anh chàng ném tạ may mắn, anh này đã nằm xuống cỏ, nhìn theo chúng tôi, và xoa quả tạ cứ như một trái cầu pha lê. A, tôi nghĩ, thể thao là thế.
“Mình thử ném tạ chơi không?” tôi thở hổn hển.
“Để sau đã,” nàng nói, và tôi thấy những giọt mồ hôi bám ở những đuôi tóc phất phơ sau tai nàng. Khi chúng tôi được nửa dặm Brenda đột nhiên rời đường đua tạt vào bãi cỏ và ngồi phịch xuống; việc nàng bỏ ngang khiến tôi ngạc nhiên và tôi vẫn chạy tiếp.
“Ê, Bob Mathias,” nàng gọi, “nằm phơi nắng đi…”[1]
Nhưng tôi làm như không nghe nàng gọi và tuy tim tôi đập muốn văng lên tới cổ họng và miệng khô như bị hạn hán, tôi vẫn bắt chân tôi chạy, và thề không dừng lại cho đến khi chạy xong một vòng nữa. Khi qua chỗ anh chàng ném tạ lần thứ ba, tôi kêu “Chào!”
Nàng rất hào hứng khi sau cùng tôi dừng lại bên nàng. “Anh hay quá,” nàng nói. Hai tay tôi chống nạnh và tôi nhìn xuống đất và cố hớp lấy không khí – hay đúng hơn, không khí hớp lấy tôi, tôi chẳng có gì nhiều để nói.
“Ừ hứ,” tôi thở ra.
“Sáng nào cũng chạy vầy đi,” nàng nói. “Mình sẽ dậy rồi ăn hai trái bưởi, và anh sẽ ra đây chạy. Em sẽ tính giờ cho. Trong hai tuần anh sẽ vượt mức bốn phút, được không, cưng? Em sẽ mượn đồng hồ bấm giờ của Ron.” Nàng đang hào hứng như vậy – nàng chuồi người trên cỏ và kéo mép vớ qua mắt cá và bắp chân ướt đẫm của tôi. Nàng cắn vào xương bánh chè của tôi.
“Được thôi,” tôi nói.
“Rồi mình sẽ về và ăn một bữa sáng đàng hoàng.”
“Được.”
“Anh lái xe về nghe,” nàng nói, và đột nhiên nàng bật dậy chạy trước tôi, và rồi chúng tôi hướng ra chỗ đậu xe.
Sáng hôm sau, miệng tôi vẫn còn tê tê vì mấy múi bưởi thì chúng tôi đã tới đường chạy. Tụi tôi mang theo đồng hồ bấm giờ và một cái khăn lớn, để dùng khi tôi chạy xong.
“Chân anh hơi nhức,” tôi nói.
“Làm vài động tác thể dục đi,” Brenda nói. “Để em tập với anh.” Nàng xếp khăn để trên cỏ và chúng tôi cùng làm động tác gập người, đứng lên ngồi xuống và hít đất, và đưa cao đầu gối tại chỗ. Tôi cảm thấy cực kỳ sung sướng.
“Hôm nay anh chỉ chạy nửa dặm thôi, Bren. Để xem anh làm được gì…” và tôi nghe Brenda bấm đồng hồ, và rồi khi tôi chạy vòng tới bên kia, mây trôi theo tôi trên cao cứ như cái đuôi trắng mềm mại của tôi, tôi thấy Brenda ngồi dưới đất, ôm đầu gối, hết nhìn theo tôi lại xem đồng hồ. Chỉ có hai chúng tôi ở đó, và tất cả gợi tôi nhớ lại một trong những cảnh của các phim về đua ngựa, trong đó một tay luyện ngựa già như Walter Brennan với một thanh niên đẹp trai tính giờ cho con ngựa của một cô gái xinh đẹp vào buổi sáng sớm ở Kentucky, để xem nó có thật là con ngựa hai tuổi nhanh nhất trên đời này không. Dĩ nhiên cũng có những khác biệt – một trong số đó đơn giản là ở mức phần tư dặm Brenda la lên với tôi, “một phút mười bốn giây,” nhưng nó thật dễ chịu và sôi động và sạch sẽ và khi tôi chạy xong Brenda đã đứng dậy chờ tôi. Thay vì chạm đứt một sợi băng ở mức đến thì tôi có da thịt ngọt ngào của Brenda để chạm vào, và tôi đã làm như thế, và đó là lần đầu tiên nàng nói nàng yêu tôi.
Chúng tôi chạy – tôi chạy – mỗi sáng, và đến cuối tuần đó tôi chạy một dặm hết bảy phút lẻ hai giây, và lúc nào ở mức đến cũng có tiếng bấm click ở đồng hồ và vòng tay của Brenda.
Ban đêm, tôi thường mặc đồ ngủ đọc sách, trong khi Brenda, bên phòng nàng, cũng đọc, và chúng tôi chờ cho Ron đi ngủ. Có đêm chúng tôi phải chờ lâu hơn mọi khi, và tôi nghe được tiếng lá reo bên ngoài, vì cuối tháng Tám trời đã mát hơn, và ban đêm máy điều hòa được tắt đi và chúng tôi được phép mở cửa sổ. Sau cùng Ron cũng chuẩn bị ngủ. Anh ta sẽ đi thình thịch trong phòng và ra cửa chỉ với quần soóc với áo thun và vào phòng tắm đứng trong đó đái um sùm và đánh răng. Sau khi anh ta đánh răng tôi cũng vào đánh răng. Chúng tôi sẽ chạm mặt nhau ở hành lang và tôi dành cho anh ta một câu “Chúc ngủ ngon” thành thật và chân tình. Khi đã vào phòng tắm, tôi sẽ dành một lát để ngắm làn da rám nắng của mình trong gương; ở phía sau tôi có thể thấy khố bảo vệ hạ bộ của Ron phơi trên những núm nước nóng và lạnh của vòi hoa sen. Chẳng ai thắc mắc tính thẩm mỹ của nó trong vai trò vật trang trí, và sau vài đêm thì tôi cũng chẳng buồn để ý tới nó luôn.
Trong khi Ron đánh răng còn tôi nằm trên giường chờ đến lượt mình, tôi có thể nghe máy quay đĩa chơi trong phòng anh ta. Thường thường, sau khi đi chơi bóng rổ về, anh ta sẽ gọi cho Harriet – người chỉ còn vài ngày nữa sẽ tới đây- và rồi cắm cúi vào tờ Sports Illustrated và nhạc Mantovani; tuy nhiên, khi ra khỏi phòng để làm vệ sinh buổi tối, tôi thường không nghe thấy nhạc Mantovani, mà là một cái gì khác, rõ ràng đó là món anh ta có lần gọi là đĩa Columbus. Tôi tưởng tượng đó là đĩa tôi đang được nghe, vì tôi không thể xác định gì nhiều qua những đoạn nhạc cuối. Tôi chỉ nghe được những tiếng chuông rền rĩ đều đều và nền nhạc ái quốc nhè nhẹ, và lướt trên tất cả là một giọng hát u uẩn trầm đục theo kiểu của Edward R. Murrow: “Và thế là chia tay thôi, Columbus,” giọng hát cứ rầu rầu, “… chia tay thôi, Columbus… chia tay thôi…” rồi sau đó là im lặng và Ron sẽ trở lại phòng; đèn sẽ tắt và chỉ trong vòng vài phút tôi có thể nghe tiếng anh ta rơi vào giấc ngủ sung sướng, đầy sinh tố, đầy sức phục hồi mà tôi nghĩ vận động viên nào cũng hưởng được.
Một sáng kia gần đến giờ chuồn về phòng tôi có một giấc mơ và khi tỉnh lại được thì ánh bình minh đã rọi vào phòng đủ cho tôi nhìn rõ màu tóc Brenda. Tôi chạm vào nàng lúc còn ngủ đó, vì giấc mơ đã khiến tôi bất an: nó diễn ra trên một con tàu, một tàu buồm cũ như thứ thường thấy trong những phim cướp biển. Cùng với tôi trên con tàu đó là chú bé da đen ở thư viện – tôi là thuyền trưởng còn cậu là thuyền phó, và cả thủy thủ đoàn chỉ có hai chúng tôi. Đó là giấc mơ dễ chịu được một lúc; chúng tôi buông neo trong một cảng của một hòn đảo Thái Bình Dương và trời nhiều nắng. Trên bờ biển có nhiều thiếu nữ da màu xinh đẹp, và không ai trong bọn họ cử động; nhưng đột nhiên chúng tôi, tức là con tàu của tôi, di chuyển, rời khỏi cảng, và những cô gái da đen chậm chạp đi xuống bãi và bắt đầu ném những vòng hoa về phía chúng tôi rồi nói “Chia tay thôi, Columbus… chia tay thôi, Columbus… chia tay thôi…” và tuy chúng tôi không muốn đi, cả cậu bé và tôi, nhưng con tàu vẫn trôi dần và chúng tôi không làm gì được, và cậu ta quát tháo rằng đó là do lỗi của tôi còn tôi quát đó là lỗi của cậu vì đã không có thẻ thư viện, nhưng chúng tôi chỉ phí hơi, vì chúng tôi ngày càng xa dần hòn đảo, và rồi chẳng còn người dân đảo nào nữa. Không gian hoàn toàn mất cân đối trong giấc mơ, và các sự vật có kích cỡ và vuông cạnh không theo bất cứ kiểu nào tôi từng thấy, và tôi nghĩ chính điều đó chứ không phải cái gì khác đã đẩy tôi tỉnh dậy. Tôi không muốn rời chỗ nằm cạnh Brenda sáng hôm đó, và tôi rờ rẫm một điểm nhỏ trên gáy nàng, chỗ tóc bị cắt ngắn đi. Tôi đã ở lại lâu hơn mức cho phép, và sau cùng khi trở về phòng tôi gần như đâm sầm vào Ron khi anh ta đang chuẩn bị cho một ngày làm việc ở xưởng Bồn rửa và Bồn tắm Patimkin.
- o O o -
[1]Bob Mathias: vận động viên 10 môn phối hợp, huy chương vàng năm 1948 và 1952
|