Hồi 8: Chiến ý trên sông
Vu Thần đếm cây cỏ thi. Khảm dưới Cấn trên, đúng là Sơn thủy mông quái1. Mông, có nghĩa là u ám, tăm tối. Ở đây Khảm gặp Cấn. Cấn dừng ở ngoài, Khảm là nước chạy bên trong. Bên trong đã hiểm trở bất an, bên ngoài có đi mà không có tiến, chẳng biết sẽ rơi vào tình thế nào.
Khoé miệng lộ nét cười khổ, Vu Thần lẩm bẩm: “Dưới núi có nguy hiểm”. Nguyên lai Mông chia ra hai quẻ thượng và hạ, quẻ thượng là Cấn trỏ vào núi, quẻ hạ là Khảm trỏ vào nước hàm ý cản trở, vì vậy mới nói là dưới núi có nguy hiểm. Lùi xuống quẻ hạ thì bị mắc vào hiểm cảnh, tiến lên quẻ thượng thì bị núi cao chắn lối, không có cách gì khả dĩ thi triển.
Đường sống duy nhất lúc này, chính là thượng cửu hào di động, hóa ra địa thủy sư.
Thượng cửu kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu2.
Đây là hiện tượng cửu tử nhất sinh.
o0o
Màn đêm buông xuống.
Mây phủ thật dày.
Trên sông một màu đen kịt.
‘Đằng Giao’ không thắp đèn, thuận theo dòng nước mà tiến, tốc độ rất cao. Thế gió mạnh mẽ. Tất cả những cánh buồm da đều được trương lên.
Kỳ Lão Mưu không phụ sự uỷ thác của Vu Thần, kiến thức về thiên thời và thủy lưu vùng Trường Giang của y khiến người ta phải vỗ án khen ngợi.
Vu Thần và mấy cao thủ thuộc hạ tập trung ở đầu boong, gió thổi tà áo bay phần phật.
Hơn một trăm gia tướng trên thuyền đều là những binh sỹ tinh nhuệ, hiện tại đã cùng tiến vào vị trí chiến đấu, chuẩn bị sẵn sàng. Những tấm khiên bọc da xếp đầy quanh bốn bên thuyền, đợi ứng phó với cung cứng tên mạnh của địch. Nhân số tuy không đông, nhưng thực lực thật không thể xem nhẹ.
Phía xa xa cuối dòng nước, le lói mấy điểm sáng. Chu Thành đã ở trước mặt.
Quanh vùng hạ du là một màn đen kịt, thi thoảng lác đác mấy chiếc thuyền chài ven sông, kỳ dư không còn một động tĩnh nào khác.
Hiện tượng này có chút gì bất thường! Thuyền chài tuy gây nên tiếng động, nhưng trên dòng đại giang mù mịt như vậy, tại sao lại không thắp lửa đèn?
Đúng lúc đó, dưới hạ du trong vòng một trượng đuốc đóm sáng bừng, hai chiếc thuyền khổng lồ song song xuất hiện giữa sông. Hai bên lại nhô ra hơn trăm chiếc khoái đĩnh, tản rộng hình cánh quạt bơi ngược chiều dòng nước đang chảy xuống hạ du.
Từ hai chiếc thuyền lớn của địch vẳng tới tiếng trống trận, sát khí đằng đằng, thanh động kinh hồn bạt vía.
‘Đằng Giao’ thoáng chốc đã lọt vào trùng trùng lưới giăng.
Thủ hạ Vu Thần có kẻ thất thanh la: “Yên Tường!” “Phi Sở!” chính là cặp thủy sư tinh nhuệ nhất dưới quyền điều khiển của Tố Công, có thể thấy hắn toàn tâm xuất một trận chế thắng.
Vu Thần phải thầm tán thưởng trận thế đẹp mắt của địch. Điều duy nhất khiến y yên tâm là, cho dù Tương Lão gan to bằng trời, cũng không dám dùng hỏa tiễn để phá hủy ‘Đằng Giao’, vì đây là sứ thuyền đại diện cho Sở quốc, cũng là thuyền tọa giá của Sở vương.
Vu Thần và đám cao thủ mặt mày không biến sắc. Họ đều từng trải chiến trận, đâu dễ dàng bị thanh thế đó áp đảo, dẫu việc đã ập đến trước mắt, nhưng phong thái vẫn tỏ ra ung dung.
‘Phi Sở’ và ‘Yên Tường’ dần dần áp tới, tốc độ xấp xỉ với ‘Đằng Giao’ đang lao đi rất nhanh.
Vu Thần trầm giọng ra lệnh: “Chú ý móc câu!” Nếu địch nhân vào gần trong vòng năm trượng, có khả năng chúng sẽ dùng móc câu rút ngắn khoảng cách, rồi ào lên thuyền.
Tố Công không hổ là danh tướng thủy lộ, vừa xuất thủ là hãm Vu Thần vào hiểm cảnh.
Tốp khoái đĩnh từ dưới hạ lưu cũng cấp tốc theo sau ‘Phi Sở’ và ‘Yên Tường’, nháy mắt đã đuổi tới trong vòng mười lăm trượng.
Tình thế ngàn cân treo sợi tóc.
Trên ‘Đằng Giao’, tiếng trống đột nhiên nổi dậy. Ở hai bên mạn thuyền chỗ mớn nước, mỗi bên hé mở một khe hẹp dài hình vuông, thò ra một hàng hai mươi cây mái chèo, cùng khua mạnh theo một tiết tấu nhịp nhàng, tốc độ thuyền vụt tăng lên rất nhanh.
Buồm lớn di chuyển, ‘Đằng Giao’ đánh một đường vòng rất đẹp với tốc độ cao, tránh qua hai chiếc thuyền khổng lồ đang chắn giữa dòng, nhích mạnh sang một bên. Diễn biến đột ngột, bao nhiêu thuyền nhẹ đang ràn rạt lao tới bị hất lật nhào.
Yên tướng quân ra một mệnh lệnh. Từ trên thuyền tên nhọn nhất tề bay ra, bắn thẳng về phía lớp lớp khoái đĩnh, địch nhân trúng tiễn ngã xuống nước rào rào.
Vu Thần thầm nhủ công trình này của Công Thâu Bàn, phối hợp với tài khiển thuyền thiên hạ vô song của Kỳ Lão Mưu, nhất định là vượt ra ngoài dự liệu của Tố Công, không biết hắn sẽ ứng phó thế nào.
‘Đằng Giao’ quặt nghiêng, gây nên một đợt sóng lớn, khiến khoái đĩnh của địch lật úp thêm mấy chiếc. ‘Phi Sở’ và ‘Yên Tường’ bị bỏ rớt lại đằng sau.
Tiếng trống trận nổi lên. ‘Phi Sở’ và ‘Yên Tường’ đang quay đầu đuổi tới.
Tố Công đứng ở mũi thuyền ‘Phi Sở’, thần tình rất ung dung. Bên cạnh hắn là Tương Lão, mặt mày nanh ác, răng nghiến kèn kẹt. Hắn phát thệ nếu đoạt lại được Hạ Cơ, nhất định sẽ dùng mọi cách để vũ nhục thân thể nàng.
Tố Công vóc dạc cao lớn, khuôn mặt và cặp mắt âm trầm, cười hắc hắc nói: “Tài điều khiển ‘Đằng Giao’ của Thân công Vu Thần khiến bản tướng có dịp đại khai nhãn giới. Hướng nước, sức gió và sức người đều được phối hợp khéo léo, tốc độ của thuyền do vậy được đẩy tới mức cao nhất, mạt tướng khâm phục vô cùng”.
Miệng hắn thì nói khâm phục, nhưng trên mặt lại không có một chút biểu tình gì, người ngoài nhìn vào thật không biết được suy nghĩ chân chính của hắn ra sao.
Tương Lão chau mày: “Hiện tại khoảng cách với ‘Đằng Giao’ càng lúc càng xa, lẽ nào bó tay vô kế khả thi, trông nó thoát đi trước mắt mình?” Ngữ khí lộ rõ sự bất mãn.
Tố Công ngửa mặt cười dài: “Tương huynh quá xem thường ta rồi! Thủy vực Chu Thành là vùng địa đầu của ta, nếu để địch nhân muốn đến là đến, muốn đi là đi, Tố Công chẳng phải sẽ mất mặt lắm sao? Ta nhất định sẽ đưa Tương huynh lên thuyền địch, để xem lúc đó thủ đoạn của huynh được thi triển ra sao!” Tương Lão mừng rỡ, hai mắt rực hung quang, nghĩ thầm trong lãnh địa Sở quốc, Khước Uyển đã chết, còn ai vung tay ngăn được bảo kiếm của ta!
Tương Lão phá lên cười như điên, tiếng cười dội trên những lớp sóng dập dồn. vẻ vô cùng đắc ý.
Tố Công nói tiếp: “Một khắc nữa thuyền địch sẽ đến Nhị Long Đầu, chỗ ấy lòng sông rất nông, nước chảy rất xiết, lại có nhiều loạn thạch, bất kỳ thuyền bè nào đi qua, tất phải giảm tốc độ, nếu không thuyền sẽ vỡ mà người cũng chết”.
Tương Lão kinh ngạc: “Địch nhân phải giảm tốc, chúng ta lẽ nào là ngoại lệ?” Tố Công mắt lấp lánh tinh quang, thần thái đắc ý vô cùng: “Chính là nhắm vào điểm này đó! Ta đã thiết kế một loại tiêm hình đĩnh làm bằng da thuộc, da thuộc này được luyện bởi dược vật, trong thời gian ngắn không sợ nước tràn vào, thân thuyền nhẹ mà dẹt phẳng, lúc nó lao ra trên sóng dữ, nhanh hơn cả ngựa phi, bảo đảm Vu Thần mọc cánh cũng không bay thoát”. Rồi hắn bật cười dài.
Tương Lão hỏi: “Thuyền da thì ngồi được bao nhiêu người?” Tố Công đáp: “Đây chính là chỗ hạn chế của nó, mỗi chiếc thuyền da chở được hai người, lại thêm chế tác rất khó khăn, hiện tại mới có cả thảy hai mươi chiếc, như vậy chỉ chở được tối đa bốn mươi người”.
Tương Lão dứt khoát đáp: “Thủ hạ của ta đều là cao thủ, một người địch được mười người, mười chiếc thuyền da là đủ rồi!”.
Tố Công khoé miệng lộ nét cười âm hiểm, nếu có thể lật đổ được Thân công Vu Thần, cướp được nhà cửa của y, lợi ích đó đâu phải là nhỏ.
‘Đằng Giao’ đột nhiên đèn thắp sáng rực cả đầu thuyền, lao thẳng vào vùng nước xiết đá lô xô ở Nhị Long Đầu. Một tràng trống trận. Buồm chính hạ xuống. Tốc độ thuyền hãm lại.
Nếu không có Kỳ Lão Mưu thông hiểu hình thế thủy vực nơi đây, thì con thuyền lớn trong đêm tối vượt băng băng như vậy chẳng khác nào tự sát. Nhưng tốc độ thuyền quả nhiên như Tố Công dự đoán, đã giảm đi ít nhất một nửa.
Lúc này Vu Thần đã cùng đám thủ hạ rời lại đuôi thuyền, ai nấy vẫn trong tình trạng giới bị cao độ.
Đèn đuốc trên ‘Phi Sở’ và ‘Yên Tường’ càng lúc càng nhỏ, khoảng cách đã được kéo giãn ra xa.
‘Đằng Giao’ từ từ tiến vào Nhị Long Đầu, núi non hai bên vô cùng cheo leo, cảnh tượng như lọt xuống quỷ vực.
Vu Thần đột nhiên kêu lên: “Hỏng rồi!”.
Mọi người phóng mắt về phía thượng du, nét mặt đại biến.
Hơn mười chiếc tiểu đĩnh thuôn nhọn, mỗi chiếc chở hai người, đang từ trên dòng lao xuống băng băng.
Yên tướng quân hét lớn: “Bắn tên!”.
Từ ‘Đằng Giao’ tên bay vụt ra đầy trời, rào rào bắn về hướng tốp tiểu đĩnh.
Lần này trên những thuyền nhẹ đó đều là nhất lưu cao thủ, họ dễ dàng gạt bay làn mưa tên.
Vu Thần và đám thủ hạ cùng tuốt đao kiếm, tình hình mà họ lo lắng nhất rốt cục cũng sắp diễn ra. Điều duy nhất an ủi là bên mình nhân số áp đảo, chỉ cần chế ngự nổi Tương Lão, là có thể thắng được trận này.
Ác chiến đã ập đến!
Tương Lão hét lớn, lao tới trước tiên, thân hình nhanh như tên bắn vọt thốc lên ‘Đằng Giao’. Vu Thần và đám thủ hạ cùng hoảng hốt, không ngờ hắn uy dũng đến vậy. Còn chưa kịp định thần, vóc dạc thiết tháp của Tương Lão đã xông vào giữa đám thủ hạ của Vu Thần, chớp mắt hai cái đầu người vọt máu văng tuốt lên không. Đầu chưa rơi xuống, Tương Lão đã vung tay phải chọc thấu kiếm qua ngực hai người khác, tay trái lăng quyền đấm vỡ xương sọ một người khác nữa.
Vu Thần và Yên tướng quân cùng thét lớn, một cầm kiếm, một cầm búa, song song chạy lên.
Tương Lão giết thêm mấy mạng, máu tươi nhuộm đỏ thanh trường kiếm khét tiếng đất Sở, trông hắn chẳng khác nào hổ xông vào giữa bầy dê. Lúc này kiếm của Vu Thần từ đằng sau, búa của Yên tướng quân từ bên trái cùng bổ lại.
Tương Lão hú một tràng dài. Thân hình cao lớn uy mãnh lại dẻo dai như li miêu, hắn lắc khẽ, tránh qua thế công kích lăng lệ của hai người, băng theo chiều ngang thuyền trượt sang một bên, đám thuộc hạ tinh nhuệ của Vu Thần ngã rạp xuống, máu đỏ chảy tràn, không có ai khiến được hắn chậm một bước, cản được hắn chậm một khắc.
Tình cảnh thật kỳ quái! Kiếm và búa của Vu Thần và Yên tướng quân cách Tương Lão chưa đầy nửa thước, nhưng trước thân pháp như quỷ mị của hắn, nửa thước đó bỗng hóa thành một rãnh lớn nước cũng không thể tràn qua, chỉ nhìn chứ không thể lại gần.
Tương Lão giết thêm một người nữa, rồi phi thân lên cột buồm chính của con thuyền, hai chân điểm trên lá buồm, thân hình như thiểm điện bắn trở lại, trường kíếm trong tay lần lượt đâm xuống Vu Thần và Yên tướng quân.
Tiếng binh khí va nhau rầm rầm, Vu Thần và Yên tướng quân nhất tề loạng choạng, ngã bật về hai phía. Dưới hai mũi kiếm lực nặng nghìn cân, họ đều chấn động đến mức huyết khí chạy ngược, Yên tướng quân công lực kém hơn một chút, hổ khẩu toạc ra đầy máu tươi.
Tương Lão trụ vững thân hình, đứng sừng sững như thiết tháp trước mặt hai người, biểu tình lạnh lẽo. Vu Thần và Yên tướng quân trái tim mỗi lúc một chìm xuống, kiếm pháp Tương Lão so với người đời đồn đại còn lợi hại hơn rất nhiều, quả nhiên không hổ là một trong Sở quốc Tứ đại kiếm thủ. Từ đó suy ra, võ công của hắn cũng khiến người ta khó mà tưởng tượng được.
Thuộc hạ của Tương Lão theo nhau nhảy túa lên ‘Đằng Giao’, quyết liệt triển khai hỗn chiến. Bên Vu Thần nhân số chiếm ưu thế, vẫn giữ được thượng phong. Thắng bại bây giờ chỉ phụ thuộc vào một mình Tương Lão.
Tương Lão nhìn trường kiếm đã nhuốm đẫm máu, ngửa mặt cười gằn, khoái ý vô tận, tiếng cười đột nhiên ngừng tắt, hắn chầm chậm nhìn sang Vu Thần, khinh bỉ hỏi: “Món đồ hèn mọn của ta đó, có đủ phong tình không?” Nói dứt hai mắt bắn ra những tia ghen hận, trường kiếm chớp động, đâm thẳng vào trước ngực Vu Thần.
Yên tướng quân hét lớn, vung đại phủ liều chết bổ tới, không tiếc gì đến bản thân.
Tương Lão vừa thi triển khoái kiếm, chọc thẳng vào màn kiếm ảnh của Vu Thần, bức y liên tiếp thoái lui, công kích uy mãnh, khiến y chấn động đến mức mũi miệng đều tứa máu; vừa vung tay trái thi triển chưởng pháp, mỗi chưởng đều vỗ trên thân búa, hóa giải được thế công như hổ dữ của Yên tướng quân. Hai đại cao thủ, bị một mình Tương Lão hí lộng như vờn giỡn trong lòng bàn tay.
Tương Lão lắc mình tránh. Yên tướng quân bổ búa vào khoảng không, đã biết là bất diệu, vừa định biến chiêu, Tương Lão đã tung cước trái vô thanh vô thức đá vào ngực y, Yên tướng quân kêu thảm, miệng phún máu tươi, ngã bắn ra ngoài một trượng.
Áp lực lại càng dồn lên Vu Thần, trước mắt y toàn là bóng kiếm, không phân biệt nổi hư nổi thực, cổ tay thốt nhiên đau nhói, trường kiếm rơi tõm xuống đất.
Vu Thần thét lớn: “Mệnh ta hỏng rồi!”.
Bên tai bỗng nghe thấy Tương Lão gào lên kinh hoàng, kế đó một tràng lanh lảnh kim thiết giao nhau, hai đạo kiếm quang đan xen rồi phân tách! Bên này là Tương Lão, bên kia là một thanh niên nam tử hiên ngang, mũi kiếm của họ đều đang chĩa vào đối phương, sát khí rùng rẫy, chân lực xoáy tụ. Vu Thần tuy ở ngoài hai trượng, vẫn cảm thấy hô hấp khó khăn.
Khuôn mặt Tương Lão lần đầu tiên lộ vẻ thận trọng, trầm giọng nói: “Hoàn Độ!” Vậy là từ Đồng Long và kiếm pháp, hắn đã nhận ra thân phận của đối phương.
Khước Hoàn Độ cười dài, vẻ tự tin mãnh liệt, trào lộng nói: “Bại tướng dưới kiếm pháp của Khước gia, làm gì còn tư cách mở lời!”.
Tương Lão không đổi sắc mặt: “Cũng tốt, hai việc giải quyết một lúc!” Trên tay loé sáng, trường kiếm liên tiếp đâm về phía Khước Hoàn Độ.
Khước Hoàn Độ thi triển chiêu số hóa giải, không thủ mà lại công, hai thanh trường kiếm giao kích như thiểm điện trên không, nhưng nửa phần thanh âm cũng chẳng hề nghe thấy. Thì ra họ đều đã đâm vào chỗ trống trong kiếm quang của đối phương, một kiếm không trúng lập tức biến chiêu đâm tiếp, vì vậy tuy là đầy trời ánh kiếm, nhưng không có cơ hội va chạm, lần này hai bên giao phong, độ hung hiểm còn hơn lúc trước.
Đột nhiên họ cùng hô khẽ, rồi xô nhau ra. Khước Hoàn Độ vai trái bắn máu tươi, Tương Lão trên trán bị rạch ngang một đường dài ba tấc, máu tươi rịn ra ròng ròng chảy xuống, trông cực kỳ khủng bố.
Thoạt nhìn thì Tương Lão thương thế có phần nghiêm trọng, nhưng Khước Hoàn Độ hiểu rõ, vừa rồi đâm trúng vào trán Tương Lão, vốn đã cho rằng một chiêu có thể kết liễu hắn, nào ngờ Tương Lão đột nhiên nhích ngang, trường kiếm của Khước Hoàn Độ tuy kéo một đường trên trán hắn, nhưng chỉ là vết thương ngoài da, trong khi đó vai trái của Khước Hoàn Độ lại trúng kiếm, sâu gần vào xương, tuy chưa chạm tới cốt mạch, nhưng đã gây cản trở nhất định khi cử động.
Tương Lão nào để cho địch nhân kịp thở, trường kiếm lại thần tốc công tới.
Khước Hoàn Độ vụt lui mạnh, rồi lật mình nhảy bật lên, lao chéo trong không, lướt về phía cột buồm chính.
Tương Lão phi thân theo, trường kiếm xuyên thẳng vào lưng Khước Hoàn Độ. Hắn thầm cười gằn, khi lực bay ngược của Khước Hoàn Độ cạn kiệt, thì cũng là lúc mạng gã đến hồi kết thúc.
Khước Hoàn Độ tay lăng móc câu, quang ảnh chớp nháng, cắm sâu vào cột buồm chính. Gã mượn lực của dây móc, tốc độ không giảm mà lại tăng, xoay tròn quanh cột buồm như con vụ, trường kiếm hóa thành một đạo hàn mang, đâm thẳng xuống Tương Lão đang vù vù đuổi lên, chiêu kiếm sức mạnh như sấm sét.
Tương Lão trở tay không kịp, sắc mặt đại biến. Hắn cũng vô cùng nhanh, trường kiếm toàn lực xuất ra.
Kim thiết giao nhau vang lên kinh thiên động địa. Tương Lão vai trái nhuộm máu, bật ngửa ra rơi xuống lòng thuyền, Khước Hoàn Độ cũng bị chấn lực đẩy ngược lại, bay trở lui một vòng quanh cột buồm theo đúng quỹ đạo ban đầu.
Tương Lão chân vừa chạm đất, lảo đảo lùi lại sau, hổ khẩu toạc máu tươi. Khước Hoàn Độ mượn lực hồi chuyển, lăng không đâm xuống hắn.
Tương Lão giơ tay trái vỗ trên lưng kiếm đang lao tới, Khước Hoàn Độ toàn thân đại chấn, trường kiếm suýt tuột khỏi tay, không ngờ sức lực bẩm sinh kỳ dị của Tương Lão còn đủ để phản kích mạnh mẽ như vậy. Vừa định lui về sau, chân phải của Tương Lão đã nhằm đúng sát na trường kiếm của gã dịch ra, lăng không ngăn lại. Người này toàn thân trên dưới, chỗ nào cũng là vũ khí kinh nhân.
Khước Hoàn Độ tả chưởng duỗi khít, chặt xuống chân Tương Lão, chỉ cảm thấy như chặt vào thanh đồng tinh luyện, gã vừa hét lớn bất diệu, đã bị hắn đá trúng vào trước ngực.
Khước Hoàn Độ miệng bật máu tươi, lùi vội lại sau. Lúc đến đầu cầu thang dẫn xuống gầm khoang, gã thuận thế lăn thẳng xuống dưới. Cũng may một chưởng phách ra đã hóa giải phần lớn lực độ của Tương Lão, vừa nãy thổ huyết cũng đã giảm nhẹ nội thương, nhưng ưu thế chiếm được lúc trước, đã vì một cước này mà tan tành như ngói vỡ. Huyết chiến đến đây, cả hai người chẳng ai là không bị thương nặng.
Tương Lão như bóng theo hình, đuổi sát đằng sau.
Hắn lao bổ xuống cầu thang, vừa kịp trông thấy Khước Hoàn Độ lách vào căn buồng thứ hai bên trái. Tương Lão không chần chừ, liền bám theo, cánh cửa đã đóng lại. Tương Lão tung một cước đá mạnh vào cửa, cả cánh lẫn khung đều bật tung. Trong phòng không một bóng người, chỉ có một cái bàn lớn, và sáu, bảy cái bồ đoàn đặt rải rác bốn xung quanh.
Khước Hoàn Độ vào được nghị sự sảnh rồi, lập tức dùng móc câu thoát qua cửa sổ sang một phòng khác, lại từ cửa phòng đó xông ra ngoài hành lang. Đúng lúc ấy Tương Lão cũng lắc mình ra khỏi phòng, lưng xoay lại phía gã.
Khước Hoàn Độ biết Tương Lão nghĩ rằng gã đã từ cửa sổ thoát xuống sông để đào sinh. Lúc này Tương Lão đang quay lưng lại gã, cơ hội tốt như vậy, làm sao có thể bỏ qua, gã giơ cao trường kiếm, vô thanh vô tức thần tốc xuyên tới lưng Tương Lão.
Đồng Long cách Tương Lão chỉ còn nửa trượng, hai vai hắn vẫn không có động tĩnh gì. Bỗng nhiên thấy hắn lật mình nhảy ngược lên, mũi kiếm nhọn chọc thẳng vào mũi kiếm Khước Hoàn Độ.
Lần này giao lượng không nhẹ, Khước Hoàn Độ ngã văng về cạnh cầu thang cuối hành lang, Tương Lão cũng lăn một vòng dưới sàn, rồi mau chóng đứng dậy, trường kiếm từ đằng xa đã chĩa về Khước Hoàn Độ.
Khước Hoàn Độ tỳ cột sống vào bậc cầu thang, tận dụng phản lực bật mình ra, trường kiếm lao ngược lại Tương Lão.
Huyết chiến đã đến hồi quyết định.
Trong hàng lang sát khí đằng đằng, mắt tai mũi miệng của hai người đều trào máu tươi, hình trạng thê thảm, còn hơn cả thiên quân vạn mã huyết nhuộm sa trường.
Đúng vào lúc máu và sức căng đầy sự mạnh mẽ nam tính, một thanh âm kiều mị đằng sau Tương Lão cất lên: “Tương Lão!”.
Tương Lão toàn thân chấn động.
Khước Hoàn Độ thấy hắn phân tâm, liền hú một tiếng dài, Đồng Long như thượng giới thần binh, hóa thành một dải cầu vồng, lao qua hành lang đâm thẳng tới người địch thủ.
Tương Lão kinh hoảng thất sắc, cố sức vung kiếm chặn lại.
Huyết quang loáng hiện, trường kiếm của Tương Lão rớt xuống, tên hung nhân hét thảm, người đổ ập vào trong nghị sự sảnh, rầm một tiếng cả vách phòng gãy sụp, hai bản gỗ khổng lồ như vậy, cũng nặng nề rơi xuống dòng nước.
Khước Hoàn Độ kiệt sức, ngã bệt xuống sàn.
o0o
Gã dần dần tỉnh lại, toàn thân tê nhức, nóng như lửa đốt, trên ngực trĩu nặng, mơ mơ hồ hồ cảm thấy có người đang thay thuốc cho mình, rồi lại chìm vào hôn mê.
Khi gã tỉnh lại lần nữa, trời đã ngả hoàng hôn. Người đang đứng canh bên cạnh lập tức chạy đi thông báo với Vu Thần.
Vu Thần mình cũng đắp thuốc, gương mặt xanh tái, nhưng tinh thần thì không tệ.
Hai mắt y lấp lánh, tỉ mỉ quan sát nét mặt của Khước Hoàn Độ, không biết trong lòng nghĩ ngợi những gì.
Khước Hoàn Độ thẳng thắn nhìn lại Vu Thần. Gã biết quan hệ giữa mình và y hơi tế nhị, mà rào cản chính là Hạ Cơ, nữ nhân này lúc nào cũng có thể khiến hai người họ trở mặt thành thù, chỉ cần tiêu trừ được mối hoài nghi của Vu Thần đối với gã, họ sẽ cùng hợp lực đối phó địch nhân, mối tương giao ấy chỉ có lợi chứ không có hại. Vì vậy Khước Hoàn Độ làm ra vẻ cởi mở trung thực, nhìn lại Vu Thần.
Vu Thần sắc mặt hơi sáng lên, vừa rồi y nhìn thẳng vào Khước Hoàn Độ, đích xác là có hàm ý dò xét. Bao nhiêu năm làm ngoại giao, kinh nghiệm già dặn, quan sát người khác vốn là sự tu dưỡng cơ bản, nếu Khước Hoàn Độ có tà tâm, không kịp đề phòng, tất sẽ bất giác tránh ánh mắt y.
Vu Thần nói: “Công tử, công tử ngủ đã ba ngày rồi đấy! Cũng may ta tinh thông y thuật, nếu không công tử không thể tỉnh lại, và bước vào giai đoạn phục hồi nhanh như thế đâu!”.
Khước Hoàn Độ nói: “Danh xưng công tử đó, thực hổ thẹn không dám nhận, mỗ nhà tan cửa nát, cuống quýt như chó nhà táng, thiên hạ tuy lớn nhưng không chỗ dung thân!” Ngừng một lát gã tiếp: “Hạ Cơ cô nương sao rồi, trước lúc ngã xuống tựa hồ trông thấy nàng chạy về phía tại hạ!” Lúc nói trên mặt gã lộ vẻ mê mẩn.
Vu Thần hầu như giải toả được mối khúc mắc trong lòng. Nếu Khước Hoàn Độ và Hạ Cơ có tư thông, gã trai này đương nhiên sẽ hết sức tránh đề cập đến Hạ Cơ, mà cái vẻ mê say đắm đuối trên mặt gã kia, đúng là phản ứng tự nhiên của mỗi kẻ đàn ông lần đầu gặp gỡ nàng, Vu Thần làm sao không biết. Về điểm này hai người bọn họ rất giống nhau.
Vu Thần nói: “Công tử là rồng phượng trong loài người, tạm thời thất thế, nhưng nhất định có một ngày sẽ khởi sắc trở lại. Cuộc chiến ba ngày trước, đến Tương Lão cũng bị công tử đánh cho thọ thương rơi vũ khí. Chỉ cần công tử bảo toàn được tính mệnh, tương lai sẽ danh chấn chư quốc! Kiếm thuật như công tử, còn lo gì thiên hạ không có chỗ dung thân. Chẳng bằng theo ta cùng sang Tấn, ta và công khanh nước Tấn là Phạm Hiến Tử vốn có chỗ thân thuộc, đảm bảo công tử sẽ được trọng dụng”.
Khước Hoàn Độ khẽ nhỏm dậy: “Đề nghị của Thân công, mỗ ghi khắc trong tim. Thực không dám giấu, ta thấy công khanh nước Tấn quyền lực quá lớn, có lúc sẽ dấy binh hoán chúa, nước đó lại chia năm bè bảy mối, danh nghĩa là minh chủ của chư quốc Bắc phương, nhưng ngoài mạnh trong yếu, sự tan vỡ chỉ trong sớm muộn mà thôi. Mỗ nuôi chí báo phục thù nhà, Tấn quốc thực không phải là nơi lý tưởng”. Khước Hoàn Độ thấy Vu Thần gật đầu, thầm nhủ tiểu tử này nhìn xa trông rộng, biết phân tích nhận rõ tình hình, Sở quốc có một cường địch như vậy, ngày sau tất gặp họa lớn.
Vu Thần hỏi: “Vậy thì ta không miễn cưỡng, chẳng hay công tử đã có dự tính gì?” Khước Hoàn Độ thầm nghĩ, ta không muốn cùng ngươi sang Tấn, còn vì một nguyên nhân khác, là muốn tách khỏi Hạ Cơ, nếu không hàng ngày lửa ghen thiêu đốt, sống làm sao được, bèn đáp: “Đến Tùng Dương rồi, tại hạ sẽ xuống thuyền ngược lên Bắc, ngày sau hữu duyên, nhất định có lúc tái ngộ”.
Vu Thần hân hoan đáp ứng.
–––– o0o ––––
1 Sơn thuỷ mông quái: Quẻ Sơn thuỷ mông, hình thế của nó là núi cao nước thấp, nước nóng lên tạo thành hơi sương che phủ cả ngọn núi, vạn vật không lộ rõ, lại bị bao bọc, khiến người ta không phân định nổi đông tây nam bắc, tượng quẻ như vậy báo hiệu một cái gì mịt mù.
2 Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch : Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi.
Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa, có thể thành giặc, có hại (chữ "khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại), nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà "cả thầy lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện).
Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).
Theo lời giải thì Mông là còn non nớt, chưa có hướng gì nhất định. Đặc biệt chú trọng vào hào 2 và hào 5 của quẻ này thì thấy cả hai đắc trung, nhưng dưới thì cương, trên thì nhu thuận.
Hồi 9: Lấy được binh thư
Trong vùng sơn dã.
Khước Hoàn Độ sải bước rất nhanh. Hai ngày trước gã cáo từ Vu Thần ở Tùng Dương, rời thuyền lên bộ, để tránh truy binh của Nang Ngõa, chuyên chọn hoang sơn tiểu lộ mà đi, một lòng một dạ tìm đến thẳng đất Lỗ, Tống.
Lỗ và Tống lúc đó nước nhỏ sức yếu, nhưng sự phát triển về văn hóa thì đứng đầu trong chư quốc.
Khước Hoàn Độ nội thương còn chưa bình phục, đặc biệt trúng một cước của Tương Lão, lần này lại phải đi nhanh, trước ngực cảm thấy ngâm ngẩm đau, rất khó chịu.
Trên đường xuống núi, trông nơi xa nổi lửa khói loăn xoăn, xem ra là một thôn trang. Đúng lúc ấy trời cao vần vụ mây đen, rồi một lát mưa rào rào đổ xuống.
Khước Hoàn Độ đội mưa chạy về hướng thôn trang bên chân núi, toàn thân đẫm ướt, đột nhiên một trận hàn ý xông buốt toàn thân, gã rùng mình run cầm cập.
Khước Hoàn Độ kêu to không ổn, biết nội thương đã bị hàn khí dẫn phát, đó là điều đại kỵ với người luyện võ, nặng thì toàn thân tê liệt, nhẹ thì công lực tiêu tan. Nhưng lúc này bốn bề không một chỗ ẩn tránh, gã lơ mơ bước thêm một quãng nữa, não cân càng lúc càng bải hoải, cuối cùng thậm chí không cảm thấy cả nước mưa, chỉ biết toàn thân thoắt lạnh thoắt nóng, cuối cùng ngã vật xuống ngất đi.
o0o
Khi gã hồi phục lại được tri giác, đã thấy mình đang ở trong một túp nhà nông, trước mặt có hai bóng người, một cao một thấp.
Bờ mí như đeo gánh nặng nghìn cân, khiến gã phải vội vàng khép mắt lại.
Giọng một lão nhân vang lên: “Mặc tiên sinh! Hồi sáng ở một mỏm đá trắng cách đây hai dặm, khi ta và nội tử phát hiện ra gã, gã đã hôn mê bất tỉnh rồi!”.
Một giọng thấp trầm nhưng rất vang đáp lời: “Người này một là nội thương, hai là bị hàn khí xâm nhập kinh mạch, để ta tận lực cố gắng xem sao!”.
Hai người tựa hồ còn nói thêm một thôi một hồi nữa, nhưng Khước Hoàn Độ đã mê mệt thiếp đi.
Thời gian sau đó Khước Hoàn Độ được phục thuốc bôi thuốc trong trạng thái mơ hồ, có lúc tỉnh lại là hoàng hôn, có lúc tỉnh lại là nửa đêm, lúc nào cũng thấy cặp vợ chồng già họ Chúc tốt bụng đó đang cẩn thận chăm bẵm mình. Còn người gọi là Mặc tiên sinh hồi đầu, thì không thấy xuất hiện nữa.
Cuối cùng vào một buổi sáng tinh mơ, Khước Hoàn Độ tuy thân thể vẫn hết sức hư nhược, nhưng thần trí đã hoàn toàn tỉnh táo.
Cặp vợ chồng già hết sức vui mừng, dường như còn vui mừng hơn cả khi chính mình hồi phục.
Khước Hoàn Độ vừa ăn cháo do Chúc lão thái nấu cho, vừa không nén được hiếu kỳ hỏi: “Chúc lão trượng! Cháu còn nhớ lúc đầu có một vị Mặc tiên sinh đến chẩn bệnh, chẳng hay người vì sao không tới nữa?”.
Chúc lão nhệch miệng cười, bộc lộ hết cái vẻ giản dị thuần phác của người nông dân ở hương thôn: “Ồ cháu vẫn còn nhớ đến ông ấy! Phải nói là cháu gặp may, vị Mặc tiên sinh này hiểu biết nhiều lắm!” Nói đến đây lão bật ngón tay cái lên, rồi tiếp: “Hồi mới đến, ông ấy tự mình dựng ngay một túp lều tranh ở dốc Vọng Phong...”. Lại bấm đầu ngón tay: “... đến giờ đã được hai tháng. Hiếm khi vào thôn, nhưng có người mắc bệnh là ông ấy nhiệt tình chữa trị, thuốc vào đến đâu bệnh lui đến đấy, chẳng bao giờ lấy tiền của ai, người thật tốt bụng rộng rãi!”.
Khước Hoàn Độ từ từ húp sạch cháo, trong lòng cảm thấy ấm áp, nghĩ bụng từ xưa đến nay chưa từng chú ý đến cháo tấm, không ngờ cháo tấm rất ngon.
Hai ngày sau gã đã có thể dậy khỏi giường và đi lại. Toàn thân khí mạch thông thuận, công lực không hề hao tổn, chỉ cần luyện tập một thời gian, là có thể khôi phục lại mức độ bình thường.
Gã rất lấy làm ngạc nhiên. Loại hàn khí này đã xâm nhập và khơi dẫn nội thương của gã, quả thực nan y, không biết Mặc tiên sinh là người thế nào mà hồi thiên diệu thủ như vậy. Đúng là giữa sơn trạch lại có nhiều kỳ nhân dị sỹ, nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên.
Sáng sớm ngày hôm sau, Khước Hoàn Độ hỏi rõ đường lối, đi tìm túp lều tranh của Mặc tiên sinh.
Trên đường núi non nhấp nhô, cảnh sắc tú lệ, sơn lộ khúc khủyu, tự nhiên trải mãi không có tận cùng, mỗi sự vật mang một vẻ đẹp riêng. Trái tim Khước Hoàn Độ tràn ngập cảm giác thanh bình yên ả. Nếu không phải bên vai còn mang huyết hận, gã nhất định sẽ dừng ở đây một thời gian. Lại nghĩ nếu có cả Hạ Cơ, kiếm thuật công danh gì bỏ đi cũng không đáng tiếc, suy nghĩ một lát, lòng bỗng cảm thấy nhức nhối.
Túp lều tranh nằm trên một sườn đồi, từ chỗ này phóng mắt ra, có thể bao quát được toàn bộ sông núi rộng rãi bao la ở vùng phụ cận. Nguyên việc chọn địa điểm để cất nhà, cũng đủ thấy học vấn, sự nghiên cứu và tầm nhìn của chủ nhân.
Đến trước túp lều tranh, Khước Hoàn Độ cảm giác như bên trong không có người. Gã cất tiếng gọi mấy lần, vẫn không có ai ứng đáp, bèn giơ tay đẩy, cửa gỗ mở hé, bên trong có một cái bàn, một cái giường hẹp làm bằng cây khô, và vài lát sắn treo trên vách, ngoài ra chẳng còn gì khác.
Khước Hoàn Độ thầm nhủ người này cuộc sống thanh bần đạm bạc, dưới mức người bình thường có thể tưởng tượng được.
Gã không dám mạo muội bước vào nhà, đành trở mình quay ra, trong đầu hiện lên rất rõ hình ảnh cái bàn và cái giường khô, trông thực dụng đơn giản không màu mè, nhưng lại khiến người ta có cảm giác đó là kết quả của một sự khéo léo và sáng tạo.
Một cảm giác kỳ quái lạ lùng, vì thường thì chỉ có những thứ tinh xảo hoa lệ mới gây được ấn tượng ở người khác. Nhưng cái bàn và cái giường thô sơ đến cùng cực bên trong, thậm chí bề ngoài của túp lều cũng chỉ là nhà cỏ lợp gianh không có gì đặc sắc, nhưng nhìn kỹ vẫn khiến người ta nghĩ đến một chữ xảo , một cảnh giới khéo léo hết mực ẩn trong vẻ đơn sơ vô cùng.
Khước Hoàn Độ thầm kinh hãi. Vốn giỏi kiếm thuật, gã nhận biết phàm bất kỳ sự gì trong vũ trụ, đến một thứ bậc nào đó đều có một cảnh giới chung. Kiếm thuật khó nhất là dùng cái thô sơ thắng cái khéo léo, nhìn ngôi nhà cỏ và bàn ghế mộc mạc của vị Mặc tiên sinh này, gã tự dưng ngộ ra nhiều điều.
Một thanh âm khoáng đạt bình hòa vang lên phía bên trái:
“Tiểu huynh phục hồi nhanh thật!”.
Khước Hoàn Độ giật mình, ngoảnh đầu nhìn sang. Một nam tử cao lớn áo sợi chân đất, đang đứng cách gã hai trượng. Y đến gần như vậy, mà Khước Hoàn Độ lại không hề phát hiện ra, trong lòng thốt cảm thấy kinh hãi.
Người này tuổi ước bốn mươi, mặt mày hồn hậu, vầng trán cao rộng, đôi mắt sâu thẳm, ánh nhìn rất thông minh. Hai tay đặc biệt to dày, như đã từng quen với những việc làm vất vả.
Khước Hoàn Độ khom mình hành lễ: “Mỗ mắc nạn thọ thương, được Mặc tiên sinh trượng nghĩa ra tay cứu chữa, nên đặc biệt đến để tỏ lời cảm tạ!”.
Mặc tiên sinh cười nhạt mà rằng: “Mặc Địch ta cả đời bôn ba khắp nơi. Dạo gần đây bận suy nghĩ hai vấn đề, nên đến vùng này lập ấp mà sống, vừa hay gặp chuyện của tiểu huynh, cũng coi như có duyên!”.
Khước Hoàn Độ nói: “Tiên sinh là thế ngoại cao nhân, mỗ hữu hạnh mới được tri ngộ!”.
Mặc Địch nói: “Đâu có đâu có! Vốn ta thấy ngươi thân mang bảo kiếm, thân kiếm vết máu ẩn hiện, vốn không muốn cứu, nhưng thấy ngươi gương mặt chính nghĩa, đang tuổi sung sức, nghĩ lại đáng tiếc... Vì vậy ngày sau nếu ngươi vung kiếm làm điều ác, ta nhất định sẽ tự tay lấy tính mệnh ngươi”.
Mấy câu này tuyệt không khách sáo, nhưng Mặc Địch nói ra tự nhiên với một khí độ uy nghiêm, khiến người ta cảm thấy chuyện đó dứt khoát phải như vậy.
Khước Hoàn Độ thấy lòng dâng lên một cơn thịnh nộ, nhưng cố nén lại. Gã xuất thân phú quý, tâm cao khí ngạo, không nhịn được nói: “Mỗ tự vấn mỗi lần xuất thủ giết người, đều là vì tự vệ, thế gian này mạnh thường hiếp yếu, nếu không biết cầm kiếm vệ đạo, làm sao khỏi có lỗi với thiên hạ chúng sinh!”.
Mặc Địch cười nhạt. Khước Hoàn Độ nhận thấy người này toàn thân trên dưới đều đơn giản không màu mè, thậm chí nói cười cũng rộng rãi bình hoà, thần thái không hề có chút kích động.
Mặc Địch nhìn Khước Hoàn Độ chằm chằm, Khước Hoàn Độ cũng không tỏ ra yếu mềm, cứng cỏi nhìn trả lại, chỉ thấy mắt y sáng như hai ngọn đèn, tựa hồ muốn soi thấu hết những buồn đau vui sướng trong lòng gã.
Mặc Địch nói: “Khước tiểu huynh nếu quả thực có thể cầm kiếm vệ đạo, thì đúng là đáng mừng đáng khen. Nhưng mỗi người đều có tiêu chuẩn và đạo lý riêng, vì vậy đạo của nước lớn, lại trở thành cái cớ để họ xâm lấn nước nhỏ, đạo của đại gia tộc, lại trở thành lý do để họ ức hiếp tiểu gia tộc. Kẻ mạnh kẻ trí áp bức kẻ yếu kẻ dại, sự xung đột giữa người với người, thực ra là ở chỗ mỗi người đều là những cá thể khác nhau, có những tiêu chuẩn và đạo lý khác nhau”.
Ngừng một lúc, Mặc Địch tiếp: “Hiện nay chư quốc đề cao cái gọi là lễ nghĩa, kỳ thực chứa đầy mâu thuẫn, ngu muội và tự chuốc lấy phiền não. Lễ nghĩa và dã nhân... chỉ là sự khác nhau giữa năm mươi và một trăm bước”.
Khước Hoàn Độ từ nhỏ sinh trưởng trong quý tộc thế gia, xưa nay rất tín phụng tầm quan trọng của lễ nghĩa, của đạo luân thường phụ tử quân thần, bất giác buột miệng phản bác: “Lễ nghĩa là nguồn cội của tất cả mọi trật tự trong xã hội ngày nay, nếu không có lễ nghĩa, chẳng phải là quay lại với thế giới cầm thú hay sao!”.
Mặc Địch nghiêm trang nói: “Lễ nghĩa là gì? Tại sao tàn sát một người là tử tội, mà chiến tranh xâm lược tàn sát hàng trăm hàng vạn người lại được tưởng thưởng, thậm chí ca tụng? Tại sao kẻ cướp đoạt tài sản hay gà chó nhà người khác bị gọi là đạo tặc, mà kẻ cướp đoạt đất đai quốc thổ của nước khác lại được gọi là danh tướng nguyên huân?” Khước Hoàn Độ thoắt trầm ngâm, lịch sử từ xưa đến nay đều như vậy, những sự việc ấy ngày nào chẳng phát sinh, nhưng chúng luôn tự nhiên như hô hấp, chưa từng có ai đưa ra để chất nghi.
Mặc Địch nói tiếp: “Tại sao đại đa số dân chúng phải kiệm ăn kiệm mặc, thậm chí chết vì đói rét, để cung phụng cho giai cấp thống trị phè phỡn ăn chơi? Tại sao bất chấp con cháu của một gia tộc hung tàn thế nào, vẫn để quyền bính thống trị cho nó truyền đời tiếp tục? Tại sao một nhà quý tộc chết đi, lại giết bao nhiêu người sống để táng theo? Tại sao chỉ vì một mạng, lại phung phí đồ vật quý, khiến nhiều người khuynh gia? Tại sao một người đã chết, con cháu của y lại phải giả bộ tang thương gầy yếu chỉ còn da bọc xương, gọi là để tang, suốt ba năm? Tất cả những lễ nghi phong tục đạo đức đó, là để làm gì?” Khước Hoàn Độ chìm trong suy tư, rất lâu mới đáp: “Những điều tiên sinh nói, khiến người ta phải thực sự nghĩ ngợi!” Gã thầm nhủ vấn đề này khiến đầu óc đau nhức cả lên, không phải chuyện một lúc mà lý giải phân tích suôn sẻ, bèn chuyển đề tài: “Tiên sinh lần đầu gặp mỗ, vì sao biết danh tính của mỗ vậy?” Bởi gã chưa hề nói cho vợ chồng họ Chúc tên thật của mình, vì vậy không nén được phải hỏi cho rõ ràng.
Mặc Địch ngửa mặt lên trời cười, lần đầu tiên để lộ phong khí hào hùng, nói:”Muốn quản việc thiên hạ, tất phải biết chuyện xảy ra trong thiên hạ. Công tử hiện tại danh chấn Kinh Sở, dưới ma trảo của Lệnh doãn Sở quốc, vẫn có thể tung hoành không uý kỵ gì, ta làm sao mà không biết?” Ngừng một lát rồi nói: “Nang Ngõa hiện đang ở biên giới bố trí thiên la địa võng, công tử nếu muốn lén trốn khỏi nước Sở, còn phải gặp trắc trở nhiều”.
Khước Hoàn Độ cảm thấy Mặc Địch trí tuệ triết nhân, lại thần thông quảng đại, mạc trắc cao thâm, hành sự vượt ra ngoài ý nghĩ của người ta, bất giác sinh lòng kính phục.
Mặc Địch nói: “Nang Ngõa họa hại thiên hạ, ta về lý cũng nên giúp ngươi một tay. Từ đây đi về phía Tây thẳng đến Hoàng Ninh Sơn, rồi quặt sang phía Bắc, bộ hành chừng ba ngày có thể đến được Đông Lăng, vùng đó núi non trùng điệp, cho dù Nang Ngõa ba đầu sáu tay, thế lực cũng không thể bao trùm như nhau ở mọi nơi, bảo đảm công tử sẽ được an toàn!”.
Khước Hoàn Độ nghe nói có hướng để đi, liền vội vàng cảm tạ. Hai người lại đàm đạo thêm một lúc, rồi Khước Hoàn Độ cáo từ ra về.
Ngày hôm sau, khi gã đến thăm, Mặc Địch đã bỏ đi, nhà cửa trống tênh. Khước Hoàn Độ không nén nổi buồn bã. Nhân sỹ có chính kiến, độc lai độc vãng như vậy quả thực khiến người ta ngưỡng mộ. Khước Hoàn Độ lưu lại vùng đó thêm mười mấy ngày, mãi cho đến khi hoàn toàn bình phục, mới theo lời Mặc Địch chỉ dẫn, rời khỏi đất Sở.
Bệnh tình của Khước Hoàn Độ, vừa khéo lại giúp gã tránh được một nạn kiếp. Nguyên lai Nang Ngõa đốc suất hết cao thủ, thề phải giết bằng được Khước Hoàn Độ, nhưng Khước Hoàn Độ lại kéo dài thời gian vượt qua biên giới, khiến người của Nang Ngõa đợi chờ một dạo, tiến hành vài cuộc bủa vây lớn mười mấy ngày, cuối cùng đều mất công vô ích.
Đúng là thế sự Tái ông mất ngựa, phúc họa khó lường.
Trải qua mười mấy ngày đi không ngừng nghỉ, Khước Hoàn Độ rốt cục cũng rời khỏi nước Sở, đến được đại ấp Tuy Dương của nước Tống.
Tuy Dương tọa lạc ở phía bắc Tuy Thủy, giao thông tiện lợi, địa thế lũng sông, thổ nhưỡng phì nhiêu, là thủ phủ của Tống quốc. Cung điện, đình tạ, ngự uyển, ngân khố của nhà vua, miếu chư thần, đền tế thần đất - thần ngũ cốc, phủ đệ của khanh đại phu và khách quán cư trú của các sứ thần, ngần ấy kiến trúc đều xây dựng ở trung tâm thành, bao bên ngoài là nhà dân và thị tập. Chợ của Tuy Dương nằm bên đường lớn tính từ cổng thành. Bên ngoài cổng là sông hộ thành và cầu rút để đi lại, lối vào lắp cửa treo có thể nâng lên hạ xuống, ban ngày đặt người canh gác, ban đêm kéo lên.
Khước Hoàn Độ đến trước quan môn, nạp thuế rồi mới được đi vào thành. Tập quán đóng tiền qua cửa là một nguồn thu nhập lớn của nhà vua thời bấy giờ.
Trong thành người xe như nước, vô cùng phồn thịnh náo nhiệt, xe ngựa lộng lẫy, áo quần thanh nhã. Vùng đất này gần Lỗ quốc - nơi có thợ khéo nổi danh đương thời, vì vậy những đồ chế tác, chạm khắc thêu thùa, đều nhập khẩu từ nước Lỗ, trông cực kỳ văn minh. Khước Hoàn Độ được mở rộng tầm mắt, tâm tình thoải mái. Nỗi hận hủy gia diệt tộc, nỗi khổ nhượng lại tình yêu cho Vu Thần, nỗi vất vả lúc đi xe đi thuyền, nỗi đau đớn không đất dung thân, đều tạm thời lắng xuống trong cõi lòng gã.
Khước Hoàn Độ đứng giữa thành ấp văn minh, tự nhiên nảy sinh cảm giác mông lung mờ mịt, cho dù bên cạnh bao nhiêu người đi lại, sao vẫn thấy lẻ loi! Trời đất dường như chỉ còn gã một mình cô độc. Lúc trước thân ở đất Sở, đêm ngày mong mỏi làm thế nào để chạy thoát ra nước ngoài, mục tiêu đó hết sức rõ ràng. Hiện nay đã ở đất Tống, con đường trước mặt lại thật xa mờ, không biết đi về đâu, đi theo hướng nào nữa.
Nếu không vì thân mang huyết hận, Khước Hoàn Độ có lẽ đã vung kiếm tự kết liễu rồi.
Đột nhiên một tràng xôn xao lùa tới, góc đường nhô ra một đội quân ước chừng hai mươi binh sĩ nước Tống, do một viên đội trưởng dẫn đầu. Họ sục sạo trong đám đông, tựa hồ đang tìm bắt người nào đó.
Một tên tiểu binh chợt trông thấy Khước Hoàn Độ đang dắt ngựa đi, biến sắc mặt, liền tới gần kề tai viên đội trưởng nói nhỏ. Khước Hoàn Độ vừa cảm giác không ổn, đã thấy y quay mình lại hét: “Dừng bước!”.
Khước Hoàn Độ lại rơi vào vòng vây, đứng giữa bọn họ, tuy nghi hoặc không hiểu, nhưng vẫn an nhiên không hề lo sợ.
Thứ nhất vì nơi đây xa cách Sở quốc, thế lực của Nang Ngõa khó mà với tới, huống hồ hiện nay Tống đang dựa vào Tấn, không có lý gì đi làm tay chân cho Sở. Đội trưởng nói: “Tôn Vũ! Hôm nay ngươi mọc cánh cũng không thoát được!”.
Khước Hoàn Độ ngạc nhiên: “Các hạ nhận lầm mỗ với ai đó rồi!”.
Lần này đến lượt đội trưởng ngạc nhiên, vội vàng móc từ trong bọc ra một bức chân dung, đối chiếu nhìn ngắm giây lát, mới nói: “Xét kỹ thì không giống lắm, mà giọng nói là ngữ âm của đất Sở, còn người chúng ta tìm lại là người nước Trần. Đắc tội đắc tội, xin đừng trách!”.
Khước Hoàn Độ thấy y khiêm cung lễ độ, trong lòng rất có thiện cảm, nhưng đang mang thân đào vong, không tiện nói nhiều, bèn mau chóng thi lễ, dắt ngựa bỏ đi. Không xa có gian lữ quán, Khước Hoàn Độ dặn dò tiểu nhị chăm sóc ngựa, rồi vào phòng đánh một giấc thật say.
Giấc ngủ ấy, đẫy sáu canh giờ, khi gã tỉnh dậy đã là sáng sớm ngày hôm sau. Những mệt nhọc lúc trước tựa như được gột sạch cả. Khước Hoàn Độ bỗng nhiên nổi hứng du ngoạn, nhớ ra tông miếu của Tống vương quy mô rộng lớn, gần đấy danh thắng san sát, hôm nay nhân có cơ duyên, không nên bỏ lỡ.
Khước Hoàn Độ gặp người trong lữ quán, hỏi kỹ đường lối, rồi cất bước đi.
Lúc đó Tống và Lỗ là lân bang. Nước Lỗ tuy nhược tiểu, nhưng so với liệt quốc thì văn hóa phát triển cao nhất. Tôn Chu1 bị hủy diệt, Thành Chu2 mấy lần bị phá hoại bởi nội loạn dưới thời Xuân Thu, càng tăng thêm địa vị về văn hóa của nước Lỗ, đúng như người ta thường nói “Chu Lễ tận tại Lỗ hĩ”. Sự văn minh về phương diện vật chất của nước Lỗ cũng hơn hẳn các nước khác, nghề mộc, nghề thêu và nghề dệt đều đặc biệt phát triển, Công Thâu Ban - bậc thầy chế tạo công cụ thời bấy giờ cũng là người nước Lỗ. Tống quốc ‘gần chùa được thụ lộc oản’, tự nhiên cũng chịu ảnh hưởng ở mức độ nhất định. Khước Hoàn Độ quan sát kỹ quy mô xây dựng và khí tượng của vùng này, tầm nhìn được mở rộng rất nhiều.
Gã thong thả đi. Trước mặt xuất hiện một khu lăng tẩm, trong ngoài có hai lớp tường bao hình chữ nhật, lớp ngoài là Trung Cung Viên, lớp trong là Nội Cung Viên. Giữa Nội Cung Viên có một đài cao, trên đài dựng một hàng năm kiến trúc hai tầng hình vuông, đối xứng nghiêm cẩn. Khước Hoàn Độ thầm nhủ, gò mộ mà kiến tạo đền đài lầu các như vậy, lại có tường thành trong ngoài, tự nhiên là muốn người ta dù đã chết, cũng có thể hưởng thụ những phú quý vinh hoa như thuở sinh thời.
Đột nhiên hàng loạt tiếng móng sắt khua động vang lên, Khước Hoàn Độ ngoảnh đầu nhìn, từ xa một đạo quân Tống đang phi ngựa tới. Đạo quân này toàn phục võ trang, xuống ngựa rồi thì chia nhau chặn lấy các yếu đạo, kiểm tra người qua lại.i
Nơi đây là thắng địa, du khách đang tụ tập rất đông, hành động của toán quân sĩ kia nhất thời gây nên một sự xáo trộn kinh hoảng. Nhiều người cụt hứng toan rời đi, nhưng toán binh sĩ giữ tất cả lại, tiến hành lục soát thân thể từng người một.
Khước Hoàn Độ rất lấy làm lạ, không biết Tống binh muốn tìm ai hay tìm cái gì. Đột nhiên gã cảm thấy bất an, trong mình mang vô số châu bảo, lại thêm Đồng Long có đóng ấn gia tộc, một khi bị lục soát ra, thực rất khó dự đoán hậu quả.
Đúng lúc ấy, trong lòng chợt có linh cảm kỳ quái, Khước Hoàn Độ khẽ lắc mình, tránh về sau một cánh cửa của tòa miếu.
Mấy người đi ra, trong đó có một người khẩu âm đất Tề rất nặng: “Tôn Vũ đã trúng kiếm của ta, tính mệnh không bảo toàn được đâu! Xem ra hôm nay mọc cánh cũng không bay thoát nổi”.
Một người khác nói: “Tuyệt nghệ của Lữ Chấn lão sư ai mà không biết. Nhất định sẽ lấy được những binh thư mà Tề quốc đang cần”.
Mọi người cùng đắc ý cười phá lên, đưa mắt nhìn ra xa.
Khước Hoàn Độ tâm niệm xoay chuyển, tự nhủ, lại là cái tên Tôn Vũ đó, hôm qua Tống binh đã ở trên đường lùng bắt y, chắc mình và y hình dạng có chút tương đồng, vì vậy chúng mới nhận nhầm. Không biết y là nhân vật thế nào, lại còn dính dáng đến một bộ binh thư.
Thân phận của gã cũng đầy bất trắc, chỉ muốn mau mau rời đi. Vừa định xem xét tình thế, đã thấy một đội binh sĩ nước Tống đi tới tông miếu.
Những tông miếu này là cấm địa đối với thường dân, Khước Hoàn Độ sao có thể để người ta phát hiện, vội lắc mình tránh vào sau đài tế.
Toán quân sĩ đảo tới đảo lui trước cửa, rồi xoay mình bỏ đi. Khước Hoàn Độ đang định lách ra, thì một mùi máu tanh xộc vào mũi gã.
Mùi máu tanh ấy bốc lên từ sau một đống tạp vật. Khước Hoàn Độ đi lại gần nhìn, thấy một người đang nằm sấp dưới đất, gã thò tay sờ xem hơi thở, hóa ra đã chết rồi, nhưng trước ngực vẫn còn âm ấm, có lẽ mới vừa đoạn khí.
Tướng mạo y đúng là có vài phần hao hao Khước Hoàn Độ. Gã nhớ lại mấy cao thủ nước Tề có nhắc đến cuốn binh thư, bèn giật mình lục lọi trên người y, quả nhiên tìm được trong bọc một cuốn sách gấm, tựa đề Tôn Vũ chước binh pháp thập tam thiên”.
Khước Hoàn Độ mở thiên đầu tiên xem, trên viết Kế thiên đệ nhất : Binh giả, quốc chi đại sự, tử sinh chi địa, tồn vong chi đạo, bất khả bất sát dã. Cố kinh chi dĩ ngũ, hiệu chi dĩ kế, nhi tác kỳ tình. Nhất viết đạo, nhị viết thiên, tam viết địa, tứ viết tướng, ngũ viết pháp.
Khước Hoàn Độ tim đập thình thình, từng chữ trong sách đều như châu bảo, nói những điều người xưa chưa từng nói đến. Gã toan xem tiếp, ngoài cửa miếu lại vang lên một tràng móng ngựa gõ cồm cộp.
Khước Hoàn Độ nghĩ việc gấp rút trước hết là phải tìm cách thoát thân, lập tức nhấc chân đi, đang định cất bước bỗng quay mình lại, trong đầu nảy ra một kế hoạch táo bạo. Gã thầm phác sơ tính toán, một tay xốc cái xác lên, một tay nhét quyển sách gấm vào trong bọc, ra khỏi miếu mà đi.
Vừa may toà miếu này dựa vào vách núi, phạm vi rất rộng, quân Tống nhất thời khó mà phong toả hết được.
Khước Hoàn Độ thi triển thân pháp, nhanh như quỷ mị, một lát sau đã xuyên vào khu rừng rậm bên chân núi.
Gã ôm cái xác, lướt lên một gò cao. Cạnh một bụi cây, gã đào huyệt sâu, đặt thi thể Tôn Vũ xuống đó.
Khước Hoàn Độ lại trầm ngâm một lúc, rồi từ từ tháo Đồng Long, xếp nó bên cạnh cái xác. Thanh kiếm này đã theo gã vào sống ra chết, lại là vật do phụ thân Khước Uyển trao cho, bây giờ phải từ bỏ nó, đau đớn chẳng khác nào cánh tay bị phế.
Khước Hoàn Độ cảm thấy thương tâm, nhưng tình thế bắt buộc, nếu còn mang thân phận Khước Hoàn Độ lưu lạc bốn phương, e rằng lúc nào cũng có thể táng mạng, làm thế này chẳng qua là bất đắc dĩ mà thôi.
Gã quyết định rồi, bình tâm lại, động tác linh hoạt lên rất nhiều. Huyệt mộ nhanh chóng được san bằng, Khước Hoàn Độ lại nhổ một cái cây ở bên cạnh, trồng lên đó làm dấu hiệu nhận biết.
Tất cả xong xuôi, Khước Hoàn Độ lầm rầm khấn: “Tôn huynh chết có thể nhắm mắt! Khước Hoàn Độ ta dùng tên tuổi của huynh, nhất định sẽ khiến cho binh pháp Tôn Vũ phát dương quang đại, lưu lại uy danh thiên cổ bất diệt”.
Khước Hoàn Độ rời khỏi gò nhỏ, mau chóng xuống núi theo một con đường khác. Lần này thân mang quỳ bảo, càng không thể để cho Tống binh chặn đường.
Xuống được tới chân núi, vừa ngước mắt nhìn lên, đã than trời không thấu.
Thì ra tất cả mọi thông lộ đều bị quân sĩ phong bế nghiêm nhặt, chim bay cũng không lọt, nghĩ bụng phải mau chóng tìm cách đối phó.
Đương khi Khước Hoàn Độ ngấm ngầm lo lắng, bên trái lăn tới một cỗ xe ngựa lớn, trước sau đều có Tống binh hộ vệ, hiển nhiên là tọa giá của một nhân vật phong vân.
–––– o0o ––––
1 Tôn Chu: tức Cảo Kinh, là Vương đô của Trung Quốc thời Tây Chu. Di chỉ hiện nằm ở phía tây bắc Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
2 Thành Chu: tức Lạc Ấp, là Đông đô của Trung Quốc thời Tây Chu, là Vương đô thời Đông Chu. Nay thuộc Lạc Dương tỉnh Hà Nam.
i Thời Chiến Quốc lăng tẩm có thiết định chế độ. Quý tộc, đặc biệt là quốc vương, lăng mộ quy cách rất cao, đều có ba vòng tường bao, lần lượt là Nội Cung Viên, Trung Cung Viên và Ngoại Cung Viên.
Hồi 10: Chịu ơn mỹ nhân
Khước Hoàn Độ giật mình, nhớ lại lần trước đã trốn dưới gầm xe của Hạ Cơ để vào Hạ Phố, toan dùng cái mẹo ấy một lần nữa, nhưng vừa nhìn ra, gã đã lắc đầu ngán ngẩm. Gầm xe chế tạo theo kiểu khác, cách mặt đất chỉ độ vài tấc, trừ phi gã biến thành cuộn vải, bằng không chẳng có cách nào lòn vào dưới đó cho được. Cỗ xe ngựa hình dáng như vậy, hiển nhiên không thích hợp với những chuyến hành trình dài, tuy đẹp nhưng kém thực dụng, có lẽ là tọa giá của hoàng cung. Nghĩ đến đây, gã quyết định mạo hiểm.
Cỗ xe từ từ lăn bánh trên con đường hẹp hai bên trồng đầy những cây tùng.
Khước Hoàn Độ đề khí nhảy lên ngọn cây, cúi nhìn cỗ xe ngựa đang chậm rãi lại gần.
Đợi nó đến đúng dưới tàn cây, Khước Hoàn Độ tiện tay bẻ một cành tùng, vận kình bắn sang bên kia đường.
Cành tùng gãy ‘phắp’ một tiếng, đâm thục vào hàng cây đối diện, phát ra âm thanh khô khốc.
Tám tên thị vệ hộ tống trước sau bị đánh động, nhất tề ngoảnh đầu nhìn sang.
Thời cơ không thể bỏ lỡ. Nhẹ nhàng như một con chim, Khước Hoàn Độ từ tán cây lá rậm rạp đan xen thả mình xuống, tiếng lá xô khẽ như có cơn gió lùa qua, gã mở cửa rồi khép cửa, lắc mình vào trong cỗ xe.
Ngần ấy động tác phức tạp chỉ diễn ra trong nháy mắt, trong vòng một hơi thở. Khước Hoàn Độ thân thủ phi phàm, nắm bắt chính xác thời điểm, làm chuyện đổi kèo thay cột ngay trước mắt quân Tống. Quan trọng hơn cả là tinh thần mạo hiểm gan dạ của Khước Hoàn Độ. Trong nhiều lần chạy trốn lúc trước, gã luôn bộc lộ một khí độ đảm lược, và cũng rất nhiều lần, khí độ đó đã giúp gã chuyển nguy thành an.
Lọt vào trong xe rồi, Khước Hoàn Độ và người ngồi đấy cùng nhìn nhau thất kinh.
Người ta thất kinh vì tự dưng lại có kẻ đột nhập được vào trong một hoàn cảnh không thể tin nổi như thế này.
Khước Hoàn Độ thất kinh vì không ngờ người ta là một nữ tử. Mà lại là một nữ tử kiều lệ thanh tú, rung động lòng người.
Dường như là sự an bài của số mệnh, vì hai lần, trong hai cỗ xe đều là giai nhân.
Lần trước là Hạ Cơ, lần này là một nữ tử trang phục hoa lệ, xem ra cũng thuộc vào hàng phi tần của Tống vương.
Nữ tử còn chưa kịp hét lên kinh hãi, bàn tay to lớn của Khước Hoàn Độ đã bịt chặt lấy cái miệng nhỏ của nàng.
Dung mạo thật đẹp, không mặn mà như Hạ Cơ, nhưng thanh tú thoát tục, tao nhã xuất trần.
Khước Hoàn Độ cảm thấy rất bất an, vì một tên tục tử như mình lại mạo phạm đến giai nhân. Có điều hiện tại đã cưỡi trên lưng hổ mất rồi.
Khuôn mặt đẹp của nàng, nửa dưới bị Khước Hoàn Độ bịt chặt lấy, chỉ còn chừa ra đôi mắt rỡ ràng bên trên.
Đôi mắt loang loáng, Khước Hoàn Độ đột nhiên kinh ngạc, nhận thấy chúng truyền đạt một thứ cảm tình rất lạ. Trong đó, nỗi hoảng hốt ban đầu đã bị sự hiếu kỳ thay thế, dần dần biến thành một biểu hiện tâm lý phức tạp, pha trộn giữa mến tiếc, đồng tình và tựa hồ có chút gì như là ngưỡng mộ.
Phản ứng của nàng vượt quá dự liệu của Khước Hoàn Độ, khiến gã không hiểu ra làm sao cả.
Xe chầm chậm lăn bánh, binh sĩ Tống hộ vệ bên ngoài vẫn cứ an nhiên, không hay không biết bên trong lại xảy ra sự thay đổi kinh khủng như vậy.
Khước Hoàn Độ đang đau đầu với một vấn đề khác.
Dưới bàn tay, gã rõ ràng nhận thấy đôi môi ướt mềm mỏng mảnh của nàng. Sự rung động nhẹ nhàng của đôi môi ấy khiến tim gã căng lên.
Ban đầu Khước Hoàn Độ dự định, đột nhập vào là sẽ lập tức điểm huyệt đối phương, nhưng hiện tại gã không tài nào hạ thủ được. Phương pháp cứng rắn để phong bế kinh huyệt đó, có thể tạo nên những di chứng lâu dài đối với một thể chất yếu đuối như thế này, gã làm sao không thương hoa tiếc ngọc chứ?
Xe đột nhiên dừng lại.
Khước Hoàn Độ mắt loé lên nghiêm khắc, cột sống hơi cong xuống, tinh thần cảnh giác cao độ, sẵn sàng ứng phó với bất kỳ đột biến nào.
Nữ tử đó nhìn tướng mạo uy võ của gã, mắt lộ niềm hứng thú vô cùng. Bên dưới vẻ yếu đuối của nàng, không ngờ lại là một trái tim can đảm.
Ngoài xe có tiếng gọi vang lên: “Tả vệ Phạm Kiệt Sinh, xin được hỏi thăm phu nhân!”.
Khước Hoàn Độ than thầm, đang định liều chết xông ra, đột nhiên phát hiện tình hình có chuyển biến, nữ tử xinh đẹp đang gật đầu ra hiệu, ánh mắt lộ vẻ tự nguyện hợp tác.
Một là thời gian không thể chậm trễ được nữa, hai là cho dù làm ầm lên, cũng không thể thay đổi được gì nhiều. Khước Hoàn Độ quyết định mạo hiểm, mau chóng thu tay về.
Nữ tử khe khẽ thở.
Bên ngoài một lần nữa vang lên tiếng gọi: “Phu nhân! Người không sao chứ?” Ngữ khí so với lúc trước có phần khẩn trương.
Nữ tử dịu dàng hỏi: “Chuyện gì thế?”
“Đã đến cửa cung rồi!” Phạm Kiệt Sinh đáp.
“Ừ!”.
Nữ tử ra hiệu cho Khước Hoàn Độ ở lại trong xe. Tướng mạo anh tuấn, phong độ tiêu sái của gã từ đầu đã khiến nàng rung động và ngưỡng mộ, nhưng không dám cùng gã nói chuyện. Lúc này, nàng nhìn thẳng vào Khước Hoàn Độ, nết mặt lộ vẻ cao hứng vô cùng.
Cỗ xe ngựa từ từ tiến vào cửa cung.
Họ lặng lẽ nhìn nhau. Cặp mắt biết nói của nữ tử lộ vẻ bịn rịn quyến luyến. Hai người bình thủy tương phùng, vừa tụ lại tan.
Cỗ xe dừng lại.
Nữ tử nhỏm dậy ghé vào tai Khước Hoàn Độ nói rất nhanh: “Ta biết người là Tôn tiên sinh! Nước ta đối xử với người như vậy chỉ vì khiếp sợ uy thế của Tề quốc, cũng may ta đã có sắp xếp mua chuộc. Bảo trọng nhé, nhớ này, ta họ Trịnh, khuê tự là Nhu Nhiên”. Nói đoạn nàng đẩy cửa xe bước xuống.
Rồi giọng nàng vang lên bên ngoài: “Ngựa thì dắt đi cũng được, nhưng cỗ xe cứ để lại đây, ta có khi còn phải dùng nữa!” Tùy tòng vội vàng ứng tiếng.
Thân phận của Trịnh Nhu Nhiên thực kỳ quái. Nhưng sự thực là thế nào, xem ra Khước Hoàn Độ không có cơ hội biết được nữa rồi.
Tiếng người xa dần.
Ngựa cũng đã được dẫn đi.
Khước Hoàn Độ toan dò xét xem tình hình xung quanh, bỗng nghe có tiếng bước chân từ xa thoắt lại gần. Rồi một thanh âm khẽ khàng cất lên: “Tôn Vũ! Ngươi có thể qua mắt phường giá áo túi cơm của Tống quốc, nhưng làm sao thoát nổi Lữ Chấn ta. Huống hồ ngươi đã trúng của ta một kiếm, kéo được chút hơi tàn đến giờ cũng khá lắm rồi. Hãy lập tức đưa binh thư ra đây, ta sẽ để ngươi chết một cách ít dằn vặt nhất!”.
Khước Hoàn Độ tâm niệm xoay chuyển như chớp, Lữ Chấn chính là cao thủ nước Tề lúc nãy đâm bị thương Tôn Vũ, sau đó đi qua mặt gã trước cửa khu lăng của Tống vương. Gã giật mình, vội giả giọng như bị thương nặng, yếu ớt hỏi: “Ngươi làm sao biết ta nấp trong xe?”.
Lữ Chấn cười khẽ: “Ta nhìn dấu bánh xe, so với độ nông sâu ban đầu là biết tải trọng đã tăng lên, đương nhiên luận ra do có người ẩn vào. Ta cũng đánh giá ngươi quá thấp, trúng kiếm rồi mà vẫn giở trò đổi kèo hoán cột, thần không hay quỷ không biết mà lẩn vào đây”.
Khước Hoàn Độ thấy Lữ Chấn một mực thấp giọng, đoán ra hắn ngại có người phát giác sự hiện diện của hắn. Gã cũng cảm thấy kỳ quái, xe đi rất chậm, bất cứ lúc nào Lữ Chấn cũng có thể ngăn xe lại, vì sao tới bây giờ mới ra tay?
Khước Hoàn Độ nói: “Vụ giao dịch này ta chấp nhận, nhưng có một điều kiện. Ngươi hãy nói cho ta biết, vì sao ngươi đợi đến lúc này mới xuất hiện?”.
Lữ Chấn hiển nhiên rất phấn khích: “Nói cho ngươi biết cũng được! Ta sở dĩ đợi đến lúc này, một là sợ ngươi cao chạy xa bay, hai là muốn chứng thực Trịnh phi che giấu cho ngươi. Lâu nay từng nghe Trịnh phi diễm lệ vô song, ta muốn nhân chuyện này thử hoa vờn liễu một phen”. Nói đoạn hắn cười hắc hắc rất là dâm tục.
Khước Hoàn Độ nộ khí tràn lồng ngực, lòng vụt nổi sát cơ.
Lữ Chấn đã xuất hiện trước cửa xe, tay nâng trường kiếm, miệng thét: “Còn không mau đưa ra đây!”.
Khước Hoàn Độ vận công bức cho trán lấm chấm mồ hôi, nhìn qua tưởng như trọng thương sắp nguy đến nơi, lấy binh thư từ trong bọc ra, đưa cho Lữ Chấn.
Lữ Chấn mặt lộ nét mừng, nhưng không tiếp lấy cuốn sách, mà nhích trường kiếm, đâm thẳng vào ngực Khước Hoàn Độ, ác hiểm cùng cực.
Khước Hoàn Độ vừa né tránh vừa lao tới, đã kẹp được trường kiếm của Lữ Chấn dưới nách, vung quyền đấm thẳng vào ngực hắn, nghe rõ tiếng xương ngực gãy khục, Lữ Chấn bắn vụt về sau ba trượng, Khước Hoàn Độ ra quyền rất có tính toán, xung lực tuy lớn, nhưng không đẩy thân thể Lữ Chấn đi quá xa. Lữ Chấn võ công dưới cơ Khước Hoàn Độ, lại chủ quan nhầm tưởng đối thủ trọng thương, lẽ tất nhiên là táng mạng đương trường.
Khước Hoàn Độ thầm nghĩ rốt cục đã trả được thù cho mũi kiếm của Tôn Vũ. Tiếp đó gã nhảy ra khỏi xe ngựa, bốn bề lặng ngắt không một bóng người, gã vội vàng kẹp lấy Lữ Chấn, nhảy qua tường cung mà đi. Lữ Chấn là do nước Tề phái tới, xử lý không cẩn thận, thì sẽ gây họa diệt quốc cho người ta.
o0o
Năm 512 trước công nguyên, Chu Kính Vương năm thứ 8.
Nhìn chung tình thế thiên hạ lúc bấy giờ, tôn thất nhà Chu dần dần suy yếu, thế lực chư quốc ngày một bành trướng, sức mạnh quân sự ngày một tăng cường. Trong các nước lớn, thì có Sở và Tấn thực lực hùng hậu hơn hẳn các nước khác.
Tấn quốc nằm ở trung nguyên, xưng bá lưu vực Hoàng Hà. Sở quốc hùng cứ vùng đất phì nhiêu ở lưỡng ngạn Trường Giang, tuy lệch về phương Nam, nhưng vẫn rắp tâm tiến vào trung thổ. Nhất thời lưỡng hùng khiên chế lẫn nhau. Sở bị Tấn ngăn cản, chưa thể làm chúa tể trung nguyên; Tấn bị Sở gây rối, cũng không thể độc bá thiên hạ.
Nói thêm về tình hình của hai nước mạnh là Tấn và Sở. Tấn từ sau trận chiến Hào Sơn1, trở thành tử địch với Tần, bất hòa với Tề, nên tuy mang danh vị bá chủ, nhưng kỳ thực quẫn bách về nhiều mặt. Lại thêm vương tộc tôn thất của Tấn quốc mỗi ngày một suy yếu, quyền lực chuyển dần sang tay công khanh và tiểu quần thần có đất phong, hình thành nên Lục Khanh2, uy quyền nghiêng thiên hạ, ai cũng mang lòng riêng, nội loạn sắp đến hồi bùng nổ. Hôm trước Khước Hoàn Độ từ chối gợi ý của Vu Thần, không cùng y sang nương tựa nước Tấn, lý do chính là ở chỗ đó. Lúc này nước Tấn quả thực không còn hơi sức đâu để quan tâm đến tình hình bên ngoài nữa.
Còn Sở quốc - bá chủ phương Nam, Sở Chiêu Vương tục vị khi còn nhỏ tuổi, lập tức trọng dụng Lệnh doãn Nang Ngõa. Nang Ngõa vừa nắm được quyền lực, đã ráo riết loại trừ những kẻ không cùng phe cánh với mình, gây nên cái họa hủy gia diệt tộc của Khước Hoàn Độ, khiến trời giận người oán, vô hình trung đã trồng xuống cho nước Sở một cái mầm tai ương.
Giữa bối cảnh ấy, Ngô quốc, nằm ở phía hạ du Trường Giang nơi miền đông xa xôi, dưới sự lãnh đạo của Hạp Lư vốn nuôi mộng tranh hùng, đã thừa cơ để dự phần vào đại nghiệp trung nguyên. Hạp Lư rất trọng dụng Ngũ Tử Tư, một người hiểu rõ tình hình chính sự nước Sở, nguyên lai gia tộc y bị hại trong tay Sở vương, nên nuôi chí phò trợ Ngô quốc để báo niềm đại hận. Nguyên tắc kiến tạo quốc phú binh cường của Ngô là ‘Tu pháp chế, hạ hiền lương, tuyển luyện sĩ, tập chiến đấu’, qua thời gian dài đã tỏ ra rất có hiệu quả.
Đương nhiên, lúc này thực lực của Ngô quốc vẫn còn kém rất xa hai nước Tấn, Sở, nhưng đã hình thành nên một thế lực mới nổi, rục rịch phát động chiến tranh.
Ngày hôm đó, dưới sự chủ trì của Ngô vương Hạp Lư, các tướng sĩ chủ chốt đến tụ tập trong nghị sự sảnh.
Ngô vương Hạp Lư mở lời: “Nếu Ngô quốc của ta muốn tranh bá thiên hạ, nên bắt đầu hành động từ đâu?” Nói đoạn cặp mắt lấp lánh tinh mang nhìn một vòng khắp lượt thuộc hạ. Hạp Lư thân hình khôi vĩ hùng tráng, mặt vuông tai lớn, sắc diện tươi sáng, không giận mà có uy, kiên quyết quả đoán, khí phách áp đảo người khác.
Chúng tướng thảy đều trầm ngâm, câu hỏi thực khó đáp, trả lời mà không đưa được lý lẽ đầy đủ để củng cố, tất sẽ bị Ngô vương khinh thị.
Công khanh Tử Sơn là người đầu tiên phá vỡ không khí trầm mặc, cất giọng nói: “Nước ta nằm lệch về phương đông hẻo lánh, là lân bang với Việt quốc, hai phương bắc và tây cường địch luôn dòm ngó, về lý là nên giao hảo với bên ngoài, chuyên tâm vào chính sự bên trong, đợi tới ngày quốc thế phú cường, thu hẹp sự cách biệt với các nước lớn như Tấn, Sở, Tề, Tần..., mới có thể thong dong định kế, tuyệt không nên nhằm lúc thời cơ chưa chín muồi mà khinh cử vọng động”. Tử Sơn tính người trầm ổn, xưa nay chủ trương tiến chậm nhưng chắc, nên mới trình bày ý kiến như vậy.
Hạp Lư mỉm cười, cũng không bình phẩm gì, lại đưa mắt nhìn sang những người khác. Phu Khái Vương, thân đệ của Hạp Lư, người nổi tiếng anh dũng ở Ngô quốc, cười vang mà rằng: “Tử Sơn nói vậy, không tránh khỏi có chỗ sơ suất. Nên biết thời đại hiện nay cá lớn nuốt cá bé, mình tuy không có bụng hại hổ, nhưng hổ lại có ý hại mình, thêm vào đó bản đồ nước Ngô không lớn, nếu chúng ta rụt đầu rút cổ, chỉ dựa vào mảnh đất mấy trăm dặm này, cuối cùng cũng khó thành đại sự. Vì vậy việc cần kíp trước mắt, là nên nhìn xa hơn vùng đất hẻo lánh. Thế nước mỗi ngày một mạnh, bắt đầu có hi vọng tranh cường rồi đó”. Phu Khái Vương vóc dạc uy mãnh như hùng sư, hai mắt tàng thần bất lộ, vừa có mưu lược lại đầy dã tâm, là dũng tướng nổi danh nhất ở Ngô quốc, trên tay một cây trường mâu xưa nay chưa từng gặp ai đấu lại nổi mười hiệp, được xưng tụng là đệ nhất cao thủ của Ngô - Việt. Tính tình hắn hung tàn hiếu chiến, dưới tay huyết tanh vô số, người người đều khiếp kinh.
Hạp Lư thần sắc bất động: “Phu Khái Vương tâm hùng chí cao, chỉ không biết con đường tranh bá này, có thế bắt đầu như thế nào đây?” Câu hỏi đưa ra trong giờ phút quan trọng, mỗi một quốc sách, đều là một lý tưởng và mục tiêu, nhưng lựa chọn và thi hành ra sao, mới là điều cốt yếu quyết định thắng bại.
Phu Khái Vương dứt khoát nói: “Để chiến thắng, đương nhiên phải tránh nước mạnh đánh nước yếu, mấy tiểu quốc như Đàm, Từ, Trần, Thái... có thể dần dần thôn tính. Cứ tích luỹ như vậy rồi tiến lên, Ngô quốc của chúng ta tất có một ngày tranh bá với Tấn, Sở.
Một viên đại tướng khác là Bạch Hỉ phụ hoạ: “Phu Khái Vương quả nhiên nhìn xa trông rộng, bản tướng nguyện theo phò dưới cờ, vì Ngô quốc mà tranh đấu!”.
Bạch Hỉ và Phu Khái Vương xưa nay đứng chung một trận tuyến, cùng tiến cùng lui.
Ngũ Tử Tư nãy giờ cứ cười nhạt, Hạp Lư mãi không thấy y lên tiếng, hơi giật mình, bèn hỏi: “Ngũ tướng quân ý kiến của ông thế nào?”.
Ngũ Tử Tư đáp: “Phu Khái Vương chỉ ra hướng hưng khởi của Ngô quốc, đề cấp đến khả năng mở rộng lãnh thổ, bản tướng hoàn toàn đồng ý. Nhưng về phương pháp tiến hành, e rằng có chỗ cần thương thảo thêm”.
Phu Khái Vương sắc mặt âm trầm, không để lộ lấy một nét buồn hay giận, hắn xưa nay vẫn bất hòa với Ngũ Tử Tư, trong lòng lúc này nổi rất nhiều sát cơ.
Bạch Hỉ cười lạnh, nhưng chỉ im lặng.
Ngũ Tử Tư cũng không để tâm, tiếp tục nói: “Ngô muốn thôn tính các tiểu quốc lân cận, thì dư sức. Có điều mấy nước như Đàm, Từ... tuy nhỏ, nhưng quan hệ rất mật thiết với các nước lớn, vì vậy phạm đến họ, tức là kích động cơn giận của số đông, dẫn đến việc nhiều nước mạnh cùng nhau công kích chúng ta”.
Đại phu Đấu Tân hưởng ứng: “Ngũ tướng quân nói đúng lắm vậy!”.
Phu Khái Vương và Bạch Hỉ cười khẩy, lắc đầu biểu thị không đồng ý chút nào.
Tình thế vậy là hết sức rõ ràng. Năm đại thần quan trọng nhất của Ngô quốc, trừ một mình Tử Sơn chủ trương khoan tiến ra bên ngoài, những người khác đều theo phái chủ chiến, nhưng phái chủ chiến lại phân ra một phe của Phu Khái Vương và Bạch Hỉ, còn Ngũ Tử Tư và Đấu Tân lại ngả theo một luồng ý kiến khác.
Chỉ có Ngô vương Hạp Lư vẫn chưa bộc lộ quan điểm.
Hạp Lư cười dài: “Kế hoạch của Ngũ tướng quân rốt cục là như thế nào, còn ngại gì mà không nói ra cho mọi người cùng nghiên cứu!”.
Ngũ Tử Tư vẫn thản nhiên, vẻ tự tin mạnh mẽ: “Nếu muốn tranh bá trung nguyên, lưu vực Hoài Hà phải là hòn đá móng của chúng ta!”.
Hạp Lư chau mày: “Dải đất ấy nằm trong tầm khống chế của Sở quốc, chúng ta muốn dự phần vào, chẳng phải sẽ dẫn đến sự xung đột chính diện với Sở quốc hay sao?”.
Phu Khái Vương phá lên cười lớn: “Điều đó thật hợp với ý của Ngũ tướng quân mà!”.
Nguyên lai Ngũ Tử Tư là người nước Sở, vì cha, anh và cả nhà đều bị giết dưới tay Sở vương, y nuôi chí phục hận, nên Phu Khái Vương mới gièm y có tư tâm.
Ngũ Tử Tư tuyệt không đếm xỉa, công phu hàm dưỡng của y rất cao, chưa bao giờ tùy tiện để lộ những cảm xúc trong tâm khảm. Lúc này nét mặt y càng như băng giá, vì suy nghĩ quá độ mà phảng phất có vẻ tiều tuỵ, y nói, không mảy may kích động: “Chúng ta muốn lớn mạnh, tất không thể nhượng Sở quốc! Huống hồ mặt đông của ta là biển lớn, không còn đất để mở rộng, phương nam là một vùng lạc hậu, lấy được cũng vô dụng, nhìn sang phía bắc, các nước mạnh như Tề, Tấn, Tần chẳng lẽ chịu để cho thế lực của ta tràn sang? Vì vậy nếu mưu đồ vượt lên, tất phải đánh bại Sở quốc đầu tiên. Muốn đánh bại Sở quốc, thì phải lấy được Hoài Di. Hoài Di đất đai phì nhiêu giàu có, lại lắm quặng đồng, tất có thể trợ giúp cho bá nghiệp của chúng ta!”.
Ngũ Tử Tư kiến giải rất hợp lý, Ngô vương Hạp Lư gật đầu không ngớt. Đến Phu Khái Vương và Bạch Hỉ cũng phải nghẹn lời. Hai người bọn họ đều là danh tướng, đều hiểu mưu lược, tự nhiên nhận biết những điều Ngũ Tử Tư phân tích đích thực là cao kiến.
Tử Sơn nói: “Ngũ tướng quân đã vạch ra hết tình thế của địch và ta, nhưng sức mạnh quân sự của Sở gấp mười lần Ngô, lại thêm nước ta nằm ở hạ du Trường Giang, mà Sở quốc thì nằm ở trên nguồn, địch nhân thuận dòng tấn công ta thì dễ, ta ngược dòng đánh lên lại khó. Huống hồ thủy sư Sở quốc danh chấn thiên hạ, danh tướng như hạng Tố Công đều thiện chiến đường thủy, chúng ta làm sao có thể kháng cự?” Tử Sơn trước sau chủ hòa không chủ chiến, nhưng kiến giải của y, đã chỉ ra nguyên do khiến Ngô quốc xưa nay vẫn luôn rơi vào thế hạ phong.
Ngũ Tử Tư nói: “Ta chính là nhằm vào điểm này, đã định ra mấy cách đối phó. Thứ nhất, chúng ta phải nỗ lực học cách công thủ trên bộ, đặc biệt là tinh nghiên thuật xa chiến. Nếu đại vương phê chuẩn, thần có một cố nhân ở Tấn quốc, người này rất giỏi thuật xa chiến, đặc biệt thành thạo chiến thuật của Sở quân, được y phò giúp, không khác gì như hổ thêm cánh!”.
Hạp Lư gật đầu: “Người Ngũ tướng quân nhắc đến đó tất là Vu Thần vừa phản lại Sở quốc, sau khi y bỏ đi, thân tộc đã bị Công tử Phản, Nang Ngõa tận sát, huyết hải thâm cừu, quả nhiên là một người lý tưởng, Ngũ tướng quân cứ tùy nghi hành sự”. Hạp Lư nghe Ngũ Tử Tư trình bày kế sách tránh cái nặng lấy cái nhẹ, không giao phong với địch nhân trên sông, hiển nhiên rất hân thưởng. Nên biết Ngô quốc vốn là đất nước nhiều sông nhiều suối, quen thủy chiến chứ không quen lục chiến, nhưng giao tranh đường thủy với Sở, thực không có cách nào thủ thắng, nên đối sách của Ngũ Tử Tư quả nhiên là xem đúng bệnh mà cắt thuốc.
Ngũ Tử Tư nói: “Thứ hai, bên ta còn một nhân tố thuận lợi khác, chính là tận dụng tình thế roi dài mà không với tới của địch nhân. Thế lực Sở quốc tuy có thể vươn tới hạ du Hoài Hà, nhưng lại cách đất đai của ta quá xa, khó mà chi phối được, đó cũng là điểm yếu của nó. Vì vậy vùng Hoài Di là nơi mà chúng ta nhất định phải giành lấy, cũng là vùng nhất định có thể giành lấy được!” Ngừng một lát, y lại tiếp: “Ba ấp Châu Lai, Chung Li và Sào mà Sở quốc đặt ở vùng này là những mục tiêu đầu tiên của chúng ta, chỉ cần đoạt được ba trấn này, là sẽ khống chế được khu vực Hoài Hà, rất có lợi cho việc tiến về phía tây. Chúng ta có thể phân ba mũi tấn công, địch tiến thì ta lui, địch lui thì ta tiến, khiến cho chúng mệt mỏi đến chết”.
Hạp Lư vỗ án khen hay, đến Phu Khái Vương và Bạch Hỉ xưa nay bất hòa với Ngũ Tử Tư mà cũng phải gật đầu đồng ý, nhưng đồng thời, càng sinh lòng đố kỵ với y hơn.
Đấu Tân lúc này mới chen vào: “Trước lúc đó, chúng ta phải cắt đứt hậu phương, không cho Việt chi viện Sở”.
Ngũ Tử Tư đáp: “Điều ấy tất nhiên!”.
Hạp Lư trong lòng hoan hỉ, đang định tán thưởng, nhưng Ngũ Tử Tư đã lại nói: “Hạ tướng còn một đề nghị!”.
Mọi người hết sức tò mò, không biết y còn đưa ra kỳ mưu diệu kế gì nữa.
Ngũ Tử Tư không nói, im lặng lấy từ trong bọc ra một quyển cẩm thư, dâng lên cho Hạp Lư.
Hạp Lư đón lấy, lật mở xem, giây lát nét mặt lộ vẻ kinh ngạc, ngẩng phắt đầu lên hỏi: “Người này hiện ở đâu?” Ngũ Tử Tư đáp: “Mười ngày trước y từ Tề quốc chạy tới chỗ thần cầu kiến, đưa ra cuốn binh thư y viết. Đúng là thiên tài, những kiến giải đó tiền nhân chưa hề nhắc đến. Thần và y đã luận đạo suốt mười ngày, trộm nghĩ được người này tận giúp Ngô quốc, nào sợ đại sự không thành!”.
Hạp Lư ngửa mặt cười lớn: “Ngũ tướng quân mau dẫn kiến y với bản vương, đúng là trời giúp ta rồi!”.
–––– o0o ––––
1 Hào Sơn: cũng gọi là Đông Sơn hoặc Hào Đình, nơi Nguyên soái nước Tấn Tiên Trẩn đại phá quân Tần, bắt sống cả 3 viên tướng chỉ huy, là Mạnh Minh Thị con trai của Tả thừa tướng Bá Lý Hề, Kiển Bính con trai Hữu thừa tướng Kiển Thúc, và mãnh tướng Tây Khuất Thuật, cả 3 đều là tướng giỏi bậc nhất thời ấy.
2 Lục Khanh 六卿: sáu dòng họ lớn, Trí (智), Nguỵ (魏), Triệ (趙), Hàn (韓), Phạ (范), Trung Hành (中?行).
Hồi 11: Bái kiến minh chủ
Ngũ Tử Tư quay về phủ đệ, lập tức sai người mời Tôn Vũ tới gặp. Lúc đó Tôn Vũ, do Khước Hoàn Độ mạo xưng, đang tĩnh tọa tiềm tu, nghe thấy lời mời, lật đật đi lại thư phòng Ngũ Tử Tư. Mười ngày qua, hai người bọn họ đã ở đây, đàm luận rất nhiều lần về binh pháp và tình hình các nước.
Ngũ Tử Tư hân hoan nói với Khước Hoàn Độ: “Tôn tiên sinh, Ngũ mỗ không phụ sự ủy thác của tiên sinh! Sớm mai đại vương triệu kiến, ta và tiên sinh sẽ cùng vào cung. Đại vương tinh tường, biết trọng dụng nhân tài. Huynh chỉ cần lưu ý hai người là Phu Khái Vương và Bạch Hỉ mà thôi”. Ngữ khí của Ngũ Tử Tư, hàm chứa đầy sự kính trọng.
Khước Hoàn Độ cảm kích nói: “Ngũ tướng quân hết lòng giúp đỡ, khiến Tôn mỗ có dịp mở mày mở mặt. Đại ân đó không thể cảm tạ bằng lời!” Lúc này giọng gã đã mang ngữ âm Tề quốc, nguyên lai trước khi đến Ngô, Khước Hoàn Độ sinh sống ở Tề nửa năm, một mặt tiêu hóa cuốn binh thư lời ít ý nhiều của Tôn Vũ, mặt khác chủ tâm thay đổi giọng điệu đất Sở của mình.
Ngũ Tử Tư nói: “Tài năng của Tôn huynh, bằng cách này hay cách khác cũng sẽ có đất dụng võ! Điều ta lo lắng là ngày mai vào cung, Phu Khái Vương và Bạch Hỉ sẽ giở nguỵ kế ngăn cản. Hai người này thủ hạ tử sĩ cao thủ vô số, hết sức đáng ngại”. Y biết Khước Hoàn Độ binh pháp như thần, nhưng không ngờ kiếm thuật của gã mới chính là hạng chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Khước Hoàn Độ lạ lùng hỏi: “Ngũ tướng quân được Ngô vương tín nhiệm, lần này triệu kiến ta do lệnh của Ngô vương, ai dám ngăn trở?” Ngũ Tử Tư đáp: “Bình thường thì đúng là như vậy. Nhưng tiên sinh nổi tiếng vì tài dụng binh, mà đến yết kiến cũng không đảm bảo đúng giờ, sao có thể bàn chuyện cơ đồ bá nghiệp. Cho dù sau đó có gặp được đại vương, họ cũng sẽ lèm bèm gièm pha, vin vào lý do ấy để chứng minh huynh chỉ là một lý luận gia không tưởng”.
Khước Hoàn Độ nín lặng, thầm nghĩ cơ hội này mà để tuột mất, ngày sau Ngô vương dẫu có chịu dùng đến mình, tất cũng hùa theo số đông mà nhìn mình với cặp mắt khinh khi. Gã vội vàng hỏi kỹ địa hình, đường đi lối lại của Ngô cung, để tiện ứng phó với sự bố trí của Phu Khái Vương và Bạch Hỉ.
o0o
Phủ đệ tướng quân của Ngũ Tử Tư tọa lạc ở phía đông thành, cách cung điện Ngô vương chừng bốn dặm. Từ phủ tướng quân tới con đường lớn dẫn vào cung điện, trước tiên phải đi qua một khu thị tập và phố xá sầm uất, sau đó mới rẽ vào con đường lớn cây cối rậm um và u tĩnh. Con đường này xuyên qua một hồ rộng bao quanh cung điện, cảnh sắc tươi sáng, lòng đường có thể chứa cùng lúc mười ngựa đi dàn hàng, nếu bị phong toả, thì nhánh phía nam để lên Ngô cung coi như bị cắt đoạn. Mà đây chính là tuyến đường Ngũ Tử Tư hàng này đi vào để yết kiến Hạp Lư.
Tinh mơ.
Cuối giờ dần.
Trời còn chưa sáng hẳn, cư dân xung quanh Tướng phủ đã bắt đầu những hoạt động của một ngày. Xe ngựa xe bò từ các ngõ tắt lần lượt ùn ùn đổ ra đại lộ.
Còn dậy sớm hơn bọn họ và đã đứng đợi sẵn sàng ở đây là Giản Điện Chi, một cao thủ, thuộc hạ đắc lực của Phu Khái Vương, tính tình tinh minh hoạt bát, lắm mưu nhiều kế, một trong những tay chân thân tín nhất của Phu Khái Vương.
Cặp mắt Giản Điện Chi không bỏ sót bất cứ một động tĩnh nào ở Tướng quân phủ. Hắn dẫn theo hơn hai trăm thủ hạ, đã sắp xếp ở mọi vị trí chiến lược. Chỉ cần hắn ra một mệnh lệnh, những dũng sĩ tay cương tay lưới ấy sẽ ào ào ùa ra, móc cổ Tôn Vũ lôi xuống, trói gô lại điệu đến trước mặt Ngô vương. Kế hoạch này do Bạch Hỉ đưa ra, chủ tâm một mũi tên bắn trúng hai đích, vừa chứng minh Tôn Vũ chỉ có hư danh, đến bản thân còn không tự bảo vệ nổi, vừa vũ nhục Ngũ Tử Tư, làm lung lay địa vị của y ở Ngô quốc, xét ra thật là lang độc.
Đột nhiên hai nam tử đầu đội nón trúc, rất khó nhận diện song song từ cửa lớn của Tướng quân phủ đi ra, vì trước nón trúc còn che một tấm mạng chắn nắng, nên không nhìn rõ có phải là Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ hay không.
Giản Điện Chi tâm cơ quyết đoán, lập tức cho thủ hạ tiến lên trước dọ thám. Đúng lúc đó lại có hai nam tử khác cùng kiểu cùng dạng, đi sau hai nam tử trước chừng một trượng, song song tiến ra. Cứ như vậy, hết hai người này đến hai người khác, trước sau lần lượt xuất hiện hơn một trăm cặp nam tử tương tự nhau. Tình huống này khiến Giản Điện Chi không biết ra tay thế nào mới phải.
Cảnh tượng thực kỳ quái, hơn một trăm nhóm, mỗi nhóm hai người đội nón trúc, trang sức y hệt, liên tục từ đại môn tướng quân phủ tuôn ra đường, sau đó chia theo các ngõ của đường lớn mà đi.
Giản Điện Chi cũng không hề kinh hoảng, trên tay hắn cón một chiêu bài nữa, chỉ cần phong toả con đường lớn xuyên qua hồ vào cung, trừ phi Tôn Vũ mọc cánh, bằng không khó mà vượt qua nổi.
Giản Điện Chi ra hiệu, lập tức có người đốt lên một ám ký lửa khói, thông báo cho một thủ hạ đắc lực khác của Phu Khái Vương là Hàn Bân chuẩn bị sẵn sàng.
Lúc này Hàn Bân đang ở con đường phía nam, giám sát hơn ba trăm cao thủ tinh nhuệ, sắp xếp giá chắn bằng gỗ lớn, giữ chặn trung đoạn của nam đạo, tất cả thuyền chèo trên hồ cũng đều nằm trong tầm khống chế của hắn. Bài binh bố trận như vậy, đến Hàn Bân cũng phải tự vấn muốn xoay chuyển tình hình, ngoài việc liều mạng giao chiến, thực không còn cách nào khác. Nhưng lúc này không phải là chiến tranh thực sự, Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ cũng không phải là đao kiếm thực sự mà giết được đội nhân mã của Phu Khái Vương, huống hồ quân của Phu Khái Vương không thiếu cao thủ, cho dù Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư muốn xông ào qua, cũng không dễ mà xuôi lọt.
Giờ yết kiến càng lúc càng đến gần, Hàn Bân thầm nhủ chỉ cần kéo đông người ra cản trở một trận, là có thể đại công cáo thành.
Hắn càng nghĩ càng đắc ý, gió thu hiu hiu thổi tới, khiến tinh thần thêm sảng khoái dễ chịu.
Từ nơi xa cuối con đường phía nam truyền tới tiếng lọc cọc, một hàng mười mấy cỗ xe la chở đầy những rơm rạ chất ngất như núi, từ từ tiến vào.
Hàn Bân ra một mệnh lệnh. Hơn hai trăm thủ hạ vội vàng tuốt binh khí, nghiêm cẩn chờ đợi, tình thế khẩn trương.
Xe la từ từ lại gần, còn cách đoạn đường Hàn Bân chắn giữ khoảng mười trượng thì dừng lại. Đột nhiên một hồi trống, từ đám rơm rạ trên mười mấy cỗ xe la có người chui ra, ai nấy tay cầm hỏa tập, tức thời hơn mười cỗ xe lửa cháy ngùn ngụt, ngọn vun lên tận trời, khói đen dày đặc mau chóng bao phủ cả một vùng rộng lớn.
Bọn Hàn Bân đang đứng ở cuối hướng gió, khói mù trời mù đất, trôi bạt về phía họ. Con đường phía nam dày đặc những khói đen, khiến bọn Hàn Bân cay xè đến trào nước mắt, đừng nói ngăn cản địch nhân, đến nhìn mọi vật cũng là cả một vấn đề rồi.
Đàn la sợ hãi hí loạn lên trong vầng khói đen đặc, xông thẳng vào trận địa của Hàn Bân. Xe la đâm sầm vào các giá gỗ, lật nó đổ nhào đổ nghiêng, tình thế hỗn loạn. Trong làn khói dày, Hàn Bân tựa hồ nhìn thấy có bóng người lướt qua rất nhanh.
o0o
Trong nghị sự sảnh của Ngô vương, Hạp Lư đang ngồi trên bảo ngai, khuôn mặt không hiển lộ một biểu tình gì. Hiện tại chỉ còn nửa khắc nữa là đến giờ triệu kiến Tôn Vũ.
Trước mặt ông ta, hai bên lần lượt ngồi là Phu Khái Vương, Bạch Hỉ, Tử Sơn và Đấu Tân.
Phu Khái Vương và Bạch Hỉ nét mặt đắc ý, Tử Sơn và Đấu Tân thần tình hơi có vẻ căng thẳng. Lần này nếu để Phu Khái Vương và Bạch Hỉ thắng được trận này, ngạo khí của hai người càng khó ức chế.
Phu Khái Vương nói: “Đại vương, đệ thấy có khả năng Ngũ tướng quân hôm nay không thể đến đúng giờ rồi”. rồi hắn cười phá lên.
Tử Sơn và Đấu Tân nghẹn lời, họ cũng không còn tin tưởng gì là Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ có thể đến đúng giờ nữa.
Hạp Lư nói: “Phu Khanh cứ bình tĩnh đừng sốt ruột, chuyện này sẽ có giải đáp mà”. Ngữ khí của ông ta cũng cho thấy đã mất hẳn lòng tin vào Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ.
Phu Khái Vương và Bạch Hỉ càng thêm phấn khởi.
Thời gian từng giọt tí tách trôi đi, ai nấy đều lặng thinh không nói, giờ thin đã đến. Phu Khái Vương và Bạch Hỉ càng thêm đắc ý.
Đúng lúc đó, có người vào báo Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ đã tới.
Ngô vương Hạp Lư mừng rỡ, Tử Sơn và Đấu Tân cũng hoan hỉ vô cùng. Phu Khái Vương và Bạch Hỉ thì á khẩu tắt tiếng, nét mặt ảm đạm.
Ngũ Tử Tư dẫn theo một đại hán khôi ngô, anh khí hào sảng, ung dung tiến vào trong sảnh.
Hạp Lư chăm chú quan sát anh hoa không phát tiết của Tôn Vũ, hai mắt tinh linh có thần, khí định thần nhàn, cái vẻ đường hoàng tự tin đằng sau cái vẻ hoàn toàn không đắc ý, đối với sự xông phá được sự ngăn trở của Phu Khái Vương và Bạch Hỉ, chỉ như là làm một chuyện gì nhỏ không đáng nói đến, không đáng nhớ đến.
Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ khấu kiến xong, Ngô vương Hạp Lư trong lòng hoan hỉ, vội vàng cho ngồi.
Hạp Lư không nhắc gì đến việc Phu Khái Vương và Bạch Hỉ viện cớ ngăn trở, để tránh khắc sâu thêm sự đối kháng nội bộ, mỉm cười nói: “Cửu ngưỡng đại danh Tôn tiên sinh, hôm qua được xem qua mười ba thiên đại tác của tiên sinh, trong lòng hết sức kính phục, dám hỏi tiên sinh có được binh pháp tất thắng không?” Tôn Vũ do Khước Hoàn Độ mạo danh mỉm cười đáp: “Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng!”.
Tử Sơn hỏi: “Cái gì gọi là biết mình biết ta?” Khước Hoàn Độ đáp: “Nhân tố cơ bản quyết định thắng bại của chiến tranh, chính là dự đoán so sánh những điều kiện, những ưu nhược giữa hai bên địch và ta, để dò xét được tình thế thắng bại của chiến tranh. Điều này là do năm yếu tố là chính đạo, thiên thời, địa lợi, tướng soái và pháp chế tạo thành.
Phàm những tình hình thuộc năm phương diện này, tướng soái đều phái biết, hiểu những tình hình này, mới có thể nắm chắc cái lẽ của sự chiến thắng. Chẳng hạn cuối cùng là chính trị võ công, tướng soái chỉ huy cao minh, được thiên thời địa lợi, pháp lệnh quán triệt, vũ khí tốt, binh tốt huấn luyện cẩn thận, thưởng phạt công chính. Căn cứ vào những yếu tố này, là có thể phán đoán ai thắng ai bại”. Những lời này nói ra trong sảnh ai nấy gật đầu, đến Phu Khái Vương và Bạch Hỉ trên mặt cũng lộ nét tôn kính.
Đấu Tân hỏi: “Cái gì là chính trị thành công?” Y giúp Hạp Lư chưởng quản triều chính, điều quan tâm nhất đương nhiên là những vấn đề chính trị.
Khước Hoàn Độ ung dung đáp: “Chính là khiến cho ước vọng của dân chúng và mong muốn của bậc quân chủ đạt đến đồng nhất, có thể bảo bọn họ chết vì nhà vua, sống vì nhà vua, mà tuyệt không vi kháng. Trên dưới một lòng như vậy, việc gì mà không thành?”.
Hạp Lư sửng sốt kêu: “Lời nói đúng với điều ta nghĩ, đúng là sực hiểu ra”.
Phu Khái Vương lúc này mới chen vào: “Tôn tiên sinh nếu thống suất quân ta, công vào Sở quốc, có lý lẽ chiến thắng nào không?” Đây là sự suy nghĩ so sánh từ tình hình thực tế.
Khước Hoàn Độ đáp: “Điều này lại phải trở lại với vấn đề biết mình biết ta. Chẳng hạn Sở quân có thủy sư và xa chiến uy chấn đương thế, nếu quân ta và người Sở giao phong trên mặt nước, lại có thể dùng xa chiến để đối địch, tất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Vì vậy tất phải huấn luyện bộ binh, thêm vào đó Sở quốc đa phần là sơn địa đầm trạch, bộ binh chuyển động tiến thoái đều rất linh hoạt, lấy sở trường của chúng ta, công vào sở đoản của nó, chiến thắng đã cầm chắc trong lòng bàn tay”.
Hạp Lư đứng phắt dậy: “Tôn tiên sinh nói đúng lắm, để ta kính ông một ly, từ giờ phút này trở đi, bản vương phong ông làm Tả tướng quân, cùng với Ngũ tướng quân chủ trì việc huấn luyện binh sĩ, cùng mưu đồ nghiệp bá, tương lai thành công, bản vương có thưởng lớn”. Nói đoạn ngửa mặt lên trời cười một tràng dài.
Địa vị của Khước Hoàn Độ ở Ngô quốc, từ giờ phút này đã được đặt nền móng xuống.
Gã rốt cuộc đã đến được một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới, mong ước trở về Sở phục thù đã hé lộ ánh sáng, tiền đồ tuy vẫn gian nan trùng trùng, nhưng đây chính là sự thách thức trên con đường số mệnh.
–––– o0o ––––
Niên biểu các sự kiện lịch sử lớn trong quyển Thượng “Kinh Sở Tranh Hùng Ký”:
Năm 525 tr.CN - Ngô công tử dẫn thủy quân tấn công nước Sở.
Năm 522 tr.CN - Sở Bình Vương tin lời Phí Vô Cực, muốn giết Thái tử Kiến. Thái tử Kiến tháo chạy sang Tống, Ngũ Xa và trưởng tử Ngũ Thượng bị giết, Ngũ Tử Tư chạy trốn sang Ngô.
Năm 519 tr.CN - Ngô vương Liêu tấn công Châu Lai, Sở Lệnh doãn là Tử Hà dẫn chư hầu cứu viện. Giao chiến ở Kê Phụ (nay ở phía đông nam Cố Thủy, Hà Nam), quân Ngô thắng.
Năm 519 tr.CN - Sở Bình Vương dẫn thủy quân tấn công Ngô để đáp lại, quân Ngô đuổi đánh quân Sở, phá biên ấp của Sở.
Năm 516 tr.CN - Sở Bình Vương chết, con là Trân lập làm vua, tức là Sở Chiêu Vương.
Năm 515 tr.CN - Ngô cho quân tấn công Sở, Sở phân lực lượng làm hai đầu chặn quân Ngô lại, Ngô lâm cảnh tiến thoái lưỡng nam. Tháng tư, Công tử Quang của Ngô sai Chuyên Chư thích sát Ngô vương Liêu, công tử Quang lập làm vua, tức là Ngô vương Hạp Lư.
Năm 514 tr.CN - Ngô vương Hạp Lư thâu dụng quần thần của nước Sở là Ngũ Tử Tư.
Năm 512 tr.CN - Ngũ Tử Tư tiến cử Tôn Vũ, lo việc trị binh cho Ngô vương Hạp Lư.
Năm 511 tr.CN - Ngô dùng kế của Ngũ Tử Tư, phân lực lượng làm ba phần, luân lưu gây chiến với Sở. Quân Sở mệt mỏi đến chết.
Năm 510 tr.CN - Ngô vương Hạp Lư dẫn quân đánh Việt, vua Việt là Doãn Thường nghênh chiến. Ngô - Việt bắt đầu giao tranh.
Năm 508 tr.CN - Mùa thu, Nang Ngõa của nước Sở đem quân đánh Ngô, Ngô đánh bại Sở ở Dự Chương, rồi thừa thắng đánh lấy ấp Sào của Sở.
Năm 506 tr.CN - Ngô vương Hạp Lư cầm quân, cùng với Sở giao chiến ở Bá Cử, Ngô đại thắng, tiến vào Dĩnh Đô của nước Sở.
Năm 505 tr.CN - Tần nhận lời của Thân Bao Tư đại phu nước Sở, cử binh viện trợ Sở, đánh bại quân Ngô, lấy lại Dĩnh Đô.
Năm 504 tr.CN - Ngô đánh bại Sở, Sở bèn dời đô đi.
Năm 496 tr.CN - Ngô vương Hạp Lư đánh Việt, thua trận quay về, Hạp Lư bị thương mà chết, con là Phù Sai tức vị.