Nhìn thấy cô áo vàng biểu diễn tuyệt kỹ sử dụng roi ngựa, cả đoàn thương nhân vùng sa mạc đều hò reo ầm ĩ, nhưng cha của nàng lại ra vẻ lo âu, khẽ nói với nàng mấy câu gì đó. Cô gái áo vàng vâng dạ, rồi không đếm xỉa gì tới Lý Nguyên Chỉ nữa, quất ngựa chạy nhanh lên trước. Mấy chục con lạc đà lẫn ngựa cũng chạy theo, chẳng mấy chốc đã rời xa đoàn người hộ tống Lý phu nhân. Xa xa chỉ còn vẳng lại tiếng vó ngựa và tiếng chuông lạc đà.
Lục Phi Thanh mỉm cười, lên tiếng giáo huấn: “Người ta vẫn nói ra ngõ gặp anh hùng, con đã tin chưa? Cô nương áo vàng đó tuổi tác cũng không chênh lệch con lắm, vừa rồi hiển lộ một chiêu, con có phục không?”
Lý Nguyên Chỉ cãi: “Bọn con gái người Hồi thì cả ngày lẫn đêm ngồi trên lưng ngựa, đương nhiên cầm roi ngựa phải rành. Chưa chắc con bé đó đã có công phu thực sự.”
Lục Phi Thanh cười hỏi: “Thật ư?”
* * *
Khoảng hoàng hôn thì đoàn người mới đến Bố Long Cát. Ở thị trấn này chỉ có một khách sạn lớn, tên là Thông Đạt khách sạn, trước cửa đã cắm tiêu kỳ Trấn Viễn tiêu cục. Thì ra đoàn tiêu xa đã vào đây nghỉ ngơi trước rồi. Đoàn người Lý phu nhân cũng nghỉ lại khách sạn này.
Khách sạn phải liên tiếp đón hai đoàn khách lớn, bọn người giúp việc bận rộn không sao nói hết.
Lục Phi Thanh rửa mặt xong, cầm một bình trà đi dạo ra sau vườn, nhìn thấy trong đại sảnh có hai bàn tiệc rượu. Gã tiêu sư đeo bao vải đỏ cũng có ở đây, binh khí đã cởi xuống nhưng cái bao vải đỏ vẫn còn trên lưng, đang nói huyên thuyên gì đó. Lục Phi Thanh vẫn cầm cái bình trà ngẩng mặt nhìn trời, giả vờ quan sát thiên văn thời tiết, nhưng chú ý nghe ngóng.
Một tiêu sư mỉm cười nói: “Diêm ngũ gia! Chúng ta đem món đồ chơi này đến kinh thành yên ổn, nhất định huynh sẽ được Triệu tướng quân thưởng không tới một ngàn thì cũng tám trăm, tha hồ vui vẻ với cô nàng Tiểu Hỉ Bảo rồi.”
Lục Phi Thanh nghĩ thầm: “Quả nhiên là Đệ ngũ ma Diêm Thế Khôi trong Quan Đông Lục Ma.” Ông càng chú ý hơn.
Diêm Thế Khôi nói: “Tiền thưởng ấy à, chuyện đó thì ai mà thiết...”
Hắn chưa nói dứt câu, một thanh âm eo éo bán nam bán nữ đã xen vào: “Chỉ sợ Tiểu Hỉ Bảo đã theo người khác, hoặc đã hoàn lương mất rồi.”
Lục Phi Thanh liếc mắt qua, thấy người vừa lên tiếng tướng mạo xấu xí, thân hình ốm nhom, nhưng cũng mặc y phục tiêu sư.
Dĩ nhiên Diêm Thế Khôi chẳng vui vẻ gì, hừ một tiếng. Tên tiêu sư vừa nói chuyện lấy lòng hắn cũng lên tiếng: “Cái thằng Đồng Triệu Hòa này, chẳng bao giờ nói được một câu cho tử tế.”
Nhưng gã Đồng Triệu Hòa kia vẫn giở giọng hoạn quan nói tiếp: “Chẳng lẽ hoàn lương mà không phải là chuyện tử tế? Được rồi, vậy thì ta nói Tiểu Hỉ Bảo suốt đời làm điếm, đến chết cũng không ngóc đầu lên được.”
Diêm Thế Khôi không nhịn nổi, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ mày mới cả đời làm điếm.”
Đồng Triệu Hòa mỉm cười: “Hay lắm, vậy ta phải gọi ông là nghĩa phụ.”
Lục Phi Thanh nghe bọn này nói chuyện chẳng ra trò trống gì, đang muốn bỏ đi thì lại nghe Đồng Triệu Hòa nói tiếp: “Diêm ngũ gia đùa thì cứ đùa, còn việc thì phải lo làm. Ông đừng nhớ Tiểu Hỉ Bảo đến mức xây xẩm mặt mày. Cái bao vải màu đỏ đeo trên lưng ông, nếu bị người ta lấy đi, thì thủ cấp của ông dọn đi chỗ khác còn là chuyện nhỏ, làm sao đền nổi oai danh bốn mươi năm của Trấn Viễn tiêu cục chúng ta mới là chuyện lớn.”
Diêm Thế Khôi giận dữ nói: “Con quỉ họ Đồng kia cứ yên tâm đi. Nếu bọn rợ Hồi muốn đoạt lại món đồ chơi này trên tay Diêm ngũ gia, hừ, đừng mơ mộng làm gì. Diêm Thế Khôi mỗ được mang danh hiệu Quan Đông Lục Ma là do bản lãnh chân chính, không giống như mấy thằng lỏi chui lủi vào trong tiêu cục, ngoài ăn cơm ra chỉ còn biết phóng trung tiện mà thôi.”
Lục Phi Thanh nhìn kỹ cái bao vải đỏ trên lưng hắn. Cái bao không lớn lắm, dường như vật đựng bên trong cũng rất nhẹ.
Sau đó nghe tiếng Đồng Triệu Hòa nói: “Danh hiệu Quan Đông Lục Ma tuy rằng không nhỏ, nhưng tiếc là Đệ Tam Ma bị người ta làm thịt, mà kẻ thù là ai cũng không hay biết.”
Diêm Thế Khôi vỗ mạnh lên bàn quát: “Ai nói là không biết? Nhất định là Tam ca bị bọn Hồng Hoa Hội hại chết rồi.”
Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Thật là cổ quái! Rõ ràng Tiêu Văn Kỳ bị ta giết chết, sao chúng lại đổ món nợ này cho Hồng Hoa Hội? Hồng Hoa Hội là bang hội thế nào nhỉ?” Ông bèn đi chầm chậm trong vườn như ngắm hoa cỏ, đến gần bọn tiêu sư thêm một chút.
Đồng Triệu Hòa quyết không dừng miệng: “Tiếc là ta không có cốt khí, chỉ biết ăn cơm và phóng trung tiện. Nếu ta không phải con cháu loài rùa thì đã đi tìm Hồng Hoa Hội để tính sổ nợ rồi.”
Diêm Thế Khôi bị hắn trêu chọc đến giận run lên, không nói được tiếng nào. Một gã tiêu sư bèn lên tiếng hòa giải: “Tổng đà chủ Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội đã chết ở Vô Tích tháng trước rồi, trên giang hồ còn ai không biết. Người ta không còn chủ nữa, biết tìm ai báo thù? Hơn nữa, chuyện Tiêu tam gia bị Hồng Hoa Hội hại chết thì không có ai làm chứng, không có ai nhìn thấy, nếu tìm đến đó mà người ta không chịu nhận món nợ này thì phải làm sao?”
Đồng Triệu Hòa không cãi được nữa, bèn đổi sang chuyện khác: “Dĩ nhiên bọn chúng ta không dám dây vào Hồng Hoa Hội, nhưng ăn hiếp bọn con gái Hồi tộc thì chẳng lẽ không dám hay sao? Món đồ chơi này chúng quí như tính mạng, thế mà bị chúng ta cướp lấy. Sau này Triệu tướng quân đòi chúng dâng nộp tiền bạc, trâu dê, dĩ nhiên chúng phải hai tay cung kính dâng lên. Ta khuyên Diêm ngũ gia này, ông đừng nghĩ đến Tiểu Hỉ Bảo làm gì nữa, lần này về kinh xin Triệu tướng quân ban cho một con bé Hồi tộc đem về hú hí, còn khoái lạc hơn nhiều...”
Hắn đang nói tới chỗ đắc ý, đột nhiên nghe “phạch” một tiếng, không biết từ đâu một miếng đất bay tới nhét ngay vào miệng, lập tức ú ớ không ra tiếng nữa. Hai gã tiêu sư lập tức xách vũ khí chạy ra ngoài. Diêm Thế Khôi đứng bật dậy, vớ lấy Ngũ Hành Luân đang đặt bên cạnh. Em của hắn là Diêm Thế Chương nghe động cũng chạy tới, hai huynh đệ đứng chung một chỗ, không dám rượt theo kẻ địch, rõ ràng là sợ trúng kế điệu hổ ly sơn.
Đồng Triệu Hòa ráng lắm mới nhổ được cục đất trong miệng ra, rồi lôi tổ tông mười tám đời của người ta ra mà thóa mạ ỏm tỏi. Diêm Thế Chương lạnh lùng nói: “Xưa nay chỉ nghe nói ăn ***** chó, bây giờ mới biết là có người ăn cả đất bùn.”
Hai gã tiêu sư Tái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân, một gã xách nhuyễn tiên, một gã nắm đơn đao chạy từ ngoài cửa vào rồi nói: “Kẻ quấy rối chạy trốn rồi, không thấy đâu nữa.”
Lục Phi Thanh thấy hết mọi chuyện, nhìn vẻ mặt ngờ nghệch của Đồng Triệu Hòa mà tức cười trong bụng. Đột nhiên ông thấy trên bức tường phía đông có bóng người thấp thoáng, bèn giả vờ chuyện không liên can đến mình mà chậm rãi bước đi. Lúc này trời đã tối mịt, ông nấp dưới góc tường phía tây một lúc thì thấy một người trên nóc nhà nhảy xuống, chạm đất không hề phát ra tiếng động, rồi chạy nhanh về hướng đông.
Lục Phi Thanh muốn biết người vừa cho Đồng Triệu Hòa ăn đất là nhân vật thế nào, bèn thi triển khinh công âm thầm bám theo, bình trà trên tay không sóng sánh, ngay cả vạt áo dài cũng không phấp phới. Khinh công của ông khổ luyện mấy chục năm trời, quả thật ít ai sánh kịp, tuy chạy rất nhanh nhưng người phía trước hoàn toàn không phát giác. Chốc lát hai người đã chạy tới năm sáu dặm. Người phía trước thân hình thon thả, dáng vẻ yểu điệu, dường như là nữ nhân, nhưng khinh công cũng rất cao.
Vượt qua được một ngọn đồi, phía trước là một khu rừng âm u. Người đó chạy thẳng vào trong rừng, Lục Phi Thanh cũng theo vào. Trong khu rừng, cành lá rơi rụng trải đầy mặt đất, bước chân nghe rõ những tiếng xào xạc. Lục Phi Thanh sợ bị phát hiện nên đi chậm lại, chỉ trong chớp nhoáng đã không nhìn thấy bóng dáng người đó nữa. Đột nhiên mây tản ra, trăng xuất hiện, rọi ánh sáng qua những tán lá rậm rạp chiếu xuống đất. Dưới đất hiện ra vô số bóng cây, còn ở đằng xa ánh lên một thoáng áo vàng, người đó sắp rời khỏi khu rừng.
Lục Phi Thanh theo đến ven rừng, núp sau một gốc cây lớn nhìn ra. Ngoài bìa rừng là một cánh đồng cỏ rộng lớn, đã có tám chín chiếc lều. Ông cảm thấy hiếu kỳ, muốn thăm dò một chút, bèn chờ đến khi hai người canh gác quay đi chỗ khác, thi triển khinh công Yến Tử Tam Xao Thủy nhảy đến nấp sau một con lạc đà đang đứng ngoài lều, không bị ai phát hiện. Ông khom người tiến đến cái lều lớn nhất ở giữa, nằm sát xuống đất, nghe thấy trong lều có nhiều giọng nói hùng hồn. Họ nói toàn là tiếng Hồi, lại rất nhanh. Tuy Lục Phi Thanh đã ở vùng biên giới nhiều năm, nhưng cũng không sao hiểu nổi. Ông bèn nhẹ nhàng vén một góc lều lên, ghé mắt nhìn vào trong.
Trong lều có hai ngọn đèn dầu, dưới đất trải thảm, có rất nhiều người ngồi. Đây chính là đoàn thương gia người Hồi đã gặp ban ngày. Lúc này có một giọng nói thánh thót cất lên, Lục Phi Thanh đưa mắt nhìn sang thì thấy người nói chính là cô gái áo vàng. Nàng nói xong bèn xoay tay rút trên thắt lưng ra một thanh trủy thủ sáng đến chói mắt, đưa mũi trủy thủ khẽ đâm vào ngón trỏ bên trái của mình, nhỏ mấy giọt máu tươi vào cái chén đựng sữa ngựa.
Những người còn lại trong lều cũng rút dao ra, mỗi người nhỏ mấy giọt máu vào chén sữa của mình. Rồi phụ thân của cô gái áo vàng, chính là người Hồi to lớn rậm râu kia, nâng chén lên lớn tiếng nói mấy câu. Lục Phi Thanh chỉ hiểu vài chữ, kinh Coran với quê hương gì gì đó. Sau đó cô gái áo vàng lại cất tiếng rõng rạc: “Nếu không đoạt lại được cuốn kinh Coran thần thánh này, thà chết cũng không về quê hương nữa.”
Mọi người Hồi trong lều đều tuyên thệ theo như thế. Tuy ánh đèn ảm đạm, nhưng cũng đủ thấy trên mặt người nào cũng đầy vẻ khẳng khái quyết tâm. Mọi người thề xong thì nâng chén lên uống cạn, rồi xuống giọng thầm thì nói chuyện, dường như đang bàn tính chuyện gì đó. Lục Phi Thanh hiểu lờ mờ là nhóm người Hồi này có một bộ kinh sách quí báu vừa bị cướp mất, bây giờ đang muốn đoạt lại.
Lục Phi Thanh suy đoán không lầm. Nhóm người Hồi tộc này thuộc một bộ lạc du mục ở phía bắc Thiên Sơn, dòng dõi của người Hồi Hột đời Đường, tính khí vừa cao thượng vừa dũng mãnh cang cường. Xưa nay họ không chịu để triều đình thống trị, tự chia bộ lạc ra mà sống. Vào đời nhà Nguyên, người Mông Cổ tự cao tự đại đã khinh miệt gọi họ là người Duy Ngô Nhĩ. Sau này, những người ăn nói khách sáo hơn thì gọi họ là dân Hồi tộc. Thật ra hình dáng và tập tục của họ khác hẳn với người Hồi ở trung nguyên, cũng không cùng chủng tộc, chẳng qua chỉ cùng theo Hồi giáo.
Bộ tộc này khá đông người, tổng số đến gần hai chục vạn dân. Người cao lớn nhất tên là Mộc Trác Luân, thủ lĩnh bộ tộc này, võ công cao cường, nhân nghĩa công chính, rất được dân chúng yêu mến. Cô gái áo vàng này là con gái của y, tên gọi Hoắc Thanh Đồng. Nàng thích mặc áo màu vàng, trên mũ thường cắm một chiếc lông vũ màu xanh thúy, từ đó mà có ngoại hiệu rất đẹp. Trong võ lâm vùng nam bắc Thiên Sơn, rất nhiều người biết tiếng Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng.
Bộ tộc này sống kiểu du mục, ngao du trên đại mạc mênh mông thật là phiêu diêu khoái lạc. Nhưng rồi thế lực của triều đình nhà Thanh lan tràn đến vùng biên ải, trưng thu thuế má càng lúc càng nhiều. Lúc đầu Mộc Trác Luân còn nhượng bộ cho được việc, cố gắng tìm cách cung ứng. Nào ngờ triều đình lòng tham không đáy, khiến cho bộ tộc sinh sống mỗi ngày một khó. Mộc Trác Luân đã thương lượng với người trong tộc, ai cũng thấy nếu tiếp tục như thế thì không sao sống nổi, nên mấy lần phái người đi gặp người có quyền thế, xin giảm thuế má trưng thu.
Không ngờ thuế má không được giảm, mà còn làm cho triều đình nhà Thanh nảy dạ nghi ngờ. Phó đô thống Hoàng Kỳ Mãn Châu Định Biên tướng quân Triệu Tuệ, lúc đó phụng mệnh lo về quân cơ dọc vùng Thiên Sơn, biết bộ tộc này có một quyển kinh Coran chép tay, đời đời truyền lại. Bộ kinh này đem từ thánh địa Mecca của Hồi giáo về, đã được mấy chục đời thủ lĩnh bảo vệ thận trọng, đúng là thánh vật của bộ tộc người Hồi này.
Triệu Tuệ bèn nhân lúc Mộc Trác Luân có việc đi xa, phái cao thủ đi cướp lấy quyển kinh. Y muốn dùng vật này để uy hiếp cho người Hồi hết đường phản kháng. Lúc về, Mộc Trác Luân triệu tập đại hội vùng sa mạc, thống lãnh nhiều người đi về hướng đông đoạt lại bộ kinh. Họ đã lập thệ, cho dù xương cốt phơi vùng quan nội cũng phải đem được thánh kinh về lại quê nhà. Lúc này họ đang làm lễ cầu kinh buổi tối, mọi người trân trọng thề thốt.
Lục Phi Thanh đã biết mưu đồ của nhóm người Hồi này không có liên quan gì đến mình, nên không muốn nghe tiếp nữa. Ông đang muốn buông góc lều xuống chạy về, đột nhiên thấy mọi người Hồi trong lều đều nằm hết xuống đất để cầu nguyện. Ông biết dễ bị nhìn thấy, bèn vội vàng đứng dậy. Nào ngờ trong chớp nhoáng đó, Hoắc Thanh Đồng đã kịp phát hiện bên ngoài lều có người thám thính. Nàng nói nhỏ với cha nằm bên cạnh, rồi lập tức tung người ra khỏi lều, nhìn thấy một bóng người đang chạy vào trong rừng, thân pháp cực nhanh. Nàng vung tay phải lên, ném theo một cục thiết liên tử.
Lục Phi Thanh nghe tiếng gió sau lưng, biết có ám khí bắn tới. Ông hơi nghiêng người né tránh, đưa ngón trỏ bên phải ra nhắm chính xác viên thiết liên tử lúc nó bay qua, gõ nhẹ xuống một cái. Ám khí đang bay đột nhiên rơi xuống. Tay trái ông vẫn đang cầm bình trà, dùng hai ngón tay mở nắp bình ra hứng, thiết liên tử rơi tõm vào trong. Ông không quay đầu lại làm gì, cứ thi triển khinh công chạy nhanh về khách sạn.
Về đến khách sạn thì mọi người đã ngủ say. Tên tiểu nhị hỏi: “Lão tiên sinh đi dạo lâu như vậy, chắc để thưởng thức ban đêm yên tĩnh phải không?” Lục Phi Thanh ậm ừ cho qua chuyện rồi vào phòng, lấy hòn thiết liên tử trong bình trà ra xem. Viên ám khí này đúc bằng thép tinh luyện, bên trên có khắc một cái lông vũ. Ông bèn tiện tay bỏ vào túi mình.
* * *
Sáng sớm hôm sau, đoàn người bảo tiêu khởi hành trước. Tiếng hô tiêu ngữ Ngã Võ Duy Dương vang dội, rồi cả bọn lên đường, ngọn tiêu kỳ bát quái của Trấn Viễn tiêu cục dẫn đầu. Lục Phi Thanh nhìn thấy hành lý trên lưng lừa không nặng lắm, bọn tiêu sư chỉ lo bảo vệ Diêm Thế Khôi. Hiển nhiên cái bao vải đỏ mới thật sự là thứ cần bảo vệ. Tiêu cục cũng có luật lệ của tiêu cục, rất nhiều người chỉ làm một việc là bảo vệ cái bao, nhưng trong bao đựng thứ gì thì họ cũng không thèm để ý.
Khi bọn bảo tiêu đi khuất, Tăng tham tướng cũng dẫn binh sĩ hộ tống Lý phu nhân lên đường. Đến trưa, họ ăn cơm ở Hoàng Nhai Tử. Đoạn đường này ngoằn ngèo trên núi, dự tính chiều nay phải vượt qua ba quãng rất dài mới kịp đến Tam Đạo Câu dưới núi để nghỉ đêm.
Đường núi rất hiểm trở, càng đi càng dốc. Lý Nguyên Chỉ cùng Tăng tham tướng lúc nào cũng đi sát cỗ xe của phu nhân, chỉ sợ lừa bị sẩy chân là xe rơi xuống vực, dĩ nhiên người trong xe phải tan nát thịt xương.
Vào giờ thân thì đoàn người đã đến trấn Ô Kim, thấy bọn tiêu cục đang nghỉ ngơi ở đó. Tăng tham tướng cũng cho đoàn người nghỉ ngơi chốc lát. Hai bên trấn Ô Kim toàn là núi cao, chính giữa có một con đường lên núi rất dốc, dọc đường khó có chỗ dừng chân, phải đi một hơi lên tới đỉnh. Lục Phi Thanh đi ở sau cùng, không muốn giáp mặt đám người trong tiêu cục.
Sau khi nghỉ ngơi xong, mọi người bắt đầu tiến vào hẻm núi. Đoàn người tiêu cục cùng với thủ hạ của Tăng tham tướng nối đuôi nhau thành một con rồng dài. Người vật đều thở hổn hển trèo lên, bọn mã phu luôn mồm quát tháo, giục ngựa đi nhanh.
|