View Single Post
  #6  
Old 11-13-2012, 03:53 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww THỦY HỬ TRUYỆN - Hồi 11, 12

Hồi 11

Múa đao thần, Lâm Xung gặp người ngang sức;
Bán gươm báo, Dương Chí giết cọp không lông.


Lâm Xung thấy người kia múa đao đến đánh thì hai mắt trợn tròn xoe, hàng râu hùm dựng ngược, rồi cũng giơ giao ra cự lại, hai bên kẻ đánh người đỡ, chống nhau ước chừng hơn ba mươi hiệp, mà chưa rõ được thua.
Khi đánh được độ hai mươi hiệp nữa, sắp quyết được thua, thì chợt thấy tiếng trên đỉnh núi gọi to lên rằng:
- Hai vị hảo hán hãy khoan tay, đừng đánh nhau nữa.
Lâm Xung nghe vậy, nhảy tót ra ngoài vòng, rồi hai bên cùng đứng dừng đao lại.
Bấy giờ Vương Luân, Đỗ Thiên, Tống Vạn cùng mấy đứa tiểu lâu la xuống núi chở thuyền ra, rồi đi đến chỗ hai người mà nói rằng:
- Hai thanh đao của hai vị hảo hán thực là thần xuất qủy một không ai theo kịp, ông nầy là Báo Tử Đầu Lâm Xung, là anh em chúng tôi, còn ông mặt xanh kia là ai, xin cho chúng tôi biết tên họ?
Người kia nói:
- Ta là Dương Chí, cháu Ngũ Hầu Dương Lệnh Công, là dòng dõi ba đời cửa tướng, lưu lạc ở Quan Tây. Khi còn ít tuổi có thi võ cử, rồi làm đến chức Điện Tư Chế Sứ Quân, sau đức Đạo Quân xây lăng vạn tuế, sai mười người Chế Sứ ra Thái Hồ, tải đá hoa về nộp kinh sư. Chẳng may đi đến giữa sông Hoàng Hà, bị cơn phong ba đánh đắm thuyền, mất cả đá hoa cho nên phải trốn đi nơi khác, mà không dám về kinh nữa. Nay nhân nghe tin triều đình xá tội, ta định thu nhặt ít tiền để về kinh sư lo liệu ở Cơ Mật Viện mà kiếm kế an thân, dè đâu đi qua đây lại bị các ngươi đánh tên gánh thuê mà cướp mất, vậy các ngươi nên đem trả lại cho ta lập tức.
Lâm Xung nói:
- Nếu vậy ngài là Thanh Diện Thú Dương Chí đó chăng?
- Chính phải.
- Thế thì may lắm, xin mời Chế Sứ hãy vào chơi qua trong trại, xơi chén rượu suông đã, rồi chúng tôi xin nộp lại gánh hành lý.
- Hảo hán đã nhận biết tôi, thì xin trả lại gánh hành lý, còn hơn là cho tôi uống rượu.
- Mấy năm trước tôi vào thi ở Đông Kinh, cũng có được nghe tiếng Chế Sứ, thế mà ngày nay lại được gặp ở đây, thực là may quá, thế nào cũng xin đón Chế Sứ vào chơi qua loa chứ không có ý gì khác cả.
Dương Chí từ chối không được, đành phải theo lũ Vương Luân xuống thuyền mà đi vào sơn trại, Vương Luân cho tìm cả Chu Quý lên Tụ Nghĩa Sảnh, sai bắc bốn cái ghế chéo, để Vương Luân, Đỗ Thiên, TốngVạn, Chu Quý ngồi về bên tả, còn một bên hữu, thì bắc hai cái ghế chéo, để mời Dương Chí, Lâm Xung ngồi. Đoạn rồi sai mổ trâu làm tiệc khỏan đãi Dương Chí. Đương khi uống rượu, Vương Luân nghĩ thầm trong bụng: "Nếu ta lưu một Lâm Xung ở, thì tất nhiên có điều không ổn cho ta, vậy bất nhược tiện đây giữ cả Dương Chí ở lại, để có tay địch thủ với Lâm Xung, thì mới được.
Cho hay:
Mấy quân bé mệt ở đời.
Chưa đi đã sợ chưa ngồi đã kinh!
Những là lúng túng nghĩ quanh,
Chẳng qua thêm để vận mình mà chi?
Bấy giờ Vương Luân nghĩ vậy, liền đem chuyện Lâm Xung từ đầu đến cuối, thuật lại cho Dương Chí nghe, đoạn rồi bảo Dương Chí rằng:
- Cái nầy không phải là Vương Luân tôi muốn cử hợp Chế Sứ ở đây đâu. Nhưng tôi thiết nghĩ: Tôi đây đã bỏ văn theo võ, đến lạc thảo đất này, mà Chế Sứ là người có tội, dẫu nay được tha rồi, nhưng cũng khó lòng được phục nguyên chức tước. Vả chăng hiện nay Cao Thái Úy lại coi giữ binh quyền, thì tất nhiên hắn không dùng ngài được, vậy bất nhược ngài tạm dừng ngựa ở đây, để cùng nhau hưởng cái phú quý, kim ngân tửu nhục, mà làm tay hảo hán có lẽ lại hơn, không biết ý ngài nghĩ sao?
- Các ngài có lòng như thế tôi lấy làm cảm ơn lắm, song tôi còn có một người bà con thân ở kinh sư, khi tôi làm việc quan có phiền lụy người ta nhiều lắm, mà chưa sao tạ ơn lại được. Vậy nay tôi muốn trở về qua đấy một phen, xin các ngài trả lại hành lý cho tôi, bằng không thì Dương Chí tôi đành bỏ đấy, mà đi tay không vậy.
Vương Luân cười rằng:
- Vậy thôi, Chế Sứ đã không ở, thì chúng tôi cũng cưỡng bách làm chi. Nhưng xin ngài hãy khoan tâm ngồi đây một tối, rồi sáng mai đi sớm.
Dương Chí cả mừng lưu lại ở đấy một tối. Sáng hôm sau Vương Luân lại làm rượu tiễn Dương Chí, đoạn rồi sai tiểu lâu la quảy hành lý đưa xuống dưới núi mà bái biệt, rồi trở về lưu giữ Lâm Xung ở lại.
Bấy giờ Dương Chí đi ra đến đường cái, tìm một người nhà quê thuê quảy gánh hành lý, mà cho tên lâu la trở về sơn trại, rồi thẳng đường trông nẻo Đông Kinh.
Khi tới Đông Kinh, Dương Chí tìm vào một tửu điếm để trọ, rồi trả tiền cho đứa gánh thuê trở về. Cách vài hôm sau Dương Chí nhờ người đến đút lót ở Khu Mật Viện, để lo bổ Chế Sứ Điện Tư Phủ như cũ. Lúc ấy phải đem các thứ kim ngân tài vật để đưa chỗ nọ, tặng chỗ kia, đến khi hết sạch cả tư trang hành lý, mới xin được giấy khai phục trong Khu Mật Viện, nhưng còn phải đến trình Cao Thái Úy mới xong.
Tới khi đến trình Cao Thái Úy, Thái Úy đem các lý lịch và giấy má ra xem một lượt, rồi cả giận mà rằng:
- Ngươi cùng đi vận tải với chín tên Chế Sứ, thì chín tên kia đã đem về giao nộp từ bao giờ rồi, duy còn có ngươi là đánh mất đá hoa, mà thiện tiện trốn đi đâu mất, quan quân truy nã không ra, thế mà nay lại muốn phục chức hay sao? Tuy rằng ngươi đã có giấy tha, nhưng cũng không khi nào rửa hết tội danh, mà phục chức được.
Nói xong đem các giấy má phê bỏ tất cả, rồi đuổi Dương Chí ra ngoài Soái Phủ.
Cây con đâu có cái tổ chim Hồng!
Quân hèn đâu có cái lượng bao dung nổi người?
Dương Chí trở về nhà trọ, trong bụng lấy làm uất ức mà tự nghĩ một mình rằng:
- Lời nói của Vương Luân khuyên ta thế mà có lý. Nhưng hiềm vì nhà ta, vốn là tiếng tăm trong sạch xưa nay, lẽ nào ta lại đem cái đi thể của tổ tiên mà làm nhơ bẩn cho đành? Bởi vậy ta cũng muốn trở về đây để đem cái tài võ nghệ, cây cao ngọn giáo ra chốn biên đình, hoặc may lập được chút công danh để báo đền quan phụ, thì cũng hả trong lòng một chút. Ai ngờ bị lão Cao Cầu nó cay nghiệt tàn nhẫn, làm cho ta không còn kế chi mà xuất đầu được nữa, chán chưa!
Chàng nghĩ vậy, trong lòng lại phân vân khó chịu, đường xa tiền hết, đất khách quê người, không biết làm sao cho ổn được!
Nhân nhớ đến ông cha ngày trước, còn để lại thanh bảo đao, xưa nay vẫn đeo luôn ở bên mình, liền nghĩ kế đem ra phố bán, để lấy ít tiền mà đi nơi khác lập thân, Khi đem ra bán, đứng ở phố Quần Ngựa, có tới mấy giờ đồng hồ, cũng không thấy ai đến hỏi mua cả, chàng lấy làm nóng ruột, lại vác ra một chỗ náo nhiệt ở trên cầu Thiên Hán để bán.
Dương Chí đứng một lúc thấy người ở hai bên phố đều la nhao nhao bảo nhau rằng:
- Cọp đã đến ta trốn đi.
Đoạn rồi người nào người ấy đổ xô nhau mà trốn vào trong ngõ. Dương Chí thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình rằng:
- Họ nói quái lạ! Ở chỗ cấm thành này, còn làm gì có cọp đến đây được?
Nói đoạn xa trông thấy một anh đại hán, người đen chùi chũi, say rượu bứ bự đương chân nam đá chân chiêu đi đến.
Nguyên đó là một thằng vô lại, có tiếng ở kinh sư, vẫn thường gọi là Một Mao Đại Trùng Ngưu Nhị, xưa nay chỉ chuyên nghề rắc rối ở đầu đường cuối phố, gặp ai là cũng dây vào, làm cho lôi thôi khó chịu, mà quan tư ở Phủ Khai Phong không sao trị nỗi. Bởi vậy mà ai trông thấy cũng tránh mặt cho xa, không còn dám đi gần đến.
Bấy giờ tên Ngưu Nhị đi đến trước mặt Dương Chí, dằng tay cầm lấy thanh đao xuống để xem rồi hỏi rằng:
- Anh, của nầy định bán thanh đao bao nhiêu tiền?
Dương Chí đáp:
- Thanh bảo đao này của tổ phụ tôi để lại, tôi định bán lấy 3.000 quan tiền.
Ngưu Nhị quát lên rằng:
- Đao ăn mày nầy lại bán đến ngần ấy tiền? Ta cứ mua 30 kẽm một con dao, cũng thái được thịt, cắt được đậu rồi. Con dao khốn nạn này có cái gì tốt mà gọi là bảo đao?
- Thanh đao của tôi có phải như của đám hàng chợ đâu. Nó là bảo đao kia mà...
- Thế nào gọi là bảo đao?
Dương Chí nói:
- Một là có thể chặt đồng chặt sắt mà lưỡi không quằn, hai là thổi lông đi qua được, ba là chém người mà đao không có máu, thế cho nên gọi là bảo đao.
- Anh có dám cắt đồng bây giờ không?
- Anh cứ đem đến đây, tôi cắt cho mà xem.
Ngưu Nhị thấy nói, bèn chạy đến một cái hàng ở cầu, tảo lấy một món tiền đồng, để thành một chồng ở bên cầu, rồi gọi Dương Chí rằng:
- Anh kia, nếu anh chặt đứt được, thì ta trả cho 3.000 quan.
Bấy giờ các người đứng xem, dẫu không anh nào dám đứng gần, song cũng đứng túm ở đằng xa mà nom lại. Dương Chí vén tay áo cầm đao, nhắm cho trúng rồi chém một nhát, cọc tiền đứt hẳn làm đôi. Những người đứng xem thấy vậy, ai cũng reo ầm lên.
Ngưu Nhị quát lên rằng:
- Reo cái gì thế? Anh này còn điều thứ hai, thế nào nữa?
Dương Chí nói:
- Điều thứ hai là thổi lông đi qua được, nếu cầm một sợi tóc thổi qua lưỡi đao thì tất đứt làm đôi.
Ngưu Nhị nói:
- Ta không chắc được như thế.
Nói đoạn nhổ ngay sợi tóc trên đầu, đưa cho Dương Chí mà bảo rằng:
- Anh thử làm cho ta xem?
Dương Chí tay tả cần sợi tóc đưa lên trước lưỡi dao, rồi thổi một cái thực mạnh, sợi tóc đứt làm đôi mà rơi xuống đất.
Ngưu Nhị hỏi:
- Còn điều thứ ba là cái gì?
Dương Chí nói:
- Là chém người mà đao không có máu.
- Thế nào là chém người mà đao không có máu.
- Nghĩa là cầm thanh đao mà chém giết một người, mà máu không kịp vây vào được.
- Ta không chắc được như thế, anh thử cầm đao chém một người cho ta xem?
Dương Chí nói:
- Trong chỗ Cấm thành này, bỗng dưng giết người sao được? Nếu không tin thì mang con chó đến đây, tôi chém cho mà xem.
Ngưu Nhị nói:
- Anh bảo giết người không có máu, chứ anh có nói giết chó đâu?
- Thôi anh không mua thì thôi, đừng nhiễu người ta làm gì thế?
- Anh đưa đây ta xem nào.
Dương Chí nói:
- Không có tiền, tôi không cần chuyện cho xem nữa!
Ngưu Nhị nói:
- Anh có dám giết ta không?
- Tôi với anh trước không thù, sau không oán, việc gì mà tôi giết anh?
Bấy giờ Ngưu Nhị nắm chặt lấy Dương Chí mà bảo rằng:
- Thế nào ta cũng mua thanh đao của anh.
Dương Chí nói:
- Anh muốn mua thì mang tiền lại đây.
- Ta không có tiền.
- Không có tiền thì giữ ta làm chi?
Ngưu Nhị nói:
- Ta chỉ cần lấy thanh đao của anh thôi.
- Ta không cho.
Ngưu Nhị lại nói:
- Anh giỏi thử cứ chém ta đi.
Dương Chí cả giận đẩy Ngưu Nhị ngã bắn xuống đất. Ngưu Nhị vội vàng bò dậy đâm húc vào bụng Dương Chí.
Dương Chí kêu lên rằng:
- Xin hàng phố làm chứng cho tôi, Dương Chí này hết tiền phải mang đao đi bán, lại bị thằng khốn nạn nó chực ăn cướp đao mà đánh tôi đây.
Bây giờ hai bên hàng phố sợ Ngưu Nhị bằng một phép, không ai còn dám đến gần mà can ngăn nữa.
Ngưu Nhị thét lên rằng:
- Mầy bảo ta đánh mầy...ừ thì ta đánh chết nữa coi sao.
Miệng nói rồi giơ tay lên đánh Dương Chí, Dương Chí vội né mình để tránh, rồi nổi máu nóng lên cầm đao nhằm giữa trán Ngưu Nhị chém cho một nhát, ngã lăn quay xuống đất. Đoạn rồi nhảy sấn vào đâm luôn mấy nhát váo bụng Ngưu Nhị, máu chảy lênh láng ra đường.
Khi đó Dương Chí bảo với phố xá rằng:
- Tôi giết thằng ăn mày nầy, không việc gì liên lụy đến ai cả. Bây giờ nó chết đây rồi, các ông các bà cứ đi vào Phủ với tôi, để tôi nhận tội cho.
Gươm thần chém chết oan gia,
Trừ loài đê tiện cũng là nghĩa chung.
Đường hoàng thay! Việc anh hùng,
Trời soi đất xét để hòng sợ chi?
Bấy giờ các người hàng phố nghe nói, mới đổ ra đi theo Dương Chí vào Phủ Khai Phong. Tới nơi vừa gặp lúc buổi hầu, Dương Chí cùng bọn hàng phố đi vào công đường, rồi đặt thanh bảo kiếm ra trước mặt, mà bẩm rằng:
- Chúng tôi là Dương Chí, trước làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, sau bị đắm mất Hoa Thạch Cương, phải cách chức về. Nay hết tiền tiêu mang thanh đao đi bán, bất đồ bị thằng vô lại là Ngưu Nhị, nó toan cướp đao, rồi lại sinh sự đánh tôi, bởi vậy tôi tức mình đánh nó chết ra đó, hiện có các phố xá làm chứng, xin trình quan lớn biết cho.
Các người hàng phố cũng túm vào làm chứng, mà kêu với quan Phủ rõ các căn nguyên, quan Phủ nghe nói truyền rằng:
- Đã làm nên tội, mà tự ra thú tội, ta tha đánh cho. Nói đoạn sai gông Dương Chí lại, rồi phái hai viên nha, giải Dương Chí cùng các người hàng phố ra cả Thiên Hán Kiều, để khám nghiệm tử thi, mà làm thành văn án. Đoạn bắt các người hàng phố làm đơn khai bẩm, rồi cho về, còn Dương Chí thì giao xuống nhà lao giam giữ.
Bấy giờ các bọn canh giam ở nhà lao, thấy nói Dương Chí đánh chết một con Cọp không lông, thì ai nấy có lòng kính phục tử tế, mà không sách nhiễu tiền nong chi cả. Các người hàng phố ở quãng cầu Thiên Hán thấy Dương Chí trừ được một đứa đê hèn, liều lĩnh quấy nhiễu loài người ấy, thì cũng lấy làm phục, mà bảo nhau đưa tiền nong vào cho Dương Chí tiêu. Còn người giữ phần ăn, thấy Dương Chí là một tay hảo hán mà lại trừ được hại cho người, vả chăng nhà tên Ngưu Nhị, cũng không có một ai mà đến khống khiếu, thì cũng đem văn án mà rút nhẹ bớt đi. Sau hết, án cho Dương Chí là vì đánh nhau lỡ giết chết người. Giam ở đó đủ 60 ngày, rồi đem trình quan Phủ cho thợ thích kim ấn vào mặt, đánh phạt hai mươi trượng, đóng gông giải sang Đại danh phủ ở Bắc Kinh, để sung quân. Còn thanh bảo đao thì để vào công khố.
Khi kết án xong rồi Phủ Doãn phê cho hai tên công sai là Trương Long, Triệu Hổ giải đi. Hai tên công sai vâng lệnh giải Dương Chí ra đến phố cầu Thiên Hán, thì các nhà phú hộ trong phố mời cả ba người, vào một tửu điếm để thiết đãi. Đoạn rồi đưa tiền cho hai tên công sai mà nói rằng:
- Xin các ông nghĩ đến ông Dương Chí, là một người vì dân trừ hại, mà trông nom tử tế giúp cho.
Trương Long, Triệu Hổ đáp rằng:
- Chúng tôi đây cũng biết ông ấy là một tay hảo hán, các ông không phải dặn hai chúng tôi, xin thế nào cũng phải tử tế.
Bấy giờ các nhà phú hộ lại đưa tiền tiễn cho Dương Chí, rồi cùng bái biệt ra về. Dương Chí đưa hai tên công sai về đến nhà trọ, tính trả tiền nong cẩn thận, còn thừa sai làm rượu thiết đãi hai người và mua ít thuốc cao dán vào chỗ bị roi đánh, rồi khoác khăn gói hành lý, cùng hai tên công sai đi sang Bắc Kinh.
Đường đi nắng sớm mưa mai,
Phòng khi hưu thích, ba người cùng chung.
Không bao lâu đã tới Bắc Kinh, ba người liền tìm một tửu điếm để đưa nhau vào trọ. Nguyên quan Lưu Thú ở Đại danh thủ Bác Kinh, vốn là con rể quan Thái Úy Xai Kinh ở trong triều, tên là Lương Trung Thư Húy là Thế Kiệt, là một tên lên ngựa coi quân, xuống ngựa coi dân, uy quyền rất lớn xưa nay. Khi hai tên công sai giải tên Dương Chí vào, đến sảnh sứ, Lương Trung Thư xem văn thư xong, thì nhận ra ra rằng: Khi ngài ở kinh sư cũng có biết Dương Chí, liền hỏi han đầu đuôi các lẽ.
Dương Chí đem căn nguyên chuyện mình, kêu rõ cho Trung Thư nghe, Trung Thư cả mừng phê hồi văn cho công sai về, rồi sai tháo gông cho Dương Chí, mà lưu lại trong sảnh để sai khiến.
Từ đó Dương Chí ở trong Đại danh phủ, sớm khuya hầu hạ rất là siêng năng cẩn thận. Được ít lâu Lương Trung Thư có ý đề cử cho Dương Chí làm một chức võ quan, song lại e các tướng không phục, bèn nghĩ ra một kế bắt các quan quân trên dưới hết thẩy đến ngày mai phải tới giáo trường để diễn võ. Đoạn gọi Dương Chí lên mà bảo rằng:
- Ta có lòng muốn đề cử cho ngươi làm một chức quan võ để có ít lương tiêu, nhưng không biết võ nghệ của ngươi thế nào.
Dương Chí đáp rằng:
- Tôi nguyên là võ cử xuất thân, trước đã làm Điện Tư Phủ Chế Sứ, mười tám ban võ nghệ đều đã thông thạo cả. Nay nếu ân tướng rộng lòng thương mà đề cử lên, cho chúng tôi được rẽ mây trông thấy mặt trời, thì ân đức ấy xin kết cỏ ngậm vành để báo.
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, liền ban cho Dương Chí một bức áo giáp để dự bị ra diễn võ ngày mai.
Sáng hôm sau, bấy giờ đương diệp trung tuần Tháng hai, chiều trời ấm áp gió lạnh mây quang, Lương Trung Thư cơm nước đoạn rồi cho Dương Chí cùng lên ngựa, mà tiền hô hậu ủng đưa ra giáo trường. Khi ra tới giáo trường, đến trước cửa Diễn võ sảnh Lương Trung Thư xuống ngựa, rồi sai bắc một chiếc ghế ngồi ở đó. Hai bên tả hữu đứng dàn giá các hàng quan viên, nào Chỉ Huy Sứ, Đoàn Luyện Sứ, Chánh Chế Sứ, Thống Lĩnh Sứ, cùng là Chánh Bài Quân, Phó Bài Quân, trăm viên tướng tá, mấy đội ngựa quân, rất là uy nghi tề chỉnh.
Trên chốn tướng đài có hai viên Đô Giám, một viên là Lý Thiên Vương Lý Thành, một viên là Văn Đại Đao Văn Đạt, là tay dũng lực hơn người, thống lĩnh các hàng quân mã; đều quay mặt về chỗ Lương Trung Thư ngồi mà cúi chào làm lễ. Đoạn rồi trên giữa Tướng Đài dựng lên một lá cờ vàng, khua trống nổi kén làm hiệu. Bấy giờ trong chốn Giáo Trường, đứng im tăm tắp không hề ai dám nói ra.
Một lát thì là Hồng Kỳ dẫn quân ở trên Tướng Đài lay động, năm quân đều trông lệnh mà sắp sửa chỉnh tề. Đoạn rồi ngọn cờ phấp phới, tiếng trống vang lừng, năm trăm quân đều cầm khí giới trong tay, dàn thành bài trận. Lại thấy ngọn cờ Trắng ở trên Tướng Đài phất lên, thì hai hàng trận quân ngựa đều sắp lượt chỉnh tề đứng ra trước mặt.
Khi đó Lương Trung Thư truyền đòi Phó Bài Quân Chu Cẩn ra thính lệnh. Chu Cẩn ở bên tả trấn nghe lệnh đòi, liền đánh ngựa ra trước cửa sảnh, rồi xuống ngựa ngả ngọn thương mà dạ một tiếng rất to.
Trung Thư truyền lệnh rằng:
- Cho phép Phó Bài Quân ra diễn võ.
Chu Cẩn vâng tướng lệnh vác thương nhảy lên mình ngựa xông ra quay ngược quay xuôi, xông tả múa hữu, diễn mấy bài thương ở trước diễn võ sảnh. Bấy giờ Lương Trung Thư mới truyền Dương Chí ra trước sảnh mà bảo rằng:
- Dương Chí! Ta nghe trước đây ngươi đã làm Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh, vì phạm tội mới phải tới đây, nhưng hiện nay bốn phương giặc cướp; quốc gia đương lúc cần tài, vậy ngươi có dám ra thử võ nghệ với Chu Cẩn không? Nếu ngươi hơn được Chu Cẩn thì ta sẽ cho ngươi thay vào chức ấy.
Dương Chí cung kính bẩm rằng:
- Ân tướng đã rộng thương, truyền cho như thế, chúng tôi đâu dám sai lời.
Lương Trung Thư liền truyền dắt ra một con ngựa trận, và truyền quan kho lấy đồ quân khí ra chuyện Dương Chí.
Dương Chí vâng lệnh ra sau nhà Võ Sảnh, đem áo giáp của Trung Thư cho mặc vào, rồi thắt đai đội mũ, lưng đeo cung tên, tay cầm thương dài, nhảy lên ngựa mà ra đấu với Chu Cẩn, mới hay là:
Kiếp sinh ví có gặp thì
Tài này sức ấy kém gì ai đâu?
Cảm người lượng cả ân sâu
Anh hùng họa biết mặt nhau phen này
Cuộc đời thay đổi, đổi thay
Hôm nào thế ấy hôm nay thế nào?
Rồi đây cung kiếm ra vào
Chắc rằng xuống thấp lên cao còn nhiều
Lời bàn của Thánh Thán:
Trong phép văn chương, diễn tả ra từng chuyện, có nhiều chỗ giống nhau, và nhiều chỗ khác nhau, những câu chuyện giống nhau, tả ra gọi là phạm vào nhau, những câu chuyện khác nhau, tả ra gọi là tránh xa nhau, văn sĩ diễn tả rất hay ở chỗ khéo phạm đến nhau như một chuyện, song lại biến khác xa nhau, tức đã tránh nhau. Khi phạm đến nhau, rồi lại tránh xa nhau, không một chuyện nào giống hẳn chuyện nào, mới thấy phép văn dũ xuất dũ kỳ, tác giả mới thực là chân chính tài tử. Như ở chuyện này, sau khi tả xong Lâm Xung mua đao báu, rồi xảy ra câu chuyện, cho đến hồi này tiếp tả luôn Dương Chí bán đao báu, rồi cũng xảy ra câu chuyện, hai chuyện cùng phải tội tù, kết lại tưởng như một may một rủi, thế mà cả hai đều phải trốn tránh, không đắc chí với đời, đã thấy phép văn khéo phạm đến nhau, mà lại khéo tị khác nhau.
Lại rằng: Ta đọc Thủy Hử đến đây, không khỏi ngậm ngùi, mà than rằng: Tác giả Thủy Hử, muốn bảo là chẳng phải tài tử, sao có thể được? Hỡi ôi! Trong lòng kẻ có tài phi thường, phải có ngọn bút phi thường, có ngọn bút phi thường, phải có sức phi thường, nếu không có tài phi thường, thì làm sao cấu tứ nổi? Mà không có bút phi thường, làm sao mà trổ tài năng? Và không có sức phi thường, làm sao viết nổi bút ấy? Nay xem Thủy Hử tả Lâm Võ Sư, chợt thấy vì bảo đao mà diễn ra văn chương kỳ thái; Tới khi tả Dương Chế Sứ cũng thấy vì bảo đao mà cũng diễn ra văn chương kỳ thái. Hỡi ôi! Tả chuyện hào kiệt không bao giờ hết nay chợt gác chuyện hào kiệt, mà tả bảo đao, đó là mượn cái tài phi thường, mà biết đâu bảo đao là thế thân hào kiệt? Chỉ tả chuyện bảo đao đi đến hứng thú, đã thành ra tả hào kiệt hứng thú ở trong rồi. Tả bảo đao mà ra hào kiệt vậy. Đem bảo đao tả chuyện võ sư, lại đem bảo đao tả chuyện Chế Sứ, hồi trước một thanh bảo đao làm sáng chói võ sư, hồi này cũng một thanh bảo đao làm sáng diễn ra, nổi lên đối trĩ, dùng bút đến thế, rất kỳ hiểm vậy, nếu bảo rằng chẳng phải phi thường, mà xét mặt nhơn ngơn, đối với trăm nghìn người đều nhận xét ra, còn cãi rằng không phi thường sao được.
Chuyện mua đao với chuyện bán đao, diễn ra khác nhau, mà cũng giống nhau, rồi vẫn khác nhau, văn tự từng câu từng chữ, không phạm đến nhau bút pháp tác giả ly kỳ biến ảo, khác nào cảnh lạ như Thái Sơn nổi bên đông, Hoa Sơn nổi bên tây, hai bên đối trĩ ly kỳ, không một chút giống nhau, thì đủ biết rằng ngọn bút loài người, khác nào văn chương tạo hóa!
Dưới cầu Thiên Hán, tả chuyện anh hùng bí lối, khiến người như ngồi suốt đêm đông; gấp tả ngay trước sảnh Diễn Võ, tả chuyện anh hùng đắc ý khiến người như chợt tới đài xuân, lúc buồn thêm một nỗi buồn, khi vui thêm một chuyện vui, đều là tài tác giả phi thường, theo đuổi từng bước theo hình long hổ mà xuất hiện.


Hồi 12

Nơi Đông Quách, Cấp Tiên Phong tranh công;
Đất Bắc Kinh, Thanh Diện Thú đấu sức.


Khi đó Dương Chí và Chu Cẩn toan xông ngựa ra để đấu nhau, thì bỗng thấy quan Đô Giám Văn Đạt thét lên rằng:
- Hãy khoan tay.
Bấy giờ Dương Chí và Chu Cẩn đều đứng dừng ngựa lại.Văn Đạt từ thượng sảnh chạy lại bẩm với Lương Trung Thư rằng:
- Dám bẩm ân tướng, vâng lệnh ân tướng, cho hai bên ra thử võ nghệ, cũng chưa biết rằng bên nào thua được, song đao thương là vật vô tình xưa nay, chỉ dùng để giết thù đánh giặc. Nay quân tướng trong nhà tập thử với nhau, mà cũng cứ dùng như thế, lỡ ra hoặc đến tàn tật, hay là thiệt đến tính mạng thế nào thì đối với việc quân có điều không lợi. Vậy dám xin ân tướng truyền cho tháo bỏ trên dưới ngọn thương mà bọc vải chấm vôi vào đó, rồi cho hai tướng phải mặc áo đen, để trông vết trắng mà phân thua được thì hơn.
Lương Trung Thư khen là có lẽ, liền truyền cho hai tướng cứ theo thế để thi hành. Khi buộc thương thay áo xong đâu vào đấy rồi hai người lại lên ngựa để xông ra đấu.
Hai bên đánh nhau ước được 4, 5 mươi hiệp, thì trên áo Chu Cẩn đã be bét có tới 3, 4 mươi dấu trắng, mà bên kia Dương Chí chỉ có một nốt trắng ở trên vai, Lương Trung Thư thấy vậy cả mừng, gọi Chu Cẩn đến trước sảnh mà bảo rằng:
- Quan trước cho ngươi làm chức quân trung Phí Bài, nhưng cứ xem võ nghệ của ngươi như thế, thì phỏng đánh đông dẹp bắc làm sao cho được? Vậy từ nay ta cho Dương Chí thay vào chức ấy.
Trung Thư nói dứt lời, thì quan Đô Giám Lý Thành đến trước bẩm rằng:
- Bẩm ân tướng, Chu Cẩn dẫu đánh thương có kém, song nghề cung nghề ngựa quen giỏi xưa nay, nếu ân tướng truất ngay như thế, thì e nỗi lòng quân không phục, vậy lại xin cho hai bên thử đấu nghề cung nghề ngựa xem sao?
Lương Trung Thư cho là phải, liền truyền cho Dương Chí và Chu Cẩn lại lấy cung tên ra đấu.
Hai người cùng vâng tướng lệnh, đoạn rồi Dương Chí đến chỗ treo cung chọn lấy một cây ngay ngắn, cầm ra tay nhẩy lên ngựa, rồi ra trước Võ Sảnh ngồi lên trên yên ngựa, cúi mình mà bẩm với Trung Thư rằng:
- Bẩm ân tướng cung tên là việc võ, ngộ lỡ ra thương hại đến người, thì bấy giờ làm sao? Xin ân tướng dạy trước cho.
Trung Thư nói:
- Đã là võ phu thí nghệ, thì còn cần chi đến sự tổn thương, cho phép các ngươi cứ bắn, giỏi thì được mà thua chết thì thôi không ngại. Dương Chí vâng lệnh, rồi quay ngựa đi ra trước trận.
Bấy giờ Lý Thành lại truyền cho hai bên mỗi người cầm lá chặn che tên, rồi mới ra trận. Khi ra trận, Dương Chí bảo Chu Cẩn rằng:
- Bây giờ tôi nhường bác bắn tôi ba phát trước, rồi tôi bắn lại sau.
Chu Cẩn nghe nói, trong bụng đã căm tức vô cùng, muốn sao bắn cho Dương Chí một phát suốt óc chết ngay thì mới thích. Về phần Dương Chí nguyên là một tay quan võ xuất thân, cũng đã am hiểu các thủ đoạn xưa nay cho nên cũng không coi vào đâu cả.
Khi ấy trên Tướng Đài phất lá thanh kỳ, thì Dương Chí vỗ ngựa cho đi về bên Nam, rồi Chu Cẩn cũng buông ngựa đuổi theo. Đoạn rồi Chu Cẩn bỏ dây cương xuống yên ngựa, mà tay tả cầm cung, tay hữu cầm tên, nhắm đằng sau Dương Chí bắn ra một phát Dương Chí nghe thấy tiếng dây cung bật đến banh một cái, liền tránh ngoắt ra một bên, thành thử mũi tên bắn vụt ra ngoài mất. Chu Cẩn thấy vậy, trong bụng hơi mừng, lại lấy ra một mũi tên nữa, nhè lúc Dương Chí đi gần, mà nhằm giữa sau lưng bắn luôn một phát nữa. Dương Chí nghe biết tiếng tên thứ hai đã phát thì không né mình để tránh mà cầm cây cung ở tay gạt một cái đúng vào mũi tên kia bắn ngay ra đất.
Chu Cẩn thấy hai phát tên bắn ra đều vô ích cả, thì trong lòng lại bồn chồn khó chịu, quây ra thấy con ngựa của Dương Chí đã đi hết đất giáo trường, mà quay vòng trở lại chính sảnh, chàng bèn cùng quay ngựa lại mà đuổi theo. Bấy giờ lại lấy mũi tên thứ ba mà dùng hết sức bình sinh, nhằm thực đích xác vào chính giữa sau lưng Dương Chí mà bắn ra.
Dương Chí biết vậy, vội ngồi trên yên ngựa, quay mình lại giơ tay lên bắt lấy mũi tên, rồi phóng ngựa vào Diễn võ sảnh mà vất mũi tên của Chu Cẩn xuống. Lương Trung Thư trông thấy cả mừng, truyền lệnh cho Dương Chí ra bắn cho ba phát tên.
Khi đó lá thanh kỳ ở trên Tướng Đài lại lay động, Chu Cẩn liền vất cung xuống đất, cầm lá chắn ra tay, mà vỗ ngựa đi sang phía Nam.
Dương Chí thúc hai chân vào vế, thì con ngựa lốp đốp co cẳng chạy theo, đoạn rồi chàng giương cung bắn ở tay, bắn đứt đến tạch một cái. Đằng kia Chu Cẩn nghe tiếng tên bắn, thì vội quay mình mà giơ lá chắn lên, để đỡ, té ra lại không thấy gì cả. Bấy giờ Chu Cẩn lại nghĩ trong bụng: "Anh này chắc chỉ biết đánh gậy, mà không biết bắn, để đợi khi hắn bắn dứt phát nữa, thì ta sẽ kêu to lên, thế thì ta đắc thắng".
Chu Cẩn vừa nghĩ xong, thì ngựa đã đi đến đầu giáo trường bên Nam, chàng liền quay cương cho ngựa chạy trở lại.
Con ngựa của Dương Chí thấy con ngựa kia quay đầu lại, thì cũng ngoắt ngay lại đuổi theo. Dương Chí lấy một mũi tên trong túi ra, rồi nghĩ một mình rằng: "Nếu ta bắn vào giữa chỗ lưng sau, thì tất là hắn chết, ta với hắn không có cừu thù gì, mà làm như thế thì không tiện, vậy ta cứ bắn cho hắn bị thương thôi cũng được".
Nghĩ đoạn tay tả dang ra như đẩy núi Thái Sơn, tay hữu co lại như ôm đứa con đỏ, rồi thấy cánh cung vòng lên, như vòng trăng khuyết, mà mũi tên bắn vụt ra như sao đổi ngôi vậy. Bây giờ nói còn chậm, chứ bấy giờ thì rất nhanh, mũi tên ấy bắn ra, Chu Cẩn chưa kịp trở mình, đã bị trúng ngay vào cánh tay bên tả, ngã lăn xuống đất, còn con ngựa thì chạy thộc ra đằng sau Diễn Võ Sảnh.
Dương Chí vẫn thần sắc tự nhiên như thường, xuống ngựa đến trước sảnh lạy Lương Trung Thư mà nhận chức. Chợt có người ở dưới thềm bên tả, chạy đến kêu lên rằng:
- Khoan khoan hãy nhận chức, để tôi với anh thử đấu một lúc xem sao?
Dương Chí nghe nói bèn quay lại nom thấy người ấy đứng trước mặt Lương Trung Thư mà bẩm rằng:
- Bẩm ân tướng, Chu Cẩn bị yếu mới dậy, cho nên đến nỗi bị thua Dương Chí, nay tiểu tướng dẫu bất tài, xin cho ra đấu với Dương Chí một keo. Bằng có kém thua một tý nào, xin nhường ngay chức của tiểu tướng cho Dương Chí, tiểu tướng không hề dám oán hận điều chi.
Lương Trung Thư trông ra, thì chính là Chánh Bài Quân, ở Đại danh phủ tên là Sách Siêu, vốn người nóng tính xưa nay, việc quốc gia thường hay tranh khí mà xốc vác tiên phong, cho nên ai cũng gọi tên là Cấp Tiên Phong Sách Siêu.
Khi ấy Lý Thành ở trên Tướng Đài nghe thấy vậy, thì cùng xuống trước cửa sảnh mà bẩm với Lương Trung Thư rằng:
- Dám thưa ân tướng, ân tướng đã cắt Dương Chí ra đây, thì tất nhiên là người giỏi, không phải là tay Chu Cẩn đối địch. Vậy để cho Chánh Bài Quân Sách Siêu đọ lại thì mới biết rõ được võ tài hơn kém. Xin ân tướng cho phép thế mới công bình.
Lương Trung Thư nghe nói, nghĩ thầm trong bụng rằng: "Ta cốt đài cử cho Dương Chí, thế mà chúng tướng lại không phục, vậy ta cứ để cho hắn đánh đổ Sách Siêu, thì tất nhiên các cậu dẫu chết, cũng không còn oán hận điều chi được người". Nghĩ đoạn quay ra bảo Dương Chí rằng:
- Nếu vậy thì ngươi theo quân kho ra mà chọn lấy quân khí, rồi cho mượn chiến mã của ta, để mà ra đấu, nhưng phải cẩn thận, chớ coi thường mới được.
Dương Chí vâng lời tạ ơn, rồi trở ra sắm sửa.
Bấy giờ Lý Thành cũng gọi Sách Siêu ra mà bảo rằng:
- Anh phải biết, anh không như người khác được, lúc nãy Chu Cẩn là học trò anh bị thua rồi, nay nếu anh lại lỡ ra thế nào, thì họ không còn coi đám quan quân ở Đại danh phủ này ra gì nữa đâu. Tôi có con ngựa chiến, ra trận đã quen, và các thứ đai giáp đây, cho anh mượn mà dùng, tất phải dụng tâm cẩn thận, chớ để mất nhuệ khí mà nguy.
Sách Siêu nghe lời, tạ ơn Lý Thành mà ra đi sắm sửa đai giáp.
Khi đó Lương Trung Thư đứng dậy, đi ra trước thềm rồi các quân hầu mang ghế chéo bắc ra chỗ bao lơn Nguyệt Đài để Trung Thư ngồi, vào tả hữu đứng dàn ra hai bên, rồi có một tên cầm tàn đứng che ở đằng sau ghế.
Bấy giờ ở trên Tướng Đài phất hồng kỳ ra hiệu, thì hai bên đều nổi chiêng trống vang lừng, đoạn rồi tiếng trống dứt, thì tiếng pháo nổ lên, mà bên kia Sách Siêu bên này Dương Chí, đều phất ngựa ra đứng dưới cờ mặt trận. Hồi trống thứ hai nổi lên, trên Tướng Đài phất lá Bạch kỳ, thì quan quân đâu đấy đứng im phăng phắc một lượt.
Đoạn rồi lá thanh kỳ trên Tướng Đài lay dộng, rồi chiến cổ thứ ba nổi lên, thì thấy cửa trận tả rẽ ra, tiếng nhạc kêu xoang xoảng, rồi quan Chánh Bài Quân Sách Siêu cưỡi con ngựa bạch của Lý Đô Giám tay cầm quân khi đi ra giữa trận vẻ rất oai nghiêm. Bên kia cửa cờ hữu trận cũng mở ra rồi Dương Chí tay cầm cây thương, cưỡi con ngựa đỏ Thiên Lý tiên phong của Lương Trung Thư, nhạc khua xoang xoảng đi ra, đứng giữa trận địa, nom rất hùng dũng.
Bấy giờ quân kỳ bài cầm cờ lệnh, vỗ ngựa đến trước trận, mà tuyền lệnh rằng:
- Vâng lệnh tướng công, truyền cho hai viên đều phải dụng tâm cẩn thận, bằng có sơ xuất hớ hênh, thì là có phạt. Nếu ai đắc thắng tất có thưởng to.
Hai người được lệnh, đều thúc ngựa ra giáp trận với nhau. Sách Siêu ra dáng tức giận; Múa cây phủ trong tay mà đánh Dương Chí trước, Dương Chí đỡ thương lên đón, rồi hai bên hết sức bình sinh đánh nhau tới 50 hiệp, mà không rõ được thua.
Lương Trung Thư ở trong Nguyệt Đài, ngồi ngây ra xem hai người đấu võ, quan quân đứng ở hai bên cùng các hàng quân sĩ trong trận, đều nom nhau mà thì thầm rằng:
- Chúng ta theo việc quân đã lâu cũng có nhiều phen ra trận nhưng chưa từng thấy hai tay hảo hán như thế bao giờ?
Lý Thành, Văn Đạt đứng trên Tướng Đài, nom xuống đều phải vỗ tay khen là giỏi quá! Văn Đạt lại e trong hai người, hoặc lỡ ra bị đau đớn thiệt hại, liền bảo kỳ bài quan giơ cờ hiệu cho hai bên dừng lại.
Khi đó trên Tướng Đài nổi hiệu thanh la lên, song Dương Chí, Sách Siêu đương hăng đánh để tranh công, không ai chịu dừng tay cả.
Quan kỳ bài thấy vậy, phải quay ra trước trận, mà thét lên rằng:
- Hai tay hảo hán hãy khoan tay, tướng công có lệnh...
Dương Chí, Sách Siêu nghe lệnh mới chịu thu tay thương phủ, mà xóc ngựa quay về bản trận, đứng ở dưới cờ để đợi lệnh.
Bấy giờ Lý Thành, Văn Đạt ở Tướng Đài, chạy xuống Nguyệt đài bẩm với Lương Trung Thư rằng:
- Bẩm Tướng Công, võ nghệ của hai người ấy, đều có thể trọng dụng được lại.
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, truyền lệnh cho Kỳ Bài Quân đòi Dương Chí, Sách Siêu vào, rồi sai phòng Quân Chánh thảo văn án cho hai người thăng chức Đề Hạt. Hai người vâng lệnh lạy tạ Lương Trung Thư, rồi trở ra thay bỏ các đồ nhung phục, Trung Thư lại gọi hai người vào làm lễ tương kiến với nhau, mà dự vào ban Đề Hạt. Đoạn rồi Lương Trung Thư cùng các quan viên lớn nhỏ cùng ăn tiệc ở Diễn Võ Sảnh, mãi đến mặt trời xế hôm mới tan.
Khi trở ra về thấy các phụ lão hai bên hàng phố, đều dắt dúm đi theo ra dáng vui mừng hớn hở, Lương Trung Thư ngồi trên mình ngựa hỏi rằng:
- Các người, dân chúng có việc gì mà vui mừng như thế?
Bọn già lão bẩm rằng:
- Từ khi chúng tôi sinh ra ở Bắc Kinh tới nay, chưa hề bao giờ được thấy hai người hảo hán địch thủ như buổi hôm nay, bởi thế chúng tôi đều lấy làm vui mừng quá đỗi.
Trung Thư nghe nói, trong bụng càng lấy làm thích. Khi về tới phủ, các quan viên đều bái tạ Trung Thư, rồi ai về nhà nấy, duy còn một mình Dương Chí là lưu lại ở phủ Đại Danh mà hầu hạ Trung Thư, sớm khuya rất là cần mẫn. Từ đó Lương Trung Thư lại càng thương yêu Dương Chí, các quan viên gần đó, cũng dần dần kéo đến làm quen mà Sách Siêu thấy Dương Chí võ nghệ cao cường thì cũng dốc lòng kính phục.
Đời người như cái con quay.
Khi im phắc khi xoay xoay tròn
Bây giờ chim đã vào ngàn
Biết rằng sau có lạc đàn nữa không?
Sớm hôm thay đổi, ngày tháng xoay vần, thấm thoát không bao, mà xuân qua hạ lại. Một hôm vào khoảng giữa tết Đoan Ngũ, Xài phu nhân bảo với Trung Thư rằng:
- Tướng Công ngày nay làm đến chức Thống Súy, cầm quyền quốc gia ở trong tay, vậy cái công danh phú quý ấy, ở đâu mà đến nhỉ?
Lương Trung Thư đáp rằng:
- Tôi lúc thuở nhỏ có theo đòi kinh sử, có biết ít nhiều đạo lý, lẽ đâu lại không biết cái công danh phú quý này là của Thái Sơn cất nhắc lên cho.
- Tướng Công đã biết như vậy, mà sao lại quên ngày Sinh Nhật của phụ thân tôi?
- Có khi nào quên được. Đến hôm Rằm tháng sáu đây, là Sinh Nhật của Thái Sơn, hiện tôi đã sai người mua sắm mười vạn kim ngân châu báu, để làm lễ thọ từ tháng trước, chỉ nay mai mua xong là mang dâng đó thôi. Chỉ có một điều tôi còn phân vâng chưa quyết, là năm trước đã sai người đem bao nhiêu kim ngân châu báu để dâng, bất đồ đi đến giữa đường, bị quân gian cướp lấy, đến nay truy nã chưa ra, vậy thì bây giờ biết sai ai đưa đi cho chắc được.
- Hiện nay ở trong phủ biết bao nhiêu quan quân ở đó, Tướng Công há lại không chọn được một người tâm phúc mà sai khiến hay sao?
Lương Trung Thư nói:
- Nhưng mà chuyện ấy còn hơn một tháng trời nữa, để bao giờ mua sắm xong rồi, sẽ chọn người mang đi cũng được, vội gì? Phu nhân cứ an tâm, thế nào tôi cũng chu tất được.
Nói về tỉnh Sơn Đông, phủ Tế Châu, huyện Vận Thành, có một quan Huyện mới, tên là Thời Văn Bân, mới đến nhậm ở đó, một hôm cho hai viên Tuần Tập Đô Đầu là Chu Đồng và Lôi Hoành đến mà bảo rằng:
- Ta nghe trong hạt Tế Châu đây, có một bọn cướp ở Lương Sơn Bạc, xưa nay vẫn thường giết người lấy của mà cự địch cả quan quân. Vả lại e các đám trộm cắp ở hương thôn cũng vùng vẫy theo lên, thì đảng ác tất to mà khó trị. Vậy nay hai các ngươi phải chịu khó đem đám thổ binh, một đằng đi ra cửa tây, một đằng đi ra cửa đông, để chia đường tróc nã giặc cướp đem về giải nộp ở đây, mà không được quấy nhiễu dân gian chi cả. Ta thấy nói ở trên ngọn núi thuộc về Đông Khê có một thứ cây Đại hồng mà không đâu có nữa, vậy các ngươi đi về phải đem theo mấy cái lá cây để ta biết làm tin mới được. Nhược bằng không có cái lá ấy thì tất là man trá, ta sẽ trọng phạt không tha.
Hai người Đô Đầu này, một người là Đô đầu Mã binh coi 24 tên quân và ngựa cùng 20 tên thổ binh; Một người là Đô đầu Bộ binh, coi 20 tên thương đầu mục, và cũng có 20 tên thổ binh nữa.
Người Đô đầu Mã binh họ Chu tên Đồng, mình cao hơn tám thước, râu dài thước rưỡi coi như râu hùm, mặt dài mắt sắc, hơi giống tướng mạo Quan Vân Trường, là một nhà phú hộ ở bản xứ, nhân vì có lòng trọng nghĩa khinh tài, cho nên thường kết giao với đám giang hồ hảo hán, mà học được mọi ban võ nghệ; Người Đô đầu Bộ binh tên là Lôi Hoành, mình dài bảy thước rưỡi, mặt mũi đỏ tía, ria râu xòe như cái quạt, sức vóc khỏe mạnh hơn người, thường nhảy qua được những nơi hào rãnh rộng chừng 3, 4 trượng, cho nên người ta thường gọi ông là Sáp Sí Hổ, nguyên là một tay thợ rèn xuất thân, cũng hơi có lòng nghĩa khí, nhưng tâm địa thì vẫn hẹp hòi.
Hôm đó hai người vâng lệnh Tri huyện, rồi trở về điểm các thổ binh của mình, mà chia đường đi tuần canh. Lôi Hoành dẫn 20 tên đi ra cửa đông, xét nét vùng quanh các thôn xã, rồi trở về ngọn núi ở thôn Đông Khê, nhặt được nắm lá Đại hồng, rồi lại đi xuống thôn để về nhà Bảo Chính.
Bấy giờ trời đã tối, Lôi Hoành cùng quân lính, đi được 2, 3 dặm đường, bỗng đến một tòa miếu Linh Quan, thấy cửa còn bỏ ngỏ, Lôi Hoành liền bảo với chúng rằng:
- Cái miếu nầy làm sao mà không đóng cửa? Hay là có trộm cắp nấp ở trong này chăng? Ta thử vào soi ở đó xem sao?
Chúng vâng lời, cùng nhau đem đuốc vào soi, thì thấy trên án thư một đại hán cổi trần trùng trục, cuộn áo làm gối mà nằm gáy khò khò ở đó.
Lôi Hoành thấy vậy, đoán chắc là một tay trộm cướp nằm đó, lấy làm khâm phục Huyện quan là thần minh, liền quát một tiếng, sai thổ binh đổ xô vào trói lại.
Anh kia nghe tiếng, toan vùng trở dậy, thì đã bị thổ binh lấy thừng trói chặt cánh tay, mà dong ngay về thôn Bảo Chính.
Buồn tênh cho khách giang hồ,
Bỗng dưng sao lại lần mò đến đây.
Canh trường giấc điệp còn say,
Bừng con mắt dậy mới hay giật mình.
Hóa công cũng giống vô tình,
Làm chi sự bất thình lình trêu ai?
Rồi đây quấy nước đục trời,
Còn thân còn để cho đời biết tay...
Lời bàn của Thánh Thán:
Người xưa có nói: Vẽ cung điện Hàm Dương thì dễ, vẽ Sở nhân đốt lửa thì khó: Vẽ ngàn dặm thuyền bè thì dễ, vẽ nước trào tháng Tám thì khó. Nay đọc truyện Thủy Hử đến hồi Đông Quách tranh công, tả cho có khác vẽ lửa vẽ trào, do một ngọn tuyệt bút. Vì Lương Trung Thư rất yêu Dương Chí, nhằm vào sau đây dùng vào việc Sinh Nhật Thái Sơn, nên yêu để mà sau ký thác việc trọng đại cho nên trước phải lưu ý đề cử làm quan mà cần phải mở cuộc đấu võ ở Giáo Trường cho cônh chúng không còn tị nạnh. Lúc đầu chỉ một Chu Cẩn xin đấu thì lược tả đấu thương, tường thuật đấu cung mã, cũng gọi là một cuộc đấu tài hứng thú, thế mà tác giả lại đem cái tài không bờ không bến, còn diễn ra cuộc đấu võ khác nữa, cho xuất hiện ra một Sách Siêu, chợt thấy ở dưới thềm bên tả xin đấu sức đua tài, khiến Lương Trung Thư thấy sự xảy ra ngoài ý định. Bấy giờ hai người từng giao thủ, mà Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí, muốn cho thắng trận, mới cho mượn chiến mã bên kia Lý Thành cũng giúp Sách Siêu mà cho mượn chiến mã, kể ra cuộc đấu có phần sôi nổi gay go...Trước khi hai tay chưa từng cử động tý chút, đã làm cho độc giả chú ý, khác dạng kinh hồn động phách trừng mắt, để tâm chờ đợi, thế mà còn gác chuyện đấu võ, lại tả ra Lương Trung Thư chạy tới Nguyệt Đài, nào đặt tiền thưởng, rượu ngon, trịnh trọng ngồi dưới tàn che quạt rũ, đợi cho mấy lần pháo nổ, trống khua mấy lần phất lên Cờ Đỏ, Cờ Vàng, Cờ Xanh, Cờ Trắng rồi sau mới tả ra hai tay hảo hán xuất trận, khiến độc giả đợi chờ, để tâm trừng mắt, sao khỏi kinh hồn mất vía vì một cuộc tranh công? Đợi đến khi hai người chiến đấu, chỉ tả một câu chính văn: Đánh đến 50 hiệp không phân thắng phụ. Tả đến đấy rồi tiếp làm cho Lương Trung Thư ngây ngô, quan quân cũng ngây ngô, khắp giáo trường không ai nói một câu, chỉ Lý Thành, Văn Đạt hai người luôn mồm khen giỏi, khiến độc giả nghĩ bụng, khắp Giáo Trường ai cũng chú trọng hai tay với chiến mã binh khí, chẳng mình Trung Thư ngây ra, đến ngay độc giả cũng ngây ra, đến khi ra lệnh thu quân, còn tả một câu: Hai hảo hán còn muốn tranh công, không chịu ngừng lại. Hành văn đến thế, khác nào vẽ lửa vẽ trào? Trời sinh tuyệt bút tự có bút mực, chưa có văn này, tự có văn này, chưa có phê bình này vậy. Hỡi ôi! Thú vui thiên hạ, không gì bằng đọc sách, đọc sách không gì bằng Thủy Hử, lại còn nỡ nào chẳng cùng với khoái nhân trong thiên hạ đời sau bên rượu dưới đèn, để tán thưởng áng văn như vậy!
Một hồi sách này, ngu phu đọc đến, thì cho rằng Đông Quách tranh công, để định phận cho Dương Chí, một sự long trời lở đất xẩy ra, có hay đâu chỉ nhằm vào việc Sinh Nhật sau đây mà ký thác Dương Chí, cho nên bỗng không nảy ra một sự như lâu đài lừng lẫy giữa trời, chỉ do Lương Trung Thư yêu Dương Chí vậy. Cho nên trong khi tả Lương Trung Thư lưu ý Dương Chí là những chỗ văn tuy ít, song là chính, mà tả Chu Cẩn, Sách Siêu tỷ thí, văn tuy nhiều rực rỡ dọc ngang lại là phụ bút, nếu đọc không phân ra chủ khách chính phụ thì không nhận được ra những cái hay.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn