View Single Post
  #19  
Old 01-07-2010, 03:23 PM
NghiDung's Avatar
NghiDung NghiDung is offline
Member
 
Tham gia ngày: Jan 2010
Bài gởi: 41
Default

Mùa thu đến thật nhanh. Trời lạnh và ở Jersey lá cây đổi màu và sau một đêm là rụng sạch. Ngày thứ Bảy kế tôi lại lên đó ngắm hươu nữa, và thậm chí không ra khỏi xe vì đứng bên hàng rào thì quá lạnh, thế nên tôi ngắm lũ thú đi và chạy trong bóng lờ mờ buổi chiều tàn, và một lát sau mọi thứ, ngay cả những vật thể thiên nhiên, những cội cây, đám mây, cỏ, rêu, đều gợi tôi nhớ đến Brenda, và tôi lái xe về Newark. Chúng tôi đã trao đổi những lá thư đầu tiên và một khuya nọ tôi có gọi điện cho nàng, nhưng trong thư và qua điện thoại chúng tôi khó mà khám phá được nhau; chúng tôi chưa có được phong cách ấy. Đêm đó tôi gọi cho nàng, và ai đó ở cùng tầng bảo nàng đã ra ngoài đến khuya mới về.
Khi trở lại thư viện làm việc tôi bị ông Scapello hạch hỏi về cuốn Gauguin. Cái ông quai hàm bự đã gửi một lá thư thối tha nói về chuyện bất lịch sự của tôi, và tôi chỉ có thể gỡ rối cho mình bằng cách bịa ra một câu chuyện lộn xộn bằng một giọng cau có. Sự thực, tôi còn xoay xở lật ngược được thế cờ khiến ông Scapello phải xin lỗi khi dẫn tôi đến chỗ làm việc mới, giữa đám bách khoa tự điển, sách tiểu sử, các bảng tra và chỉ dẫn. Trò cáu gắt ấy làm tôi ngạc nhiên, và tôi tự hỏi phải chăng tôi đã học được ít nhiều trò này từ buổi sáng tôi thấy ông Patimkin rủa xả Grossman qua điện thoại. Có lẽ tôi đã nhiễm máu doanh nhân nhiều hơn tôi nghĩ. Nghe chừng tôi có thể dễ dàng học được cách trở thành người trong nhà Patimkin…
Ngày trôi qua chậm chạp; tôi không bao giờ gặp lại cậu bé da màu ấy nữa, và một trưa nọ khi tôi nhìn qua các kệ sách, cuốn Gauguin đã biến mất, rõ ràng sau cùng ông quai hàm bự đã mượn được nó. Tôi tự hỏi cái ngày cậu bé da màu khám phá ra cuốn sách đã biến mất thì như thế nào. Cậu ta có khóc không? Vì lý do nào đó tôi tưởng tượng rằng cậu sẽ oán trách tôi vì chuyện này, nhưng rồi tôi nhận ra mình đang lẫn lộn giấc mộng của mình với thực tại. Rất có thể cậu ta đã khám phá ra những người khác, Van Gogh, Vermeer… Nhưng không, họ không phải loại họa sĩ cậu thích. Có thể cậu đã chán chuyện vào thư viện và đã trở lại chơi bóng chày trên đường phố. Tôi nghĩ cậu sẽ thấy vui sướng hơn. Cứ mang những giấc mơ về Tahiti trong đầu thì thật vô nghĩa, nếu mình không đủ tiền để tới đó.
Xem nào, tôi còn làm gì khác nữa? Tôi ăn, tôi ngủ, đi xem phim, chuyển những cuốn sách long gáy tới chỗ đóng bìa – tôi làm mọi chuyện từng làm trước đây, nhưng bây giờ mỗi hoạt động bị vây kín bằng một hàng rào, tồn tại một mình, và cuộc đời tôi là chuyện nhảy cóc từ hàng rào này sang hàng rào kế. Không có dòng trôi chảy nào cả, vì đã có Brenda.
Và rồi Brenda viết thư nói rằng nàng có thể về nhân dịp tết Do Thái vốn chỉ độ một tuần nữa là tới. Tôi vui mừng đến nỗi muốn gọi điện cho ông bà Patimkin, chỉ để cho họ hay về nỗi vui mừng của tôi. Tuy nhiên khi đến bên điện thoại và đã quay được hai số đầu, tôi biết rằng bên đầu dây kia sẽ ngớ ra; nếu có gì để nói thì chỉ có chuyện bà Patimkin sẽ hỏi, “Thế cậu muốn gì?” Còn ông Patimkin chắc đã quên luôn tên tôi rồi.
Đêm đó, sau bữa tối, tôi hôn dì Gladys và bảo bà không cần phải cực nhọc đến thế.
“Còn chưa đầy một tuần là tới Rosh Hashana, mà nó bảo tôi đi nghỉ. Tao phải chăm sóc mười người. Mày nghĩ gì vậy, con gà tự tắm rửa được hả? Tạ ơn Chúa, một năm mới có một cái tết, tao chắc già trước tuổi quá.”
Nhưng rồi dì Gladys chỉ phải coi sóc chín người, vì chỉ hai ngày sau khi tôi nhận lá thư Brenda đã gọi điện.
“Ôi Chúa ơi!” dì Gladys kêu lên. “Điện thoại đường dài!”
“A lô?” tôi hỏi.
“A lô, cưng hả?”
“Phải,” tôi đáp.
“Cái gì vậy?” dì Gladys kéo áo tôi. “Cái gì vậy?”
“Điện của con mà.”
“Ai vậy?” dì Gladys hỏi, trỏ vào ống nghe.
“Brenda,” tôi đáp.
“Sao?” Brenda hỏi.
“Brenda?” dì Gladys hỏi. “Sao nó lại gọi đường dài, tao thiếu điều đau tim luôn.”
“Vì cô ấy ở Boston,” tôi đáp. “Dì Gladys, làm ơn đi mà…”
Và dì Gladys bỏ đi, lầm bầm, “Tụi nhỏ bây giờ…”
“A lô,” tôi nói vào điện thoại.
“Neil, anh khoẻ không?”
“Anh yêu em.”
“Neil, không ổn rồi. Tuần này em không về được.”
“Nhưng, em, tết Do Thái mà.”
“Anh yêu,” nàng bật cười.
“Em không nói rõ được sao, phải có cớ gì chứ?”
“Thứ bảy em có bài kiểm tra, và một bài luận văn, và anh biết đó nếu về nhà thì em làm bài không xong…”
“Làm được mà.”
“Neil, em làm không được. Mẹ sẽ bắt em đi đền thờ, và em sẽ không có giờ gặp anh.”
“Ôi trời, Brenda.”
“Cưng?”
“Sao?”
“Anh không lên đây được sao?” nàng hỏi.
“Anh phải đi làm.”
“Tết Do Thái mà,” nàng nói.
“Em yêu, anh không đi được. Năm ngoái anh cũng không nghỉ được, anh không thể…”
“Anh cứ nói là đã cải đạo.”
“Với lại, bà dì anh tổ chức tiệc cho cả gia đình, và em biết với bố mẹ anh thì…”
“Lên với em đi, Neil.”
“Anh không xin nghỉ hai ngày được, Bren. Anh vừa được thăng chức và tăng lương…”
“Dẹp quách vụ tăng lương đi.”
“Em yêu, đây là việc làm của anh.”
“Suốt đời hả?” nàng hỏi.
“Không.”
“Vậy thì đến đây đi. Em đặt một phòng khách sạn.”
“Cho anh?”
“Cho tụi mình.”
“Em đặt được sao?”
“Được và không. Người ta làm vậy hoài.”
“Brenda, em đang dụ anh đó.”
“Cứ bị dụ đi.”
“Anh có thể đón chuyến tàu thứ Tư ngay khi tan sở.”
“Anh có thể ở đến tối Chủ nhật.”
“Bren, không được đâu. Thứ Bảy anh phải trở lại làm việc.”
“Trong tuần anh không có ngày nghỉ nào sao?” nàng hỏi.
“Thứ ba.” Tôi nói rầu rĩ.
“Chúa ơi.”
“Với Chủ nhật nữa.” Tôi thêm.
Brenda nói gì đó nhưng tôi không nghe được vì dì Gladys kêu, “Mày nói chuyện đường dài cả ngày sao?”
“Im lặng giùm!” tôi quát lại.
“Neil, anh đến nghe?”
“Mẹ kiếp, đến.” Tôi nói.
“Anh bực hả?”
“Không phải thế đâu. Anh sẽ đến.”
“Ở tới Chủ nhật.”
“Để tính sau.”
“Đừng ưu tư, Neil. Nghe giọng anh ưu tư quá. Ngày tết Do Thái mà. Ý em là anh phải được nghỉ.”
“Được rồi,” tôi nói. “Anh là dân Do Thái chính thống, lạy Chúa tôi, anh phải lợi dụng điều đó.”
“Đúng thế,” nàng nói.
“Có chuyến tàu nào khoảng sáu giờ không?”
“Chắc mỗi giờ đều có chuyến.”
“Vậy anh sẽ đi chuyến sáu giờ.”
“Em sẽ đón ở ga,” nàng nói. “Làm sao em nhận ra anh?”
“Anh sẽ cải trang thành một tay Do Thái chính thống.”
“Em cũng vậy,” nàng nói.
“Ngủ ngon, cưng,” tôi nói.
Dì Gladys kêu trời khi tôi nói sẽ đi chơi xa trong dịp Rosh Hashana.
“Trong khi tao đang chuẩn bị một bữa tiệc lớn,” dì ấy nói.
“Thì dì cứ chuẩn bị.”
“Thế tao nói sao với mẹ mày?”
“Con sẽ nói với mẹ con, dì Gladys ạ. Làm ơn đi mà. Dì đâu có quyền bực bội…”
“Tới lúc mày có gia đình mày sẽ hiểu chuyện đó ra làm sao.”
“Bây giờ con có gia đình rồi.”
“Có chuyện gì,” dì ấy nói và hỉ mũi một cái, “mà con bé ấy không về thăm nhà được trong ngày tết?”
“Cô ấy đang học, nên không thể…”
“Nếu nó yêu gia đình nó sẽ thu xếp được. Mình đâu có sống tới sáu trăm năm.”
“Cô ấy yêu gia đình mà.”
“Thế thì mỗi năm một lần mày phải thấy thương và về thăm.”
“Dì Gladys, dì không hiểu.”
“Chắc chắn rồi,” dì ấy nói, “khi hăm ba tuổi tao sẽ hiểu mọi chuyện.”
Tôi bước tới hôn dì và dì ấy bảo, “Mày xéo đi, cứ phóng tới Boston ấy…”
Sáng hôm sau tôi khám phá ra rằng ông Scapello cũng không muốn tôi nghỉ lễ Rosh Hashana, nhưng tôi nghĩ mình đã làm ông ta chới với bằng cách hàm ý rằng việc ông ta lạnh lùng khi tôi muốn nghỉ hai ngày này có thể là dấu hiệu của tư tưởng bài Do Thái được che giấu kỹ, nên nhìn chung ông ta cũng dễ thu xếp hơn. Đến giờ ăn trưa tôi đi bộ tới nhà ga Penn và rút lấy một tờ lịch giờ tàu chạy tới Boston. Đó là cái để tôi đọc trước khi ngủ trong ba đêm kế tiếp.
Nàng trông không hề giống Brenda, ít nhất là trong phút đầu tiên. Và có lẽ với nàng tôi cũng trông không giống tôi. Nhưng chúng tôi hôn và ôm lấy nhau, và cảm giác của những lớp áo khoác dầy cộm giữa hai chúng tôi nghe thật lạ.
Trả Lời Với Trích Dẫn