(Tiếp theo)
Câu mười ba, chàng trai tỏ nỗi lòng buồn bã. “Vì nhãn nhục không trông trái phải, nỡ phụ người bạch chỉ chi nhân” ý nói lúc chàng phân bua tâm sự với người thương thì bị người thương từ chối. Chàng khóc than, “cớ sao nàng nỡ phụ tấm chân tình thành thật của người hết dạ yêu nàng?”
Quả nhãn nhục có vị ngọt, dùng làm tăng trí nhớ và phục hồi tuổi thọ. Dân chúng Đông Dương còn dùng hột nhãn để rút nọc độc của loài rắn hổ mang chúa. Riêng rễ cây bạch chỉ thì dùng để trị chứng đau nhức.
Câu thứ mười bốn là câu thơ đau thương. Chàng trai tưởng đời này sẽ cùng người chàng yêu đẹp duyên đôi lứa. Ai ngờ đến phút cuối cùng người nỡ xa lìa. Chàng vừa đau lòng vừa oán than trời đất, “tưởng cùng nhau tụ hội châu trần, hay đâu bậu ký sanh viễn địa.”
Hai chữ châu trần tức là hai họ Châu và họ Trần. Trong chốn dân gian thì hai nhà này thường kết thân với nhau. Giải thích theo ý nghĩa Đông y thì nhân trần là vị thuốc khử phong và trị chứng vàng da. Chữ châu là để chỉ hạt châu của con trai, dùng để chữa bệnh an thần. Còn cọng cây ký sanh được các bà mẹ dùng làm tăng tuyến sữa.
Câu mười lăm gợi tả hình ảnh sầu khổ bi ai, tình trường tê tái. Trong tương lai, chàng trai sẽ trải qua nhiều tai kiếp, và vì không thể một lòng trọn bề nhân nghĩa nên chàng muốn ra tiền hồ kết liễu tính mạng của mình. “Này kinh giới chẳng toàn nhơn nghĩa, chốn tiền hồ nguyệt kết liễu châm.”
Bông kinh giới và lá tiền hồ đem phơi khô sắc nước có thể trị cảm, ho, và làm lui cơn sốt.
Câu mười sáu, “tai vẳng nghe nổi tiếng huỳnh cầm, chạnh tủi phận đằm đằm trạch tả” nói lên sự cảm nhận của chàng trai. Chàng âu sầu tủi phận khi nghe tiếng đàn cằm văng vẳng, tiếng đàn nghe như ai oán, như than phiền cho mối tình duyên.
Rễ củ huỳnh cầm có thể làm lui cơn sốt. Lá trạch tả trị bệnh cùi hủi. Rễ cây làm vã mồ hôi, trị phù thủng. Còn thân cây thì có thể làm thuốc kích thích cơ quan sinh dục của đàn bà, khiến họ dễ đậu thai.
Câu mười bảy, “nhớ trinh nữ lòng dao cắt dạ, quặn nhơn bào tựa muối xát lòng” diễn tả nỗi đau đớn ở trong lòng của chàng trai. Chàng nhung nhớ người yêu đến nát từng khúc ruột, tim đau hơn là vết thương bị xát muối.
Cây trinh nữ là cây mắc cỡ. Lá cây có tính chất an thần. Rễ cây trị đau khớp xương. Còn nhơn bào trị chứng suy nhược tinh thần, liệt dương, hoặc hiếm muộn.
Câu mười tám là câu thơ bi thảm nhất của bài thơ, “ngùi châu sa lụy ngọc ròng ròng, đoạn thần khúc đề thơ trách bậu.” Câu này miêu tả tấm chân tình của chàng trai. Chàng mãi mãi mất người chàng yêu nên đã khóc ròng. Ái tình tuyệt vọng. Ruột gan của chàng lúc này như bị dao cắt thành từng khúc. Nỗi thống khổ đó thiên địa thấu chăng?
Châu sa là thuốn an thần, dùng để khắc phục triệu chứng tim đập nhanh. Còn thần khúc là tên của một loại trà có mùi hương dễ chịu, vị hơi chát, có thể trị bệnh rối loạn tiêu hóa.
Một bài thơ ủy mị và bi đát quá mà Nữ Thần Y lại yêu. Mãi cho đến ngày hôm nay, nàng vẫn thường đọc đi đọc lại.
(Còn tiếp)
thay đổi nội dung bởi: vuongminhthy, 04-21-2012 lúc 03:02 PM.
|