View Single Post
  #4  
Old 09-14-2012, 11:58 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Tất cả các dòng sông đều chảy - Chương 25 - 32 (HẾT)

TẤT CẢ CÁC DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY


Chương 25 - 26


25
Khi những bãi lầy khô dần và những khe nhỏ lại đổ vào dòng nước chính chỉ để lại một chuỗi hố nước, khi hoa nhài và hoa pittosporum ngào ngạt trong không gian vào những đêm ấm áp của những ngày cuối xuân, Adam lại hay cáu gắt và âu sầu. Cậu lơ đãng hơn bao giờ hết.
Mẹ cậu gợi ý rằng cậu nên đi bác sĩ, cậu càu nhàu:
- Trời ơi, con không có gì mà má cũng nhặng xị như gà mái ấp, thôi đi má, bằng không con không về nữa đâu.
Còn khi chỉ có một mình với Delie, đang ôm hôn cô thì Adam vụt buông thõng hai tay xuống, hoặc khi cô đặt một câu hỏi trẻ con nào đó, cậu trả lời một cách nóng nảy.
Một đêm, cậu cau có và khó tính đặc biệt, cô rất lo âu nên không ngủ được. Còn vài đêm nữa tới trăng tròn...
Delie nhảy khỏi giường đến cửa sổ thò đầu ra ngoài. Lá cây bạch đàn nhựa phản chiếu lấp lánh như kim loại ướt dưới ánh trăng. Một cơn gió mắt từ bờ sông thổi đến mùi hăng hăng của những đống lửa phân bò để ung muỗi bay qua cửa sổ phòng cô. Cô với lấy chiếc áo choàng ngủ định ra hiên ngắn ánh trăng lồng bóng nước.
Cô lặng lẽ mở cửa trước và bò qua mảnh ván gỗ, cảm thấy chúng gồ ghề dưới đôi bàn chân trần của cô. Trong bóng một cây nhài lơ lửng trên đầu, có cái gì đang cử động...
Tiếng Adam thì thào:
- Em đấy hả., Del?
- Vâng, em đây. Ồ! Em cũng không ngủ được.
- Anh cũng vậy. Đêm nay như thế này mà ngủ thì phí lắm. Mà em chỉ cách anh có hai bức tường! Anh đã muốn rằng em cũng ra ngoài.
- Thế là thế nào hở anh?
- Anh nói với em bằng thần giao cách cảm.
- Suỵt! - Delie kêu lên, hơi rung vì sợ hãi.
Cô quay lại nhìn các cửa sổ phía trên cửa trước.
- Đừng ngại, em yêu, má anh không nghe thấy chúng mình đâu. Tim em đập mạnh quá.
Vì cô đứng quay nửa người về phía cậu, nên từ phía sau cậu vòng tay ôm cô, bàn tay cậu áp chặt vào bộ ngực nhỏ bé và trái tim đập loạn xạ của cô. Cô như tan chảy ra.
- Em yêu, em yêu, em yêu!
Cậu run rẩy khi luồn tay vào mái tóc mềm mại của cô và hôn lên gáy cô. Rồi cậu đột ngột buông cô và quay lại tựa người trên lan can mái hiên, nhìn đăm đăm vào khúc quanh của dòng sông lấp lánh ánh trăng.
- Gì không ổn đấy anh? - Cô đặt nhẹ một bàn tay vào bàn tay cậu, hỏi.
- Không có gì không ổn cả. Chỉ có điều... em cám dỗ anh.
- Cám dỗ anh à?
- Vào...tội lỗi.
Tội lỗi! “Adam, Eva, tội lỗi, con rắn, thảm họa...”, những từ này khiến cô rùng mình. Cô không thể thốt nên lời. Cô sợ hãi, run rẩy. Cuối cùng cô rụt rè hỏi:
- Vậy bây giờ em vào nhé?
- Phải, em vào đi. Không! Em chờ một chút. Em hãy đứng đây dưới ánh trăng, để anh có thể nhìn thấy khuôn mặt em.
Cậu cúi xuống cô âu yếm, nhìn chằm chằm vào đôi má nhợt nhạt thanh tao bởi ánh trăng, vào đôi mắt trông đen hơn và to hơn lúc ban ngày.
- Đôi mắt em hiền dịu lắm; nhưng đôi mày ngang thì tương phản lại, cái cằm nhỏ kiên quyết, cái miệng ngang bướng ngọt ngào. Em giống như...như một... con bướm đêm bay đến thăm những đóa hoa nhài... em Philadelphia. Delie, Della, Del! Cái tên nghe ngốc thế nào ấy, dù phát ra kiểu nào cũng vậy. “Delphine” thì hay hơn...Anh sẽ gọi em là Delphine.
Hai bàn tay không đụng cô, cậu cúi xuống hôn môi cô.
Rồi cậu vỗ nhẹ, bảo cô về ngủ như một đứa bé.
Cô bàng hoàng bước đi, tâm trí đầy những ánh sáng lấp lánh và bóng đêm ngọt ngào hương thơm, đầy ánh trăng và bóng tối.

*

Sau đêm đó, những ngày cuối tuần Adam về nhà, cả hai luôn lẻn ra ngoài mấy phút. Để khỏi bị nghe thấy, Delie thường trèo qua khung cửa khi cô nghe những tiếng cuối cùng của ông Charles trong “phòng làm việc” của ông và bà Hester trong phòng ngủ phía trước.
Hai tuần kế tiếp đó Adam bận việc và không thể về nhà. Bà Hester gửi một bức thơ bảo rằng tuần sau cậu đừng về, vì ở nhà sẽ đi Echuca. Nhưng ngày chủ nhật, buổi sáng trời mưa và lạnh lẽo, Bà Hester quyết định không đi nhà thờ, trong khi ông Charles rên rỉ về thiệt hại mà cơn mưa không đúng mùa sẽ làm hại mớ cỏ khô của ông.
Adam thay đồ đi đến nhà thờ, ngồi hút thuốc trong khi ông Polson rao giảng một cách nhạt phèo. Cậu nhìn cửa ra vào, từng lúc lại mong mỏi gặp đôi mắt xanh lơ yêu dấu, sống động, khiến toàn nhà xám xịt tràn ngập ánh sáng cho cậu. Cô Bessie Griggs và mẹ cô ta ở đấy, nhưng khi cậu trông thấy họ đi về phía cậu sau cuộc lễ như một chiếc tàu chiến có một tàu khu trục hộ tống, cậu cúi đầu một cách lãnh đạm và cẩn thận đi vòng ngõ khác.
Bà Griggs cảm thấy bị sỉ nhục, liền nói:
- Này! Cậu ta có thể đẹp trai đấy, nhưng không lịch sự.
Adam về nhà trọ dùng bữa, buồn bã nghỉ về ngày cuối tuần bị lãng phí. Càng xa Delie chừng nào, dường như cậu càng thèm khát cô. Những lời lẽ táo bạo hăng hái của cô năm trước lại nung đốt cậu. Cây cam ngoài vườn ngát hương như cây pittosporum trong nhà, dường như mang cô đến trước mặt cậu: xanh xao, mỏng manh, tóc sậm với đôi mắt xanh lơ sâu thẳm mà cậu thương yêu.
Cuối tuần sau, trước khi về nhà, cậu nói với ông Mcphee rằng cậu đang yêu, và muốn cưới vợ; cậu thấy rằng cậu có thể chờ đợi tới hai mươi mốt tuổi, nhưng cậu muốn biết liệu ông ta có hứa đảm bảo tiền lương và tăng lương cho cậu không. Nhưng ông ta không hứa gì và bảo cậu đợi mười hai tháng nữa...
cậu lên xe, nét mặt vẫn còn khó chịu. Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu tất bật dọn trà và bánh nướng, cố làm tiêu tan cái nhìn buồn bã trong đôi mắt cậu.
Cậu dùng trà, kể cho mẹ nghe những tin tức bà tuần qua; sau đó, Delie đề nghị họ lấy xuồng đi chơi trên dòng sông, nhưng liền đó cô biết là cô nói không phải lúc.
Cậu buồn rầu hỏi:
- Để làm gì chứ?
Delie đỏ bừng mặt vì ngạc nhiên và nhìn cậu chằm chằm;
- Anh cháu mệt rồi, Philadelphia, anh cháu không muốn đi câu sau một ngày mệt nhọc vì đi suốt trên sông...tất cả các khúc quanh đó! Dì mà đi như vậy cũng chóng mặt lắm, dì chắc là...
- Con đi đường bộ mà má.
- Này, dù sao, tại sao con không đi xuống thăm mấy con ngựa, và uống trà cho ngon? Má làm bánh bao mật có đường mà con rất thích, - bà nói với giọng đắc thắng.
Đôi mày trẻ con của Adam vặn vẹo một cách chua cay... Cậu nhìn vỉ lò trống không và nói:
- Thật buồn cười, phụ nữ không muốn để cho đàn ông trưởng thành...Khi con về đây, má và em Delie lúc nào cũng xem con như đứa học trò nhỏ, với không biết bao nhiêu thức ăn và trỏ thể thao sống động. Cứ nghĩ rằng làm người ta đầy bụng và giữ cho người ta hoạt động là người ta sẽ hạnh phúc.
Delie mím môi nhìn đôi bàn bay mình. Tại sao cậu lại xem cô như bà Hester, như cá mè một lứa, như thứ đàn bà khờ khạo? Cô không thích bị xếp như “phụ nữ” nói chung.
Bà Hester có vẻ bị tổn thương và ngỡ ngàng. Bà không hiểu con trai bà ra sao – vì dù nó đã đi làm, được hưởng lương của người lớn, bà vẫn xem như nó còn bé. Bà thở dài bước ra khỏi nhà bếp.
Delie nhìn cậu hy vọng, chờ cậu đến hôn cô. Đã ba tuần rồi, và nãy giờ cậu hầu như chẳng nhìn về phía cô! Cậu không bước tới mà lịa ngồi thụp trong chiếc ghế dựa gặm một bên ngón tay cái.
Ông Charles bước vào, vui vẻ. Năm nay lông cừu xén rất nhiều và ông hy vọng bán len được nhiều tiền. Adam biết rằng cậu làm tổn thương tình cảm của mẹ và cảm thấy hơi xấu hổ. Trước lời chào nồng nhiệt không bình thường của cha, cậu trả lời cộc lốc.
Ông Charlie nói.
- Ba muốn nói chuyện với con.
Delie dợn bước ra khỏi phòng, nhưng ông nói tiếp”
- Cháu ở lại, cháu nghe cũng không sao. Cháu ngồi lại dùng trà đi...Adam, lương con như vậy, chắc con không dành dụm được gì?
- Thưa ba, đúng vậy. Hầu như con không dành dụm được gì.
Cha cậu nhìn vào bộ cánh mới chật sát người của cậu, cái cổ áo cao và chiếc cà-vạt lụa đúng thời trang của cậu.
- Này, năm nay ba kiếm được kha khá, ba có thể giúp con.
Ông dừng lại để gây ấn tượng.
Adam ngồi xích tới trước, những ngón tay nắm chặt hai thành ghế.
Cậu cất giọng khàn khàn:
- Thưa ba, thế nào ạ?
- Ờ, ba nghĩ rằng ba có thể cho con ít tiền túi. Giờ đây, mỗi tuần ba cho con năm si-linh, như vậy tức là mỗi tháng một bảng, con thấy thế nào? Như vậy con có thể mua cà-vạt và mùi-soa, được chứ?
Adam thở ra, chầm chậm, rồi buông người trở lại ghế.
Cậu nói cộc lốc:
- Dầu sao thì mua mùi-xoa cũng được.
Rồi cậu tiếp:
- Con cảm ơn ba.

26
Delie vào phòng mình, cô không tắt nến ngay mà để nguyên y phục ngồi xuống mép giường, nhìn ra ngoài chỗ vừa có ánh sáng kẻ ô vuông vừa có bóng mờ của khu vườn. Đêm hôm ấy, gần tới đêm giáng sinh, trăng khuyết; không bao lâu nữa cô sẽ được mười bảy tuổi. Mới đây trong phòng khách Adam đã nhìn cô một cách kỳ lạ biết bao; trâng tráo, hầu như giận dữ, tuy nhiên dù sao vẫn khiêm tốn, tựa hồ như cậu khẩn khoản nài cô thông cảm. Đêm nay cô có ra ngoài hay không? Hầu như cậu muốn tránh cô. Không! Tốt hơn là đi ngủ, mai sáng sẽ gặp lại cậu. Cô cởi cúc ở chiếc rốp và sắp kéo ra khỏi đầu thì có tiếng gọi: Mo...poke!...Mo...Poke!...Tiếng gọi từng chặp lại lặp lại đều đều như tiếng máy.
Cô đến cửa sổ lắng nghe, như người ta nghe tiếng đồng hồ gõ chậm, hoặc tiếng nhỏ giọt đều đều đều của một vòi nước. Đêm đang kêu gọi, kêu gọi, tiếng dế gáy ri rỉ đơn điệu, huyền diệu trong đám cỏ khô. Chầm chậm, và hầu như không cố ý, cô luồn qua khung cửa.
Cô vòng qua trước nhà nơi nhành hoa nhài đong đưa dưới mái hiên. Hình dáng của Adam lặng lẽ xuất hiện bên cạnh cô. Cậu kéo cô vào bóng tối của cây hoa nhài và hôn cô một cách hung bạo. Cô bám vào cậu, rùng mình, run rẩy, cảm thấy con tim cậu đập một cách man dại qua chiếc sơ-mi mỏng manh của cậu.
- Ồ, em không chắc anh có chờ em chăng. Hồi hôm anh kỳ cục quá, gắt gỏng quá.
- Thế à? Suốt cả tháng trời anh đã không gặp em, chủ nhật rồi anh hết sức thất vọng vì em không đi nhà thờ.
- Em không thể làm gì được, anh yêu. Trời mưa quá. Nhưng chiều nay...
- Ồ, em đừng nói nữa. - Cậu nói cộc lốc, kéo cánh tay cô vào cánh tay cậu rồi dẫn cô ra hàng rào của khu vườn và xuống bờ sông, dòng sông ấy đang sán lên qua những thân cây lấp lánh.
Cậu nhìn xuống cô, trong đôi mắt cậu như có vẻ tăm tối, mờ mịt và đau đớn. Bàn tay cậu đặt lên cánh tay cô, nóng bỏng. Cậu nhìn vầng trăng, nói khẽ:
- Một đêm như đêm nay, em không nên nói gì ngoại trừ những câu thơ.
Khi những đêm tối nặng trĩu hương cây.
Người yêu của tôi xuất hiện như con thiêu thân trắng...
- Anh Adam, thơ đẹp quá!
- Em cũng đẹp như thế.
Cậu cúi xuống hôn tai cô, hơi thở nóng bỏng của cậu khiến cô rùng mình thật mạnh, nó chạy dài suốt cả sống lưng, nửa vì lo sợ, nửa vì khoái cảm. Cô cảm thấy rằng cô đang đi với một kẻ xa lạ, và lo sợ quay lại để chắc rằng đó chính thật là Adam. Cậu quay lại nhìn cô với một nụ cười xa lạ, đôi mắt lim dim, và dẫn cô đi dọc theo bờ sông, về phía dải bưng ánh sáng và bóng mờ của những cây thông, nơi cô đã đuổi theo một con chim táp muỗi trong cái đêm không thể nào quên được ấy hai năm trước.
Cậu dẫn cô đi vào bóng một thân cây và áp vào người cô, ép cô vào sát thân cây. Đôi mắt cậu tìm khuôn mặt cô, ánh trăng đang chiếu vào mặt cô, soi sáng đôi mắt mở rộng và làn da xanh xao của cô.
- Delphine, em có biết lần đó em nói gì không? Phải em nói là em muốn hoàn toàn thuộc về anh không? - Tiếng cậu khàn khàn, run run.
- Vâng! Chính thế!
Tất cả tâm trí cô đều đồng ý, nhưng thân cô cứng đờ như chống đối theo bản năng. Thân cây gợi cô nhớ lại người đàn ông dễ sợ lần ấy bên công viên Campaspe đang ôm thân cây và vẫy cô với nụ cười nhăn nhở man dại.
Miệng Adam đặt lên miệng cô. Tay cậu luồn vào chiếc cổ áo mở rộng, sờ lên cái vú nhọn và nhỏ; nhưng cô quay đầu nhìn xuống bàn tay nâu nâu trong ánh trăng đặt lên làn da trắng muốt của cô.
- Đừng anh! - Giọng cô nghèn nghẹn, hai bàn tay cô chụp lấy bàn tay cậu xô ra.
Adam đứng lặng và không sờ soạng cô nữa. Cậu chỉ nhìn cô với một nụ cười chế giễu đáng ghét như nói:
- “Sao em lại nói thế?”.
Cô lại sôi nổi nắm chặt bàn tay mà cô đã vất bỏ, hôn tới tấp lên đó. Nhưng bàn tay ấy lạnh lùng đẩy cô ra. Cậu quay gót đi dọc theo bờ sông. Cô theo sau, vấp những bụi cỏ, òa lên nức nở và gọi cậu bảo cậu chờ cô. Cậu vẫn bước thẳng người, đi xa ngôi nhà. Cuối cùng, cậu quay lại cô:
- Em đừng lên tiếng, kẻo kẻ ăn người làm nghe thấy rồi đi theo. Bây giờ em về ngủ đi. Anh cần đi dạo một lúc.
- Nhưng anh Adam...
- Em có chịu về ngủ không?
Cô im bặt trước vẻ cay đắng trong giọng cậu. Cô quay lại và đi qua khu vườn dìu dịu ánh trăng, cô lặng lẽ khóc cho tới khi cô nằm vật trên giường và vùi xuống gối. Thoạt đầu, một niềm tự hào giận dữ kềm cô lại. Cậu độc ác quá, cậu thật bất công. Cô hiểu cô đã nói gì; nhưng đúng là đêm nay cô không sẵn sàng chịu đựng tính khí này của cậu. Nhưng rồi niềm kiêu hãnh tan dần. Cô cảm thấy giá buốt trong quạnh quẽ. Cô đã mất cậu. Cậu sẽ không yêu cô nữa.
Cô nằm đấy sững sờ vì khốn khổ, không biết rằng lũ muỗi đang no nê đốt cái cổ và bộ ngực phơi trần của cô. Tất cả các ngôi nhà vẫn lặng lẽ. Dường như bao nhiêu giờ đã trôi qua., lúc này đáng lẽ cậu đã trở lại.
Rồi cô bỗng có một quyết định, cô choàng dậy thay y phục, khoác vào người chiếc áo ngủ tay dài, cô đi lần ra mở cửa. Cô sẽ đến phòng cậu và ở lại với cậu. Dù cô sợ sáng ra bà Hester có thể gặp cô ở đấy, cô sẽ cho cậu thấy rằng cô không sợ. Cô nhón gót băng qua hành lang và vặn tay nắm cửa phòng cậu. Căn phòng tối thui. Ánh trăng phản chiếu mờ mờ, cái giường của cậu trống vắng thẳng thớm.
Cô trở lại phòng mình, ngồi bên giường và bó gối trong khi cô lắng nghe tiếng cánh cửa sau rít kèn kẹt. Đôi mi cô trở nên nặng nề. Cô thiếp đi máy làn, đầu cô giật lên thật đau. Cuối cùng, mòn mỏi vì xúc cảm, cô ngủ say, trong khi cây nến trong phòng vẫn cháy.
Khi thức giấc, cô cảm thấy một nỗi lo sợ không sao giải thích được. Cây nến đang chảy ra, hắt những cái bóng to nhảy múa trên tường. Rồi cô nghe có tiếng nói, dường như sát bên tai cô” “Em Delphine”.
Cô lao tới cửa sổ, thò đầu nhìn ra ngoài. Vầng trăng đang lặn sau những cây bạch đàn nhựa đầy hoa, ánh trăng vàng đùng đục. Bầu trời không một áng mây.
- Anh Adam! - Cô khẽ gọi, nhưng chỉ có tiếng dế ri rỉ đơn điệu đáp lời cô. Cô mở cửa, nhưng hành lang trống vắng; phòng cậu cũng trống vắng. Cái giường vẫn không người ngủ. Băng trở lại phòng mình cô nghe tiếng người dì ho ở phòng ngủ phía trước, tim cô đập mạnh. Cô không ngủ nữa. Nỗi sợ hãi vẫn làm cô lo ngại.
Trước nay, không ai ngoài Adam gọi cô là Delphine. Cô khoác chiếc áo choàng, ngồi bên cửa sổ nhìn các ánh sao. Vầng sáng trên mặt trăng không còn nữa, dải sao thiên bộ chói sáng trên bầu trời nhợt nhạt của buổi bình minh, thấp ở phía tây.
Cô đứng thẳng người, đến cái vại nước xanh múc nước rửa mặt. Dôi mắt to của cô từ tấm gương bàn trang điểm phản chiếu lại mờ mờ, uể oải, mi mắt cô vẫn bụp vì cô đã khóc trong đêm.
Mùi mỡ trong phòng ăn dường như khuấy động buổi sáng nhưng cô cố tỏ ra bình thường trong bữa ăn sáng. Vẫn không có bóng dáng gì của Adam, hẳn hôm nay cậu ngủ muộn và lúc thức giấc cậu sẽ bớt gắt gỏng hơn.
Bà Hester cau đôi mày đen.
- Hôm nay thằng Adam dậy muộn. Tội nghiệp thằng bé. Ông à, dường như hôm qua nó không khỏe lắm.
- Tội nghiệp à! Hừ. Cái thằng lười.
Bà Hester vào phòng của Adam, lúc trở ra bà có vẻ lo lắng hơn.
- Suốt đêm nó không ở trong phòng! Nó không ngủ trên giường.
- Có lẽ nó đi dạo chơi.
Bà Hester ngồi xuống và bắt đầu ăn món thịt mỡ trứng một cách lơ đãng. Adam không thể dọn giường gọn gàng như thế để thoát khỏi sự khó khăn. Bà liền duyệt lại toàn thể mấy người giúp việc da đen. Thật là cha nào con nấy! Nhưng Bella già quá và béo quá. Lucy béo và đã có chồng. Nhưng cái gì khiến nó ở lại bên ngoài suốt đêm? Bà liếc nhìn Delie; đầu cúi xuống. Cô đang cố nuốt thức ăn.
- Philadelphia! Phải lần này nó trốn đi hoang nữa không? Lần này cháu có biết gì không?
Cô ngước gương mặt trắng bệch và dôi mắt tối sầm.
- Thưa dì, không ạ.
- Cháu Delie làm sao biết được mà hỏi. Theo tôi thì chắc Adam đi săn chuột túi và gấu rồi.
- Anh ấy không đi săn đâu. - Delie lên tiếng.
- Này cháu, hôm nay cháu hơi mét, cầu kinh xong cháu nên đi nằm một chút. Mình khỏi cần chờ Adam về làm lễ, chắc nó không về trước giờ ăn trưa đâu.
Ông Charles chọn một đoạn trong kinh thánh, đoạn này Delie thường thích vì nhịp điệu âm vang của nó, nhưng hôm nay lời lẽ dường như ác nghiệt và báo điềm gỡ.
“Giờ đây con hãy nhớ đến thượng đế trong những ngày thanh xuân của con... Bằng không, sợ dây bạc sẽ lỏng ra, hoặc chén vàng sẽ vỡ...
Rồi cát bụi sẽ trở về cát bụi, và linh hồn sẽ trở về với chúa, vì chúa đã ban linh hồn”.
Delie nhìn chằm chằm vào tấm thảm nâu. Phải đây là điều bí mật không? Cát bụi trở về cát bụi, nhưng linh hồn trở về với nơi nó xuất phát. Nhưng hình hài này là cuộc sống, hơi thở, tri giác của ô, là nơi chất chứa linh hồn cô. Đôi mắt cô thu nhận màu sắc, hình dáng, trí óc cô bảo cho cô biết khi chúng đẹp đẽ. Thế giới này đã đủ huyền diệu, cô không muốn thế giới nào khác.
“....và sự bằng an ngoài tầm hiểu biết sẽ ở cùng tất cả chúng con. Amen”.
Cô giật mình. Buổi cầu kinh chấm dứt. Bella, Lige và mấy người khác ra ngoài từng người một. Cô nghĩ Annie nhìn cô với vẻ kỳ lạ. Đêm rồi chị ta có theo dõi không? Và Adam di đâu? Có lẽ cậu bị lạc trong lùm cây.
Cô nói khẽ:
- Thưa dượng, chắc mình phải cho Jacky đi tìm anh Adam. Chắc anh ấy đi lạc rồi.
- Dượng cũng có nghĩ tới việc này, nhưng nó lớn rồi, tự nó lo liệu được. Nếu tới bữa ăn trưa mà nó không về mình sẽ tổ chức tìm kiếm.
Delie không nói gì nữa, nhưng cô có linh tính. Tới giờ ăn trưa, Adam cũng không xuất hiện. Đang dọn rau, bà Hester đánh rơi chiếc muỗng loảng xoảng.
- Ông này, ông phải cho Jacky và mấy người khác đi tìm thằng Adam. Vùng này rộng như thế, chắc nó đi lạc rồi. Có nhiều người chuyên tìm dấu, mình hãy nhờ họ... nó có thể ngã xuống sông....
- Nó giỏi bơi lắm.
- ...Hoặc nó bị rắn cắn. Ôi, Adam, con ơi là con ơi! - Đôi môi bà run run, bà mò tìm chiếc mùi-soa.
- Được rồi, bà. Có lẽ mình cũng nhờ mấy người da đen ở trại tìm phụ. Nào, bây giờ bà đừng nổi nóng nữa...
Chính Jacky, chồng của Lucy, tìm ra dấu chân dọc theo bờ sông, nơi Adam từ giã Delie và men theo bờ sông đi mãi. Dấu chân băng qua đồi cát, qua các bãi lầy, qua hai bờ rào và đến một cái khe có thân cây ngả ngang dẫn đến chỗ trảng trống hôm họ đi picnic.
Jacky theo dõi các dấu hiệu hầu như không trông thấy được trên mặt đất khô ráo, thấy những dấu chân băng qua thân cây. Anh định theo các dấu chân đó, bỗng trông thấy một lòng khe sâu cạn nước có cái gì đó. Ở mép khúc gỗ có dấu một bàn chân mang giày ống trượt xuống.
Adam nằm sấp xuống một cái vũng nước đọng, đôi mắt nhắm nghiền, một bên thái dương bị xước và bầm. Jacky nhấc cái đầu mềm nhũn khỏi nước và cất tiếng hú hốt hoảng gọi những người khác.
Những người phụ nữ ở nhà chờ đợi, càng lúc càng thêm lo sợ, họ trông thấy đoàn người đang đi trên đồi cát trở về, ông Charles và Lige nắm tay nhau làm thành chiếc cáng. Từ cửa sổ hông nhà nhìn ra, người mẹ đang cầu nguyện cho đứa con trở về an toàn bỗng trông thấy đôi tay của Adam đong đưa không còn sinh khí, bà thét lên.


TẤT CẢ CÁC DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY


Chương 27 - 28


27
Delie luẩn quẩn trong phòng nơi Adam nằm, không dám lại chiếc giường. Cô không muốn đến gần hoặc sờ cậu; trong khi cô chỉ xua đẩy như một ảo ảnh của giấc ngủ tự nhiên. Nhẹ nhàng như một phụ nữ, dượng cô rửa ráy khuôn mặt của người chết và vuốt mái tóc ướt khỏi đôi mày rộng và đẹp...khuôn mặt của Adam bình yên, môi mím lại, như mỉm cười; tựa hồ như cậu vừa bắt đầu đi vào một sự huyền bí nào đó đã khiến cậu bối rối, và vui sướng vì tìm được lời đáp giản dị đến không ngờ.
Cuối cùng, ông Charles nhìn lên và thấy gương mặt trắng bệch và dôi mắt thâm quầng của cô, dường như đang chìm sâu trong một nỗi đau khổ cố nén.
- Cháu đến với dì cháu đi. Bảo dì cháu cầu nguyện với cháu nếu dì cầu nguyện được...chúa ban cho, và chúa lấy đi...
Cô nấc lên:
- Thế thì chúa độc ác quá!
Cô nhìn cái miệng của Adam, cái miệng không bao giờ cười nữa, nói nữa, hôn nữa, im lặng, giam hãm mãi giọt lệ tràn ra từ trái tim đang vỡ tung của cô, nhưng một đốm lửa trong đôi mắt cô dường như làm cho những giọt lệ ấy khô đi trước khi rơi xuống.
Cô đến phòng người dì gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Cô bước vào. Những bức màn đã buông xuống, căn phòng tối lờ mờ. Bà Hester đang nằm trên giường, mặt quay vào vách, chiếc khăn mùi-soa đẫm nước nắm chặt trong tay. Mắt bà nhắm nghiền, từ hai hàm răng nghiến chặt, thoát ra lời rên rỉ ai oán lặng lẽ không dứt, dường như không dừng lại để thở.
- Thưa dì, cháu đây, Delie đây. Cháu có thể giúp dì được chi không ạ?
- Đi đi. Đi đi.
Delie lấy một chiếc mùi-soa từ ngăn kéo trên cùng của cái tủ com-mốt, nhúng vào nước hoa oải hương đặt lên trán bà Hester. Cô cố nhẹ tay để chiếc khăn mùi-soa ướt không làm cho bà co giật, nhưng bà không chịu buông khăn. Delie đặt một chiếc mùi-soa sạch khác lên gối. Tiếng ai oán lặng lẽ vẫn tiếp tục. Cô bước khỏi cửa sổ đến đứng bên lan can hiên nhà, tại đây cô đã thường đợi Adam từ dòng sông bước vào.
Cô nắm lan can và với đôi mắt nóng bỏng, ráo hoảnh, cô nhìn khúc quanh của dòng sông xuôi chảy. Cô đã sợ dòng sông- và Adam đã chết đuối trong một vũng nước! Dượng cô bảo rằng cậu đã ngã xuống trong khi băng qua khe, đập đầu vào một khúc gỗ ngả và nằm sấp dưới nước bất tỉnh. Chỉ một vài tuần nữa, khe sẽ khô cạn, không còn đủ nước để làm chết đuối một con chuột đồng. Nhưng đêm qua Adam lại băng ngang đấy, trong lúc trăng lặn mờ tối, trong khi khúc gỗ tướt sương đêm trơn trợt. Và cô đã để cậu đi tới đó.
Cô chạy xuống bậc thềm, chạy lên những đồi cát theo cách chúng đã đưa cậu về nhà, xuyên qua đám cây sồi và cây thông, quanh các bãi lầy khô cạn, về phía nơi cậu đã chết.
Buổi chiều hôm nay thật bình yên, thật tuyệt diệu như chế giễu cô, như trùm lên người cô; dòng sông thanh thản, những đám mây bạc làm cho bầu trời thêm xanh, những thân cây thêm bất động, đám cỏ thêm vàng. Cô chạy tiếp, không thấy gì, tam trí cô chỉ vương vấn một hình ảnh: Adam nằm bất tỉnh trong cái khe phản phúc.
Nhưng khi tới khúc gỗ ngả, cô không thể chịu được khi trông thấy nơi ấy, cô quay lại và băng qua lòng khe nơi khe đổ vào dòng sông.
Cô có thể cảm thấy những giọt lệ chưa chảy nóng bỏng trong mắt cô. Chúng ở đấy, như đọng lại thành cục cứng làm trán cô đau. Cô bước tiếp,. Đi như người mù quanh những khúc gỗ tròn và băng qua những đám lignum sột soạt. Có một lần cô ngã xuống bùn chưa kịp khô, và ao ước được chết đuối ở đấy để được bình yên. Nhưng muỗi đốt dữ dội hai bàn tay cô, cổ cô, khiến cô lại đứng lên đi tới.
Mặt trời đã khuất hẳn sau những rặng cây. Thoạt đầu cô có ý nghĩ mơ hồ là đẩy khung cảnh chết chóc ra sau cô, càng xa càng tốt. Cuối cùng, cô bước đi như một cái máy. Những đám cây thấp mỏng dần và biến đi, và cô đi qua một khu rừng bạch đàn nhựa đỏ trên một cách đồng ngập nước bao la. Không có dấu hiệu của dòng sông hay bất cứ một ánh nước loáng nào. Người cô nóng bừng vì sốt và cô rất khát.
Bỗng nhiên cảm thấy mệt mỏi, cô ngồi trên một khúc gỗ ngả xám xịt.
Tất cả điều im lặng đến nỗi cô cảm thấy như chìm sâu dưới biển. Rồi một đôi chim rừng cất tiếng cười chua chát.
Trời tối mịt dưới các tàng cây. Toàn thân cô run rẩy. Hai mươi bốn giờ qua cô ngủ rất ít, nhưng cô không ý thức gì cả ngoài cái lạnh và cái khát. Cô phải đi tiếp. Cô bước vấp ngã, quên không ngó lên các mảng trời để tìm những ánh sao quen thuộc. Cô phải đi đến dòng sông ngay...

28
Ông Charles ngồi bên giường bệnh của Delie, nắm bàn tay gầy của cô, nói:
- Chuyện xảy ra như thế là tốt đấy, cháu ạ. Dượng nghĩ rằng thời gian qua, nhờ phải chăm nom cháu mà dì cháu đã tỉnh lại. Lúc phải đưa Adam đi Echuca cho khám nghiệm và làm đám tang, dì cháu vẫn nằm đó quay mặt vào tường...không, cháu đừng cố trò chuyện.
“Khi dượng cho mời bác sĩ tới đây, dượng bảo ông ta rằng nhà này có tới hai người ốm. Nhưng ông ta đã cho dì cháu biết rằng cháu bị viêm não nặng lắm, cần được chăm sóc cẩn thận...mọi người cho rằng viêm não là do muỗi đốt.
- Thưa bao...bao lâu rồi dượng?
- Từ khi cháu ốm à? Gần ba tuần. Cháu sốt vùi nhưng cháu sắp khỏi rồi. Dì cháu không còn nằm nữa, chăm sóc cháu suốt ngày đêm. Khi cháu vượt qua cơn hiểm nghèo thì dì cháu lại quỵ, chỉ vì mệt mỏi quá. Dì cháu ngủ gần hai ngày rồi. Annie đang chăm sóc dì, một hai ngày nữa dì sẽ trở lại bình thường thôi.
Những lời trống rỗng vang trong đầu cô. Một vài ngày nữa, bà Hester sẽ lại bình phục, và Delie đã vượt qua cơn hiểm nghèo. Cô có thể trông thấy cô vượt qua khúc quanh hiểm nghèo- một hàng rào xám xịt với những cọc cao, và phía trước là một con đường dài xám xịt, trống rỗng của cuộc đời, thiếu hẳn hình bóng của Adam...
- Cháu không muốn bình phục.
- Dù cháu muốn hay không, cháu cũng đang bình phục, và một ngày kia cháu sẽ nhìn lại tất cả chuyện này và cháu sẽ tự hỏi sao cháu lại có thể cảm thấy như vậy. Cháu hãy tin dượng, dượng biết cháu cảm thấy như thế nào.
Khi người dượng đã đi ra, cô nằm ngắm tia nắng buổi chiều chênh chếch rọi qua cửa sổ, và những hạt bụi sáng quay tròn lấp lánh nhảy múa.
Tia sáng chênh chếch khiến cô nhớ lại buổi chiều hôm Adam đã đến hôn cô lần đầu tiên. Cô quay đầu trên gối, phần nào mong mỏi cậu sẽ đến qua cánh cửa. Nhưng không; hình dáng cậu đã chìm đắm trong bóng tối mãi mãi.
Sáng hôm sau, ông Charles lại đến, ông mang theo một cái cặp bản thảo.
- Có thể cháu thích được những thứ này, bài viết của Adam....cháu có mặt trong đó khá nhiều: Tặng philadelphia....Delie...Delphin- Tên cháu dưới nhiều biến dạng khác nhau.
Ông nhếch mép cười buồn bã và đặt những bài viết của Adam bên cạnh bàn tay mà cô vừa thờ ơ đặt lên bìa sách.
- Cháu đừng đọc nhiều quá kẻo mệt. Hôm nay bác sĩ sẽ đến, do đó cháu hãy cố để ông ta có thể cho cháu ngồi dậy.
- Cháu cảm thấy khá hơn nhiều.
....Ba tuần. Ba tuần cô đã nằm đây trong bóng tối chập chùng, thỉnh thoảng dì Hester hoặc chị Annie lại vào, cúi xuống với một chiếc cốc hoặc một mảnh vải ướt.
Có những lúc hết sức im lặng đến nỗi cô thầm hỏi rằng cô có chết không; có những lúc khác, những giọng nói tố cáo lại thét vào cô những tiếng khủng khiếp: “Mi từ chối chàng. Mi giết chàng”.
Cô gặp lại cơn ác mộng về bờ biển dài trắng xóa, vô tận và cô quạnh với những con sóng thần đập mạnh và những đồi cát dài vô tận. Một cơn sóng lên cao tới trời, như một ngọn đồi, trong khi cô chờ nó rơi xuống vỡ ra, quét cô, hủy hoại thân cô.
Giờ đây, cô nằm nhắm nghiền đôi mắt, nghĩ đến giấc mơ đó. Ông charles đã đi ra, cô mở mắt, đưa một bàn tay ướt nhẹ như để thử trên mặt những tờ giấy mỏng. Tuồng chữ của Adam dường như cho cô sức mạnh. Cô lật lật các tờ giấy và yếu đuối cầm một tờ giơ lên mắt. Cô đọc:
“Và xuyên qua các năm tháng không đếm được, mặt trời này sẽ đốt.
Xuyên qua bầu trời xanh lơ, và tiết xuân ngắn ngủi sẽ tàn tạ.
Khi quên em một thời gian lâu, và khi anh là hạt bụi phân tán, những mùa hè sẽ trở lại”.
Rồi cô nức nở, không sao nín được, những giọt nước mắt nóng hổi đầm đìa trên những tờ giấy nhàu nhò. Cuối cùng, không còn giọt nước mắt nào trong người cô nữa, nhưng cô cứ nấc khan cho tới khi cô ngủ say. Đó là những giọt nước mắt đầu tiên của cô từ khi Adam chết.
Một hôm, khi cô thức giấc, ông Charles đến ngồi bên thành giường. Hình như ông đang tìm lời để nói:
- Ơ...khi cháu gặp dì cháu...
- Ồ, cháu có thể đến phòng của dì không ạ?
- Dì cháu dậy rồi. Cháu sẽ gặp dì trong phòng ăn nhưng cháu nghĩ.... Dì cháu khỏe lại rồi, hở dượng! Sao dì cháu không vào đây thăm cháu?
Ông Charles nhìn xuống và làm như nhặt một sợi chỉ ở ống quần ông.
- Philadelphia, cháu sẽ gặp dì cháu...ơ, cháu sẽ thấy dì cháu thay đổi. Dì cháu hoàn toàn bình thường trừ...trừ một khía cạnh. Cháu đừng bối rối khi thấy dì cháu có vẻ kỳ lại hoặc thù ghét cháu.
Cô nhìn ông, không nói gì.
- Bác sĩ nói là dì cháu bị cú sốc muộn. Lúc đầu dì cháu có vẻ bình thường, nhưng giờ đây dì cháu có một vài...ảo giác. Và dì cháu cảm thấy khá cay đắng đối với cháu.
- Nhưng dượng đã nói dì săn sóc cháu ngày đêm mà.
- Đúng thế; nhưng tính khí dì cháu giờ đây không bình thường. Theo dượng, bao giờ dì cháu cũng cảm thấy em gái mình lúc nào cũng được phần hơn; và giờ đây dì có thể cảm thấy đứa con của mình đã bị mang đi một cách bất công, trong khi đứa con của em gái mình lại an toàn. Sự oán hận đó hoàn toàn không đúng.
- Nhưng dì có điều mà mẹ cháu không có... sự sống.
- Đúng thế. Cháu phải cố gắng quên thái độ của dì. Hoặc chịu đựng hết sức can đảm; và cháu hãy nhớ đến nỗi đau khổ của dì.
Delie muốn thét to lên: “Nhưng còn nỗi đau của cháu? Đây là lần thứ nhì, niềm sống của cháu đã tiêu tan. Phần cháu thì sao?” Nhưng cô nén, gật đầu im bặt.
Khi cô đứng dậy, cô cảm thấy mình hoàn toàn thay đổi và già đi một cách kỳ lạ. Annie phải giúp cô mặc áo choàng và đỡ cô ngồi dài theo hành lang đến phòng ăn. Cô thấy mình rất yếu, run đến nỗi sau khi bước vài bước trên đôi bàn chân tê cứng như gỗ dường như không phải thuộc của cô, cô rất mừng được tựa vào bờ vai xương xương của Annie.
Dì cô ngồi trong một chiếc ghế bành sâu bằng da, lưng dựa vào những tấm màn bằng nhung dài xanh lơ ở cửa sổ. Một cái rổ may bằng liễu gai sậm màu đặt trên cái giá cạnh bà, những ngón tay của bà đang thoăn thoắt móc một mảnh vải. Bà không ngó lên hoặc ngừng làm việc khi Delie thong thả vào phòng. Annie cố đặt cô ngồi xuống một chiếc ghế dựa gần cửa, những ô vẫn đi tới và đứng gần bên bà Hester.
- Thưa dì, con rất vui khi thấy dì khá hơn.
Cô chìa bàn tay gầy gò, nhưng dì cô không nắm. Bà Hester nhìn lên một thoáng, lạnh lùng và tiếp tục móc một cách giận dữ.
- Dượng bảo rằng dì đã săn sóc cháu khi cháu ốm....Cháu xin cảm ơn dì.
Lời lẽ của cô rơi tõm vào sự yên lặng lạnh lùng. Delie cảm thấy đôi chân yếu ớt của cô run rẩy trong khi cô cố đứng. Cuối cùng bà Hester nhìn lên và bảo:
- Tôi chỉ làm những gì bất cứ ai khác cũng làm. Bổn phận của tôi là cố gắng cứu cô sống.
Những lời lạnh lùng như một cái tát vả vào mặt cô. Delie quay lại rơi thỏm người xuống một chiếc ghế, những giọt lệ nóng bỏng long lanh trong khóe mắt. Bà Hester bàn bạc với Annie về bữa ăn trưa; cả ai không đếm xỉa gì tới Delie.
Cô không nói lời nào cho tới khi bữa ăn trưa được dọn lên bàn, nhưng khi người dượng bước vào với những cố gắng cảm động để làm dịu bầu không khí, cô cảm thấy có sức mạnh của người đồng minh. Trong khi ông cố khuyến khích cô ăn và hết sức vui vẻ trả lời giọng nói cộc cằn và gây gổ của bà vợ, cô cảm thấy rằng cô chưa bao giờ thương ông nhiều như thế, từ những ngày ông là người bạn duy nhất của cô trong những đồng hoang đầy tuyết ở Kiandra.
Nhưng đôi mắt của cô dường như không tập trung đúng vì một cơn đau bắt đầu dâng lên ở thái dương bên phải cô. Một con dao nhỏ nung đỏ dường như vặn ở đó. Cô đẩy chiếc đĩa ra, úp mặt vào hai cánh tay.
Kinh hãi, ông Charles đặt dao nĩa của ông xuống và vòng lại bàn:
- Cháu cảm thấy chóng mặt hở?
- Nó đóng kịch đấy, ông. Xí! Bác sĩ báo nó khá rồi, dậy được rồi mà.
- Bà nói bậy! Trông kìa, cháu nó trắng bệch, - ông nói, rồi quay sang cô. - Cháu có muốn vào phòng nằm nghỉ không?
- Thưa có.
Cô trở lại chỗ ẩn náu trên giường, nhắm nghiền đôi mắt và che mắt chống ánh sáng như những cây kim chọc vào óc cô, tất cả ý chí của cô tạp trung vào chuyện đó. Ông Charles giúp cô về phòng, cho cô uống một loại thuốc bột an thần mà bác sĩ cho toa mùa và đắp tấm vải ướt lên trán cô rồi bước ra.
Mấy tuần kế, mỗi ngày cô lại bị nhức đầu ghê gớm. Cô tập cách làm nó dịu bớt, chống lại nó như chống một cơn bão. Bác sĩ cho cô một thứ thuốc an thần mạnh hơn và cô sẽ nằm yên trong căn phòng tối đen, không dám xê dịch cái đầu trong khi cơn đau bớt dần.
Lễ giáng sinh trôi qua mà hầu như cô không biết những cơn nhức đầu dần dần ít hơn và thôi không làm cô lo ngại nữa. Cô lại ra vườn và cảm thấy như cô chưa từng cảm thấy sức mạnh khủng khiếp và thần diệu của mặt trời. Nó đánh thức tấm thân trẻ trung của cô trở lại cuộc sống mạnh khỏe, hầu như chống lại ý muốn của cô.
Một lá thư của cô Barrett từ phương bắc gửi tới, trong đó có đoạn riêng cho Adam. Bè bạn ở những nơi xa xôi như thế không nghe thấy về tấn thảm kịch kia, dù tờ “Tin tức dòng sông” có đăng tin về cái chết của Adam. Không bao lâu nữa cô Barrett sẽ rời Úc, gia đình chủ sẽ sang Anh và cô phụ trách lũ trẻ trong chuyến đi. Sau đó cô sẽ tự đi châu Âu du lịch.
Điều đó không có nghĩa gì mấy đối với Delie. Thần tượng ngày trước của cô đã mờ nhạt theo thời gian và khoảng cách. Và rồi đây Adam cũng sẽ dần dần phai mờ trong khối óc và con tim của cô? Cô không thể tin điều đó.
Cô Barrett đã gửi cho cô một quyển sách để cô đọc trong dịp lễ Giáng sinh, một quyển tiểu thuyết hiện đại - “Cô Tess của dòng họ Urberville” của Thomas Hardy. Lúc này, quyển tiểu thuyết gây một ấn tượng sâu đậm đối với cô. Những chữ cuối cùng dường như vang dội một cái gì thành hình dang dở trong đầu óc cô: “Vở tuồng đã chấm dứt, thần thánh đã chấm dứt trò đùa của họ đối với nàng Tess”.
Cô muốn cay nghiệt nói với dì cô, người đã mất nhiều thời gian để cầu nguyện và khóc lóc trước bất cứ điều gì gợi lại Adam: “Tại sao dì lại khóc? Anh ấy không ngủ trong vòng tay chúa Ki-tô sao?”. Trong niềm cay đắng lớn lao của mình, cô muốn phá hủy niềm tin đơn giản của những người khác.
Cô hết sức tránh gặp bà Hester, không nói chuyện với bà nếu được, và cẩn thận không ở một mình cùng phòng với bà. Cô đã thấy bà nhìn cô với cách khiến cô khó chịu; và cô phải đi để tránh cặp mắt đen sắc lẻm ấy.
Liền khi cô khá mạnh khỏe, cô trèo lên cây thông ngọn vàng, nằm dài trên những cành thông, với mùi hương của trái thông bao trùm lấy cô. Chỉ những lúc trên ngọn cây hoặc giam mình trong phòng, cô mới cảm thấy thoát khỏi những cái nhìn đen tối kia. Nhưng dù cô có mang sách, giấy hoặc bút chì khi leo lên cây, cô đọc không được bao nhiêu và không thể ký họa gì được. Cô nằm đó để ánh nắng xuyên qua những lỗ chân long của cô như một chiếc lá, một đóa hoa, thế cũng khá đủ. Đó là lúc trôi giạt như những mảnh vỏ cây trôi trên dòng sông không mục đích, không ý chí: được đưa đi trên dòng thời gian đen tối, dòng thời gian đã mang lại mọi vật sống từ lúc sinh ra cho tới lúc chết.
Chính vẻ đẹp của dòng sông vào lúc chiều tối, với một làn sương đêm nhè nhẹ dâng lên từ mặt sông bóng bóng như gương, trước tiên đã khuấy động Delie khỏi tình trạng hoạt động đã gián đoạn của cô.
Nỗi xao động quen thuộc trước kia, sự đòi hỏi nắm bắt được vẻ đẹp nhất thời trong một trạng thái vô tận này dâng lên mạnh mẽ trong cô. Cô ném nó xuống và lặng lẽ bước lên những bậc thềm của hiên nhà, tại đây ông Charles ngồi trong chiếc ghế dựa bằng vải bập tẩu thuốc lá. Khói từ những đống hun bằng phân bò trừ muỗi dật dờ cùng làn khói thuốc lá xanh xanh.
Cô dựa vào lan can của mái hiên, nhìn những ánh sao đầu tiên trên bầu trời giờ đây chói chang màu hổ phách và màu xanh lục lẫn xanh lơ, những cây bạch đàn nhựa in hình lên bầu trời cao. Ông Charles đứng lên và tựa bên cô, đặt cánh tay lên lan can. Ông nhìn lên những ánh sao sáng.
Ông đăm chiêu nói:
- Cháu biết đấy, chỉ khi lớn tuổi cháu mới biết rằng đời người dù dài nhất cũng ngắn ngủi. Đời người là ngắn ngủi, ngắn ngủi kinh khủng. Thế mà, một con người có thể để cả đời mình chỉ để nghiên cứu thói quen của một loài ong! Rồi lại còn sinh lý học, thực vật học, hóa học, thiên văn học, và tát cả lý thuyết mới về tiến hóa học, điện... Khi sử dụng được điện, người ta sẽ làm dượng hững điều thần kỳ. Một vài con tàu mới chạy bằng hơi nước có đèn điện, cháu biết đấy, người ta chỉ nhấn nút là có ánh sáng ngay.
Cô quay lại nhìn ông., người dượng lớn tuổi tốt bụng! Ông là người biết suy nghĩ dù ít khi ông phát biểu. Cô sắp trả lời ông thì có tiếng vật gì rơi trên hiên gỗ khiến cô quay lại.
Đó là bà Hester, hình bóng bà hiện lờ mờ trong ánh hoàng hôn, lúc nào trên tay cũng có đồ thiêu móc. Cái móc thiêu đã rơi; cô lễ phép bước tới để nhặt lên cho người dì, nhưng bà Hester nhanh chóng chụp lấy, với vẻ hết sức ghê gớm khiến cô run rẩy bước vào trong. Bà làm như thể cô sẽ làm ô nhiễm vật ấy khi sờ đến! Cô nghe tiếng của bà Hester cất lên giận dữ, rồi ông Charles cũng vào nhà và đóng sầm cửa phòng.

*

Hôm sau là ngày thư đến. Trong túi thư, không có gì cho cô cả; ăn trưa xong, cô ra hiên nhà, bà Hester đi theo.
Bà rít lên:
- Bà Mcphee gửi thư cho tôi, bà ta đề nghị là nếu tôi không cần đến cô, cô nên đi Echuca ở đó với ông bà ấy. Ông nhà tôi cho rằng cô cần đi nghỉ. Còn tôi, tôi nghĩ rằng cô ở nhà này cũng không ích lợi gì nhiều.
Cô quay lại, tựa lưng vào lan can hiên nhà và nắm chặt để khỏi ngã.
- Thưa dì, sao dì ghét cháu?
Gương mặt bà Hester như hóa đá:
- Ghét cô à?
- Cháu vẫn biết rằng không bao giờ dì thích cháu, nhưng giờ đây hầu như cháu không thể chịu được cách dì nhìn cháu. Sao vậy? Cháu đã làm gì?
- Tại sao à? Tối lại phải nói với cô à? Phải, tôi ghét cái bản mặt của cô. - Đôi môi ẽo ợt của bà run lên vì phẫn nộ, đôi mắt đen của bà chớp chớp. - Cô đã giết nó, cô đã giết con tôi. Tại sao cô không chết đuối như cả gia đình cô?
Mặt cô trắng bệch. Cô dựa hẳn vào lan can để khỏi ngã.
- Tôi không giết anh ấy. Tôi yêu anh ấy.
- Cô yêu nó! A bây giờ tôi mới nghe sự thật. Ban đêm, cô gặp nó bên bờ sông, phải không? Chính cô dụ nó ra khỏi nhà khi đáng lẽ nó đã ngủ. Đàn ông... tất cả đàn ông đều giống hệt nhau khi gặp một khuôn mặt hoặc một hình dáng xinh xinh. Và Adam là đàn ông. Nó đã ốm thập tử nhất sinh mà sao không chết, để bây giờ tôi phải mất nó? Cái đêm nó bị bệnh bạch hầu thanh quản, bác sĩ cho rằng nó sẽ không qua khỏi, đêm ấy, tôi cầu nguyện suốt đêm vái van cho nó sống. Thà như nó chết lúc đó còn hơn, chết trong lúc ngây thơ không biết gì. Phải, đúng rồi, Annie đã nói với tôi cô và nó đã gặp nhau và hôn hít nhau trong đêm tối.
Bà đến gần, hất mặt mình tới Delie, cô ngửa ra lan can trước cái miệng lu loa và đôi mắt điên cuồng của người dì.
Cô nói khẽ:
- Dì không hiểu...
- Ồ, không đâu, tôi hiểu khá nhiều chứ! Tôi biết rằng phụ nữ thì như nhau, và con gái chỉ muốn thấy quyền lực của họ. Cô nghĩ rằng tôi không thấy cô liếc mắt đưa tình với ông nhà tôi sao? Thật cha nào con nấy! Tất nhiên ông ta không phải là máu mủ ruột thịt, ông ta chỉ là dượng rể thôi.
- Dì! Sao đầu óc dì có thể...ác quá đỗi thế?
- Ồ, tôi biết nhiều hơn cô nghĩ đấy, tiểu thư ạ. Nhưng tại sao cô làm thế? Tất nhiên cô xô nó khỏi khúc gỗ. Ghen à? Tại cô gái giàu có ở Echuca mà tôi muốn nó cưới à? Nhưng đáng lẽ cô không nên giết nó. Con trai tôi! Con trai duy nhất của tôi!
Giọng nói của bà cong cớn, gương mặt của bà dúm dó và bà khóc bù lu bù loa. Annie xuất hiện một cách lặng lẽ; chị ta nhìn cô nửa đắc thắng, rồi dẫn bà Hester về phòng.
Cô đứng trắng bệch, sững sờ, hình dung lại cảnh không thể tưởng tượng được vừa xảy ra. Cô run lẩy bẩy. Cô không thể ở lại, không muốn ở lại đây ngày nào nữa. Bác sĩ đã bảo rằng cô đã được chữa khỏi “cơn sốt về con sông” theo kiểu nói ở địa phương này. Không gì cản trở cô ra đi. Nhưng cô không còn món tiền nào ngoài mòn tiến lãi ở tàu Philadelphia, mà hiện nay con tàu ở ngược dòng sông Darling sau khi bán len.
Cô muốn đi xa, muốn gọi bất cứ tàu hơi nào chạy ngang. Cô còn trẻ dại quá, nên cô tin rằng đời cô đã hết, cô sẽ không bao giờ thương yêu ai nữa, cô sẽ sống như một ẩn sĩ ở một bến bờ lặng lẽ nào đó bên cạnh dòng sông không bao giờ ngưng chảy này.
Cô ra bãi chăn ngựa, gặp ông dượng đang chuẩn bị leo lên con Firefly. Ông liếc nhìn cô rồi thúc con ngựa đi tới hàng rào và đi với Delie về phía bờ sông.
Cô cất tiếng:
- Thưa dượng, cháu không thể sống ở đây thêm được nữa!
Ông ta dường như không ngạc nhiên:
- Cháu muốn đi nơi nào khác vậy?
- Trước hết cháu sẽ đi Echuca. Bà Mcphee muốn cháu đến chơi. Có thể cháu sẽ đến bệnh viện xin làm y tá.
- Theo dượng, cháu đâu khỏe lắm, cháu không thể làm công việc đó, dù họ chịu thu nhận một người mới mười bảy tuổi. Nhưng sao mặt cháu trắng bệch vậy? Có chuyện gì đấy cháu? Phải dì cháu...?
- Vâng! Thưa dượng, dì ghét cay ghét đắng cháu. Và trong dì có cái gì rất... rất kỳ lạ, dì làm cháu sợ lắm.
Ông thở dài, đá một hòn đá nhỏ xuống sông.
- Phải, dượng biết. Bác sĩ...Theo dượng, ông ta không biết bà ấy kỳ quặc đến thế nào. Ông ta nói rằng nếu cú sốc qua đi bà ấy sẽ không như thế nữa. Bà ấy có hành hung cháu không?
- Chỉ bằng lời nói thôi. Dì tố cáo cháu giết Anh Adam và...
Cô không thể nhắc lại lời tố cáo hết sức ghê tởm kia. Cô cảm thấy không tự nhiên với ông Dượng.
Ông chu mồm lại như muốn huýt sáo vì ngạc nhiên.
- Tội cho bà ấy!...Bà ấy nói những chuyện không đâu vào đâu với dượng, nhưng dượng không muốn nghe và dượng nghĩ bà ấy cũng quên mất. Dù bà ấy hết sức căm ghét dượng.
Một phần kinh khủng của điều đó là, đó là chuyện thật.
- Bây giờ, cháu định nói gì với dượng? - Ông nhẹ nhàng nắm vai cô và quay cô về phía ông - Cháu dừng nói với dượng rằng bây giờ cháu bắt đầu tưởng tượng Adam yêu cháu, phải thế không? Và phải cháu cũng yêu nó không?
- Thưa phải. Và đêm ấy thật tình cháu có gặp anh ấy. Chúng cháu gây gổ nhau, đó là lỗi của chúa, và cháu cảm thấy đáng trách. Dì không ghét cháu bằng cháu ghét mình đâu.
Cô cảm thấy thư thái khi tố cáo mình như vậy, khi nói ra điều đã đè nặng tâm trí cô.
- Cháu tự trách mình à? Ngốc quá, tại sao trước kia cháu không kể cho dượng nghe tất cả chuyện đó? Adam chết vì gặp tại nạn bất ngờ, ngay cả nhân viên khám nghiệm cũng thấy khỏi cần phải điều tra. Nếu Adam đi tha thẩn trong đêm tối, đó là do bản chất man dại của nó chứ không phải là thứ gì khác. Điều bất ngờ là nó bị tai nạn. Nó có thể gặp những tai nạn khác. Nó cũng ó thể bị chết đuối nếu đi dọc theo bờ sông ban đêm, hoặc khi sợi dây thừng quất nó văng khỏi chiếc thuyền con, hoặc khi chiếc ca-nô chìm đè lên nó.
- Vâng, cháu biết. Cháu đã tự hỏi mình là tại sao, tại sao, tại sao lại như thế. Tại sao lại như thế chứ? Một vài tuần trước khe đầy nước, có ngã anh ấy cũng không hề hấn gì. Một hai tuần nữa thôi, cái vũng nước cuối cùng sẽ cạn khô. Anh ấy có thể bị đập đầu bất tỉnh, nhưng anh ấy sẽ không bị chết đuối. Hình như đó là định mệnh.
- Phải, định mệnh, định mệnh không lường được. - Ông cúi xuống nhặt một miếng vỏ cây mỏng, cong cong, trơn láng, ông đưa những ngón tay nhạy cảm vuốt vuốt bề mặt xanh xao bên trong- Tất cả chúng ta đều bị dẫn một cách mù quáng tới những hành động, những hành dộng này chắc chắn sẽ dẫn đến những hành động khác, và như thế sẽ dưa tới một chuỗi trường hợp mà chúng ta không hiểu được hoặc không sao kiểm soát dược. Nếu dượng không tìm thấy vàng ở Kiandra, Adam sẽ không chết ở dòng chết ở dòng Murray lúc mười chín tuổi. Tuy nhiên, có thể một cái chết sớm hơn vẫn tiềm tàng trong tính tình của nó rồi. Ai biết được?
Cô giẫm lên một mảnh vỏ cong cong, cảm thấy nó vỡ giòn dưới giày cô. Rõ ràng người dượng đã nghiền ngẫm về vấn đề này. Ông tiếp:
- Dượng không hiểu tất cả những tác động khiến đêm ấy tính tình Adam kỳ lạ. Dượng nhớ trong bữa ăn và sau đó nó ủ rũ lắm. Dương không ngạc nhiên khi cả hai gây gổ. Tất cả chúng ta đều bị vướng trong chính những hành động của chúng ta và chúng ta không thể đi ngược lại bản chất của mình.
Ông ném một miếng vỏ cây xoay tròn xuống dòng sông. Nó trôi xuôi theo nước.
- Chúng ta không thể điều khiển số mạng của chúng ta, cũng như miếng vỏ cây kia không thể quay lại trôi ngược dòng.
- Nhưng thưa dượng, chính dượng nói “Chúa ban cho...: và đọc bài thơ về không một con chim sẻ nào rơi...
- Phải. Lời lẽ đôi khi có thể an ủi ta, ngay cả khi những lời lẽ ấy không còn ý nghĩa gì nữa. Dượng đã được trưởng thành với những lời lẽ đó, và những lời lẽ đó vẫn còn tạo nên ảo ảnh đối với dượng. Nhưng đêm đê, khi dượng nhìn những ánh sao lặng lẽ và những khoảng trống đen ngòm khủng khiếp kia trong dải ngân hà, tất cả đều rơi vào hư vô.
Cô nhìn ông chằm chằm. Đây là một khía cạnh mới của ông Charles, người vẫn cầu kinh các buổi sáng chủ nhật như một mục sư.
Cuối cùng, cô nói:
- Dù sao, dượng cũng tháy cháu không thể ở lại đây nữa. Chính dì cháu đã đề nghị cháu phải đi thăm bà Mcphee. Dì không cần biết rằng chuyến đi nầy không phải chỉ để đi thăm.
- Dượng hy vọng rằng chỉ là một chuyến đi thăm. Không bao lâu nữa dì cháu có thể lấy lại quân bình. Dì cháu sẽ nhớ cháu.
Cô không nói gì, nhưng trong thâm tâm cô quyết không bao giờ trở lại nữa.
- Cháu đừng nói gì liều lĩnh cả. Cháu cứ đến ở với bà Mcphee một tháng, sau đó ta sẽ xem. Khi các ngân hàng phục hồi, họ có thể trả dần cho khách hàng. Trong khi chờ đợi, dượng sẽ ứng trước tiền cho cháu tiêu xài những gì cháu cần. Nhưng cháu đừng quên dượng vẫn còn là người giám hộ của cháu, và cháu không thể đi mất biệt mà không được dượng cho phép.
Một nụ cười dịu dàng khiến cho những lời lẽ sau cùng của ông không còn ý nghĩa đe dọa.
- Nào, dượng phải lại chỗ mấy con cừu. Ngày mai, dượng sẽ đánh xe đưa hai dì cháu ra thị trấn. Dì cháu muốn đến thăm mộ con.
Delie không muốn đến nghĩa trang. Không bao giờ cô muốn thấy nơi chôn Adam.
Đêm ấy, cô thu xếp hành trang; sáng hôm sau, cô dậy sớm, đi cùng khắp để từ biệt nơi cô đã sống trong năm năm. Buổi sáng, trời không có gió, không mây; lũ gà mái kêu cục cục một cách hài lòng, lũ chó nằm ngủ gật hoặc táp ruồi.
Sau bữa ăn sáng, chiếc xe đã thắng xong, cái làn bằng liễu gai của cô đã đặt sau chỗ ngồi, trong đó có ít thịt và gà vịt nấu sẵn để đem ra chợ bán.
Khi cô xuống xe để đóng cổng bên ngoài trước khi xe chạy vào con đường thấp xuyên qua khu rừng, cô nhìn lại ngôi nhà từ ống khói phía sau, khói lững thững cuộn lên như lần đầu tiên cô đã trông thấy... Cô lại lên xe, ngồi quay lưng lại bà Hester, sáng nay bà không nói với cô tiếng nào cả.
Xe chạy ngoằn ngoèo dọc theo con đường dưới những tàng cây to, cô nhìn lên các mảng trời xanh lơ giữa những thân cây trơn nhẳng và thầm hỏi không biết cô có trở lại lối này nữa không.
Xe dừng lại dốc cầu để quan thuế khám xét, cô lại xuống xe và đi bộ ngắm nhìn dòng sông nhỏ lại trong mùa hè, sáng và bóng như gương: lướt đi giữa nhưng cây cột đá. Cô ngắm nhìn dòng nước chuyển động không ngừng, chảy xuôi tới khi nó đổ ra biển. Ấy thế mà con sông không chấm dứt nơi đó. Khi mảng nước ấy đến nơi, nó vẫn hãy là con sông; nó không bao giờ bị hủy hoại mà nó chỉ thay đổi trong khi nó chuyển động trong cái chu kỳ chảy nhỏ giọt và đổ xuống. Nó không chấm dứt và sẽ tự đổi mới lại, cũng như chính cuộc sống.
Cô nhìn lại khúc quanh ngược dòng sông. Nó khuất hẳn trong những thân cây nghiên nghiên tối mịt. Xuôi dòng sông, ta có thể trông thấy một cầu tàu cao, các con thuyền rỗi rãi đậu nằm ở phía dưới và dòng sông lại quanh quanh, khuất dạng.
Giờ đây, hướng của cô là phải xuôi dòng để đi vào cuộc sống. Cô phải theo đường đi của con sông, đến một miền đất xa lạ về phía biển xa xôi. Dừng lại trên chiếc cầu giữa quá khứ đã chết và tương lai khắc nghiệt, cô biết rằng có thể sẽ không có sự đứng yên. Cuộc đời vẫy gọi cô từ bên trên khúc quanh xa nhất ấy.


TẤT CẢ CÁC DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY


Chương 29

Thời gian, hãy trôi êm đềm.


“Con sông đang chảy xuôi dòng!”
Tin này được chuyền một cách vui thích từ người này sang người khác, tờ “Tin tức dòng sông” đã dùng chữ đó, và chính dòng sông như cũng công bố điều đó, khi xoáy trào qua khỏi cầu tàu với tốc độ và khối nước cứ tăng mãi. Làn nước trong mùa hè giờ đây bắt đầu pha màu nâu của phù sa các dòng nước mùa đông.
Năm nay con sông sẽ “lành” trước khi tuyết bắt đầu tan vào tháng chín. Một con sông “lành” đối với một thị trấn sống nhờ lưu thông tàu bè, là một con sông đầy nước; cả khi nó tỏ ra “lành” quá mức và tràn ra các đường phố cũng không ai than vãn. Người ta chỉ sợ hạn hán.
Ngồi trong căn phòng nhỏ đầy rẫy các thứ khung bìa để dán tại hiểu ảnh của ông Hamilton, ở phố chính, Delie Gordon không thể thấy quang cảnh con sông mới được đánh thức đang lấp lánh trong nắng, những bóng râm di động dưới những cây bạch đàn nhựa đỏ to lớn hai bên bờ sông.
Ở Echuca không có mưa. Những ngày thu nắng đẹp đã đi qua một cách bình yên, những mảng màu vàng và màu bạc trên mây tích bay từ tây sang đông; nhưng khi cô rỗi việc hồi sáu giờ thì mặt trời đang lặn.
Cô nhìn ra sân sau của khách sạn Shamrock bên ngoài hàng rào màu xám. Cô thở dài tiếp tục tô màu một bức tranh vẽ cầu tàu Echuca với những con tàu có bánh xe quạt nước đậu dài đang dỡ những kiện len to. Đây là ngày đầu tiên của cô ở xưởng vẽ và cô muốn làm việc. Tiếng còi dài, vui tai, nô nức của chiếc tàu khiến chân cô nhịp mãi không thôi.
Ông Hamilton nhỏ người, gầy và có vẻ lo âu với cặp kính không gọng, tất tả bước vào với một xấp bưu thiếp cô đã tô sáng hôm ấy. Ông để hết lên bàn của cô, gỡ kính ra và gõ gõ lên các bưu thiếp.
Bức vẽ thật khéo, thật xứng đáng, cô Gordon ạ.
Miệng ông ta mỏng, thẳng, không cười; cô chưa từng thấy cái miệng ấy bớt căng thẳng.
Được, được; nhưng...hừ, đáng tiếc là không phải cái người ta muốn. Họ thích nhiều nhiều màu xanh vào!
Ông muốn nói màu trời chớ gì? Tôi không muốn làm nó trông không thực.
Phải, phải, nhưng cái họ cần không phải là thực tế, mà chỉ là một bức tranh đẹp để gởi cho bạn bè. Con sông trong hình này hình như tối một chút, phải không?
Nhưng sông Murray không xanh lơ chút nào cả, thưa ông!
Đúng! Đúng! Thường thì nó xanh lục hoặc nâu. Nhưng người ta thường có những ý nghĩ cố định. Biển thì xanh lơ; biển là nước; cho nên tất cả nước đều phải xanh. Đầu óc họ nghĩ như thế. Tin tôi đi. Tôi biết bức tranh nào rồi sẽ bán dược. Còn bây giờ thì cố gắng xem mình có thể làm gì được với những thứ này.
Môi dưới đầy đặn của cô bĩu ra trong lúc cô kéo chai thuốc vẽ màu xanh lại. Khi bạn cũ của cô là Angus Mcphee tìm việc này cho cô, cô rất thích thú, nhưng cô biết cô sẽ không thích công việc này. Tất cả các bản năng nghệ thuật của ô nổi lên chống lại những đòi hỏi của thị hiếu quần chúng.
Dù sao, rốt cuộc cô sẽ tự lập. Thà cô đi chùi sàn nhà còn hơn là trở lại để được sống phụ thuộc vào dì Hester, để trở thành “đứa trẻ mồ côi”, “thứ vô tích sự”. Delie nói lớn: “Tôi không bao giờ trở lại nông trại, không bao giờ”.
Không hay gì cái chuyện bà Mcphee muốn cô ở với già đình bà vô hạn định như con nuôi trong nhà; cô đã khẩn khoản xin được trả tiền trọ, bởi vì thật sự cô không giúp gì nhiều ở nhà bà và dù sao cô cũng muốn dược rãnh rỗi dành tát cả thời giờ vào việc học ở trường Mỹ Thuật Echuca. Giờ đây, gia đình Mcphee đã dọn đi Bendigo, và cô thực sự cô đơn trên đời. Cô đơn trên đời. Nghe thật đáng thương cảm, nhưng cũng có phần nào náo nức.
Tất cả tiền bạc của cô đã hết nhẵn dù ngân hàng có bù đắp một phần nhỏ sau thời kỳ sụp đổ năm 1893. tới nay, cô đã sống với tiền vốn của cô được hai năm. Và dù thực sự dì Hester chỉ cách khoảng mười lăm dặm ở mạn trên, cô không bao giờ gặp bà. Cô đã đến gặp bà ngoài xe ngựa và trao đổi với bà mấy lời khi mới đây dượng Charles đến thị trấn. Cả hai đều tỏ ra lịch sự và không tự nhiên. Cô tự nhủ: “Mình sẽ không trở lại dù bà có quỳ xuống đề nghị mình”.
Không! Echuca là quê hương cô. Đây là nơi Delie được dự dạ hội lần đầu tiên, đi picnic, dự các cuộc tiếp tân với Adam.
Dù cô còn chơi quần vợt với Bessie Griggs, còn cùng cô ta thả bộ tới nhà thờ với một nhóm thanh niên nữa và cùng nhau đi thuyền dạo chơi, nhưng cô đã lảng xa Bessie từ khi Adam qua đời.
Chủ nhật nào cô cũng đến nhà thờ, theo một thói quen mang tính xã hội hơn là để tìm nguồn an ủi tinh thần.
Người phụ trách nhà thờ hiện nay là mục sư William Polson, cũng vẫn là cha sở của xứ đạo, khi cô gặp ông làn đầu, ông ta nhìn đăm đăm vào mặt cô như thế nào ấy qua cây dương cầm. Và bây giờ mỗi buổi sáng chủ nhật ông vẫn nhìn cô như thế trong lúc bắt tay các tín đồ ở cửa lớn. Như một con gà mái bị thôi miên, cô nghĩ một cách bất kính. Và chắc chắn ông ta cầm bàn tay cô hơi lâu hơn cần thiết, trong khi thăm hỏi về bà dì?
Mắt ông ta có vẻ kỳ lạ và nhợt nhạt, nằm dưới đôi lông mày thưa làm cho cái nhìn có vẻ cuồng tín. Ồ , ông Polson phiền toái này! Cô nhớ lại làn cuối cùng ông ta đến thăm nhà bà Mcphee.
Ông đong đưa chén trà một cách nhẹ nhàng, ngoéo ngón tay út một cách kiểu cọ ghê gớm, vừa nói những chuyện vặt theo thời thượng và một ít chuyện chánh trị.
Cô đã nhìn ông, gương mặt xanh xao, xương xẩu, đôi mắt sâu, trái hầu lộ to. Ông nói với một giọng kiểu cách.
Cô nghe tiếng ông nói một cách trìu mến:
phải! Tôi sẽ ăn thêm một cái bánh nhỏ ngon lành đó. Có phải do bàn tay cô làm không, cô Gordon?
Ồ! không, bánh của tôi luôn thất bại, không chai thì cũng cháy. Bà Mcphee sẽ không để tôi và nhà bếp. Tôi đã làm vỡ bao nhiêu thứ trong hai tuần đầu..
Bà nói:
Này, cô bé Delie, cô không tệ đến thế đâu. Chúng ta không thể là những nội trợ mẫu mực, phải không, thưa ông Polson? Và mặc dầu Delie không biết làm bánh, cháu họa đẹp như thiên thần. - và bà đưa mắt nhìn một cách tự hào hai bức phác họa màu nước trên mặt lò sưởi.
Cô nhìn xuống đất trong khi ông Polson khen ngợi một cách quá đáng cả hai bức.
Cô biết đó là những bức phác họa dễ nhìn, không quá kém. Nhưng cô còn rất muốn vẽ trên vải những bức họa lớn rực rỡ có thể ghi tất cả những gì xa xôi,, những màu sắc hài hòa một cách tinh tế của vùng đất kỳ lạ này nơi cây cối có màu hổ phách, màu xanh ô liu, màu hoa cà, màu xanh lơ nhưng rất hiếm khi xanh lục, bầu trời trong đến mức không thể nghĩ là có thể ghi lại bằng sơn dầu nặng nề.
Không có giới hạn cho cao vọng của Delie; nhưng trong thâm tâm cô ngao ngán những lời ca tụng kiểu cách không đúng dành cho công việc hiện tại của mình.
Khi ông Polson đã ra về, bà nhẹ nhàng nhắc nhở cô:
Cô bé, cô không nên nói rõ những thiếu sót về tài nội trợ của mình, theo cách ông ta nhìn cô. Tôi tin chắc rằng ông ta sắp tỏ tình! Nhưng cô phải nhớ rằng khuôn mặt chính là tai sản của cô và cô hãy hành động một cách thích hợp.
Trời, thưa bà! Bà và dì Hester nói như thể phụ nữ không có con đường nào khác ngoài việc lấy chồng đẻ con. Cháu muốn trở thành nghệ sĩ. Còn nhiều năm nữa cháu mới lấy chồng. Còn ông ta, cháu không thể chịu nổi những cái nhìn héo hon và đôi mày nhợt nhạt của ông ta. Một ngày nào đó, cháu sẽ nói điều gì đó thật sự xúc phạm ông ta để ông ta khỏi bám theo cháu nữa.
Cô nói tiếp theo dòng suy nghĩ của cô.
Dù sao, bà quên rằng cháu có phần hùn trong một chiếc tàu có thẻ tạo ra cho cháu một sự nghiệp ở mạn trên sông Darling.
Phần hùn! Bao nhiêu nhỉ? Hai mươi lăm phần trăm vốn! Chắc c hắn rằng cháu sẽ mang ơn thuyền trưởng Tom, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng có thể có cách đầu tư số tiền năm mươi bảng ấy khá hơn. Cháu nên bảo ông ta trả lại càng sớm càng tốt. Đáng lẽ ông ta phải biết là không nên lấy tiền của một đứa bé bằng tuổi cháu lúc ấy.
Thưa bà, cháu biết cháu phải làm gì. Dượng Charles cũng đã đồng ý.
Phải, nhưng theo tôi người giám hộ của cháu hơi...hơi không thực tiển, cháu ạ.
Dù sao, sau khi bác Tom thanh toán hết tiền lãi, bác sẽ trả lại cháu khoản tiền đó liền. Khi đó cháu có thể tiếp tục theo học trường Mỹ thuật thêm một năm nữa, thay vì phải tìm việc làm. Hoặc cháu sẽ làm được cả hai việc.

*

Và giờ đây, trong xưởng vẽ, Delie nghĩ đến vấn đề: làm sao cô làm được cả hai việc? Đã có lúc cô muốn hỏi ngay ông Hamiton cho cô nghĩ để học hội họa, nhưng bấy lâu nay gương mặt không có nét cười và cử chỉ nghiêm nghị của ông khiến cô lo ngại.
Ông vội vã quay lại. Ông nói:
Ông Mcphee đã nói rằng tôi sẽ nhận một thiếu nữ trẻ rất nghệ sĩ, một viên ngọc thật sự. Hừ, đúng vậy. Tiếc là ông ta đã đi khỏi thị trấn này. Quả là tổn thất cho dân chúng ở đây.
Và cho cá nhân tôi, tôi sẽ nhớ cả hai. Đó là những người bạn đầu tiên của tôi ở Echuca. Hai người muốn tôi cũng đi đến Bendigo, nhưng phần tôi, tôi không muốn rời con sông này.
Tôi biết cả hai người rất quý cô.
Thưa ông, tôi mong rằng tôi không làm cho mọi người thất vọng. Tôi định hỏi ông...
phải, tôi chắc thế. Cô hãy nhớ kỹ, dùng nhiều màu xanh vào... những mảng này thật tuyệt...
Chuông ở phía xưởng ngoài vang lên chắc nịch, và ông vội vã đi ra. Cô lại cầm cọ với một tiếng thở dài.


TẤT CẢ CÁC DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY


Chương 30 - 31


30
Bà McPhee đã tặng cho cô làm quà lưu niệm chia tay một cái áo mới để mặc buổi chiều, màu xanh lợt với những sọc hoa lá dẹp màu hồng.
Khi mặc áo vào lần đầu, cô cảm thấy mình cao hơn và duyên dáng hơn, ra dáng một phụ nữ kiều diễm.
Mỗi buổi sáng, trước khi cô khởi sự tô màu, công việc của cô là xem qua quyển sổ hẹn khách và phủi bụi đồ đạc.
Cô cũng đã học được nghệ thuật nhuận sắc tranh hoặc làm cho người mẫu có vẻ tự nhiên theo ý họ, xóa những chỗ bẩn, tô đậm những chân mày lợt, thêm sáng cho tóc và răng.
Ông Hamilton rất vừa lòng, và lấy làm lạ sao mình lại có thể điều khiển chàng thanh niên khá tối dạ phụ tá ông trước đây. Nhưng ông không để cô làm việc quá sức. Ông rất lo lắng về vẻ mảnh khảnh của cô, những ngày cô có vẻ mệt nhọc và xanh xao, ông thường cho cô về nhà nghỉ sớm.
Nhưng vẻ xanh xao của cô là tự nhiên, vẻ mệt nhọc chỉ là do buồn chán; và vừa rảnh, cô liền chạy vội đi lấy dụng cụ vẽ và ra ngoài vẽ cho đến khi trời sụp tối.
Một buổi sáng, xem sổ ghi hẹn thấy không có việc, cô vội vã thu dọn rồi luồn mình vào những nếp mềm mại dễ chịu của bộ đồ mới. Tức khắc, cô thấy mình là một người khác. Cô lấy bàn chải và lược chải sơ mái tóc. Rồi đầu ngẩng lên, tà áo dài lê dịu dàng phía sau, cô thướt tha vào xưởng vẽ.
Đang đẩy cái ghế xô-pha đến một chỗ sáng hơn, ông dừng lại nhìn cô sững sờ. Và bức ảnh của cô đã được ghi vào phim. Trước khi thay áo, cô mang ra hai bức tranh đã được gói lại và để ở đáy hộp giấy, một bức vẽ trên vải đã căng khung, một bức màu nước dán lên bìa.
- Tốt! Tốt lắm. Tôi phải chụp ở góc độ này. Hừ,hai bức tranh đều do cô vẽ à? Đúng là rất đẹp.
Ông chọn một bức tranh phác họa một chiếc thuyền nhỏ dưới những cây bạch đàn đỏ, lung linh trên mặt nước xanh lục.
Đây là thời cơ cho cô. Cô áp các bức tranh vào người và thiết tha yêu cầu ông cho đến trường Mỹ thuật theo học lớp vẽ phong cảnh mỗi tuần hai buổi chiều. Vẽ tĩnh vật, cô vẫn học ban đêm. Nhưng tranh màu đối với cô là quan trọng hơn cả.

*

Lớp họa phong cảnh tổ chức vẽ ngoài trời hai lần mỗi tuần.
Khi ông hiệu trưởng Daniel Wise vố là một họa sĩ chuyên về phong cảnh đi qua ở phía sau giá vẽ của Delie, tai cô nóng bừng. Chỉ một tiếng khen cũng đủ khiến cô rạng rỡ và thích thú. Chẳng khi nào ông nói nhiều trước khi bức tranh được hoàn thành, trừ khi phải chỉ ra một lỗi trong bố cục bức tranh hay trong giai đoạn phác họa. Đôi khi ông lấy cọ và với một vài nét tài ba giặm thêm màu, ông đã biến một bản vẽ vô cùng nhợt nhạt thành một bức tranh.
Ông dừng lại thường hơn sau lưng Delie, đôi khi lầu bầu, và cũng thường đi bên cô khi sinh viên đi vẽ ngoài trời trở về. Lần lần, khi cô bớt sợ, thầy trò trở thành bạn, và ba cô học viên cùng lớp tỏ vẻ không thích mối quan hệ này.
Cô chẳng chú ý. Cô rất chán đề tài của họ, quần áo và đám con trai, cô thích nói chuyện với phái nam hơn. Các bạn nữ gán cho cô là “phóng đãng”, nhưng Delie rất sung sướng và chăm chú vào công việc.
Những lúc cô đơn và chán nản là vào ban đêm, khi cô ngồi trong phòng ngủ lạnh lẽo của mình, vẽ phác họa hay đọc sách hơn là đi gặp những kẻ hẹp hòi tỏng phòng khách cuối nhà trọ.
Tại sao cô không làm việc này sớm hơn, đến Echuca sống khi Adam còn ở đấy? Tại sao cô đánh rơi anh? Tại sao anh phải chết? Những câu hỏi và những hối tiếc ấy, vốn có từ lâu và cô cũng chưa có thể trả lời được, vẫn lảng vảng trong đầu cô.

*

Bộ sưu tập sách nhỏ của cô, một bản in tranh hè vàng của Streeton lấy ở một tấm lịch, một vài hoa phong lữ thảo ở bệ cửa sổ, không thể che đậy sự trống trải xấu xí của căn phòng. Ngoài cái giường, có một cái bồn rửa ọp ẹp và một cái tủ com-mốt đánh vẹc-ni vàng với một tấm gương quay nhưng không thể kềm lại nếu không có một miếng giấy cứng chèn vào bên góc. Phía trên gương là một khăn choàng bằng xoa lụa mà cô phải nhịn ăn trưa một tuần để mua. Mấy bức bố màu sáng, mấy tấm tranh, trong đó có cái còn dở dang, treo trên các bức tường.
Đối với cô, giờ đây màu sắc là nổi đam mê còn lớn hơn hình thể. Mùi sơn dầu còn quyến rũ cô hơn mùi dầu thơm ngọt ngào nhất.
31.
Vào lúc ăn trưa, mỗi ngày Delie thường đi xuống bến tàu để xem có tàu nào mới về. Cô chào các thuyền trưởng cũ, bạn bè cũ và hỏi thăm tin tức chiếc Philadelphia.
Vào tháng sáu, một ngày quang đãng, khi ánh nắng quái cho một ảo tưởng ấm áp giữa mùa đông, cô thấy một chiếc tàu nhỏ với banh xe quạt bên hông, sơn màu trắng. Cô không thấy được tên tàu, nhưng chắc chắn là…. Đúng! Đó là chiếc Philadelphia, mang tên của cô, trở về sau một chuyến đi cả nghìn dặm vào vùng New South Wales.
Cô nhanh nhẹn lách người qua lan can sắt rào khu làm việc, rồi chạy tới chiếc Philadelphia.
- Bác To…om! Chào bác, - Cô gọi, nhưng không có tiếng trả lời.
Chiếc tàu hình như vắng người.
Cô kéo cao chiếc áo vải xoa lên bắp chân, leo cầu thang hẹp với những bước ngắn đi qua chỗ bánh xe quạt nước, định gõ vào cửa cabin chính; có lẽ thuyền trưởng đang ngủ gật trong đó. Cô sắp đi hết cầu thang bỗng nghe một tiếng huýt sáo nhỏ nhưng có ý thán phục. Co dừng bước, bỏ váy xuống. Một thanh niên to người, tóc quăn vàng đỏ tựa người vào chỗ nồi đun nước, tay khoanh lại. Anh ta không cười nhưng đôi mắt như sáng lên.
Cô hơi đỏ mặt:
- Tôi tìm thuyền trưởng Tom. Bác có ở trên tàu không ạ?
- Không, bây giờ thì không! Tôi thế ông ta không được sao?
Anh có vẻ ngạo mạn; tuy giọng nói cũng dễ nghe.
- Không được. - Cô ngẩng lên, đi trở xuống.
Tới gần nấc cầu thang cuối, cô vấp chân, suýt ngã. Người lạ nhảy tới nắm cánh tay cô thật mạnh. Anh ta nói:
- Cẩn thận!
Cô rút cánh tay ra một cách khó khăn và tránh sang bên. Cô hỏi một cách xa lạ:
- Anh là người mới à?
- Phải, tôi là thuyền phó. Có gì phản đối không?
- Ồ! Vậy anh là nhân viên của tôi. Tôi hùn vốn mua chiếc tàu này.
- Thì ra cô là Philadelphia thứ thiệt? Một chiếc tàu đẹp.
Câu nói này có hai nghĩa. Cô im lặng.
- Nhưng tôi cũng không hẳn là người làm thuê. Này, tôi cũng có hùn vốn đấy.
- Thế là thuyền trưởng Tom đã bán phần hùn của ông ta rồi à?
- Đúng! Nói chính xác là một nửa vốn.
- Ồ. - Cô lại cảm thấy đỏ mặt.
Thế ra con người ghê gớm này đã biết hai mươi lăm phần trăm vốn thảm hại của cô. Anh ta đang cười cô. Delie vội vã tính rút lui.
- Nhờ anh chuyển giùm lời tôi nhắn thuyền trưởng Tom. Có thể bác tìm tôi ở địa chỉ cũ. Hiệu ảnh Hamilton, phố High, xin cám ơn ông.
Chàng thanh niên giở mũ ra khỏi mái tóc sáng rực của anh ta:
- Hiệu ảnh Halmiton, phố High, tôi không quên đâu.
Nhưng cô đang đi nhanh trên cầu thang, xuống suốt các bực tối tăm, với một cảm giác khó chịu.
Cái tay quá tự cao tự đại đó nghĩ rằng cô muốn cho hắn biết địa chỉ của cô không? Cái vẻ hắn nhìn cô trâng tráo mới dễ ghét làm sao! Cô hy vọng sẽ không gặp lại hắn ta nữa.

*

- Cần vốn… Cô coi… Chiếc tàu cần sửa chữa lớn… Đó là lý do vì sao tôi cần một người hùn vốn.
Con người to lớn, vụng về của bác Tom như choán hết cái phòng nhỏ phía sau xưởng vì ông ngồi đong đưa trên một cái thùng ngay cửa vào. Cô cứ lấy làm lạ sao ông Tom và thuyền phó có thể lọt vào phòng lái.
- Anh bạn trẻ này hưởng gia tài của người ông và muốn hùn tiền sắm tàu. Do đó tôi để cho tanh ta hùn phân nửa. Cô Delie ạ, chúng tôi có thể trả lại cô năm mươi bảng của cô, nếu cô muốn.
- Ồ không, thưa bác! Cháu thích được có dù là một phần nhỏ của chiếc tàu. Cháu muốn một ngày nào đó, cháu sẽ có một chiếc tàu riêng của cháu, và đi lại các con sông Murra, Murrumbidgee và Darling. Lần này, bác có đến bourke không? Còn Walgett? Ồ, giá mà chau được đi Walett chuyến tới!
Tom gãi bộ râu muối tiêu. Cái trán vàng sạm màu sương gió của ông như nhăn lại trong cố gắng phát biểu ý mình.
- Này cô, cô biết cô là phụ nữ trẻ. Nếu cậu thuyền phó có vợ, chúng tôi cũng có thể nhận vợ của cậu ta theo như là, như là… không biết cô gọi đó là gì nhỉ?
- Bảo mẫu. Vâng, vậy chúng ta cần phải nhớ đến phép tắc! Không phải cháu e ngại chuyện đó, nhưng dượng Charles vẫn còn là giám hộ của cháu. Tôi tại sao cháu phải sinh ra làm con gái chứ? Thật bất công.
Cô tự hỏi thầm:
“Nhưng sao lúc này mình lại nói đến chuyện này, Chuyện không muốn nhận lại năm mươi bảng. Với số tiền này mình có thể đi Melbourne vào học trường Mỹ thuật một năm…”. Nhưng cô rất hãnh diện về chiếc tàu, giá mà không có tay thuyền phó chết bầm kia.
Cô hỏi đột ngột.
- Tên anh ta là gì, bác?
- Tên ai?
- Anh thuyền phó ấy, người hùn vốn với bác? Hôm nay cháu đã gặp anh ta trên tàu.
- Tên Brenton Edwards, nhưng miền sông nước này người ta gọi anh ta là Teddy Edwards.
*
Chiều thứ bảy, Delie bỏ một cuộc picnic ở cầu Stewart để vẽ một bức tranh về chiếc Philadelphia. Bác Tom đã hứa đưa chiếc tàu xuống phía dưới cầu tàu và buộc tàu một nơi nhiều cây ngay sau khi hàng chở từ mạn trên về được cất lên.
Cô mang theo dụng cụ vẽ, một chiếc áo cũ thường để choàng khi vẽ, và đi xuống bờ sông. Con tàu đậu phía dưới một bờ dốc đứng nhưng có một con đường mòn đi xuống một nơi bằng phẳng để đặt giá vẽ.
Cô làm việc đó một cách thích thú và vội vã. Ánh sáng đang vừa phải, nhưng sẽ chóng tối. Một phần chiếc tàu ở dưới bóng một cây bạch đàn nhựa to.
Cô vẽ một cách hăng hái và chắc tay hơn bao giờ hết. Khi cô bước lui ra sau ngắm nhìn tác phẩm của mình, cô đụng mạnh vào một người có thân hình vạm vỡ. Đôi má trắng trẻo của cô hồng lên khi cô nhận ra Brenton Edwards đang dang day ra giữ cô và anh ta nhìn cô- Phải, với một kiểu lạ lùng nhất.
Rồi anh ta cúi xuống hôn cô. Có lẽ cô đã để rơi cây cọ tốt nhất, lớn nhất của cô xuống đất cát bẩn, có thể như vậy; có thể cô đã mất bảng pha màu đã được pha cẩn thận. Nhưng người cô cứng đờ, tay đơ ra. Rồi cô tựa vào anh ta, không biết gì nữa, bối rối buông thả mình vào một cảm giác mới mẻ.
Cô nghĩ:
“Mình bị nuốt chửng rồi. Mình sẽ chết. Mình sẽ chết…”
Nhưng anh ta hôn cô một cách dịu dàng, dịu dàng hơn nữa, một chuỗi hôn em dịu như đang từ giã đôi môi giận dữ của cô. Cuối cùng khi a ta buông cô, cô như choáng váng, lảo đảo, tựa hồ như cô choàng dậy quá nhanh sau một giấc ngủ dài.
Anh ta đưa tay
ra để giữ cho cô đứng vững, nhưng khi đầu anh ta lại cúi xuống mặt cô, cô như sực tỉnh, và có phản ứng. Cô hết sức giận dữ vì con người xa lạ này đã làm cô quên hết thời gian, không gian, quên cả chính mình tới khi con người của cô như tan ra trong con người của anh ta.
Cô nắm chặt bảng màu và giáng mạnh xuống những lọn tóc vàng đỏ của anh ta:
- Quân súc vật!
Anh ta phá lên cười vì ngạc nhiên, giọng rú lên vang rền. Giọng cười ấy, cộng với sự tiếc rẻ vì đã mất bao nhiêu sơn tốt đổ lên mái tóc của anh ta khiến cô càng giận điên.
Cô lắp bắp:
- Ồ! Anh…anh…anh…
Những giọt nước mắt giận dữ long lanh trong mắt cô. Cô lấy mu bàn tay gạt đi.
- Thôi nào, chớ bảo với tôi là em chưa từng được hôn, chùi những ngón tay trên đám cỏ.
- Phải, tôi đã từng được hôn, nhưng không phải như thế. Anh biết rất rõ…
- Tôi tưởng… Tôi không có ý…
- Anh tưởng tôi sẽ không chấp chứ gì? Nếu một phụ nữ chọn nghề họa, trở thành diễn viên, hoặc làm bất cứ việc gì khác thường, thì anh nhìn cô ta như một thứ trò chơi à?
- Không hẳn vậy.
Cái cười chế giễu đã biến đi trong đôi mắt anh ta, anh ta nghiêm chỉnh nhìn cô.
Lần đầu tiên cô nhận thấy đôi mắt anh ta sáng, màu xanh lơ lẫn xanh lục, màu của biển cả ở duyên hải phía nam.
- Tôi không có ý giở trò khiếm nhã với cô. Tôi không nghĩ gì hết. Chỉ vì cô đâm bổ vào tôi, và trông cô dịu hiền biết bao với chiếc áo cũ buồn cười này, và tóc cô xõa xuống, và một vết sơn trên má…
Cô nhìn xuống chiếc áo cũ như để che giấu gương mặt đang dịu lại của cô; cô nhìn lên và bỗng nhiên mỉm cười:
- Anh có biết tóc anh có đủ màu của cầu vồng không?
Anh ta cười:
- Cũng bõ.
Cô cau mày và quay lưng lại. Cô bắt đầu gom dụng cụ, bỏ các ống màu vào hộp, xếp giá vẽ và luồn tấm vải còn ướt vào ngăn đặc biệt.
- Tôi được xem bức tranh không?
- Không, nó chưa hoàn thành, tôi sẽ cố gắng mang nó về nhà để hoàn tất, còn bây giờ bảng màu dã hỏng cả. Tôi sẽ mất công pha màu lại. Ôi, tại sao anh lại đến tận nơi này quấy rầy là làm dở dang công việc của tôi đang lúc tôi sắp hoàn tất.
- Nào, nói cho cùng, chiếc Philadelphia là nhà của tôi. Tôi đang lặng lẽ lên boong tàu thì chính cô chạy tới đụng tôi.
- Ồ…!
Cô thọc mạnh một cây cọ vào lọ dầu thông rồi chùi thật mạnh vào một miếng giẻ.
- Cô cho tôi xin ít dầu đó được không? Tôi nghĩ trên tàu không còn tí dầu nào.
Cô nhìn mớ tóc dính màu của anh ta, ngần ngại, rồi cũng chế một ít dầu thông lên một miếng giẻ.
- Đây.
- Cảm ơn cô.
Anh ta cầm giẻ xoa vào mái tóc, còn Delie tiếp tục chùi những cây cọ còn lại. các lọn tóc của anh ta sẫm lại, cuốn thành những búp nhỏ, lấp lánh trong nắng.
Delie chợt có một khao khát điên rồ là được vuốt tóc anh ta, mân mê các ngón tay vào đó.
- Được chưa cô?
- Chưa, còn một vệt xanh thẫm lớn ở tai trái anh.
Anh ta chùi nhưng không ra. Cô nghĩ: Thật phiền phức cho cô nếu có ai nhìn thấy sơn trên tóc anh ta. Anh ta hoàn toàn có thể cắt nghĩa vì sao anh ta bị như thế.
- Thôi để tôi. - Cô đổ thêm một ít dầu thông lên một miếng giẻ sạch. - Anh ta cúi đầu xuống.
Chỗ màu bám được chùi sạch, cô nắm một lọn tóc vặn mạnh.
- Ui cha!
- Đâu có đau.
- Đúng vậy. Không đau lắm.
Anh ta mím miệng chịu. Cô mỉm cười, đôi mắt sáng nhưng khá nhỏ của anh ta lim dim, một cái nhìn có ý nghĩa. Cô không thích cái nhìn ấy.
Tựa hồ cô là bức tranh và anh ta đang đánh giá cách pha màu. Cô lại nghĩ đến tư cách của mình. Cô vội vã thu gom đồ đạc cho xong. Cô ra lệnh:
- Anh quay lưng lại.
Anh ta ngoan ngoãn quay người lại, nhìn ra bờ sông. Cô tháo chiếc áo vẽ ra làm tóc cô rối thêm, rồi nhét nó vào túi xách.
- Bây giờ, xin từ giã ông Edwards.
- Nhưng tôi phải mang giá vẽ cho cô chứ, cô Gordon.
- Không! Tôi tuyệt đối cấm!
Và cô bước đi.
Anh ta sẽ nhún vai, nhìn theo cô. Rồi anh ta quay lại, băng qua ván cầu lên boong tàu Philadelphia.


TẤT CẢ CÁC DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY


Chương 32


32
Delie như dán mắt vào vòng xoay chậm chạp của cái cối xay gió, những lá bạch đàn lấp lánh, run run bên trên cửa sổ. Người dượng vừa ra về và cô đang cố đón nhận tin tức mới. Dì Hester đang hấp hối. Còn cô thì không thể nhỏ được một giọt nước mắt.
Hình như đã xảy ra một quá trình xơ cứng trong cảm xúc của cô kể từ khi Adam chết. Cô không cảm xúc được điều gì nữa.

*

Chiếc tàu nhỏ Julia đang cố tiến lên ngược dòng, bám gần bờ để tránh dòng chảy. Tốc độ đều đều, đám khói cũng đều đều tỏa qua ống khói và nhất là tiếng xình xịch của cánh quạt như ru Delie vào một trạng thái yên ổn. Cô đang quay về nhà dì Hester.
Cát trên bờ sông với những rễ xòe như bàn tay của những cây bạch đàn to ngập nước, có màu vàng ấm áp; và đây là lan can mái hiên đã mòn và xám như gắn chặt biết bao vào kỷ niệm hết sức êm dịu và đau buồn cho cô lánh xa.
- Delie! Cháu về tới rồi! - Từ cửa ngôi nhà, ông Charles gọi lớn- Vào đây cháu, dì cháu cứ mãi lo rủi cháu nhỡ tàu.
Cô theo lối đi quen thuộc với một cảm giác đau đớn trong gan ruột. Cô phải đối diện với dì Hester trong cái phòng ngủ phía trước, nơi cô không vào nữa sau khi Adam chết. Cô sợ và ghét bệnh hoạn; và làm thế nào cô phải chào hỏi người thù địch cũ, bệnh hoạn không chữa trị được và đang chết dần chết mòn? Và dì Hester sẽ chào hỏi cô như thế nào?
Nhưng cô chẳng cần lo lắng. Tất nhiên bà Hester vẫn theo kiểu cách của bà từ xưa.
- Lại đây, lại đây, cháu, dì nghe tàu đến bến thật lâu, cháu đi đâu mãi đến bây giờ? Dì đã nói dượng Charles coi cháu đến chưa; nhưng ông ấy còn rối rít về việc mặc đồ ngủ cho dì và dọn mấy cái gối, mấy đóa hoa và những thứ khác có trời mới biết là thứ gì… Còn cô y tá, cô ở đâu rồi, cô đang làm gì, thật là dì không nắm được…Người nào cũng như người nấy, cái con Annie, dì phải tập mãi để làm đúng những gì dì thích thì đã bỏ dì khi dì cần. Này, dì đã cho rước mục sư, mai ông ta sẽ đến đây để rửa tội cho dì. Dì biết cháu không thích việc nội trợ, nhưng ít ra dì cũng đã dạy cháu cách làm. Nhờ cháu thay dì trông nom con Bella và xem sao cho bữa ăn dọn lên cho phải cách. Vì dĩ nhiên mình cũng phải mời ông mục sư ăn trưa sau một chuyến đi xa như vậy.
Cô nói:
- Vâng, thưa dì.
Cô cảm thấy tựa hồ như cô trở lại tuổi mười hai, và tất cả những gì đã qua từ đó đến nay chưa bao giờ xảy ra. Dì Hester hình như không thay đổi lắm. Tiếng nói vẫn lớn, gương mặt của dì vẫn đỏ lự với các mạng gân màu đỏ tuy hai má có hóp một ít, và đôi mắt đen trước đây rất sắc nay đã bóng ngời như son màu và có vẩy cá sát tròng đen.
Chỉ có một vết nhỏ xám trong mái tóc đen tuyền. Cô cảm thấy vui. Bà không có vẻ gì sắp chết, hẳn bác sĩ đã nhầm.
Cô hỏi:
- Dì có đau lắm không? Cháu rất lo khi nghe nói bệnh của dì nặng hơn…Cháu nghĩ là đến đây sẽ gặp dì nằm bệnh…
- Ừ, bệnh có nặng hơn; nặng lắm, - Bà có vẻ phần nào vừa ý, đắc thắng. - Dì biết rằng có một cái gì ở đấy. Không ai biết dì đau đớn như thế nào.
Và cái giọng cáu kỉnh ngày trước không còn nữa. Trở thành trung tâm của sự chăm sóc đầy lo lắng, cuối cùng bà Hester tìm thấy được một thứ hạnh phúc gì đó.

*

Tiếng gà mẹ gọi con rất gợi nhớ, tiếng ào ào của cối xay gió đưa nước từ sông lên đánh thức Delie.
Và cô nhận thấy một cách khó chịu rằng cô đã không mơ thấy Adam, mà thấy Brenton Edwards. Từ hôm bên bờ sông, cô không gặp anh ta nữa, cô đã tránh xa chiếc Philadelphia, tuy cô có gặp bác Tom nhiều lần ở thị trấn, và cô đã cố gắng không nghĩ đến Brenton. Nhưng tuy cô đã loại anh ta ra khỏi ý thức của cô, người thuyền phó ấy vẫn xuất hiện trong những giấc mơ của cô, lúc nào cũng to lớn hơn ngoài đời, vui tính, tóc vàng, đầy sinh lực.
Mục sư Polson vào nhà, trễ hơn giờ ăn trưa nửa tiếng, buồn dàu dàu, ông ta có vẻ nhưng bóng ma xanh xao bên cạnh một Brenton đầy sức sống trong giấc mơ của cô.


HẾT
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn