View Single Post
  #4  
Old 11-01-2012, 02:55 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Kinh Sở Tranh Hùng Ký - Hồi 12 - 15

KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 12: Gặp lại cố nhân


Năm 511 tr.CN, Chu Kính Vương năm thứ 9. Ngô vương Hạp Lư nghe theo gợi ý của Ngũ Tử Tư và Khước Hoàn Độ, dùng chiến lược “Địch ra ta về, Địch về ta ra”, chia quân quấy nhiễu Sở, khiến quân Sở mỏi mệt vô cùng. Năm 510 tr.CN, Chu Kính Vương năm thứ 10. Ngô tấn công ba thành Di, Tiềm, Lục của Sở, quân Sở chạy tới cứu, Ngô rút sang tấn công thành Huyền, Sở lại phóng sang cứu, quân Ngô rút luôn.
Năm 509 tr.Cn, Chu Kính Vương năm thứ 11.
Ngô tấn công Việt, giành được toàn thắng. Người Việt buộc phải liên thủ với Sở để cầm cự. Nước Ngô đến đây không còn mối lo hậu hoạn, Ngũ Tử Tư và Khước Hoàn Độ càng thêm khăng khít gắn bó, bắt đầu lên kế hoạch tổng tấn công nước Sở, tình thế hai nước đều căng thẳng, đại chiến có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Hôm ấy Khước Hoàn Độ đến thao trường duyệt binh. Quân Ngô xa mã chỉnh tề, tiến thoái lớp lang, Khước Hoàn Độ hết sức hài lòng, nghĩ mình từ một kẻ mù tịt binh pháp thoắt một cái chuyển mình thành binh pháp
đại gia nổi danh thiên hạ, thực chẳng khác nào một giấc mộng đời. Khước Hoàn Độ dặn dò thuộc hạ tiếp tục thao luyện rồi trở về phủ tướng quân nghỉ ngơi.
Vừa ra khỏi cổng đã gặp một đoàn người kéo tới, trong bọn có Phu Khái Vương đi cùng một thiếu nữ rất diễm lệ, mình vận võ phục, duyên dáng mà cương nghị, đôi mắt long lanh ương bướng, bộ điệu gan dạ và khiêu khích.
Khước Hoàn Độ thường chỉ chạm mặt Phu Khái Vương lúc nghị sự, chưa bao giờ gặp riêng thế này. Gã vội vàng tránh sang một bên, cúi mình thi lễ.
Phu Khái Vương là đại quý tộc đương triều, thế lực rất lâu
đời, ngay cả Hạp Lư cũng không muốn làm mếch lòng hắn. Mắt lóe sáng, Phu Khái Vương nhìn xoáy vào Khước Hoàn Độ một lúc, khiến gã này cảm thấy được cả ánh mắt như tia chớp cháy trên da mình. Gã thầm kinh hãi, Phu Khái Vương quả không hổ là đệ nhất cao thủ Ngô Việt, công lực thật siêu phàm.
Phu Khái Vương lạnh lùng bảo, “Binh pháp của Tôn tướng quân lừng danh thiên hạ, chẳng hay kiếm pháp có khả quan như vậy không?”
Đám tùy tùng cười rúc rích theo câu nói của chủ, lộ vẻ chế giễu rõ rệt.
Khước Hoàn Độ công phu hàm dưỡng rất cao, không hề tỏ ra giận dữ, chỉ đáp, “Tiểu tướng từ nhỏ đã học thuật dụng binh, chuyên chú trọng phương pháp điều khiển thiên quân vạn mã, vì vậy có phần lơ là với những mẹo mực giao tranh giữa hai cá nhân.”
Gã nói mấy câu này tưởng thủ mà công, ngầm ý xem thường việc đả đấu nhỏ lẻ, chỉ dồn sức cho công cuộc tranh hùng trên chốn sa trường.
Thiếu nữ xinh đẹp bỗng bật cười khanh khách, giọng trong như chuông ngân, “Tôn tướng quân nói vậy sai đó, giả thử bây giờ ta vung kiếm giết tướng quân, chẳng hay ông tự vệ cách nào?”
Cô gái nói với ý khiêu chiến và xem thường rõ rệt, đám tùy tướng lại được thể cười lên như tễu. Mấy viên thân binh bên Khước Hoàn Độ sợ cô gái ra tay thật, lập tức nghiêm mặt lại, đứng án lên trước mặt chủ.
Phu Khái Vương mắng: “Thư Nhã vô lễ. Xin Tôn tướng quân thứ tha, tiểu nữ từ nhỏ đã được nuông chiều, ăn nói chẳng còn phép tắc gì cả.”
Nói là nói vậy, nhưng mặt mày y tươi hơn hớn.
Khước Hoàn Độ hiểu ảnh hưởng của mình đã bắt đầu lan rộng khiến người này sinh lòng đố kỵ, hôm nay hắn đến cốt để thử chân tài thực học và phản ứng của mình đây. Gã nói: “Phu Khái Vương, nếu không còn gì dạy bảo, tiểu tướng xin được về phủ nghỉ ngơi. Mong Ngài thứ tội.”
Cáo lỗi xong, gã dẫn thân binh bỏ đi ngay. Giọng con gái véo von đuổi theo, “Lần sau tái ngộ, tiểu nữ sẽ thỉnh giáo cao minh đấy nhé.”
Dứt lời lại cười khanh khách.
oOo
Khước Hoàn Độ về đến phủ thì gặp phải tín sứ của nhà vua. Nguyên là sứ giả Tấn quốc tới thăm, Ngô vương cho đòi gã vào dự tiệc tiếp đãi đêm nay.
Khước Hoàn Độ rửa ráy qua loa rồi vội vàng vào cung.
Trên đường gặp Ngũ Tử Tư, viên tướng trẻ mời gã bỏ xe sang ngồi chung cùng đi phó hội. Ngũ Tử Tư kể: “Hôm kia Đại vương duyệt binh, nghe chừng hài lòng lắm.”
Khước Hoàn Độ vội đáp: “Đều nhờ Ngô tướng quân dạy bảo bấy nay, tiểu tướng chỉ tiến hành theo hướng dẫn mà thôi!”
Gã khiêm tốn thế, Ngũ Tử Tư rất đẹp lòng. Câu chuyện xoay sang hướng khác, chợt lại hỏi đến chuyện ban ngày: “Nghe đồn Phu Khái Vương và con gái buông lời khiêu khích ông? Ông định ứng phó sao đây?”
Ngừng một lúc, thấy Khước Hoàn Độ trầm ngâm, tưởng gã khó xử, Ngũ Tử Tư vội bảo:
“Ta cũng biết việc này không đơn giản, có khi phải chính Đại vương ra mặt can thiệp mới xong. Thư Nhã xưa rày ngông nghênh tùy ý, chính Phu Khái Vương cũng phải chịu đấy. Cô ta tuổi mới đôi mươi nhưng kiêu ngạo tự đắc hơn ai hết, những kẻ tham gia thế và sắc đẹp tới cầu thân đều bị cô ta đánh đuổi đi hết cả đấy. Nay Thư Nhã lại quấy tới ông thì rắc rối quá!”
Khước Hoàn Độ hỏi: “Võ nghệ cô ấy thế nào?”
Ngũ Tử Tư nhăn mặt: “Đấy mới thực là điều khiến người ta đau đầu. Thư Nhã tuy là con gái nhưng thiên tư trác tuyệt, lãnh hội hết chân truyền của cha, chỉ thiếu kinh nghiệm lâm trận mà thôi. Thanh bảo kiếm cô ta đang dùng là do Việt vương hiến tặng và đích thân Đại vương ban cho, tên gọi ‘Việt Nữ kiếm’, sắc bén vô cùng. Thư Nhã dùng nó chẳng khác nào hổ chắp thêm cánh.”
Khước Hoàn Độ nói: “Ngũ tướng quân an lòng, tôi khắc có cách đối phó.”
Gã thầm nhủ dẫu đến Phu Khái Vương võ nghệ tuyệt thế mà còn chưa chắc thắng nổi ta, cái vật vô tri sắc bén kia thì đáng gì!
Ngũ Tử Tư tưởng gã muốn làm mình yên tâm nên mới an ủi vậy, vội nhắc nhở:
“Tôn tướng quân đừng thấy nữ nhi chân yếu tay mềm mà xem thường. Nhìn khí độ tinh thần ông thì có lẽ cũng là một hảo thủ sử kiếm, nhưng Phu Khái Vương là đệ nhất cao thủ của nước ta, có tuyệt học gia truyền. Ông không được sơ suất đâu đấy.”
Khước Hoàn Độ không muốn dằng dai thêm về vấn đề này, bèn hỏi sang việc khác, “Hôm nay nhà Tấn phái ai đến sứ vậy?”
Ngũ Tử Tư đáp, “Người này tên Vu Thần, nguyên là Đại Công tước của nước Sở. Về sau vì một mỹ nhân, y phản bội tổ quốc, rời bỏ đất đai, bây giờ được tôn thất nhà Tấn tín nhiệm lắm.”
Đang nói, chợt nhận ra Khước Hoàn Độ biến sắc, Ngũ Tử Tư ngạc nhiên kinh khủng, gã này xưa nay đến Thái Sơn sụp trước mặt còn bình thản như
không, sao nghe đến tên Vu Thần lại tái mét đi thế, y vội hỏi: “Tôn tướng quân, có gì không ổn chăng?”
Khước Hoàn Độ đáp: “Không, chỉ tại tôi đang nghĩ đến một việc khác.”
Vừa may xe đã đến cửa cung, Khước Hoàn Độ thầm khen khéo, nếu không chẳng biết phải giải thích tiếp với Ngũ Tư Tư thế nào.
Hai người xuống xe vào cung.
Dạ yến bày trong điện Tường Không, chiếu của Ngô vương trải trên thềm cao bên trái điện, chiếu sứ giả đặt bên phải, hai bên đều có dãy chiếu riêng. Các công khanh đại thần đương triều của Ngô quốc đều đến dự.
Giữa điện để một khoảng trống rộng, lấy chỗ biểu diễn tạp kỹ ca vũ.
Hai người đến hơi sớm, hàng đại thần mới có Đấu Tân. Sau đó Phu Khái Vương, Bạch Hỉ, Tử sơn và các công khanh khác mới lục tục kéo đến.
Cuối cùng, Ngô vương xuất hiện, đi bên là một nam tử cao gầy uy nghiêm.
Họ vừa bước vào điện, nhạc công nổi ngay đàn sáo, tơ trúc huyền cầm réo rắt đúng lễ tiết. Nghi thức này thực ra thường xuyên như cơm bữa ở nước Lỗ, nhưng đối với một quốc gia còn bị xem là man di mọi rợ chưa khai hóa như nước Ngô thì thật là long trọng phô trương, đủ thấy Hạp Lư coi trọng sứ giả Tấn quốc tới mức nào.
Ngô vương dẫn Vu Thần đi giới thiệu khắp lượt mọi người, đến Khước Hoàn Độ, Vu Thần hơi chững lại, lộ vẻ kinh ngạc khó che giấu. Cũng may y thừa kinh nghiệm ngoại giao, lập tức lấy lại nét mặt bình thường, giả như lần đầu gặp Khước Hoàn Độ, chào hỏi khách sáo theo đúng thông lệ.
Mọi người đều không lưu tâm, duy Ngũ Tử Tư chẳng bỏ qua một biểu hiện nào của cả hai người, liền đặt ngay dấu hỏi. Y vốn nhận xét tinh tế, trước tiên thấy Khước Hoàn Độ tái mặt khi nghe tên Vu Thần, nay lại thấy Vu Thần gặp Khước Hoàn Độ thì biến sắc, thử hỏi ai không sinh lòng ngờ.
Mọi người phân chủ khách an tọa, hỏi han mấy câu chiếu lệ rồi nâng chén chúc mừng, kế đó Hạp Lư bàn vào chính đề: “Lần này Vu chuyên sứ mang đến tin tức đáng mừng, Tấn quốc có ý lập liên minh với ta, cùng tấn công nước Sở. Sở quốc lâu nay vẫn hoành hành ngược ngạo, các vị có ý ấy, thực là công đức vô lượng.”
Mọi người lập tức rào rào cảm tạ chúc mừng.
Khước Hoàn Độ thầm nhủ Vu Thần quả có tài du thuyết, khiến được cả Tấn quốc xuất binh tương trợ, trong khi đó thực chất chỉ cần Tấn quốc chịu khống chế các nước ở phía bắc, đừng can thiệp vào việc tranh hùng Sở - Ngô thì đã là một tin đáng mừng rồi.
Vu Thần cười đáp: “Quốc quân chúng tôi anh minh thần võ, chỉ muốn thiên hạ cùng tồn tại trong hòa bình, Sở quốc xưa nay ưa hiếp đáp các nước nhỏ, Lệnh doãn Nang Ngõa tàn bạo hiếu chiến, nước chúng tôi đâu thể làm ngơ.”
Hạp Lư nói: “Ngoài việc giao kết đồng minh, Vu chuyên sứ còn đặc biệt đưa tặng chiến xa và binh mã, tạo điều kiện cho chúng ta luyện tập lục chiến và xa chiến, thực được đại khai nhãn giới.”
Vu Thần cười ha hả: “Hổ thẹn quá, chỉ mong mối giao hảo này giúp cho hai bên học hỏi lẫn nhau để chắc chắn đánh thắng được người Sở.”
Vu Thần nguyên quán đất Sở, thời ấy quan niệm quốc gia không đặt nặng như các đời sau này, đối với họ gia tộc là trên hết – giọt máu đào hơn ao nước lã, nợ riêng nặng hơn nợ nước nên những việc cõng rắn cắn gà nhà như Vu Thần đang làm cũng không phải là hiếm thấy.
Vu Thần lại tiếp: “Lần này tại hạ nhận lệnh Quốc quân, ngoài chiến xa còn tuyển lấy mười ca vũ kỹ đến hiến tặng, mời các vị thưởng thức.”
Đoạn y vỗ tay, tiếng tơ trúc trỗi lên sau điện, mười mỹ nhân thân hình yểu điệu, thanh sắc song toàn tha thướt đi ra khu sân khấu, quả nhiên sắc nước hương trời, ngàn người chọn một.
Khước Hoàn Độ nhìn mười mỹ nữ khí chất cao quý, đoán chừng đều là con cái đại quan thua trận bị sung làm nô tỳ. Xem ra Tấn quốc rất coi trọng mối liên minh này.
Ca vũ kết thúc, đoàn mỹ nữ mau chóng rút vào sau điện.
Đám nam nhân ngồi bên ngoài vẫn còn ngây ngất. Sắc đẹp có sức mạnh thật lớn lao, đến Hạp Lư cũng không phải là ngoại lệ.
Vu Thần thưa: “Mấy đứa ấy ca vũ đã tài, thị hầu trong phòng the càng thành thạo hơn. Tại hạ xuất sứ chỉ có chút lễ mọn, mong Đại vương thu nhận.”
Hạp Lư ngửa cổ cười ha hả, hiển nhiên vô cùng khoan khoái với món lễ hậu, nhất là nghe nói mấy ả còn sành sỏi chuyện gối chăn thì càng thêm hởi lòng hởi dạ.
Đàn ông mà, nhắc nhỏm tới những chuyện ấy thì khoảng cách giữa họ với nhau thu hẹp lại rất nhiều.
Hạp Lư đáp tạ xong, chần chừ một lát rồi chọn trong đám ra tám cô ban chia cho các quần thần, Khước Hoàn Độ cũng lãnh một nàng.
Khước Hoàn Độ suy tính nhanh như chớp, thầm nghĩ nếu Hạp Lư ban thưởng cả mười mỹ nhân này cho thuộc hạ thì tấm lòng và sự rộng lượng ấy chắn chắn đủ giúp ông ta làm bá chủ cả thiên hạ, nhưng ông ta ngập ngừng luyến tiếc thế kia, lại còn giữ phần mình nhiều hơn người khác, khó tránh khỏi có lúc vì cái lợi trước mắt mà làm hư đại sự.
Đó là đánh giá rõ rệt đầu tiên của Khước Hoàn Độ về Hạp Lư.
Gã lại nhìn sang Ngũ Tử Tư, tuy được tặng mỹ nữ nhưng vẻ mặt y không hề hoan hỉ, Khước Hoàn Độ biết y đã đặt toàn tâm toàn ý vào việc báo thù nước Sở về cái tội giết cha giết anh y, ngoài ra y không bận tâm đến điều gì khác nữa.
Khước Hoàn Độ nhói lòng, thầm nghĩ niềm căm hận ngùn ngụt như vậy cũng có tác dụng hại người chẳng kém gì sắc dục.
Dạ yến tiếp tục cho đến giờ Tý thì kết thúc. Khước Hoàn Độ về tới phủ thì đã sang giờ Sửu.
Gã vào đại sảnh, thuộc hạ thân tín chạy ra báo có khách phương xa đang chờ ở chái đình. Khước Hoàn Độ giật mình, vội vàng chạy sang.
Một người đàn ông cao lớn đang đứng trong đình, khuôn mặt phong sương, một vết sẹo đao chạy xéo từ mắt xuống tới góc môi. Vừa trông thấy Khước Hoàn Độ, mắt y ánh lên niềm cảm động, nước mắt mấp mé bờ mi.
Khước Hoàn Độ vội xua hết tả hữu ra ngoài.
Người đó nức lên rồi quỳ xuống.
Khước Hoàn Độ hấp tấp đỡ dậy: “Bây giờ thời thế khác rồi, Bản Trường hà tất làm vậy.”
Nguyên lai người đó là Trác Bản Trường, gia nhân hộ tống Khước Hoàn Độ chạy khỏi Khước thị sơn thành để trốn địch nhân truy kích năm nào.
Trác Bản Trường vâng lời đứng dậy, hai người gặp nhau lần này, tựa như đã chia xa lâu lắm. Trác Bản Trường gọi: “Chúa công!”
Y vẫn rất bồi hồi, chẳng biết mở lời thế nào. Khước Hoàn Độ rất hiểu cảm giác của viên tiểu tướng cũ. Tính ra, họ giã biệt đã hơn năm năm rồi.
Để giúp Trác Bản Trường qua cơn xúc động, Khước Hoàn Độ nhẹ nhàng hỏi: “Tình hình mọi người bây giờ ra sao?”
Hồi đó có gần một trăm người hộ tống gã chạy trốn, tất nhiên tình hình hiện tại của họ là điều một chủ nhân như gã phải quan tâm hàng đầu.
Trác Bản Trường bớt thổn thức, dần lấy lại bình tĩnh, được cái gã cũng là người điềm đạm tỉnh táo, chỉ vì được gặp chủ nhân trong khi bấy lâu nay thương nhớ tưởng gã đã chết, nên vừa rồi tình cảm mới bộc lộ bồng bột như vậy.
Trác Bản Trường kể:
“Hồi đó bọn thuộc hạ chia nhau chạy trốn, cho người mai danh ẩn tích ở khắp nơi theo đúng lời dặn của Chúa công, làm ăn theo đủ các ngành nghề. Rất nhiều người đã trở thành những nhân vật xuất sắc trong nghề nghiệp của mình” .
Khuôn mặt điểm nụ cười, y tiếp: “Khước thị chúng ta giỏi binh pháp, không ngờ doanh thương cũng chẳng kém ai. Bản thân thuộc hạ thì trốn đến Đồng Lục sơn, làm nghề đào vàng, cũng có chút thành tựu.”
Khước Hoàn Độ tủm tỉm: “Xưa nay ta vẫn biết ngươi tính toán đâu ra đấy, nếu ngươi theo nghề buôn mà không kiếm được tiền thì ta là người đầu tiên không tin.”
Trác Bản Trường đáp:
“Thuộc hạ đợi tình thế ổn định rồi bèn sử dụng thủ pháp riêng của nhà ta đi liên lạc với mọi người, vì sợ bị Trung Hành biết mà phá, vì vậy tất cả đều áp dụng lối thông tin mới, cuối cùng tìm lại được năm mươi hai người. Chúa công! Có một việc thuộc hạ nhất định phải cho người biết, đó là trong năm mươi hai người này, không một ai xao nhãng luyện kiếm trong suốt năm năm qua, đợi người trở về là chúng ta báo cừu.”
Khước Hoàn Độ cảm động vô cùng, thầm nghĩ, những người này đều là tinh túy của Khước gia, sống ngần ấy năm giàu có an nhàn vẫn kiên tâm khổ luyện, sức mạnh của đám tử đệ này to lớn làm sao. Đúng là cơ sở nền móng vững chắc cho ta.
Tiếng Trác Bản Trường tiếp tục rót vào tai gã: “Mọi người đều nuôi chí, vì vậy có một số trong năm mươi hai người ấy đã tìm cách nắm lấy các bang hội và thế lực địa phương. Cũng may cơ nghiệp Khước thị đã được hàng trăm năm, thế lực cũng luồn sâu vào nhiều nơi trong nước Sở, thuộc hạ đã kín đáo chiêu tập nhiều tráng đinh có quan hệ thân thiết với nhà ta về thao luyện ở Đồng Lục sơn, bây giờ nhân sĩ cũng phải được năm trăm người rồi.”
Khước Hoàn Độ tán thưởng: “Bản Trường, ngươi làm được thế là đỡ cho ta bao nhiêu việc lặt vặt. Bây giờ chiến tranh Ngô – Sở lúc nào cũng có thể bùng phát, nhất định ta phải có một số nhân thủ đáng tin cậy, giúp ta hoàn thành hai nhiệm vụ trước khi cuộc chiến bắt đầu.”
Gã ngừng lời, chìm vào suy tư. Trác Bản Trường ngắm vị Chúa công từng cùng mình trải qua thời ấu thơ, thấy khuôn mặt gã tuấn vĩ, phong thái uy nghiêm, khí độ đại tướng. Y thầm tán thưởng và càng thêm cảm phục.
Khước Hoàn Độ ngẩng lên nhìn Trác Bản Trường, mắt rực sáng, “Có hai người ta nhất định phải tiêu diệt trước khi chiến tranh Ngô – Sở nổ ra.”
Mắt Trác Bản Trường hằn vẻ thù hận, “Một trong hai kẻ đó nhất định là Trung Hành, thuộc hạ vẫn kín đáo dò tìm tung tích của kẻ phản đồ này, theo tin tức gần đây nhất thì tên tặc tử đó đang ở Bí Dương, gần Trường Thành. Tên thứ hai thì chắc phải đợi chúa công cho biết.”
Khước Hoàn Độ nói gằn giọng: “Tên thứ hai là Tương Lão.”
Trác Bản Trường rùng mình, Tương Lão danh động Sở quốc, giết người vô số, tuy bị bao nhiêu người căm hận đến tận xương tủy, cừu nhân rải khắp mọi chỗ, nhưng vẫn uy vững không đổ, nghĩ cũng đủ thấy tên này thực đáng sợ.
Khước Hoàn Độ kiên quyết: “Hai kẻ này ta nhất định phải giải quyết mau chóng, ngươi phái thủ hạ dò tìm hành tung của chúng, nhất cử nhất động phải báo cho ta biết, ta sẽ bí mật vào đất Sở giết chết hai đứa ấy.”
Gã nói với đầy đủ sự tự tin và vẻ uy nghiêm, Trác Bản Trường tuy muốn khuyên ngăn, nhưng cuối cùng không sao thốt được nên lời.
Khước Hoàn Độ dĩ nhiên hình dung được sự nguy hiểm khi đột nhập lãnh thổ nước Sở, nhưng nếu tương lai đối mặt trên sa trường, bị hai kẻ này nói toạc ra thân thế của mình thì hậu quả thực khó lường.
Vì vậy năm ngoái gã đã cho thân tín vào nước Sở trước, dùng mọi biện pháp liên lạc, cuối cùng tìm được Trác Bản Trường. Hai người thảo luận một hồi, mật định kế hoạch tương lai, mãi cho tới khi trời sáng, Trác Bản Trường mới vội vã rời phủ.
Trác Bản Trường đi rồi, Khước Hoàn Độ tâm tình phấn khởi, không muốn ngủ tí nào, bèn ra đường, nhàn nhã thả bộ.
Sáng tinh mơ, cũng ít người lai vãng.
Thình lình, có tiếng ngựa phi rít lên sau lưng gã.
Khước Hoàn Độ giật mình, biết ngay gặp chuyện phiền phức rồi.
Bởi tiếng vó ngựa vang lên chỉ cách gã chừng hai mươi trượng, kỵ mã chắc hẳn đã dừng đợi ở đó lâu lắm rồi, vừa thấy Khước Hoàn Độ ra là thúc ngựa đuổi theo, dần dần gia tăng tốc độ.
Khước Hoàn Độ nhẩm tính, khi truy kỵ đến sau lưng gã cũng là lúc nó đạt tới vận tốc cao nhất. Còn có một điểm đáng chú ý hơn, đó là trong tiếng ngựa ầm ầm như sấm lại loáng thoáng chen vào tiếng sóng rung rất nhẹ của kim khí.
Thính giác linh mẫn của Khước Hoàn Độ mách bảo gã, kỵ sĩ đang cầm một thứ binh khí rất cứng và dài kiểu như mâu hoặc kích trong tư thế giơ xéo trên cao trước đầu ngựa, mới có thể phát ra âm thanh kỳ quái như vậy.
Khước Hoàn Độ vẫn từ tốn bước, thong dong tiến lên phía trước.
Truy kỵ mỗi lúc một lại gần.
Mười trượng, chín trượng, tám trượng…
Khước Hoàn Độ nhận rõ vẻ khiếp sợ hiện lên trong mắt mấy người đang đi ngược chiều mình.
Họ nhao nhao tránh dạt sang một bên.
Thình lình, âm thanh rung giật nhè nhẹ của kim khí bỗng tan biến, thay vào đó là một tiếng rít phá không.
Sự chuyển biến này hết sức hàm súc vi diệu, chỉ có hạng cao thủ chuyên luyện thuật “Hộ tâm” như Khước Hoàn Độ mới cảm nhận được.
Gã mỉm cười, âm thanh thay đổi cho thấy mũi tấn công của địch nhân đã chuyển từ chéo sang ngang, từ cao xuống thấp hơn, đâm thẳng vào lưng gã.
Sáu trượng, năm trượng, ba trượng…
Khước Hoàn Độ vẫn hết sức bình thản, tập trung toàn bộ tinh thần vào truy kỵ sau lưng, tuy gã chưa hề ngoảnh đầu lại, nhưng mỗi nhịp móng ngựa, mỗi đợt rung của mũi mâu gã đều nắm bắt triệt để.
Hai trượng, một trượng… đà phóng cuốn theo kình phong thổi thốc cả y phục của Khước Hoàn Độ. Tiếng thét tức giận, tiếng kim loại xé gió, lợi khí trong tay địch nhân như sấm giật đâm thẳng vào lưng gã.
Khước Hoàn Độ cảm nhận được luồng gió sát rạt, bất luận thủ kình, góc độ hay vị trí xuất kích… đều là của một hảo thủ.
Gã im lìm lắc mình tránh, để mũi mâu dài đâm xoẹt qua sườn trái, rồi kẹp ngay lấy. Kiện mã phóng vù lên trước, kỵ sĩ mất đà chới với, song cũng thực bản lĩnh, trong lúc khẩn cấp vội thả lỏng đôi tay cầm mâu, hơi ngửa người ra sau lấy lại thăng bằng, không để Khước Hoàn Độ lôi khỏi mình ngựa.
Người đó bay vù lên trước, quát vọng lại “Ta thay Thư Nhã tiểu thư dạy ngươi bài học.”
Giọng loãng dần, bóng người cũng chỉ còn một cái chấm.
Khước Hoàn Độ điềm tĩnh nhìn theo, cái dạng nghé con chưa biết sợ cọp này, nếu ta không ngại rầy rà thì cho dù mười đứa như mi cũng chưa đủ mạng mà xuống hoàng tuyền, lại còn bày đặt đe dọa.
Gã rút cây mâu dài vẫn kẹp bên sườn trái ra xem, bên trên khắc một chữ “Trữ”, gã lập tức nhớ đến một viên đại tướng dưới quyền Bạch Hỉ là Trữ Trọng Mưu, chẳng biết tên trẻ tuổi này có quan hệ gì với kẻ ấy không.
Lúc này mấy tên thân binh sợ cuống cuồng chạy tới nơi, vội vã thỉnh tội.
Một tên vội thưa: “Đấy là Trữ Thanh, tam công tử nhà Trữ Trọng Mưu, là một trong những người đang đeo đuổi con gái Phu Khái Vương.”
Khước Hoàn Độ hiểu ra, nghĩ bụng dính đến Thư Nhã thì thật đau đầu.
Huống hồ Phu Khái Vương là một trong hai cán cân quyền lực ở Ngô quốc, chẳng may Ngô vương Hạp Lư có mệnh hệ nào, người thay ông ta chắc chắn là Phu Khái. Nay gã bị kẹp vào giữa mấy người này, tình thế quả thực phức tạp.


KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 13: Danh kiếm Việt Nữ


Buổi chiều hôm đó ngập nắng xuân.
Trên đại thao trường ở đô thành Ngô quốc, có đủ mặt từ Ngô vương Hạp Lư đến văn võ trọng thần.
Nhân dịp này, người ta dựng một đài cao trong thao trường. Hạp Lư, Phu Khái Vương, Bạch Hỉ, Ngũ Tử Tư, Tôn Vũ (tức Khước Hoàn Độ mạo xưng), Vu Thần sứ giả Tấn quốc và các võ tướng văn quan khác, tổng cộng hơn một trăm người, lần lượt bày vai an tọa trên đài này, quan sát xa chiến Tấn quốc tập dượt làm mẫu.
Binh lính nước Ngô đứng đầy khắp ba lề thao trường, tuy quân số đông đến hàng vạn nhưng im phăng phắc, chỉ có tiếng móng ngựa và tiếng bánh xe ken két vang lên từ cửa phía đông. Một đội chiến xa đi ra, lớp lang ngay ngắn, mau chóng dàn hàng chữ nhất ở bãi trống chính giữa, tổng cộng có bảy xe.
Các cỗ chiến xa đều vuông vức, gồm một càng, hai bánh, thắng bốn kiện mã giáp trụ, bề rộng ước mười thước.
Mỗi xe chở ba người, binh sĩ chính đứng bên trái, mặc giáp kín thân (giáp này làm bằng da thuộc, điểm xuyết những vòng bằng đồng), tay cầm một thanh câu liêm dài trượng tám. Binh sĩ phụ đứng bên phải. Giữa hai người là ngự thủ, giữ việc điều khiển cỗ xe.
Trên xe ngoài khiên giáp còn có một chiếc trống trận treo ngang, một lá cờ chiến cắm xéo ở đằng đuôi cứ phấp phới theo gió và hai đầu trục xe lắp mũi nhọn để tăng lực sát thương.
Bảy cỗ chiến xa đỗ san sát trên thao trường, trông rất oai phong. Địa hình nước Ngô nhiều ao hồ và đầm lầy, quân sĩ hoàn toàn mù tịt về cách vận dụng chiến xa, nay trông thấy trang bị và khí thế như vậy, ai cũng phát run.
Vu Thần nhìn khắp lượt quan quách nhà Ngô, nhận thấy ngoài Hạp Lư, Ngũ Tử Tư và Khước Hoàn Độ, những người khác đều có phần sợ sệt trước khí thế của đoàn chiến xa. Y thầm đắc ý, thưa với Hạp Lư, “Mục đích chuyến đi lần này của tiểu thần là dâng thuật xa chiến phương Bắc cho Đại vương, mong quý quốc phát dương quang đại, đè bẹp uy phong người Sở trên chiến trường.”
Hạp Lư cười ha hả, “Ý tốt của quý quốc, bản vương biết chứ. Mời Vu chuyên sứ hãy giới thiệu tường tận, để lũ dân bán khai chúng ta được mở rộng tầm mắt.”
Vu Thần mỉm cười, “Trước khi họ thao diễn thị phạm, tại hạ xin nói qua về chiến thuật. Chiến xa là phương tiện giao đấu bậc nhất trên đồng bằng, vừa cơ động vừa linh hoạt. Quá trình giao đấu chủ yếu chia thành hai phần: bắn tầm xa và giáp lá cà, thông thường đều tác chiến theo hàng ngang, giống như đội hình hiện thời.”
Bỗng có người thét lên đanh gọn.
Bảy cỗ chiến xa nhất tề nổi trống trận, bảy viên ngự thủ hét vang, hàng xe rậm rịch lăn tới, bánh nghiến kèn kẹt xuống nền sa thạch thao trường, bụi đất xông mù mịt lên cả khán đài.
Đám võ sĩ trên chiến xa lăm lăm câu liêm, cùng đâm mấy phát về phía trước, trông rất đẹp mắt.
Giữa tiếng trống, các binh sĩ vận khí hò reo, hệt như thiên quân vạn mã tung hoành xung sát, khiến mọi người nhiệt huyết bừng bừng.
Những ngọn kích đồng nhấp nhánh dưới ánh mặt trời, quan khách phải nhíu mắt vì chói.
Thuật xa chiến của Tấn quốc quả nhiên bất phàm, chẳng trách giằng co chia vùng với Sở quốc không kém cạnh chút nào.
Mắt Phu Khái Vương rực sáng vẻ hưng phấn, “Vu chuyên sứ, xa chiến của quý quốc thật cao minh. Nếu bên ta học được một phần thế này ắt sẽ bắt bọn Sở hàng phục.”
Vu Thần ngửa mặt cười dài, vô cùng hãnh diện.
Các đại thần khác cũng xôn xao gật đầu, riêng Khước Hoàn Độ và Ngũ Tử Tư trầm ngâm im lặng, không hề lộ vẻ tán thưởng.
Lúc ấy chiến xa đã đi qua khán đài đến một bên thao trường, liền trở mũi vòng lại.Bảy xe hai mươi tám kiện mã, giẫm bụi đất mờ mịt cả lên. Toàn bãi trỗi dậy vô vàn tiếng cảm thán kinh ngạc.
Mọi người tới tấp hỏi han Vu Thần chẳng thiếu điều gì, từ cách chế tạo chiến xa đến huấn luyện quân sĩ, Phu Khái Vương là một trong những người hỏi han nhiều nhất, đủ thấy hứng thú nhiệt thành của họ.
Thế mà đại gia binh pháp như Khước Hoàn Độ chỉ mỉm cười lặng thinh, tựa như bồi tiếp chứ không tham dự, thi thoảng mới chuyện gẫu với vài quan văn khác.
Hạp Lư nhận ra, hơi giật mình nghĩ ngợi, nhưng cũng chưa nói gì. Bạch Hỉ đến gần Khước Hoàn Độ rỉ tai, “Tôn tướng quân, tối nay Phu Khái Vương đích thân thết yến Vu chuyên sứ, hai chúng ta dự phần chủ nhà, nhớ tới sớm một chút nhé.”
Khước Hoàn Độ đáp, “Vâng tất nhiên.”
Bạch Hỉ bảo, “Tiện đường, chi bằng xe tôi qua phủ đón tướng quân luôn thể cho có bạn.”
Khước Hoàn Độ ngẩn người, Bạch Hỉ và Phu Khái Vương xưa nay vẫn cặp kè nhau, bất hòa với Ngũ Tử Tư, nhân đó không ưa luôn gã, tự nhiên tỏ vẻ thân thiện thế này ắt không phải là điều tốt lành. Huống hồ đêm nay Hạ Cơ nhất định có mặt, đến lúc đó chẳng biết tình hình sẽ như thế nào, chưa kể còn cô con gái xinh đẹp ương bướng của Phu Khái Vương. Khước Hoàn Độ thấy rối tung cả đầu.
Gã nghĩ ngợi, nhưng miệng vẫn đáp liền, “Được đi cùng Bạch tướng quân thì tốt quá rồi.”
Bạch Hỉ hớn hở bỏ đi. Lúc này Hạp Lư lại chỗ Khước Hoàn Độ, khẽ hỏi, “Hình như Tôn khanh có nhìn nhận khác về những cỗ chiến xa này, bản vương nói thế có đúng không?”
Khước Hoàn Độ vội cung kính trả lời, “Tiểu tướng đâu dám dối trá trước cặp mắt tinh tường của đại vương. Song bây giờ hoàn toàn chưa thích hợp để bàn đến việc này. Một năm trở lại đây tiểu tướng và Ngũ tướng quân đã dồn tâm sức cải tiến và phát triển rất nhiều về vũ khí và chiến thuật. Nếu đại vương có thời gian, mời người đến sát hạch bất kỳ lúc nào.”
Hạp Lư sáng mắt, “Ngày mai được không?”
Khước Hoàn Độ đáp, “Cẩn tuân vương mệnh.”
Hai người cùng cười.
Khước Hoàn Độ biết, thời khắc quan trọng nhất đã đến, ngày mai phải làm sao cho Hạp Lư tin tưởng vào vũ khí và chiến trận mà gã và họ Ngũ đã thiết kế thì mới có thể thúc đẩy vị Ngô vương hùng tâm sôi nổi này đứng ra khiêu chiến với nước Sở cường thịnh.
Khắc phục được khó khăn đó thì sẽ giải quyết được rất nhiều chuyện, kể từ ân oán cá nhân, nhu tình nhi nữ tới tranh giành quyền lực và thắng bại sinh tử trên chiến trường.
oOo
Đêm nay Phu Khái Vương đặt dạ tiệc thết đãi sứ giả nước Tấn là Vu Thần. Hoàng hôn buông xuống. Quả nhiên Bạch Hỉ đi xe đến đón Khước Hoàn Độ cùng vào dự yến.
Bữa tiệc này sẽ có cả Hạ Cơ – món vưu vật tuyệt thế mà Khước Hoàn Độ vừa tha thiết muốn vừa e ngại chạm mặt.
Từ buổi li biệt trên Trường Giang, Khước Hoàn Độ vẫn chôn giấu bóng dáng mĩ lệ ấy trong tận đáy tim, lúc này sắp tái ngộ mà phải nhìn nhau như người dưng nước lã, sao khỏi lòng tan ruột nát. Lại cả Phù Thư Nhã ngông cuồng ương ngạnh, chẳng biết sẽ giở ra những trò gì!
Từ đầu tới giờ Bạch Hỉ vẫn ngó ra ngoài xe ngắm phong cảnh, lúc đó quay vào chăm chú nhìn Khước Hoàn Độ, “Tôn tướng quân, nghe nói sáng nào ông cũng dậy sớm luyện kiếm, chắc hẳn là một kiếm thủ cao cường.”
Khước Hoàn Độ giật thót, tự nhủ việc mình tập võ cực kỳ bí mật, Bạch Hỉ nói trắng ra chắc có ý cảnh cáo tai mắt của hắn rất thính nhạy. Chẳng rõ hắn đã biết được những gì?
Gã đành đẩy đưa cho qua, “Tiểu tướng bệnh hoạn từ nhỏ, vì vậy vâng lời tiên phụ, ngày nào cũng dậy sớm tập tành cho giãn gân cốt, đâu xứng với hai chữ ‘luyện kiếm’.”
Bạch Hỉ cười âm hiểm, nhưng không hỏi han gì nữa. Hai người im lặng một lúc lâu, Bạch Hỉ giữ thái độ ôn tồn nên không khí trong xe cũng không đến nỗi căng thẳng. Từ buổi lấy được mười ba thiên binh pháp của Tôn Vũ, mấy năm nay Khước Hoàn Độ đã gắng sức dung nhập binh pháp vào kiếm thuật, sự thay đổi rõ rệt nhất ở gã là tinh thần ngày càng có xu hướng kín đáo hướng nội. Vì vậy ngay cả đại hành gia võ học như Ngũ Tử Tư cũng phải lầm tưởng về mặt võ nghệ, Khước Hoàn Độ chỉ là một hảo thủ vào hạng bình thường mà thôi, thành ra hôm trước y đã lo thay cho gã khi thấy Thư Nhã khiêu khích, huống hồ Bạch Hỉ, dẫu biết mình luyện kiếm hằng ngày chắc cũng chẳng bới móc được bao nhiêu, vì vậy gã hơi yên dạ.
Bạch Hỉ chuyển hướng câu chuyện, nhắc tới Vu Thần, “Nhân cơ hội này nếu tận dụng được hết xa chiến và kỹ thuật của Tấn quốc thì cái mộng bá vương của nước Ngô chắc chỉ ngày một ngày hai.”
Khước Hoàn Độ mỉm cười, nhưng không nói gì. Bạch Hỉ ngạc nhiên hỏi gã, “Theo Tôn tướng quân, thuật xa chiến của Tấn quốc không đủ đế đối kháng ngang bằng với Sở quốc ư?”
Khước Hoàn Độ nghiêm chỉnh đáp, “Hoàn toàn ngược lại, tôi cho rằng thuật xa chiến của Tấn quốc chỉ hơn chứ không kém bên Sở.”
Bạch Hỉ hỏi, “Nếu thế, vì sao hôm nay lúc diễn tập ở thao trường, ông hoàn toàn hững hờ như vậy?”
Khước Hoàn Độ nghĩ, “A, cuối cùng mới đúng là câu ngươi muốn hỏi. Thái độ mình tất nhiên không che giấu nổi cặp mắt cáo già của hắn.”
Gã đáp, “Nước Sở giàu tiềm lực gấp mười lần chúng ta, lại có truyền thống hùng mạnh về xa chiến. Chúng ta đấu với họ bằng chiến xa chẳng khác nào lấy sở đoản của mình chọi sở trường của người. Thêm vào đó, việc chế tạo một cỗ xe mất rất nhiều thời gian, ít ra cũng vài tháng trời; hiện tại nước chúng ta đang giàu có, không tấn công ngay mà ngồi đợi đóng xe để lỡ thời cơ thì thực đáng tiếc.”
Ngừng một lát, gã tiếp, “Chiến xa nặng nề kềnh càng, chỉ thích hợp với nơi đồng bằng rộng rãi, chưa kể xoay trở bất tiện, đến vùng đất có nhiều ao hồ đầm trạch thì cũng biến thành phế vật. Huống hồ điều khiển xe cực khó, bánh thì to xe thì ngắn, chuyển động không linh hoạt, lại chỉ có một càng với một dây ràng ngựa; việc khống chế bốn con ngựa trông chờ tất vào vào ngự thủ. Nếu không đánh nhanh thắng nhanh, phải tiến hành du chiến, làm sao tranh hùng được với Sở quốc vốn đã có hàng trăm năm kinh nghiệm về chiến xa?”
Bạch Hỉ im lặng, vẻ nghĩ ngợi. Khước Hoàn Độ bỗng cảm thấy thích con người này. Hắn theo phe Phu Khái Vương thật, nhưng không phải là hạng rỗng tuếch chỉ biết ganh đua ghen tị, nếu vóc dáng hắn khôi vĩ, nét mặt phi phàm hơn tí nữa thì chắc đã khiến mọi người yêu mến rồi.
Bạch Hỉ ngẩng đầu, “Vậy Tôn tướng quân có cách gì chế thắng?”
Khước Hoàn Độ toan trả lời thì cỗ xe dừng phắt lại. Đã đến phủ đệ của Phu Khái Vương. Hai người ngừng chuyện, cùng xuống xe. Vừa bước ra ngoài, Khước Hoàn Độ đã thấy ngợp. Dinh Phu Khái Vương nằm ở ngoại thành phía bắc. Khước Hoàn Độ bận việc binh ngại thù tiếp, mới đến đây lần này là lần đầu. Trước đây gã từng đi qua rất nhiều lần nhưng chỉ ngắm từ xa, ai ngờ vào trong lại hoàn toàn là một khung cảnh khác. Vương phủ kiến thiết dựa vào núi, mặt bằng rất rộng, được bao bọc bởi hai vòng tường thành. Bốn góc thành ngoài đều đặt vọng gác, mỗi vọng cao đến sáu trượng, có thể quan sát động tịnh bên ngoài từ mọi phương hướng. Bờ thành dày một trượng, đủ rộng cho ngựa phi. Khước Hoàn Độ nhủ bụng, nhìn dinh thự cũng biết dã tâm của chủ nhân. Gia tướng nhà hắn vào khoảng năm nghìn người, chiếm đến một phần mười binh lực Ngô quốc. Nơi đây địa thế hiểm yếu, dễ thủ khó công, tất là hậu hoạn đối với Ngô vương Hạp Lư. Qua thành trong là đến dãy bậc đá gần một trăm nấc, dẫn thẳng lên sảnh chính ở lưng chừng núi. Nằm ở vị trí trung tâm của quần thể kiến trúc là một tòa nhà lừng lững gồm ba cung tiền, trung và hậu hợp thành. Mặt trước vương phủ có mấy ngôi nhà nho nhỏ, bên trái bên phải thấp thoáng nhiều đình đài lầu các, cảnh tượng hết sức huy hoàng. Khước Hoàn Độ thầm khen ngợi. Ngay ở những quốc gia có tiếng văn minh như Tề, Sở cũng khó mà gặp được một công trình kiến trúc như thế này. Phu Khái Vương hoàn toàn không phải là hạng dễ xem thường.
Vầng thái dương ngả về tây. Ráng tà nhuộm hồng vạt trời bên trái vương phủ, làm nổi bật dáng vẻ thần tiên của tòa nhà. Bỗng nhiên, Khước Hoàn độ nhớ đến cô tiểu thư phiền toái. Chắc chỉ có một nơi phi thường thế này mới hun đúc ra được một mỹ nữ tuyệt thế, võ nghệ xuất chúng như vậy. Theo bốn thị vệ dẫn đường, Khước Hoàn Độ và Bạch Hỉ thong thả đặt chân lên dãy bậc cấp hướng tới đại môn vương phủ.
Bỗng nhiên có tiếng vó ngựa từ bên tả khu nhà vẳng tới, tốc độ rất cao, phóng thẳng tới phía hai người. Khước Hoàn Độ và Bạch Hỉ cùng ngoảnh đầu nhìn. Có mấy kỵ mã vừa phi ra từ khu rừng vương phủ, dẫn đầu là một thiếu nữ, mình vận bộ võ phục bó sát lấp lánh ánh bạc, trông duyên dáng và tươi tắn lạ thường. Chẳng phải Thư Nhã – viên ngọc quý trên tay Phu Khái Vương thì còn ai nữa? Đằng sau nàng là bốn nam tử trẻ trung tuấn tú, trong số đó có cả Trữ Thanh, kẻ tấn công sau lưng và bị Khước Hoàn Độ đoạt lấy mâu hồi sáng. Mấy kỵ sĩ đều khoác ống xì đồng và cánh cung sau lưng, chắc hẳn vừa đi săn về.
Thư Nhã phi đầu tiên, giục ngựa phóng thẳng đến chỗ hai người, còn cách một trượng thì gò cương, con tuấn mã dừng ngay tắp lự, đứng sững trước Bạch Hỉ và Khước Hoàn Độ, dáng vẻ như thị uy. Bốn kỵ sĩ phía sau cũng trổ thuật khiển ngựa tinh thâm, cùng phóng nhanh và giật cương thật gấp. Mấy con tuấn mã xì hơi và thở phì phò. Nhìn toàn cảnh trông rất khí thế.
Thư Nhã cười rất xinh, khuôn mặt trắng mịn thoáng nét đắc ý. Nàng thò tay ra sau lưng, nhấc một con sóc trúng tên lên khỏi mông ngựa, bảo Bạch Hỉ, “Bạch tướng quân, ông xem thu hoạch của Thư Nhã này!”
Nàng không mảy may ngó ngàng đến Khước Hoàn Độ, dù chỉ bằng khóe mắt, tựa hồ gã không hề tồn tại vậy.
Bạch Hỉ cười lớn, “Cung hỉ tiễn thuật của tiểu thư đã tăng tiến thêm một bậc. Mũi tên này xuyên đúng vào cổ. Xét về tài thiện xạ tinh thâm, ở nước ta ngoài Phu Khái Vương ra thì chỉ còn cô thôi.”
Thư Nhã lại cười lảnh lót, hệt như đóa hoa hàm tiếu. Mấy nam tử bên cạnh cứ ngây ra mà ngắm nàng. Ánh mắt long lanh của cô gái chuyển sang Khước Hoàn Độ, liền đó là giọng nói giễu cợt, “A viên đại tướng quân chỉ biết binh pháp không hiểu gì về cung cách tự vệ đây mà. Hôm nay lại chịu giá lâm hàn xá, thực là rồng đến nhà tôm.”
Mấy nam tử cười rú lên, riêng Trữ Thanh có vẻ gượng gạo. Khước Hoàn Độ không chấp nhất, chỉ cười nhạt dửng dưng. Bạch Hỉ nhìn gã, phác một nét mặt như bất lực, ra ý hắn cũng chẳng biết làm thế nào với cô gái này. Khước Hoàn Độ thầm tán thưởng Bạch Hỉ. Nét mặt ấy đã mạnh hơn trăm lời ngàn ý, vừa tránh xúc phạm đến Thư Nhã, vừa kiềm chế cơn giận (có thể) của Khước Hoàn Độ. Tự nhiên đánh giá của gã về con người này lại cao thêm một bậc.
Thư Nhã nổi giận vì sự thờ ơ của Khước Hoàn Độ, nàng sầm mặt, “Tôn tướng quân, nếu ông đừng chúi mũi vào mấy cái nguyên tắc thắng bại ngàn quân thì làm gì đến nỗi không tự vệ nổi như hồi sáng.”
Khước Hoàn Độ sửng sốt, nhưng rồi hiểu ngay. Cái bộ mặt lúng túng kia, cái miệng ngậm câm không nói kia, thì ra là có nguyên do cả. Ra là hắn ta muốn lấy oai với Thư Nhã nên đã bẻ cong câu chuyện hồi sáng, chuyển bại thành thắng. Bạch Hỉ cau mày, cảm thấy Thư Nhã nói năng quá phũ nên định can thiệp.
Khước Hoàn Độ hiểu ý, giơ tay ngăn Bạch Hỉ lại, “Phù tiểu thư danh chấn phương nam, mạt tướng tài hèn sức mọn, làm sao tự vệ được.”
Giọng gã nghe thì khiêm cung, nhưng vẻ mặt hoàn toàn hờ hững, khiến Thư Nhã đang tức mà không có cớ gì phát tác được. Cô gái nhíu mày, cặp mắt to đen láy đảo đi đảo lại, thình lình nàng giật dây cương, cặp chân thon dài kẹp chặt lấy bụng ngựa. Tuấn mã hí lên, chồm bốn vó phóng thẳng vào Khước Hoàn Độ. Một thanh trường kiếm lấp lánh tán xạ xuất hiện trong tay nàng tự lúc nào. Khước Hoàn Độ tập trung tinh thần vào thanh kiếm - thanh Việt Nữ kiếm trứ danh. Nghe đồn nó được đúc từ sắt tinh, thành hình qua bàn tay tài hoa của Âu Dã Tử - bậc thầy rèn kiếm nước Việt, sự ưu việt và tiếng tăm của nó vượt xa thanh kiếm Đồng Long của phụ thân gã trước đây. Việt Nữ kiếm xé gió, vạch một đường cong diễm lệ ngang trời, theo đúng hướng phi của tuấn mã xẻ xuống mặt Khước Hoàn Độ.
Khước Hoàn Độ không loại trừ khả năng cô con gái khả ái của Phu Khái Vương sẽ lấy mạng mình thật, bởi sau này chỉ cần cha nàng thỉnh tội với Hạp Lư, nhất định sẽ được bỏ qua, nàng không có gì phải e dè. Tuy vậy gã nhận thấy kiếm đi hung mãnh nhưng hoàn toàn vẫn ghìm dư lực, hiển nhiên Thư Nhã không định giết gã ngay trong chiêu ấy. Gã có thể giả vờ sợ hãi lăn lông lốc xuống bậc cấp, nhưng tin đó mà đồn ra thì thật tai hại cho uy tín của gã trước toàn quân, chỉ còn một cách thôi. Khước Hoàn Độ đứng sững bất động, ánh mắt lóe lên băng giá.
Trường kiếm chỉ còn cách mặt một tấc, bỗng kiện mã chồm luôn qua người gã, đưa Thư Nhã phóng lên bậc cấp. Tiếng nàng rớt lại, “Nếu Tôn tướng quân muốn học mấy chiêu tự vệ, có thể bái ta làm sư phụ.” Dứt lời, cả người lẫn ngựa biến luôn vào cổng.
Khước Hoàn Độ nhìn quanh, vừa kịp nhận thấy nét mặt kinh ngạc đang tan đi của Bạch Hỉ. Gã rùng mình, hiểu rằng con người tinh tường ấy đã nhận ra nhãn lực và đảm lượng phi thường của mình. Mấy thanh niên kia cùng lộ rõ vẻ tôn kính.


KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 14: Dạ yến vương phủ


Bạch Hỉ và Khước Hoàn Độ sánh vai nhau bước lên bậc thềm.
Chưa tới chiếu nghỉ trước đại môn, họ đã thấy Phu Khái Vương ra đón. Khước Hoàn Độ ngỡ ngàng.
Gã vẫn băn khoăn không hiểu Bạch Hỉ dặn đến sớm có việc gì, nay xem chừng là việc Phu Khái Vương muốn lôi kéo gã vào phe cánh của y. Suy đoán của gã lại được củng cố, người này đang nuôi dã tâm tiếm vị Hạp Lư.
Phu Khái Vương không nhắc nhỏm gì đến Thư Nhã, chào hỏi mấy câu khách sáo rồi dẫn Khước Hoàn Độ đi tham quan phủ đệ. Bạch Hỉ cáo lỗi xong rút lui, chỉ còn hai người và mấy tên thân binh hộ vệ thong thả bước đi.
Phu Khái Vương tỏ ra rất khiêm cung hòa hoãn, trái hẳn với vẻ cuồng ngạo thường ngày. Khi họ đi dọc dãy hành lang mặt phía đông đại điện, Phu Khái Vương nói, “Tôn tướng quân tới chỗ bản vương lần đầu, nhất định phải vào thăm Võ Tàng Thất (phòng chứa vũ khí) mới được.” Giọng y oai nghiêm mạnh mẽ, khiến người đối diện tự nhiên phải phục tùng, thực đúng là khí chất lãnh tụ trời ban, không hổ danh đệ nhị nhân của Ngô quốc.
Hành lang ăn thông với một chái điện, vầng dương sắp tàn thả ánh huy hoàng sau cuối xuống những đền đài lầu các hai bên đường, cảnh tượng đẹp khôn xiết tả.
Ở cửa vào chái điện có bốn tên lực sĩ mặc giáp trần hộ tâm chia cánh đứng gác.
Khước Hoàn Độ quan sát thật nhanh, bốn người này thể hình cân xứng, tinh thần tráng kiện, gã bỗng đâm chợn. Nguyên là người bình thường thì tay phải chân phải to hơn hoặc tay trái chân trái to hơn, tức là nhất định phải có một bên chênh hơn về sức mạnh và sự linh hoạt; song đối với những cao thủ như Khước Hoàn Độ thì không được phép để bất kỳ chỗ nào trên mình trội hơn cả, mà phải phát triển đồng đều mới có thể ứng phó được các mũi tấn công hay đột kích từ mọi góc độ. Nhìn thể hình của bốn người này, đủ biết họ đã được rèn tập theo một đường lối đặc biệt.
Tuy ngạc nhiên, Khước Hoàn Độ vẫn giữ vẻ mặt điềm tĩnh hầu che giấu cảm xúc thật, tránh cho Phu Khái Vương nhận ra nhãn lực tinh tường và trình độ của mình.
Dẫu vậy, gã rất kinh hoàng vì chưa bao giờ nghe Ngũ Tử Tư hay bất kỳ một thủ hạ nào ở nhà nhắc tới bốn lực sĩ này. Cao thủ như bọn họ, dẫu chỉ sở hữu được một người thôi cũng đủ để dương danh, trở thành nhân vật phong vân của Ngô quốc, thế mà bỗng đâu có đến bốn người, lại không ai hay biết gì hết, thực lực của Phu Khái Vương quả khiến người ta khiếp hãi. Đáng sợ hơn là y luôn giữ một thái độ thô lỗ nghênh ngang để che đi cái dự mưu ẩn sâu bên trong, khiến Hạp Lư và người của ông ta không nghi ngờ gì hết. Bốn cao thủ thâm tàng bất lộ này hiển nhiên là một sự tính toán dành riêng cho Hạp Lư.
Có thể nói Phu Khái Vương đã đánh giá thấp Khước Hoàn Độ, nếu biết tay chuyên gia binh pháp này giỏi suy luận như vậy, hẳn y sẽ hối hận.
Phu Khái Vương không ra một hiệu lệnh nào, nhưng khi họ đến trước cánh cửa gỗ khổng lồ khảm đầu thú bằng đồng thì lực sĩ đứng gần nhất mở ngay nó ra. Khước Hoàn Độ nhẩm tính, để mỗi cánh cửa này chuyển động hẳn phải cần một lực đẩy cỡ trăm cân, nhưng võ sĩ nọ chỉ cất tay là cánh cửa đã nhẹ nhàng mở vào trong.
Cửa mở, đèn đuốc hắt ra sáng trưng.
Khước Hoàn Độ tự nhủ, chuyến tham quan “Võ Tàng thất” hôm nay là một nước cờ đánh giá đây. Sau nó, Khước Hoàn Độ, một phải trở thành quân chiêu dụ của Phu Khái Vương, hai sẽ biến thành chướng ngại vật cần tiêu diệt. Phu Khái Vương quyết không cho phép gã đứng bên trận tuyến của Hạp Lư để gây sức ép cho mình, vì vậy lần đấu trí này hết sức quan trọng.
Nếu gã làm cho Phu Khái Vương sinh lòng tận diệt, hắn sẽ phải đối mặt với vị vương gia này trong một trận minh tranh ám đấu.
Thực lực của Phu Khái Vương lớn như vậy, chưa chừng Ngô vương sẽ sẵn lòng hi sinh gã – Khước Hoàn Độ - để tránh nội chiến, đó chính là cục diện mà Khước Hoàn Độ không mong muốn nhất.
Đại điện sáng như ban ngày, các giá gươm giáo mâu kích xếp dài từng dãy, khiến người ta có cảm giác như lạc vào rừng vũ khí.
Đáng chú ý hơn cả là ở một góc điện có đặt hai cỗ chiến xa.
Phu Khái Vương dẫn Khước Hoàn Độ thong thả đi len qua giữa các giá đỡ. Y tiện tay nhấc lên một bộ giáp đồng. Thứ dụng cụ hộ thể đúc bằng đồng xanh này là cực phẩm thời đó, tướng sĩ bình thường chỉ mặc giáp bằng da thuộc, tử tế nữa thì đính thêm vài miếng đồng mỏng ở những bộ phận yếu hại mà thôi, còn giáp đồng phải cỡ quân vương công hầu mới có.
Phu Khái Vương nâng tấm khôi đội đầu, chính giữa nó có một sống gồ chạy dọc từ trước ra sau, chia đôi tấm khôi làm hai nửa cân xứng, bề mặt đúc hoa văn tỏa từ sống gồ này sang hai bên tạo thành một cái mặt thú to, xuống dưới mở ra một khoảng trống với hai mấu chuốt nhọn vuốt sang hai bên ứng với phần miệng của con thú, là chỗ để hở mặt người, hình dáng rất oai võ.
Phu Khái Vương vừa giải thích những ưu điểm vừa kể lại lai lịch của bộ giáp đồng. Khước Hoàn Độ hết sức kinh ngạc. “Võ Tàng Thất” của y từ đao kích mâu đến cung tiễn giáp đều là hàng thượng hạng. Tên vương gia đang phô trương hết cả mị lực và tiềm lực của cái kho tàng này để thị uy với gã đây.
Phu Khái Vương vẫn giữ dáng điệu ung dung, đi vòng sang một góc khác, tiện tay lấy xuống một cánh cung dài.
“Để chế tạo xong xuôi vật này mất trọn bốn năm, phải tìm kiếm cẩn thận từ gỗ chá, sừng trâu đến keo, gân, tơ, sơn vân vân; đến những công đoạn khác nhau thì cần tiến hành vào những mùa khác nhau, tỉ dụ mùa đông chọn gỗ, mùa xuân lấy sừng, mùa hạ trộn keo, mùa thu mới ráp thứ này vào thứ kia, lại đợi qua cái lạnh mùa đông, sang xuân mới căng dây, không được sơ suất chút nào hết.”
Khước Hoàn Độ hết sức tán thưởng kiến thức của Phu Khái Vương, gã là đại hành gia, chỉ nghe đủ biết Phu Khái Vương thấu hiểu điều mình nói tới cỡ nào.
Khước Hoàn Độ lấy xuống một mũi tên, cẩn thận quan sát hình dáng đầu nhọn. Mũi tên này đã từ bỏ hình dẹp lá đào mà thiên hạ vẫn dùng, đổi sang hình gai ba cạnh, từ bỏ kiểu dáng hai cánh nhọn xòe thành ba cánh ba rãnh, tăng cường khả năng xuyên thấu và lực sát thương.
Khước Hoàn Độ nghĩ bụng: chiến thuật tốt cố nhiên là quan trọng, nhưng vũ khí tốt cũng có tác dụng quyết định. Chiến tranh mỗi ngày một nhiều và quy mô mỗi ngày một lớn, trang bị phòng hộ theo đó cũng được hoàn thiện thêm lên, giáp trụ được chế tạo mỗi ngày một vững chắc, các bộ vị phòng vệ mỗi ngày một cẩn thận, vì vậy những mũi tên xuyên sâu tốt hơn là hết sức cần thiết. Mũi tên trên tay gã đây chính là một sản phẩm tạo ra bởi cái guồng phát triển đó.
Gã hững hờ hỏi, “Kho vũ khí này có thể nói là hàng đầu trong thiên hạ, nhưng nếu không đem ra dùng thì cũng chỉ là phế vật, vương gia nghĩ sao?”
Phu Khái Vương nhìn thẳng vào mặt gã, đôi mắt như chim ưng sục sạo con mồi.
Mắt Khước Hoàn Độ loáng lên một tia lạnh lẽo, cứng cỏi nhìn lại y. Hôm nay nếu không tranh thủ được sự tín nhiệm và lòng tôn trọng của người này đối với mình, thì việc điều binh khiển tướng của gã về sau sẽ gặp rất nhiều trở ngại, thậm chí sẽ đến mức bại vong.
Ánh mắt họ cùng như dao nhọn, đâm vào nhau.
Phu Khái Vương uy mãnh và kiêu dũng, cuối cùng thốt lên, “Tôn tướng quân đảm lược hơn người, bản vương bội phục!”
Khước Hoàn Độ nghe những lời nói đầy thâm ý, tức thì sực hiểu cuộc gặp gỡ vừa rồi với Thư Nhã hoàn toàn không phải là tình cờ, người ta đã cố ý đo lường công phu và bản lĩnh của gã. Cũng may gã gan dạ, đã giữ được hình tượng cao thâm mạc trắc bấy lâu.
Khước Hoàn Độ cười ha hả đầy sảng khoái.
Phu Khái Vương hơi ngạc nhiên, Khước Hoàn Độ xưa nay ôn văn điềm tĩnh, tự nhiên lại bộc lộ hết thần thái hào hùng của mình ra như vậy khiến y hơi bất ngờ.
Khước Hoàn Độ biết, bằng một chước ấy gã đã giành lại được quyền chủ động, liền thừa thắng truy kích, “Theo binh pháp, dẫu trước thiên quân vạn mã vẫn phải duy trì sự bình tĩnh mới hòng khắc chế địch nhân. Đấy là quy tắc, đâu liên can gì đến chữ dũng.” Mấy câu này rất sắc sảo, ngụ ý ta đây đứng trước đại quân còn vững như Thái sơn không dao động, huống hồ chỉ là một thanh “Việt Nữ kiếm”.
Phu Khái Vương im lặng. Biết không thể gây áp lực với Khước Hoàn Độ về mặt này, y bèn chuyển sang chuyện khác, “Cổ nhân có câu, chim khôn chọn cây mà đậu, tướng giỏi chọn chúa mà thờ. Ngày nay quần hùng đang tranh bá. Tấn, Tề, Tần, Sở đều là các cường quốc. Nước Ngô đất nhỏ dân thưa, lại lệch về mé xa phương nam, Tôn tướng quân là đại gia binh pháp trứ danh, vì sao muốn dồn sức cho chúng ta?”
Khước Hoàn Độ nghe xong, bỗng nhìn đệ nhị nhân của nước Ngô bằng con mắt khác. Trông y thô lỗ nóng nảy là vậy, thực ra rất có tâm cơ, trí dũng song toàn.
Gã cười nhạt, lấy lại thần thái ung dung khiêm nhường ngày thường. Một mặt là do cái vẻ hào hùng phô trương đã hết tác dụng, mặt khác cũng để Phu Khái Vương không nắm bắt được tâm ý gã, “Tôn Vũ một lòng theo binh pháp, chỉ mong cố gắng thể nghiệm và vận dụng chiến thuật để đưa ra sa trường đích thực, đó là lý tưởng và nguyện vọng lớn nhất đời tiểu tướng.” Nói tới đây, hai mắt gã rực sáng như hai mũi tên, soi vào mắt Phu Khái Vương rồi khoan sâu xuống tâm khảm y.
Phu Khái Vương biến sắc, hiển nhiên đã mất tự chủ trước nhãn thần của Khước Hoàn Độ.
Song khoảnh khắc ấy vụt qua rất nhanh, Khước Hoàn Độ thong thả nói tiếp, “Tấn, Tần mê đắm thuật xa chiến, tật cũ khó bỏ, chưa chắc sẵn lòng hưởng ứng chiến thuật mới của tiểu tướng. Chỉ có nước Ngô xưa nay thiên về bộ và kỵ binh, nếu có thể vận dung cái đạo của tiểu tướng mà luyện tập để đối phó với những chiến thuật xa chiến tối tân, tất có khả năng xưng hùng thiên hạ. Đây chính là nguyện vọng của tiểu tướng, cũng chính là nguyên nhân khiến tiểu tướng tình nguyện theo Ngô quốc.”
Phu Khái Vương nghe xong gật gù, vì nó rất hợp với dã tâm sâu kín của y. Hơn thế nữa, Khước Hoàn Độ lại ngầm ám thị gã không quan tâm ai nắm quyền nước Ngô, chỉ cần giúp gã thi triển được sở học thì gã sẽ tự khắc đi theo. Mấy câu này quả đã gãi đúng chỗ ngứa cho Phu Khái Vương. Y cười ha hả rất mãn nguyện, khoảng cách giữa hai người được rút ngắn dần.
Lúc ấy có tên thân binh tới báo, xe Vu Thần vừa vào đến cổng ngoài vương phủ.
Phu Khái Vương không chần chừ, lập tức dẫn Khước Hoàn Độ ra đón.
Ở cổng lớn, ngoài Bạch Hỉ còn có Ngũ Tử Tư và các đại thần. Hôm nay Phu Khái Vương đứng vai chủ tiệc, Ngô vương tất nhiên không tiện đến.
Ngũ Tử Tư đưa mắt ra hiệu cho Khước Hoàn Độ, ngầm nói y đã biết việc vương gia thỉnh gã tới sớm.
Khước Hoàn Độ hiểu họ Ngũ rất tín nhiệm mình, nên không biểu lộ gì.
Đoàn khách khoan thai đi lên bậc cấp. Vu Thần dẫn đầu, bên cạnh là một phụ nữ óng ả diễm lệ, tuyệt đại phong hoa, chính là mỹ nữ Hạ Cơ, bảo vật của thế gian, người mà Khước Hoàn Độ đã bao lần lưu luyến trong giấc mộng. Gã bỗng thấy tim mình thắt lại.
Phía sau Vu Thần và Hạ Cơ là mười mấy võ sĩ ăn vận kiểu nhà Tấn. Khước Hoàn Độ không nhận ra ai trong số đó, hẳn đây là sự sắp xếp có chủ ý của Vu Thần. Y đã không mang theo một người nào quen Khước Hoàn Độ.
Bạch Hỉ thì thào sau tai gã, “Người mặc áo vàng là Thiểm điện mâu Hạ Tín, người có vẻ tự cao tự đại nọ là Khoái đao Tiệp Liễu. Hai kẻ đó đều là cao thủ lừng danh của nhà Tấn.” Khước Hoàn Độ giật mình, xem chừng lần họp mặt này không tránh khỏi màn tỉ đấu võ nghệ giữa hai nước Ngô – Tấn. Trận tỉ đấu ấy rất dễ biến thành đấu thật, không hiểu Vu Thần sẽ ứng phó ra sao.
Vu Thần mau chóng tới gần Phu Khái Vương lúc này đã ra đứng đón dưới chân thang chính, vừa cười nói vừa cùng dắt nhau đi lên.
Một mùi hương thoảng đến chỗ Khước Hoàn Độ. Thư Nhã cũng vừa ra. Nàng nhìn trừng trừng xuống Hạ Cơ. Khước Hoàn Độ bất giác cười thầm, đàn bà khó tránh được chuyện đấu đọ nhan sắc.
Chỗ đứng của gã vừa khéo thuận tiện để ngắm được nét mặt nhìn nghiêng của Thư Nhã. Sống mũi thanh tú, vầng trán cá tính, hàng mi dài rủ bóng, cặp mắt đen láy, tất cả toát lên vẻ đẹp trong sáng khỏe mạnh, khác với phong thái lả lướt mê hồn của Hạ Cơ, nhưng người nào có cái toàn mỹ của người ấy. Khước Hoàn Độ nghĩ thầm, nếu chinh phục được cô gái xinh đẹp ngang ngạnh này thì thực là một việc thống khoái trong đời nam nhi.
Cảm nhận được cái nhìn chăm chú của chàng trai, Thư Nhã bĩu môi khinh miệt, dịch ra xa mấy bước.
Khước Hoàn Độ thấy mình bị xúc phạm ghê gớm, cũng may vừa lúc Vu Thần và Phu Khái Vương lên tới nơi. Vu Thần giới thiệu Hạ Cơ với khắp lượt mọi người, chẳng mấy chốc sẽ tới chỗ Khước Hoàn Độ, gã vội vàng nhích lên, thầm sắp xếp cục diện sắp đến.
Vu Thần và Hạ Cơ quay sang. Chẳng biết có phải do quá nhạy cảm, Khước Hoàn Độ nhận thấy có hai cặp mắt sắc nhọn, đang soi mói từng biểu hiện của gã và Hạ Cơ.
Một là của Vu Thần, dễ hiểu thôi, vì lần trước sau khi được gã cứu, Hạ Cơ đã tỏ ra rất khác lạ khiến Vu Thần hoài nghi. Tuy Khước Hoàn Độ khéo léo che giấu ngay, nhưng khó mà xóa sạch dấu ấn, gây lại nhiều nghi vấn trong lòng tên cáo già ngoại giao này. Y sẽ không từ một cơ hội nào để dò biết cho rõ sự thật.
Một tất nhiên là của Ngũ Tử Tư, lúc đó đang đứng ngay bên gã, điều ấy khiến gã rất thắc mắc.
Bất kể là ai trong hai người ấy bóc trần được quan hệ giữa Khước Hoàn Độ và Hạ Cơ, thì gã đều không thoát khỏi họa sát thân.
Nàng yêu kiều đứng cách gã chỉ một tầm tay với, mà như xa hẳn nghìn núi trăm sông. Mũi gã đã bắt được mùi hương thân thể quen thuộc của nàng, nó gợi lại ký ức điên đảo thần hồn thuở nào giữa họ, trên chiến thuyền của Vu Thần, nhưng nét mặt gã lại lạnh thêm như xa lạ, như mới gặp gỡ lần đầu.
Giọng Vu Thần cất lên xa vắng, “Phu nhân! Đây là đại gia đương thời về binh pháp, Tôn Vũ tướng quân.”
Hạ Cơ hơi ngước mặt lên, đôi mắt trong vắt của nàng hoàn toàn thản nhiên.
Trước thái độ điềm tĩnh ấy, trái tim dồn dập của Khước Hoàn Độ mau chóng trở lại bình thường, gã vội vàng cúi đầu đáp lễ, nhân thể rút ngắn thời gian ánh mắt họ giao nhau. Chợt gã choáng người.
Bởi khi nhìn xuống, gã nhận ra bàn tay trái của Hạ Cơ đang nắm chặt và run lên bần bật. Vu Thần đứng chếch bên phải nàng may thay không trông thấy, còn chi tiết đó có lọt vào mắt Ngũ Tử Tư hay không thì chưa biết.
Lúc ấy gã không cảnh giác gì được nữa, trái tim trào lên nỗi xót xa. Hạ Cơ đã đau đớn, và đã kiềm chế khổ sở xiết bao!
Chào hỏi xong xuôi, Phu Khái Vương dẫn mọi người vào chính điện. Chỗ ngồi của khách đặt ở mặt nam, chủ nhân ngồi bên mặt bắc, những chỗ khác chạy dọc theo hai mặt đông tây, chừa ra một khoảng trống ở trung tâm.
Mọi người ngồi hướng vào giữa điện.
Một đội nhạc đi vào, quay về phía Vu Thần và Hạ Cơ tấu nhạc.
Đội nhạc này có mười người, chia làm hai hàng, ngồi ở tư thế quỳ, mình vận áo dài hẹp tay màu xám bạc, đầu đội khăn xếp màu vàng.
Người đầu tiên bên trái là chỉ huy, hai tay múa dùi, gõ cách cách xuống mặt trống. Bốn người tiếp sau thổi các loại nhạc cụ hơi, năm người khác, có người ngồi nghiêng chơi đàn hai mươi lăm dây, có người vỗ tay hát. Tiếng nhạc ca réo rắt nổi lên trong điện.
Khước Hoàn Độ vừa giả vờ chú ý thưởng thức, vừa kín đáo dõi mắt nhìn quanh, thấy các cao thủ Tấn quốc đều ngồi ở mặt đông - phía đối diện. Thiểm điện mâu Hạ Tín và Khoái đao Tiệp Liễu mặt mày vô cảm, chẳng rõ giận hay vui. Thư Nhã ngồi chung một bàn với Bạch Hỉ, ánh mắt nàng thi thoảng liếc sang phía Hạ Cơ, tựa hồ không tin nổi thiên hạ có người đẹp đến thế.
Kỳ thực không chỉ Thư Nhã mà toàn bộ nam nhân trong điện, kể cả Phu Khái Vương, suốt thời gian tấu nhạc hầu như chỉ chong mắt về phía Hạ Cơ, mỗi một cử chỉ phong thái của nàng đều khiến mọi người mê mẩn.
Đội nhạc trình diễn xong, Phu Khái Vương nâng cốc uống mừng.
Cạn một tuần rượu, Phu Khái Vương nói, “Lần này, Vu chuyên sứ đã trình diễn thuật xa chiến khiến người Ngô ta được đại khai nhãn giới. Nghe đồn Tấn quốc cũng dày truyền thống thượng võ, rất nhiều danh gia khiến thiên hạ ngưỡng vọng.”
Vu Thần ngửa mặt cười lớn, “Phu Khái Vương là đệ nhất cao thủ phương nam, nếu nói về võ nghệ, chúng tiểu thần chỉ là múa rìu qua mắt thợ, chuốc lấy tiếng chê cười của mọi người mà thôi. Xin cho đậy cái xấu kém này lại.”
Bạch Hỉ chen vào, “Vu chuyên sứ khiêm nhượng quá, mọi người trao đổi chút ít sở đắc, kể cũng là một chuyện hay.”
Thông thường ở những xứ sở thượng võ, yến ẩm mà có vài tiết mục tỉ thí múa kiếm thì cũng là chuyện thường, song trong tiệc đãi bang giao lại động đến binh đao thì nghe chừng hơi phức tạp.
Ngũ Tử Tư cười nói, “Vu chuyên sứ không quản đường sá xa xôi đến đây, nếu không để chúng tôi được mở rộng tầm mắt, e rằng đáng tiếc quá!”
Đến Ngũ Tử Tư cũng phụ họa thì mọi người còn không ngại ngần gì nữa, các đại thần nhất tề reo hò, xôn xao bàn luận phương thức tỉ võ.
Khước Hoàn Độ biết Ngũ Tử Tư là người kín đáo thận trọng, mỗi hành động đều có thâm ý, lần này có lẽ là do đã hợp mưu với Vu Thần, định tận dụng sức mạnh người Tấn để đè bẹp uy phong của Phu Khái Vương. Chẳng rõ vương gia có huy động đến đám võ sĩ khủng khiếp kia không, nếu có, sợ rằng Vu Thần và Ngũ Tử Tư sẽ hố to.
Hai người này trước đây đều làm tôi nước Sở, quen biết đã lâu. Lần này Vu Thần đến Ngô chính là nhờ Ngũ Tử Tư đưa đường dẫn lối, suy đoán của Khước Hoàn Độ kể cũng rất hợp lý.
Một thuộc hạ của Bạch Hỉ tiến ra. Người này là Vạn Tung, dương danh nhờ tài sử trường kích. Khước Hoàn Độ thầm nghĩ, Phu Khái Vương vừa xuất quân đã dùng đến hảo thủ, hiển nhiên đã quyết tâm giành phần thắng.
Vạn Tung bước vào giữa điện, chắp tay thi lễ với Vu Thần, nói lớn, “Thủ hạ của Bạch tướng quân là tham tướng Vạn Tung, xin được cùng so tài với Hạ Tín lão sư của chuyên sứ.”
Tất cả xì xào. Vạn Tung vừa mở lời đã khiêu chiến với cao thủ hạng nhất nhà Tấn, tất nhiên hi vọng có thể phân thắng phụ giữa hai nước chỉ trong một vài trận. Vạn Tung sử trường kích, Hạ Tín sử trường mâu, đều là các binh khí giao đấu ở khoảng cách xa.
Vạn Tung ăn nói đầy tự tin, Hạ Tín vẫn dửng dưng như không, im lặng chờ lệnh Vu Thần.
Khước Hoàn Độ đoán Vạn Tung không chắc chắn lắm về kết quả trận đấu, tỏ ra là mình có lòng tin mãnh liệt cốt để giữ vững khí thế, không đến nỗi yếu đuối bải hoải mà thôi.
Hạ Tín là cao thủ hạng nhất của một đất nước hùng mạnh hàng đầu phương nam, xưng hùng trung nguyên, chả trách cao thủ bên Ngô lại khiếp sợ hắn đến thế. Trận chiến nổi danh nhất của Hạ Tín là trận tỉ võ với Phí Vô Cực của nước Sở. Lúc đó Hạ Tín tuy rơi vào thế hạ phong nhưng vẫn rút lui toàn vẹn, không sứt mẻ gì, khiến danh tiếng hắn được lưu truyền thiên hạ.
Có một điểm khiến Khước Hoàn Độ hơi thất vọng. Vạn Tung ra quân, tức thị Phu Khái Vương không huy động đến bốn tên lực sĩ hung thần, như vậy gã cũng mất luôn cơ hội thu thập thêm nhận xét về nhóm đó.
Vu Thần cười, “Từ lâu đã nghe nói đến Trường kích tứ thập bát pháp của Vạn tham tướng! Hạ Tín mau lĩnh giáo cao minh, nhưng phải nhớ Ngô – Tấn hai nhà bây giờ là huynh đệ, đến điểm là dừng, học hỏi là chính nhé.”
Hạ Tín đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi tiến vào giữa điện, cung tay thi lễ với Phu Khái Vương, không hé một lời, mặt mày khinh khỉnh, hiển nhiên vị vương gia đệ nhất danh thủ ở miệt hẻo lánh phương nam này chẳng đáng kể gì với hắn cả.
Một tia băng giá lóe lên trong mắt Phu Khái Vương, tựa như giận dữ, nhưng nụ cười lại mau chóng vùi lấp nó đi.
Lúc ấy hai bên đều đã cho tùy tùng xuất trận, hai người cùng mặc giáp đồng và yếm đồng che ở những chỗ yếu hại.
Chiếc khôi của Hạ Tín có hoa văn đầu hổ, chiếc khôi của Vạn Tung có hình một con quái thú từa tựa sư tử. Tấm giáp trên mình hai người đều ghép từ những mảnh đồng, yếm xẻ buông, tiện chuyển động, trông bề ngoài hung mãnh, sát khí đằng đằng.
Người hầu mang binh khí đến. Hạ Tín tất nhiên là cầm lấy cây mâu trứ danh của mình, Vạn Tung thì nhấc cây trường kích.
Một hồi trống vang lên sau lưng Phu Khái Vương.
Cây mâu từ tay Hạ Tín bắn lên không, hóa xuất vạn đạo tử ảnh, phát ra tiếng gió vù vù. Hàn quang lấp lánh trên cao, mũi mâu chói lòa phản chiếu dìm cả đại diện trong vầng ánh sáng chói ngời. Hạ Tín vừa xuất thủ là đã thu hết sự chú ý của cử tọa.
Bóng mâu đầy ắp trần điện vụt thu về, biến thành một ngọn trường mâu dài trượng tám, đâm thẳng vào cao thủ Ngô quốc Vạn Tung, lúc ấy đang đứng cách hắn ba trượng.
Vạn Tung thấp hông xuống, đẩy trường kích sang Hạ Tín.
Một thứ sát khí nặng nề lập tức ngưng đọng giữa hai danh thủ, mọi người bất giác nín thở.
Khước Hoàn Độ thầm than bất diệu, Hạ Tín quả nhiên cao minh, vừa xuất thủ đã chiếm lấy quyền chủ động, xem ra hắn định bức Vạn Tung thua bại chỉ trong vài chiêu, thắng như vậy thật là gọn gàng dứt khoát và thuyết phục. Điều không ổn là tư thế tiếp xúc hiện tại hoàn toàn không khéo léo, động một cái là bị thương nặng hoặc mất mạng ngay, nếu để đến mức đó thì sẽ khiến song phương cùng khó xử. Gã đưa mắt nhìn Ngũ Tử Tư, Vu Thần và Bạch Hỉ, nhận ra họ cũng có vẻ bồn chồn bất an, tất nhiên cục diện thế này không ai mong muốn cả.
Mũi mâu của Hạ Tín không hề lung lay, đưa từ thấp lên cao dọc thân mình Vạn Tung. Mũi kích của Vạn Tung thì rung lắc không ngừng, chống cự khí thế mạnh mẽ của Hạ Tín, tự dưng rơi vào thế hạ phong, đúng với nguyên lý: động thì không thể kéo dài được.
Cao thủ Ngô quốc Vạn Tung bắt đầu di chuyển hai chân, lấy Hạ Tín làm tâm điểm, từ từ dịch vòng quanh, hắn cũng không biết xúc tiến tiếp thế nào nữa, chỉ hi vọng giảm bớt được sát khí từ ngọn kích của Hạ Tín mà thôi.
Danh thủ nước Tấn đứng vững như bàn thạch, xoay mình tại chỗ, bất luận Vạn Tung nhanh hay chậm, trường mâu của hắn cũng chăm chăm hướng vào yết hầu đối thủ. Xem ra chỉ cần Vạn Tung để lộ một chút sơ hở thì trường mâu của Hạ Tín sẽ nắm bắt lấy nhanh như chớp. Tình thế lúc này thật căng thẳng, Phu Khái Vương và Vu Thần lộ rõ vẻ bất an.
Khước Hoàn Độ bỗng phá lên cười, vừa cười vừa băng mình vào giữa điện, đến chỗ hai người quyết đấu. Mọi người cùng hoảng kinh thất sắc, sát khí của hai võ sĩ đang ngưng đọng ở đầu mũi nhọn, nay Khước Hoàn Độ tiềm nhập phạm vi cảnh giác cao độ của họ, chỉ một động thái bất lợi thôi thì sẽ khiến cả hai thứ binh khí cùng xoay mũi phản kích vào gã, dẫu là người có võ công cao hơn hai người đó e rằng cũng không đỡ nổi hậu quả của chiêu hợp kích này.
Hạ Tín và Vạn Tung quả nhiên cùng giật mình, một mâu một kích gần như vô thức cùng chĩa ngay vào Khước Hoàn Độ.
Đúng lúc họ sắp đâm tới nơi, Khước Hoàn Độ gầm lên như sấm, nơi tay lóe sáng, một thanh trường kiếm hiện ra rồi đâm vút lên cao, hàn quang chớp sáng, át đi khí thế dữ dội của mâu và kích.
Trường kiếm xả thẳng xuống, đến cách đất ba tấc thì dừng sững lại, hàn khí ngập điện, thanh kiếm tuy chém vào khoảng không nhưng đã xé thủng tấm lưới sát khí giữa hai đấu thủ.
Hạ Tín và Vạn Tung tất nhiên không muốn tấn công Khước Hoàn Độ làm gì, nhân lúc ấy cùng thu binh khí về.
Cục diện rắc rối khó phân đã được hóa giải bởi một đường kiếm của Khước Hoàn Độ. Trong tình huống ấy võ công chỉ là thứ yếu, quan trọng nhất vẫn là dũng khí và ánh mắt.
Khước Hoàn Độ lại cười, thu trường kiếm về. Hàn quang tắt. Gã nói, “Hạ lão sư và Vạn tham tướng võ công đều cao cường, trận này coi như hòa, các vị thấy sao?” Nói rồi gã đưa mắt nhìn khắp mọi người. Nét bàng hoàng trên mặt Phu Khái Vương, Bạch Hỉ và Ngũ Tử Tư đều chưa tan, Phu Thư Nhã mặt trắng bệch, hiển nhiên choáng váng vì sự quả đoán, nhãn lực và kiếm pháp của Khước Hoàn Độ.
Phu Khái Vương cười ha hả, “Người đâu! Hạ lão sư và Vạn tham tướng đã cho chúng ta được mở rộng tầm mắt, tặng mỗi người một thanh bảo kiếm và mười lạng hoàng kim.” Y đưa mắt sang Khước Hoàn Độ, lộ rõ vẻ cảm kích, sự can thiệp kịp thời của gã đã bảo toàn thể diện cho y, trong lòng vị vương gia bất giác nảy sinh thiện cảm với viên tướng trẻ.
Cao thủ bên Tấn đều ngạc nhiên ra mặt, những kẻ kiêu ngạo ấy đã hoàn toàn bị chấn nhiếp trước kiếm pháp và tốc độ của đại gia binh pháp kia.
Chỉ có Vu Thần là bình thản, đến Tương Lão ác thần đụng Khước Hoàn Độ còn phải vứt kiếm bỏ chạy, có gì khiến y kinh ngạc nữa đây? Song y cũng hết sức cảm kích gã đã ra mặt giải vây.
Đến lúc này chẳng còn ai hứng thú xem đấu võ nữa, yến ẩm tiếp tục trong không khí hòa hợp.
Vu Thần nói, “Tôn tướng quân giỏi binh pháp, thiên hạ đều biết tiếng, chẳng hay có thể cho Vu mỗ một cơ hội thỉnh giáo?”
Khước Hoàn Độ hiểu ý vội vàng đáp, “Nếu có thời gian, xin Vu chuyên sứ cho giờ hẹn.”
Sau đó hai người thỏa thuận buổi gặp mặt vào chiều mai, Vu Thần sẽ đến phủ thăm Khước Hoàn Độ.
Buổi hẹn này nói công khai trước bao người, tất nhiên tốt hơn nhiều so với dấm dúi bí mật. Yến tiệc rề rà mãi đến giờ sửu mới kết thúc. Bạch Hỉ và Khước Hoàn Độ cùng ngồi xe về. Bạch Hỉ còn cảm tạ Khước Hoàn Độ mấy lần vì đã giúp thủ hạ hắn giữ được thể diện, khiến hắn cũng không phải mang tiếng.


KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 15: Từ khước mỹ nhân


Khước Hoàn Độ về đến phủ thì đã cuối giờ sửu. Thân tướng ra báo, Ngô vương sai người đưa vũ cơ nước Tấn đến, đã đợi trong chái sảnh hơn hai canh giờ rồi.
Khước Hoàn Độ gần như bứt rứt, lần đầu tiên trong đời gã được tặng một món đồ thơm tho diễm lệ thế này. Mấy vũ cơ đó bất luận khuôn mặt hay dáng vóc đều là tinh tuyển vạn người chọn một, thanh sắc nghệ vẹn toàn, lại là mỹ nữ trung nguyên, đối với người phương nam xa xôi thì chẳng khác nào một món ăn mới lạ. Khước Hoàn Độ vốn đã bị kích thích suốt bữa tiệc bởi sự có mặt của Hạ Cơ, tự nhiên lại có đối tượng để giải tỏa.
Gã đến chái sảnh, vừa vào cửa đã trông thấy ngay một cô gái đang ngồi quay lưng ra phía mình. Cặp mắt sắc bén của gã cũng kịp nhận biết đôi vai thanh mảnh ấy vụt rúm nhẹ, biểu thị chủ nhân nó đang đề cao cảnh giác, bắt lấy từng động tĩnh nhỏ khi gã lại gần.
Khước Hoàn Độ hiểu ra ngay, ả vũ cơ Tấn quốc này kỳ thực là một cao thủ thâm tàng bất lộ. Gã bước chân nhẹ như li miêu, nếu là người thường thì dẫu gã có đến cách ba thước họ cũng chưa chắc đã phát giác ra, chỉ có hạng hảo thủ trải qua quá trình rèn cặp cẩn thận mới luyện được thính giác và cảm quan nhanh nhậy như vậy. Gã lập tức tự hỏi cô ta là gián điệp được Tấn đào tạo để dò la nước Ngô hay chỉ là một trường hợp luyện võ đặc biệt không liên quan gì đến nước Tấn. Gã nhủ bụng nhất định phải tra xét rõ vấn đề, chứ mang kè kè cục họa bên mình thì bất lợi hết sức cho mọi hoạt động và kế hoạch về sau.
Suy nghĩ dồn dập trong trí Khước Hoàn Độ, nhưng bước chân gã không hề ngập ngừng, vẫn thong thả đi vòng đến trước mặt cô gái, tới nơi, gã đứng lại, đưa mắt nhìn xuống.
Cô gái ngẩng lên, chạm phải đôi mắt sáng rực của Khước Hoàn Độ, nàng vội thụp đầu, chỉ trong tích tắc ấy, Khước Hoàn Độ đã kịp nhận ra nàng rất đẹp, phải xếp vào một trong hai, ba người xuất sắc nhất của nhóm vũ cơ hôm ấy.
Nàng mặc áo dài, eo thắt đai lưng màu trắng to bản, trông càng thon thả tha thướt, cổ áo xẻ xéo rất sâu, từ tầm đứng của Khước Hoàn Độ nhìn xuống, có thể trông thấy vồng ngực trắng muốt nở bung, dạt dào mị lực. Khước Hoàn Độ tự dưng nuốt nước bọt.
Cô gái lập tức nhận biết, bỗng như bạo dạn hẳn lên, bèn nhỏm dậy thi lễ với tân chủ nhân, nhưng Khước Hoàn Độ đã ấn hai tay lên vai nàng, khiến nàng ngã ngồi trở xuống.
Gã hít ngửi mùi hương đàn bà, mắt nhìn thẳng vào mặt nàng.
Cô gái lộ rõ vẻ thắc mắc, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập, dáng điệu hơi căng thẳng.
Khước Hoàn Độ nghĩ ít nhất một nửa bộ dạng ấy là do nàng cố ý tạo ra, vì hai cánh tay thon thả không biến đổi một chút nào hết; trong khi đó bất cứ người bình thường nào đột ngột bị người ta chộp lấy, thân thể sẽ sinh ra những phản ứng rung hoặc căng cứng tự nhiên.
Khước Hoàn Độ nhẹ nhàng xoa nắn bờ vai nàng, bờ vai rất ấm, mềm và đầy đặn. Cô gái cúi đầu bất động, để mặc gã tùy nghi.
Căn nhà rộng rãi hoàn toàn yên tĩnh, thật phù hợp cho một đêm thần tiên. Tiếc rằng điều đầu tiên Khước Hoàn Độ mong muốn không phải là hưởng lạc, mà là làm rõ thân phận và mục đích của cô gái này.
Gã nói khẽ, giọng ra lệnh “Nhìn ta nào!”
Cô gái từ từ ngước lên, đôi mắt diễm lệ thấp thoáng một tia cứng cỏi, nhìn thẳng vào gã.
Mắt Khước Hoàn Độ rực thần quang, bắn ra những luồng oai phong sắc bén. Trước ánh nhìn ấy, đến Ngô Việt đệ nhất cao thủ Phu Khái Vương còn bị uy hiếp, huống hồ là một nữ nhân. Mắt họ giao nhau, cô gái rùng mình, lập tức cúi đầu xuống.
Khước Hoàn Độ đâu chịu bỏ qua, lại nghiêm khắc bảo, “Nhìn ta!”
Cô gái chần chừ một lúc rồi ngẩng đầu lên, đôi mắt lá răm lộ rõ vẻ thắc mắc và van vỉ.
Khước Hoàn Độ nhìn một lúc nữa rồi thôi, thái độ trở lại ôn hòa, thế là đủ để đôi mắt oai nghiêm của gã đã lưu lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí cô gái, sẽ có tác dụng rất lớn đối với việc chinh phục triệt để cô ta.
Người tấn công, ý chí phải được đặt lên cao hơn hết thảy.
Khước Hoàn Độ ấn lên đôi tay vũ cơ, cảm nhận được hai luồng lực đạo một nhu một cương tỏa ra từ huyệt Kiên tỉnh. Cô gái rùng mình, nội khí tự nhiên phản ứng, kháng cự chân khí bên trong của Khước Hoàn Độ.
Khước Hoàn Độ rúng động, thấy hai tay sắp bị búng ra, vội vàng thúc động nội lực, đẩy chân khí công phá sự phòng ngự của cô gái, mau chóng phong bế các đại huyệt khắp cơ thể nàng.
Cô gái không cử động gì được nữa, khuôn mặt kiều diễm đầy vẻ kinh hãi, hoang mang không hiểu vì sao người ta lại biết nàng có võ công, đành nhắm mắt phó mặc sinh tử cho gã.
Khước Hoàn Độ thu hồi một phần nội lực để cô gái có thể mở miệng nói và cử động.
Gã mỉm cười, “Nàng tên là gì?”
Cô gái ngẩng lên, ánh mắt đầy ngạo mạn, “Tôn tướng quân cao minh như vậy, muốn giết muốn đánh, xin cứ tùy ý.”
Khước Hoàn Độ thu tay về, quay mình đi ra giữa sảnh, chắp tay sau lưng cười nói, “Quả nhiên là chưa nhiều kinh nghiệm sống. Tra tấn ấy mà, nói thực rất là tinh thâm, kẻ cứng mồm đến đâu bị dụng hình cũng đều biến thành loài sâu bọ hèn hạ đáng thương. Cô nương muốn nếm trải thử quá trình thay đổi đó không?”
Vụt có tiếng gió, Khước Hoàn Độ nhanh như cắt tung mình bay lộn lại, vừa kịp chặn lấy cửa, không cho cô gái chạy trốn.
Ngay lập tức, một mũi nhọn sáng lóe, và một thanh chủy thủ đâm thẳng vào mặt y.
Khước Hoàn Độ cất tay, bóng trảo hư thực chụp luôn vào song thủ đối phương, rồi nhanh chóng điểm vào mấy đại huyệt trên hai chân nàng. Cô gái mềm nhũn người, đổ nghiêng sang Khước Hoàn Độ.
Gã vội luồn tay qua sườn nàng, vòng ra sau lưng, siết chặt nàng vào mình, một mùi hương ngọt ngào tràn căng lồng ngực, khiến hồn như mê đi.
Một lát sau, Khước Hoàn Độ nhấc cổ tay nàng lên xem, trên thanh chủy thủ có khắc năm chữ “Ngô vương Liêu chuyên dụng”. Gã điếng người.
Ngô vương Liêu là tiên vương nước Ngô, trước Hạp Lư hiện nay. Một hôm Hạp Lư (hồi đó còn là Công tử Quang) thết yến mời Ngô vương Liêu dự, ngầm cho thích khách Chuyên Chư giấu kiếm vào ruột cá hạ sát Ngô vương Liêu ngay tại bàn tiệc, sau đó lên ngôi kế vị. Người con gái này cầm thanh chủy thủ của Ngô vương Liêu, hiển nhiên là có ẩn tình.
Đôi mắt mảnh dài khép chặt, khóe mắt ứa hai giọt lệ tuyệt vọng.
Khước Hoàn Độ ghé miệng vào tai nàng thì thầm, “Mở mắt ra mau, không ta nhốt vào với bọn tử tù bây giờ.”
Cô gái giật mình mở choàng mắt. Nếu người ta bỏ nàng chung với bọn tử tù thật, thì chắc còn khốn đốn hơn nữa.
Trước ngày Khước thị sơn thành bị phá, Khước Hoàn Độ rong chơi vui thú với đàn bà cả ngày lẫn đêm, đã quá quen thuộc các điểm yếu của họ, vì vậy đối phó với người con gái này không mấy khó khăn, gã nhận ra ở nàng khí chất cao quý nên đánh vào điều mà nàng sợ nhất, quả nhiên đã nắm thóp được nàng.
Gã siết tay, ôm nàng chặt hơn nữa, cảm nhận được thân thể đàn bà run lên từng chặp, biết rằng nàng đã khiếp hãi thật rồi.
Gã dịu dàng nói, “Đừng sợ, ta không làm đau nàng đâu.”
Cô gái ngước mắt, nhận ra vẻ thương cảm của Khước Hoàn Độ, không nhịn được nữa, lệ châu ràn xuống hai má.
Khước Hoàn Độ thoắt cương thoắt nhu, muốn cầm giữ nên thả lỏng. Trước lối tấn công theo nguyên lý binh pháp ấy, mọi sự đề phòng của cô gái đều sụp đổ.
Khước Hoàn Độ hỏi nhỏ, “Tiên vương là gì của nàng?”
Cô gái nức nở, “Tổ phụ thiếp.”
Khước Hoàn Độ hỏi tiếp, “Vì sao nàng lưu lạc đến Tấn?”
Mắt cô gái thoáng vẻ do dự, nhưng vẫn trả lời, “Thiếp không biết có nên tin ngài không, nhưng tình hình cũng không thể tệ hơn được nữa, thôi thì nói thẳng ra vậy. Thiếp đến Ngô là muốn hành thích Hạp Lư để rửa thù, chỉ hận hắn không chọn thiếp, kể như hắn phước to mạng lớn.” Nói rồi nàng nín lặng, nước mắt rơi lã chã, hai vai co rút lại.
Biết chưa phải lúc để hỏi đến tận cốt lõi vấn đề, Khước Hoàn Độ nhẹ nhàng ôm lấy bờ vai nàng, đưa nàng về phòng, đỡ lên giường và ép nàng nhắm mắt.
Cô gái ngần ngừ, sợ quá nín khóc. Nàng vốn đã quyết hi sinh tấm thân để hoàn thành mục tiêu, nhưng bây giờ bị Khước Hoàn Độ bóc trần lai lịch, vô tình đưa nàng trở lại vị trí lá ngọc cành vàng trước đây, tự nhiên nàng đâm e thẹn.
Khước Hoàn Độ rất đường hoàng, chẳng tỏ ra mảy may ham muốn, gã là người quang minh lỗi lạc, không đời nào lợi dụng cái khó của người để thỏa mãn bản thân.
Gã đắp tấm chăn mỏng cho cô gái, đêm đã về khuya, một thứ tư vị khó tả dâng ngập không gian.
Gã quay mình đi ra, đến nghỉ bên thư phòng.
Đêm hôm trước mất ngủ, bây giờ cũng là lúc nên nghỉ ngơi rồi. Trước khi chợp mắt, gã ôn lại những sự việc đã xảy ra suốt hai ngày nay, còn chuyện thắng bại dở hay, để mai tính tiếp.
Sáng hôm sau Khước Hoàn Độ dậy sớm, hồi đêm chỉ ngủ được hai canh giờ, nhưng công lực thâm hậu nên tinh thần cũng đã hồi phục hoàn toàn. Tắm rửa xong, gã dặn dò người nhà mấy việc rồi đi vào cung. Hôm qua gã có hẹn với Ngô vương, phải trình cho ông ta những chiến thuật tinh thâm đã dày công nghiên cứu suốt mấy năm nay. Liệu có mượn tay Ngô quốc đánh Sở báo thù được hay không, đều trông chờ vào biểu hiện sắp tới đây.
Một canh giờ sau, Khước Hoàn Độ, Ngũ Tử Tư và Ngô vương đã có mặt ở thao trường ngoại thành phía tây. Binh sĩ Ngô đứng đầy kín bốn mặt thao trường, canh gác nghiêm mật.
Khước Hoàn Độ và Ngũ Tử Tư đưa Hạp Lư đến một tòa nhà lớn, bên trong có khoảng mấy trăm thợ đang chế tạo các loại binh khí.
Khước Hoàn Độ dẫn Hạp Lư bước vào một con đường có vệ sĩ đứng gác, đến trước một cánh cửa lớn đóng chặt, “Những vũ khí chế tạo ở đây là tối mật, xưa nay ngoài Ngũ tướng quân và tiểu thần ra, những người khác không ai hay biết.”
Thấy Ngô vương lộ vẻ không vui, Khước Hoàn Độ vội chêm, “Bây giờ nghiên cứu thành công, mới dám thỉnh đại vương thưởng lãm.”
Ngô vương dịu mặt.
Vệ sĩ đẩy cửa, một địa đạo chạy xéo xuống dưới, loáng thoáng có tiếng kim khí va nhau.
Ngô vương Hạp Lư không biết hai người làm gì mà úp úp mở mở thế, ông hào hứng hẳn lên. Ngũ Tử Tư vốn thận trọng, Khước Hoàn Độ thì nhạy bén thông tuệ, vật mà họ định cho ông xem theo cách bí mật thế này hẳn không tầm thường.
Ngũ Tử Tư nói, “Mời đại vương theo thần.”
Ba người cùng đi vào địa đạo, theo sau là mười mấy tên tùy tướng hộ vệ của Ngô vương. Hai bên địa đạo đều có thắp đèn dầu, hắt ra sáng trưng.
Cuối đường là một nơi trông như công trường, có một người thợ hơn năm mươi tuổi đang cung kính chờ đợi.
Khước Hoàn Độ vẫy tay, lão thợ vội vàng lấy ra một thứ vũ khí, trông tựa cung mà không phải là cung.
Ngô vương nhìn thật kỹ, vật này rất lạ, chưa thấy bao giờ. Chẳng biết có tác dụng gì.
Khước Hoàn Độ đón lấy vũ khí từ tay người thợ già, mỉm cười nói, “Vũ khí này, thần gọi nó là ‘nỏ’, so với cung thì linh hoạt hơn, riêng uy lực còn mạnh hơn cung cả chục lần, có thể xuyên thủng bất kỳ loại giáp hộ thân nào, kể cả giáp của chiến binh chiến xa.”
Hạp Lư thắc mắc, “So với cung thì có cải tiến gì khác?”
Ngũ Tử Tư hân hoan giải thích, “Nỏ khác với cung, chẳng hạn, lúc giương nỏ lên, dây nỏ sẽ được cố định ở lẫy, không cần phải dùng tay kéo giữ như cung, như vậy sẽ có thêm thời gian để ngắm bắn, khả năng xạ trúng mục tiêu cũng cao hơn.”
Ngô vương mừng rỡ, gật đầu lia lịa. Khước Hoàn Độ tiếp, “Còn có một ưu điểm rất lớn nữa là các nỏ có thể tập trung bắn cùng lúc, tính đột kích rất cao. Thêm vào đó, nếu bắn cung thì phải dựa hoàn toàn vào tí lực, nỏ không những bắn xa mà cách điều khiển còn đa dạng hơn, ngoài việc sử dụng sức cánh tay còn có thể dùng chân giẫm lên, khiến lực đạo mạnh hơn, đường bay dài hơn, uy lực không gì sánh được.”
Ngô vương ngửa mặt cười, “Hôm nay hai vị đã lập được đại công cho Ngô quốc, ngày sau ta đánh bại nước Sở, tiến quân vào trung nguyên, nhất định sẽ không bạc đãi hai vị.”
Ngũ Tử Tư và Khước Hoàn Độ cùng tạ ơn. Khước Hoàn Độ lấy ra một mũi tên dài, đặt lên lẫy rồi kéo căng, mũi tên được giữ lại đúng cữ dừng tay. Khước Hoàn Độ ngắm một tấm bia cách đó hơn hai trăm bộ, bật lẫy, “phựt”, mũi tên xuyên ngay hồng tâm.
Ngô vương và đám thân binh cùng ồ lên hoan hô. Cung tiễn thời ấy, lực nặng lắm là đến bốn thạch, bay xa nhất là một trăm bộ, còn nỏ bắn được tới ba trăm bộ, làm sao họ không ngạc nhiên khen ngợi?
Ngô vương hỏi ngay vào điểm mấu chốt, “Chế tạo một cây nỏ cần bao lâu?”
Khước Hoàn Độ đáp, “Làm nỏ phức tạp hơn làm cung, ít nhất phải năm năm mới xong.”
Ngô vương im lặng một lúc rồi nói, “Trước sau gì cũng không giấu được người Sở cái bí mật này. Chúng ta phải đánh thắng họ trong vòng ba năm, đến lúc đó họ có biết cách làm cũng không ngại gì nữa.” Rồi ông ta cười phá lên đắc ý.
Khước Hoàn Độ và Ngũ Tử Tư tủm tỉm nhìn nhau. Chước này của bọn họ thật là lợi hại, Ngô quốc muốn nắm bắt thời cơ thì nhất định phải xuất binh trong thời gian ngắn. Chế tác nỏ tiễn chính là con đường buộc Ngô vương phải tiến hành chiến tranh nhanh hơn.
Ngô vương nói, “Từ ngày mai, chúng ta sẽ dùng chiến thuật và vũ khí tối tân để phá vỡ chiến lược của các cường quốc trung nguyên.”
Ba người cùng cười.
Khước Hoàn Độ đang tiến dần từng bước tới thành công, ngày đại chiến cũng cận kề.
oOo
Khi gã quay về tướng phủ, Vu Thần cũng vừa đến, hai người trò chuyện trong thư phòng.
Vu Thần mở đầu, “Vật đổi sao dời, thế sự biến ảo khôn lường, bọn phàm phu tục tử không thể thay đổi được điều đó. Thử nghĩ xem hai chúng ta đều là thần tử nước Sở, thế mà giờ một theo Tấn một ở Ngô, huynh còn biến cải ghê gớm quá sức tưởng tượng, thoắt một cái thành đại gia binh pháp, ai mà ngờ? Chẳng khác nào một giấc mộng.” Nhà ngoại giao già dặn bày tỏ những suy nghĩ của mình với giọng cảm khái, có sức lay động lòng người.
Khước Hoàn Độ cũng thấy bùi ngùi, trầm ngâm không nói. Buổi gặp gỡ của họ có cái thân thiết của bạn cũ li biệt lâu ngày.
Để phá tan không khí trầm mặc, Khước Hoàn Độ nhắc lại chuyện hôm qua, “Vu huynh không thẹn là cao thủ ngoại giao, thấy tiểu đệ hóa thân thành Tôn Vũ mà vẫn ung dung ứng phó, nếu là tiểu đệ thì chắc đã thò cái đuôi ra rồi.”
Vu Thần phì cười, “Lúc ấy ta cũng choáng váng lắm đấy chứ, cảm giác khó tả thật. Cũng may người như chúng ta đã quen che giấu cảm xúc và suy nghĩ, vì vậy hành xử trong những trường hợp tương tự dễ dàng hơn người thường một chút.”
Khước Hoàn Độ thầm nhủ, suy nghĩ và cảm xúc của ngươi che giấu lâu ngày thành quen, tích lũy mãi mỗi lúc một dày, thế mà bị Hạ Cơ kích thích một cái là điên cuồng hết cả lên, điên cuồng gấp mấy trăm lần người bình thường ấy. Nghĩ thì nghĩ vậy, làm sao nói ra miệng được, Khước Hoàn Độ chuyển đề tài, “Bây giờ tình hình Sở quốc ra sao?”
Vu Thần cân nhắc một lúc, thở dài, “Nang Ngõa đã khu trừ được hết những phe cánh chống đối. Đất nước phồn thịnh lâu đời, đất đai phì nhiêu rộng lớn, nhân lực dồi dào, tướng lĩnh như bọn Võ Thành Hắc, Thẩm Doãn Thú, Tử Tây, Tử Kỳ, Thân Bao Tư đều là dạng nhân tài, tiềm lực hơn hẳn Ngô quốc.”
Khước Hoàn Độ không biểu lộ gì, lại hỏi, “Ngô đánh Sở, Tấn quốc có tương trợ chăng?”
Vu Thần nhìn Khước Hoàn Độ, hơi trù trừ, rồi thấp giọng nói, “Ta không giấu huynh nữa vậy. Hiện tại Tấn cũng khó tự bảo toàn, chưa đến thời khắc hung hiểm tối hậu thì quyết không lãng phí dù chỉ một mũi tên hay một binh sĩ. Lần này ta đi sứ, thực ra cũng không tử tế gì, cốt mong Ngô quốc có thể làm lực lượng kiềm chế nước Sở, để Sở khỏi xâm phạm phía bắc trung nguyên, ảnh hưởng tới Tấn, thế đấy.”
Khước Hoàn Độ mỉm cười, tựa hồ đã đoán được cái đáp án này từ trước, chỉ đợi Vu Thần nói để thực chứng mà thôi.
Vu Thần tiếp, “Đáng ngại nhất hiện nay là nước Tần. Nước này nằm ở biên thùy phía tây, Tấn còn hùng mạnh ngày nào, ngày đó Tần còn chưa tiến được sang đông. Nếu Tần bắt tay với Sở, xuất binh cứu viện Sở, Ngô quốc sẽ bị giáp kích, binh lực có đông gấp đôi cũng khó thoát nạn.”
Khước Hoàn Độ nói, “Vì vậy lần này dụng binh, quan trọng nhất là ‘nhanh’ và ‘bất ngờ’, hết sức tránh du chiến, bằng không lao sư viễn chinh, lấy yếu đánh mạnh thì chỉ tự chuốc nhục vào thân.”
Mắt Vu Thần ánh lên nét tán thưởng, “Huynh nhận định rất cao minh, đã nắm bắt được chỗ cốt yếu của binh pháp.”
Ngừng một lúc, y tiếp, “Hạ Cơ muốn gặp huynh, tạ cái ơn tương cứu ngày nào.”
Khước Hoàn Độ giật mình, song cười ngay để khỏa lấp sự bất an, “Phu nhân quốc sắc thiên hương, khiến ai cũng điên đảo thần hồn, ít gặp thì tốt hơn. Chẳng may khó kiềm chế thì còn ra gì?”
Hai người cùng phá lên cười lớn. Vu Thần tất nhiên tưởng rằng Khước Hoàn Độ nói đùa. Có biết đâu rằng gã đã trút ra cảm nghĩ thật sự của mình, trút ra cũng là để che giấu.
Quan hệ giữa họ thật vi diệu, bất kỳ lúc nào cũng có thể tay bắt mặt mừng hoặc trở dao đâm vào lưng nhau.
Hai người chuyện vãn một hồi nữa, rồi Vu Thần cáo từ ra về.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn