View Single Post
  #16  
Old 01-07-2010, 03:21 PM
NghiDung's Avatar
NghiDung NghiDung is offline
Member
 
Tham gia ngày: Jan 2010
Bài gởi: 41
Default

Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được cái nóng bức và nhớp nháp của buổi chiều đó khi chúng tôi lái xe tới New York. Đó là ngày thứ tư kể từ bữa nàng ghé Margaret Sanger- nàng cứ trì hoãn đi trì hoãn lại, nhưng sau cùng vào hôm thứ Sáu, ba ngày trước lễ cưới của Ron và bốn ngày trước hôm trở lại đại học, chúng tôi đã chạy xe qua đường hầm Lincoln, nó có vẻ dài hơn và nhiều khói hơn bao giờ hết, cứ như một địa ngục lót gạch men vậy. Sau cùng chúng tôi cũng đến New York và lại chết ngộp vì một ngày ngột ngạt. Tôi đảo vòng một anh cảnh sát chỉ mặc sơ mi trần đang điều khiển giao thông và chạy lên phía trụ sở Cục quản lý cảng để đậu xe.
“Em có tiền trả taxi không?” tôi hỏi.
“Anh không đi với em sao?”
“Anh tính ngồi quán chờ em. Ngay đây, tầng dưới.”
“Anh có thể đợi trong công viên Central. Phòng mạch ông ấy ngay bên kia đường.”
“Bren, có khác gì…” nhưng khi thấy ánh mắt của nàng tôi đành từ bỏ quán rượu máy lạnh để cùng nàng đi xuyên thành phố. Trời đột nhiên mưa ra khi taxi của chúng tôi chạy vào trung tâm, và khi mưa tạnh, đường phố ướt át và lấp lóa, và bên dưới lề đường là tiếng rầm rì của xe điện ngầm, và nói chung thì cứ như chúng tôi đang đi vào lỗ tai của một con sư tử.
Phòng mạch bác sĩ nằm trong cao ốc Squibb, đối diện thương xá Bergdorf Goodman và như thế là một chỗ ngon lành cho Brenda sắm thêm quần áo. Vì lý do gì đó chúng tôi chưa từng nghĩ đến chuyện Brenda tới một bác sĩ ở Newark, có lẽ vì như thế là quá gần nhà và có khả năng bị phát hiện. Khi Brenda đến cánh cửa xoay nàng quay lại nhìn tôi; mắt nàng long lanh, cho dù sau lớp kính cũng thấy, và tôi không nói một lời, e rằng một lời, bất kỳ lời nào, cũng có thể gây hậu quả. Tôi hôn tóc nàng và ra hiệu rằng tôi sẽ ở chỗ vòi nước quảng trường ngay bên kia đường, và tôi nhìn theo nàng đi qua cánh cửa xoay. Ở ngoài đường xe cộ di chuyển chậm chạp cứ như cái ẩm ướt đã biến thành một bức tường chặn mọi thứ lại. Ngay cả cái vòi nước hình như cũng đang phun nước sôi lên những người ngồi quanh đó, và trong một thoáng tôi quyết định không băng qua đường mà theo Đại lộ Năm xuôi về phía nam và bắt đầu đi trên lề đường nóng hổi đến nhà thờ St. Patrick. Ở bậc thềm phía bắc nhà thờ một đám đông đã tụ lại; mọi người đang nhìn một cô người mẫu đứng cho chụp hình. Cô nàng mặc một chiếc váy màu vàng chanh với mũi chân chìa ra như một vũ viên ballet, và khi đi vào nhà thờ tôi nghe một bà nói, “Nếu tôi ăn pho mát trắng mỗi ngày mười lần thì tôi không gầy gò thế này.”
Bên trong nhà thờ mát hơn nhiều, có thể sự yên tĩnh và những ngọn nến chập chờn khiến tôi nghĩ thế. Tôi chọn một chỗ tuốt phía sau và do tôi không muốn qùi xuống nên đành chồm tới tựa vào lưng ghế phía trước, rồi chắp hai tay và nhắm mắt lại. Tôi tự hỏi mình trông giống một người Thiên chúa giáo không, và trong nỗi hoang mang tôi bắt đầu một bài diễn văn nho nhỏ với chính mình. Những lời đầy ý thức ấy của tôi có thể gọi là lời cầu nguyện không? Dù gì tôi vẫn gọi người lắng nghe tôi là Thượng Đế. Thưa ngài, tôi nói, con đã hăm ba. Con muốn làm tốt mọi chuyện. Bây giờ bác sĩ sắp gả Brenda cho con, mà con không hoàn toàn chắc chắn rằng đây là điều tốt nhất. Con yêu cái gì vậy, Chúa ơi? Tại sao con lựa chọn? Brenda là ai? Cuộc đua đã đến mức chóng mặt. Con có nên ngừng lại để suy nghĩ không?
Tôi chẳng nhận được câu trả lời nào, nhưng cứ tiếp tục. Nếu chúng con được gặp ngài, Thượng Đế ạ, ấy bởi vì chúng con là người phàm, và tham lam, và do đó có phần của ngài. Con là phàm trần, và con biết ngài chấp thuận, con chỉ biết thế. Nhưng làm sao con thành phàm trần được? Con tham lam. Bây giờ con biết trông vào đâu trong cơn tham lam này? Chúng ta gặp nhau ở đâu? Ngài là phần thưởng gì?
Đó là một cuộc suy ngẫm sáng suốt, nhưng đột nhiên tôi thấy xấu hổ. Tôi đứng dậy và đi ra ngoài, và âm thanh ngoài Đại lộ Năm đem lại cho tôi câu trả lời:
Mày nghĩ phần thưởng nào, thằng ngốc? Dụng cụ ăn bằng bạc, những cái cây dụng cụ thể thao, những quả đào, những bãi hủy rác, những cái mũi sạch mụn, Bồn Patimkin…
Nhưng mẹ kiếp, Thượng Đế ạ, chính là ngài đấy!
Và Thượng Đế chỉ cười, cái thằng hề đó.
Trên những bậc thềm quanh vòi nước tôi ngồi trong một đường cầu vồng nhỏ mà nắng hắt lên qua làn nước phun. Và rồi tôi thấy Brenda bước ra khỏi cao ốc Squibb. Nàng chẳng cầm gì theo, cứ như một phụ nữ chỉ đi ngắm hàng bày sau cửa kính, và trong thoáng chốc tôi thấy vui vì sau cùng nàng đã cưỡng lại ước muốn của tôi.
Tuy nhiên, khi nàng băng qua đường, cảm giác hơi bông lơn đó qua đi và tôi lại là chính mình như cũ.
Nàng bước tới chỗ tôi và nhìn xuống nơi tôi đang ngồi; khi nàng hít vào, nàng căng cả người ra, và rồi nàng thở ra thành tiếng “Phuù!”
“Nó đâu?” tôi hỏi.
Ban đầu, câu trả lời cho tôi chỉ là cái nhìn đắc thắng của nàng, cái nhìn nàng dành cho Simp vào buổi tối nàng đánh bại cô ta, cái nhìn tôi nhận được vào buổi sáng tôi chạy vòng thứ ba một mình. Sau cùng nàng nói, “Em đeo nó rồi.”
“Ồ, Bren.”
“Ông ấy hỏi để tôi gói lại hay cô mang vô luôn?”
“Ôi Brenda, anh yêu em.”
Tối hôm đó tụi tôi ngủ với nhau, và hai đứa bồn chồn với món đồ chơi mới tới độ chúng tôi làm ăn cứ như con nít ở nhà trẻ, hoặc (theo ngôn ngữ của xứ đó) giống như một trận đấu bóng thối tha mà chúng tôi là hai kẻ bị đuổi khỏi sân. Và ngày hôm sau hầu như chúng tôi không gặp nhau, vì với đủ chuyện giờ chót của đám cưới cứ loạn cả lên, nào điện báo, la hét, quát tháo, kêu khóc, chạy nháo nhào – tóm lại, điên khùng hết. Ngay cả những bữa ăn cũng mất đi cái vẻ ê hề kiểu Patimkin, và chỉ rặt mấy thứ như pho mát, hành, xúc xích, gan bằm và cốc tai trái cây. Suốt đợt cuối tuần đó thật nhộn nhạo, và tôi đã cố hết sức để tránh xa trung tâm bão, ở đó Ron, vụng về và toe toét cười, với Harriet, thẹn thùng và lễ phép, ngày càng quấn lấy nhau. Đến tối Chủ nhật sự mệt mỏi đã tới mức khủng hoảng và cả nhà Patimkin, trong đó có Brenda, đã đi ngủ sớm. Khi Ron vào phòng tắm đánh răng tôi quyết định cũng đi đánh răng luôn. Khi tôi đứng trước bồn rửa thì anh ta sờ thử khố lót xem còn ướt cỡ nào rồi vắt nó lên nút vòi sen và hỏi tôi có thích nghe mấy đĩa nhạc của anh ta một lát không. Tôi nhận lời chẳng phải vì cô đơn hay chán đời, mà vì thấp thoáng bắt gặp lại tình bạn thời còn đi học giữa những thứ xà bông nước nôi gạch men này, và tôi nghĩ có lẽ lời rủ rê của Ron xuất phát từ mong ước được sống những phút sau cùng của đời độc thân với một tay độc thân khác. Nếu tôi đoán đúng thì đó là khẳng định thực sự đầu tiên của anh ta dành cho chất đàn ông của tôi. Sao tôi từ chối được?
Tôi ngồi trên cái giường đôi bỏ không.
“Muốn nghe Mantovani không?
“Muốn chứ,” tôi nói.
“Anh thích ai hơn, tay này hay Kostelanetz?”
“Tay nào cũng được.”
Ron đi lại cái tủ. “Nè, còn đĩa Columbus thì sao? Có bao giờ Brenda cho anh nghe không?”
“Chưa. Chắc vậy.”
Anh ta rút đĩa trong vỏ bọc ra, và giống một gã khổng lồ với một cái vỏ sò, anh ta cẩn thận đặt nó vào máy quay đĩa. Rồi anh ta mỉm cười với tôi và nằm ngửa ra trên giường. Hai tay anh ta xếp sau gáy và mắt dán lên trần, “Đứa nào ra trường cũng được một đĩa, cùng với cuốn kỷ yếu…” nhưng anh ta im lặng ngay khi nghe âm thanh trỗi lên. Tôi nhìn Ron và lắng nghe.
Ban đầu chỉ có một loạt tiếng trống, rồi im lặng, rồi trống dồn tiếp… và rồi nhẹ nhàng, một bản hành khúc, tiết tấu nghe rất quen thuộc. Khi bản nhạc kết thúc, tôi nghe những tiếng chuông, nhẹ vang vang, rồi dịu nhẹ lại. Và sau cùng là một giọng nói, trầm và xa xôi, kiểu giọng thường nghe thấy trong những phim tài liệu về sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít.
“Năm là năm 1965. Mùa là mùa thu. Địa điểm là Đại học bang Ohio…”
Tổng tấn công! Ngày phán xét cuối cùng! Thượng Đế đã giáng gậy xuống, và Đội hợp xướng bang Ohio đang vây lấy khuôn viên đại học cứ như linh hồn của họ tùy thuộc vào đó. Sau một đoạn đồng ca dữ dội, nó rơi xuống, tuy vẫn còn gào thét, vào cõi hôn mê vô tận, và giọng nói lại vang lên.
“Lá đã bắt đầu úa màu và đỏ cạch lên trên cây. Những đống lửa um khói sáng lên dọc Dãy nhà Hội sinh viên, khi những chuẩn hội viên quét gom những chiếc lá và tung chúng vào màn sương mờ. Những khuôn mặt cũ đón chào những khuôn mặt mới, những khuôn mặt mới gặp gỡ những khuôn mặt cũ, và một năm học mới đã bắt đầu…”
Aâm nhạc. Dàn hợp xướng trở lại huy hoàng. Rồi vẫn giọng nói ấy: “Địa điểm, hai bờ sông Olentangy. Sự kiện, trận đấu cựu sinh viên, 1956. Đối thủ, bọn Illini cực kỳ nguy hiểm…”
Tiếng gào la của đám đông. Giọng nói khác – của Bill Stern: Illini nhận banh. Giao banh. Linday lui ra sau để chuyền banh, anh ta phát hiện đồng đội không bị kèm, anh ném bóng dài dọc theo sân – và NÓ BỊ ĐÓN CHẶN BỞI SỐ 43, HERB CLARK CỦA BANG OHIO! Clark thoát qua một hậu vệ truy cản, thoát qua một đối thủ nữa khi đến được giữa sân. Bây giờ anh đang đảo qua một hậu vệ, anh chạy xuống tới vạch 45, rồi 40, và 35…”
Và khi Bill Stern ép vào Clark, và Clark, Bill Stern, Ron, nằm trên giường, với thân thể cựa quậy chút đỉnh, đẩy Herb Clark qua vạch khung thành.
“Và bây giờ Ohio dẫn trước 21- 19. Trận đấu quá hay!”
Giọng nam trung của lịch sử lại xen vào: “Nhưng mùa giải hết thăng lại trầm, và đến lúc những bụi tuyết đầu tiên phủ trên mặt cỏ, thì âm thanh nhồi banh lách chách và tiếng gào Tiến lên, nhào vô! Lại vang vang khắp nhà thi đấu có mái che…”
Ron nhắm mắt lại.
“Trận Minnesota,” một giọng nam cao khác thông báo, “và đối với một số sinh viên năm cuối của chúng ta thì đây là trận cuối cùng của họ trong màu áo đỏ trắng… Các đấu thủ đã sẵn sàng ra sàn đấu trước sự chờ đợi của khán giả. Sẽ có tiếng vỗ tay vang dội từ đám đông sôi nổi này vì một số đấu thủ sẽ không còn xuất hiện trong năm tới nữa. Đây, Larry Gardner số 7, đã bước ra sân đấu, Big Larry từ Akron, Ohio…”
“Larry…” tiếng loa phóng thanh thông báo; “Larry,” đám đông gào đáp lại.
“Và đây là Ron Patimkin thong thả chạy ra. Ron, số 11, từ Short Hills, New Jersey. Trận đấu cuối cùng của Big Ron, và phải rất lâu thì các fan hâm mộ của đội Buckeyes mới quên được anh…”
Big Ron cứng người trên giường khi loa phóng thanh gọi tên anh ta; tiếng hoan hô của anh ta hẳn đã khiến những mành lưới rung lên. Rồi tên các đấu thủ khác cũng được xướng lên, rồi mùa bóng chày cũng qua đi, và đến Tuần tôn giáo, Dạ hội sinh viên năm cuối (Billy May gào vang mái nhà thi đấu thể dục), Đêm liên hoan của Hội sinh viên, thi sĩ E.E. Cummings đọc cho sinh viên nghe (thơ, im lặng, hoan hô); và rồi, sau cùng, là lễ phát bằng tốt nghiệp:
“Khuôn viên đại học lặng đi trong ngày đặïc biệt này của tất cả mọi ngày. Với mấy ngàn thanh niên thiếu nữ đây là một ngày rất vui mà cũng rất nghiêm trang. Với cha mẹ của họ đó là một ngày của tiếng cười và cũng là ngày của nước mắt. Đó là một ngày xanh ngát, ngày bảy tháng sáu năm một ngàn chín trăm năm mươi bảy và với những người Mỹ trẻ tuổi này đây là ngày xao xuyến nhất trong đời của họ. Với rất nhiều sinh viên, đây sẽ là lần cuối trong nhiều, rất nhiều năm sắp tới, họ còn được ngắm nhìn khuôn viên đại học này, ngắm nhìn Columbus. Cuộc đời vẫy gọi chúng ta, và chúng ta bước vào thế giới này một cách náo nức nếu không muốn nói là bồn chồn và rời xa những niềm vui giữa các bức tường leo đầy dây thường xuân này. Nhưng không rời xa ký ức về nó. Nó sẽ là đồng hành, nếu không muốn nói là nền tảng, cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sẽ chọn chồng chọn vợ, chúng ta sẽ chọn nghề nghiệp và mái ấm, chúng ta sẽ có con có cháu, nhưng chúng ta sẽ không quên ngươi, bang Ohio. Trong bao năm sắp tới chúng ta sẽ luôn mang theo những kỷ niệm về ngươi, bang Ohio ơi…”
Chậm rãi, dịu dàng, dàn đồng ca Đại học bang Ohio cất lên bài hành khúc của trường rồi chuông vang báo giờ khắc cuối cùng ấy. Dịu, rất dịu, vì đó là mùa xuân.
Trả Lời Với Trích Dẫn