View Single Post
  #10  
Old 11-13-2012, 05:50 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww THỦY HỬ TRUYỆN - Hồi 19, 20

Hồi 19

Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi chủ trại;
Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng.


Bấy giờ Lâm Xung vất đầu Vương Luân xuống, rồi một tay cầm đao nhọn trỏ vào mọi người mà nói rằng:
- Tôi tuy là một kẻ cấm binh bị tội lưu lạc đến đây, song ngày nay thấy các vị hào kiệt có lòng hạ cố đến ở sơn trại cho vui, thế mà Vương Luân nỡ đem tâm địa hẹp hòi, ghen ghét tài đức, không chịu lưu giữ các ngài, nhân thế tôi phải tính trước hắn đi, chứ thực không có bụng gì mưu đồ ngôi chủ trại. Cứ như cầm đầu thì tôi cũng không khi nào cự địch quan quân, chỉ mong có một ngày kia trừ bỏ những tên tâm địa độc ác ở bên cạnh nhà vua đi, thế là thỏa chí. Nay nhân có Tiều huynh là một người trọng nghĩa khinh tài, trí dũng gồm đủ, thiên hạ ai ai nghe thầy cũng phải phục theo, vậy tôi xin lấy nghiã khí làm trọng, mà lập lên làm chủ trại, ở đây, các ngài nghĩ thế nào, có xứng đáng không?
Chúng nghe nói đều đáp rằng:
- Đầu Lĩnh dạy thế là phải.
Tiều Cái thoái thác rằng:
- Không thế được, xưa nay dẫu khách giỏi đến đâu, cũng không nên chiếm quyền chủ, tôi đây là một người khách mới đến, khi nào dám chiếm ngôi trên!
Lâm Xung nhất định không nghe, sấn lại kéo Tiều Cái đẩy vào ghế, rồi nói lên rằng:
- Bây giờ việc đã đến nơi, không cần phải từ chối, nếu không nghe lời tôi, thì cứ lấy Vương Luân làm phép.
Nói xong cố dìu Tiều Cái ngồi lên ghế, rồi quát bảo mọi người ra trước đình làm lễ mừng. Nhất diện bắt tiểu lâu la về đại trại mở yến hội, nhất diện cho đem xác Vương Luân đi chôn, và nhất diện sai đến trước núi sau gọi tất cả các tiểu Đầu Mục về Tụ Nghĩa Sảnh ở Đại Trại.
Đoạn rồi Lâm Xung với mọi người, mời Tiều Cái cùng lên kiệu ngựa đi đến Tụ Nghĩa Sảnh. Khi tới nơi Tiều Cái vào ngồi ở ghế chính trung, đốt một lò hương để vào gian giữa, rồi Lâm Xung đến trước mặt mà nói rằng:
- Lâm Xung tôi là kẻ thất phu thô mãng, không có học hành tài đức gì, nay may có các vị hào kiệt đến đây đã rạng tỏ được đại nghĩa trong sơn trại, không còn cẩu thả như xưa nữa. Vậy nhân có Ngô Học Cứu tiên sinh đây, xin tiên sinh nhận chức quân sư để giữ binh quyền, sai bảo tướng tá, mà vào ghế thứ nhì cho.
Ngô Dụng vội từ chối mà rằng:
- Tôi là anh học trò thôn quê, trong bụng dầu có tài kinh luân tế thế, dẫu xưa cũng từng được qua Binh Pháp Tôn, Ngô, song chưa có chút là công lao gì, lẽ đâu dám chiếm ngôi trên?
Lâm Xung nói:
- Việc đã đến nơi, không cần khiêm nhượng, tiên sinh phải ngồi.
Ngô Dụng phải nghe lời, ngồi vào ghế ngồi thứ hai.
Lâm Xung nói:
- Công Tôn Thắng tiên sinh, xin ngồi vào ghế thứ ba.
Tiều Cái không thuận, bảo Lâm Xung rằng:
- Làm thế không được, nếu cứ suy nhượng mãi, thì Tiều Cái tôi xin thoái vị.
Lâm Xung nói:
- Tiều huynh lầm rồi, Công Tôn Thắng tiên sinh là người có tiếng, xưa nay giỏi nghề dùng binh, lại có phép gào mưa gọi gió, biến hiện qủy thần, anh em đã ai theo kịp?
Công Tôn Thắng khiêm tốn mà rằng:
- Tôi dẫu có chút phép thuật tầm thường, song không có chi là tài tế thế, mà dám ngồi trên, vậy xin Đầu Lĩnh ngồi cho.
Lâm Xung lại nói:
- Cứ xem một trận đánh được quan quân thì đủ biết diệu pháp của tiên sinh. Tiên sinh ngồi đây chính như bộ đỉnh ba chân khuyết một chân không được, xin tiên sinh đừng từ chối nữa.
Công Tôn Thắng không từ chối được, đành phải nghe lời ngồi ghế thứ ba.
Bấy giờ Lâm Xung lại toan nhường nữa. Tiều Cái, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng nhất định không nghe nói rằng:
- Vừa rồi Đầu Lĩnh bầu cho tam phân đỉnh túc, chúng tôi đã xin vâng lời, tạm ngồi ba ghế trên rồi, nay đến Đầu Lĩnh còn nhường cho ai nữa, thì chúng tôi ba người xin nhất định thoái cả.
Nói xong ba người dìu Lâm Xung ngồi lên ghế thứ tư. Đoạn rồi Tiều Cái nói rằng:
- Bây giờ xin hai Đầu Lĩnh Đỗ, Tống ngồi lên cho.
Đỗ Thiên, Tống Vạn không nghe, liền nhường để Lưu Đường ngồi vào ghế thứ năm, Nguyễn Tiểu Nhị thứ sáu, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ bảy, Nguyễn Tiểu Thất thứ tám, rồi Đỗ Thiên thứ chín, Tống Vạn thứ mười, Chu Quý thứ mười một. Bấy giờ mười một vị ở Lương Sơn Bạc yên định chỗ ngồi, rồi trước núi sau núi tất cả bảy tám trăm lâu la, đều vào lạy mừng, mà chia đứng hai hàng ở dưới.
Tiều Cái nói với chúng rằng:
- Các ngươi nghe lệnh đó, ngày nay Lâm Giáo Đầu cho tôi lên làm chủ trại ở đây, Ngô Học Cứu làm chức quân sư, Công Tôn Thắng cùng coi giữ binh quyền, Lâm Giáo Đầu cùng cùng các đầu lĩnh quản trị sơn trại, còn các ngươi ai nguyên chức ấy, theo phận mà làm, coi sóc các công việc đằng trước đằng sau, giữ các chốn trong trại ngoài bến chớ có để sơ xuất điều chi. Các ngươi phải nên hết sức cùng lòng mà gây nên đại nghiệp với nhau mới được.
Đoạn rồi sai thu dọn hai bên phòng xá để cho lão tiểu hai nhà họ Nguyễn ở, và đem các đồ châu báu sinh nhật còn lại, cùng các thứ kim ngân tài bạch của nhà đem đến, để thưởng các Tiểu Đầu Mục vá các tụi lâu la. Lại giết trâu giết ngựa tế lễ thiên địa thần minh rồi mở tiệc mừng, cùng uống rượu với nhau mãi đến đêm mới nghỉ. Trong mấy ngày hôm sau lại bày tiệc luôn để khao thưởng trên dưới rất là vui vẻ.
Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng cùng các vị đầu lĩnh mới kiểm điểm kho đụn, sửa sang sơn trại, chế tạo các đồ quân khí, thương đao cung tên, mũ giáp thuyền bè, và luyện tập các quân lính thủy thủ tập đánh trên thuyền, để phòng bị khi quan quân kéo đến.
Cách ít lâu, một hôm Lâm Xung thấy Tiều Cái trọng nghĩa sơ tài cư xử rộng rãi, đãi vợ con các người khác đều được chu tất thì trong bụng chợt nghĩ đến vợ mình là Trương Thị ở Đông Kinh, ngày nay sống chết thế nào chưa biết, chàng liền đem tâm sự bầy giải với Tiều Cái rằng:
- Tôi từ khi lên Lương Sơn, đã có ý mang cả vợ con lên đây một thể, nhưng về sau thấy Vương Luân là một người tâm địa hẹp hòi, cho nên trong lòng do dự lại thôi. Tới nay vợ con vẫn còn lưu lạc ở Đông Kinh, không biết rằng có còn sống được hay không!
Tiều Cái nghe nói liền bảo rằng:
- Nếu hiền đệ, còn bảo quyến ở Đông Kinh, thì sao không sai người đi đón về đây? Hiền đệ khá viết một phong thư cho người đi mau mau lập tức về Đông Kinh mà đón ngay mới được.
Lâm Xung vâng lời lập tức viết thư rồi sai hai tên lâu la thân tín mang về Đông Kinh để đón.
Cách hai tháng trời đã thấy hai tên lâu la trở về báo rằng:
- Chúng tôi đi đến Đông Kinh vào ngay trong thành, hỏi thăm tới nhà Trương Giáo Đầu thì thấy nói là Nương Tử bị Cao Thái Úy bức bách, đã liều thân tự ải từ hai năm về trước. Trương Giáo Đầu thì vì lo nghĩ phẫn uất, rồi vào khoảng nửa tháng nay cũng mắc bệnh mất rồi, duy còn có một người con hầu là Cẩm Nhị, thì hiện đã gả chồng mà cùng nhau ở đó. Các lân bang gần quanh ai ai cũng đều nói như thế cả, vậy xin báo để Đầu Lĩnh biết.
Lâm Xung nghe nói thì tầm tã nhỏ đôi hàng lụy, rồi từ đó trong lòng không còn vương vấn việc nhà chi nữa. Tiều Cái thấy chuyện như vậy, thì cũng bùi ngùi tỏ dạ cảm thương.
Đoạn rồi từ đó trong sơn trại chỉ hằng ngày thao luyện binh mã chiến thuyền, để phòng khi cự địch quan quân.
Một hôm các Đầu Lĩnh đương họp nhau bàn việc ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, chợt thấy tiểu lâu la vào báo rằng:
- Phủ Tế Châu sai điểm hơn hai nghìn binh mã và các thuyền lớn nhỏ có tới bốn năm trăm chiếc, hiện đương đóng ở quãng hồ rộng ngoài thôn Thạch Kiệt, xin vào báo để các ngài biết.
Tiều Cái nghe báo cả kinh bàn với quân sư Ngô Dụng rằng:
- Quân quan đến đó, ta nghĩ cách nghinh địch thế nào cho được?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
- Huynh trưởng bất tất phải nghĩ, khắc tôi đã có cách để đối địch. Xưa nay thường nói:"Nước đến đất ngăn, binh lâm tướng đón" ngại chi.
Nói đoạn gọi ba anh em họ Nguyễn đến, ghé vào tai dặn rằng: Như thế...như thế...
Rồi lại gọi Lâm Xung, Lưu Đường đến mà bảo rằng:
- Hai các ông cứ thế nầy...thế nầy...
Đoạn rồi lại gọi cả Đỗ Thiên và Tống Vạn đến, mà phân phó cẩn thận, rồi ai nấy phụng mạng ra đi.
Nguyên quan Phủ Tế Châu, sai một viên Đoàn Luyện sứ là Hoàng An và một viên Bộ đạo quân đem hơn một nghìn người và bắt tất cả các thuyền ở trong hạt, đem hết đến hồ Lương Sơn Bạc. Bấy giờ Đoàn Luyện sứ Hoàng An đem quân lính xuống thuyền, mở còi nổi hiệu thẳng xông đến Kim Sa. Khi gần đi đến bến, chợt thấy tiếng véo von văng vẳng đưa lại bên tai. Hoàng An liền nói:
- Đấy có phải tiếng hoạch dốc (Ống sáo của lâu la) đấy không? Hãy cắm thuyền lại xem sao?
Nói xong vừa dừng lại, thì bỗng thấy trên mặt nước có ba chiếc thuyền vừa đi đến. Mỗi thuyền đều có năm người, bốn người cầm chèo và một người ngồi mũi thuyền, cùng đầu đội khăn hồng, mình mặc áo hồng thêu hoa tay cầm câu neo cả. Khi đó có người nhận biết, nói với Hoàng An rằng:
- Ba người ngồi ba mũi thuyền, chính là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hoàng An nghe vậy vội truyền rằng:
- Chúng bây hãy hết sức tiến lên, bắt ba thằng giặc ấy cho ta.
Nói đoạn hai bên có đến bốn năm mươi chiếc thuyền, đều hò reo mà chèo sấn đến.
Ba chiếc thuyền kia thấy vậy, liền huýt còi lên hiệu rồi quay ngoắt trở lại. Hoàng An cầm thương trong tay vung lên mà bảo rằng:
- Mau giết chết mấy thằng giặc kia đi, ta sẽ trọng thưởng cho các ngươi.
Ba thuyền kia cứ lẳng lặng mà chèo đi, không nói gì cả. Thuyền quan quân đuổi riết đến sau rồi đem cung tên ra bắn. Ba anh chàng họ Nguyễn lại giơ da thanh Hồ lên để đỡ tên mà chạy.
Thuyền sau hết sức đuổi theo, ước chừng được hai ba dặm nước, thì chợt thấy đằng sau Hoàng An có một người bơi thuyền nhỏ đi vun vút mà bảo rằng:
- Chớ nên đuổi nữa! Chúng tôi vừa lúc nãy xông vào, bị họ đánh đuổi xuống nước cướp mất cả thuyền rồi.
Hoàng An ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao lại bị chúng như thế được?
Người kia nói:
- Chúng tôi đương chèo thuyền vào, chợt thấy đằng xa có hai chiếc thuyền, mỗi thuyền có năm người đi đến, chúng tôi liền gắng sức đuổi theo. Khi đuổi được ba bốn dặm trên mặt nước, thì thấy xung quanh toàn là cảng hẹp, mà lại có tới bảy tám chiếc thuyền trổ ra, rồi cung tên bắn xuống như chuồn chuồn không sao đánh được, bất đắc dĩ phải lui thuyền trở lại, dè đâu trở lại đến chỗ cảng hẹp, thì thấy trên bờ có tới hai ba mươi người, cầm một đoạn thừng rất to căng ngang mặt nước. Chúng tôi đương toan đến xem cái thừng, thì bị trên bờ ném đá xuống rào rào như nưa, ai nấy phải nhảy thuyền bỏ xuống nước để trốn. Đến lúc trốn về được tới bờ, thì đã thấy bao nhiêu quân lính giữ ngựa, đều bị chúng giết chết trên mặt nước mà lấy mất cả ngựa. Vì thế nên phải vội vàng ra khóm lau tìm được chiếc thuyền để đến báo Đoàn Luyện hay.
Hoàng An nghe đoạn ngẩn người kêu khổ, rồi phất cờ trắng bảo quân sĩ quay trở về mà không đuổi nữa. Các thuyền được lệnh vừa quay mũi thuyền trở lại, thì đã thấy ba chiếc thuyền lúc nãy, dẫm mười mấy chiếc thuyền nữa, mỗi thuyền cũng chỉ có năm người, tay phất cờ đỏ, miệng thổi khẩu hiệu, quay lại đuổi riết quan quân. Hoàng An thấy vậy, cũng toan dàn thuyền ra để đón đánh, thì lại thấy trong đám ngàn lau có tiếng pháo nổ, rồi bóng cờ đỏ phất phới cả một lượt. Đoạn rồi mấy chiếc thuyền đuổi theo sau gọi lên rằng:
- Hoàng An để đầu lại đấy.
Hoàng An kinh sợ hết sức chèo thuyền, đến bên cạnh bờ lau, lại bị bốn năm mươi chiếc thuyền ở tiểu cảng hai bên bắn ra tua tủa như ném gạo vậy. Hoàng An vội vàng tìm đường tháo lui, ngờ đâu trông đến thuyền, thì chỉ còn độ ba chiếc con, liền hớt hải nhẩy sang một chiếc khoái thuyền, rồi quay cổ lại nom thấy quân lính, anh nào anh ấy ngã lọp tọp xuống nước, có kẻ bị lôi mất cả thuyền đi, rồi đến già nữa bị chết ở dưới nước. Hoàng An đương cỡi chiếc khoái thuyền, đương tháo thân để chạy, chợt thấy trong đám lau lách có một chiếc thuyền của Lưu Đường nhô ra buông móc kéo thuyền Hoàng An lại, rồi nhảy sang thuyền ôm lấy Hoàng An mà kêu lên rằng:
- Cấm đứa nào cựa động.
Bấy giờ quân lính có kẻ biết lội nước, song thấy những người xuống nước đều bị bắn chết, thì không anh nào dám nhảy xuống, mà đành chịu ngồi yên trên thuyền cho họ trói.
Lưu Đường lôi Hoàng An mang được lên bờ, thì thấy Tiều Cái, Công Tôn Thắng cưỡi ngựa cầm dao, dẫn năm sáu mươi người, hai mươi cỗ ngựa ở đằng rẻo núi, đi lại tiếp ứng. Tất cả bắt sống được mấy trăm người, và cướp được bao nhiêu thuyền, đều đem về thủy trại bên Nam để đó. Đoạn rồi Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh nhất tề lên sơn trại. Tới nơi Tiều Cái xuống ngựa vào Tụ Nghĩa Sảnh, các Đầu Lĩnh đều cởi nhung phục, cất quân khí ngồi dàn ra bên, đem Hoàng An ra trói ở cột cái, rồi lấy vàng bạc vóc nhiễu ra thưởng cho các lâu la. Cộng tính tất cả cướp được hơn sáu trăm cỗ ngựa, đó là công lao của Lâm Xung, đánh mặt tiểu cảng bên Đông là của Đỗ Thiên, Tống Vạn, đánh mặt tiểu cảng bên Tây là công của Nguyễn Thị Tam Hùng, còn bắt được Hoàng An là công của Lưu Đường.
Các Đầu Lĩnh thấy buổi bắt đầu đã được toàn thắng, thì ai nấy lấy làm vui thích, giết dê mổ ngựa mở tiệc ăn mừng. Trong sơn trại lại có rượu ngon nấu uống, ngó sen cá tươi dưới hồ bắt lên, các thứ hoa quả nào hạnh, nào đào, nào mơ, nào táo, ở bên núi phía Nam, cùng các giống lợn, gà, ngỗng, vịt nuôi sẵn trong nhà, không có một vật gì là không có, bấy giờ tha hồ mà yến ẩm thung dung. Đương khi yến ẩm cùng nhau, chợt thấy lâu la lên báo rằng:
- Tiểu Đầu Lĩnh Chu Quý sai người lên hầu.
Tiều Cái truyền gọi vào, hỏi có việc chi?
Tên lâu la bẩm rằng:
- Chu Đầu Lĩnh thám được một bọn khách buôn có tới mươi người đi liên kết với nhau, chiều nay tất do qua lối này, xin báo để Đại Vương biết.
Tiều Cái nghe báo, bảo với chúng rằng:
- Hiện nay ta đương cầu kim ngân tài bạc để chi dùng, vậy có ai đem người xuống cướp lấy được chăng?
Vừa nói dứt lời thì Nguyễn Tiểu Nhị đã đứng lên nói rằng:
- Ba anh em tôi xin đi.
Tiều Cái nói:
- Thế thì hay lắm, nhưng anh phải cẩn thận đi mau, lại phải về mau mới được.
Ba anh em họ Nguyễn vâng lời, lui ra thay áo xiêm, giắt đao lưng, cầm đao lớn, đoạn điểm lấy hơn một trăm lâu la, rồi vào Tụ Nghĩa Sảnh bái biệt mọi Đầu Lĩnh mà xuống núi ra bến Kim Sa, đáp thuyền sang hàng rượu Chu Quý. Tiều Cái sợ ba anh em họ Nguyễn không làm được việc, lại sai Lưu Đường đem hơn một trăm người nữa, để xuống núi tiếp ứng, và dặn lại rằng:
- Đến đó phải làm sao cho khéo, để lấy kim ngân tài bạch, chứ không được giết hại khách thương.
Lưu Đường vâng lời ra đi. Tiều Cái đợi mãi đến canh ba, cũng không thấy bọn ấy về, liền sai Đỗ Thiên, Tống Vạn dẫn thêm năm mươi người nữa để xuống tiếp ứng. Đoạn rồi lại cùng với Ngô Dụng. Công Tôn Thắng, và Lâm Xung cùng uống rượu đến sáng. Sáng ngày ra thấy lâu la lên báo rằng:
- Chu Đầu Lĩnh đã lấy được hai mươi xe kim ngân tài vật, và bốn năm mươi con lừa ngựa đem để nộp.
Tiều Cái hỏi:
- Không giết hại đến người chứ?
B- ẩm, khách thương thấy thế lực kéo đến mạnh tợn, thì bỏ xe cộ hàng hóa chạy ngang, chưa hề giết hại một người nào cả.
Tiều Cái cả mừng mà rằng:
- Chúng ta từ đây trở đi, không nên giết hại người ta mới được.
Nói đọan đưa ra một lạng bạc thưởng lâu la, và sai đem các thức rượu quà xuống núi để đó tiếp. Khi đến bến Kim Sa, đã thấy mấy viên Đầu Lĩnh đem các đồ xe cộ tải lên trên bờ, rồi lại sai mang thuyền ra để tải lừa ngựa. Những Đầu Lĩnh trông thấy cả mừng cất chén mời rượu xong rồi, cho ra đón cả Chu Quý về trại, để yến ẩm.
Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh về đến Tụ Nghĩa Sảnh, đem các tài vật khăn gói lên giở hết ra để xem, bao nhiêu vóc lụa xếp về một bên, hàng hóa xếp về một bên, còn kim ngân bảo cụ thì xếp ra trước mặt. Gọi tiểu Đầu Mục coi kho lên giao cho mỗi thứ chia lấy một nửa đem cất vào kho, còn một nửa nữa thì chia làm hai phần, mười một vị Đầu Lĩnh lấy một phần, và một phần cho chúng chia nhau.
Bao nhiêu những quân sĩ mới bắt được, hết thẩy đem thích chữ hiệu vào mặt, rồi chọn những người khỏe mạnh cho đi chăn đẵn củi, người yếu đuối, thì cho đến các nơi coi xe cắt co, còn Hoàng An thì đem giam vào phòng giam ở đằng sau trại.
Bấy giờ Tiều Cái nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Chúng tôi thoạt tiên đến đây, cũng chỉ mong nương tựa vào Vương Luân, để tránh tai nạn, ngờ đâu nhờ được Lâm Giáo Đầu sau nhường cho tôi lấy ngôi vị chí tôn, rồi lại được luôn hai việc vui mừng, một là trị được quan quân, bắt được người ngựa thuyền bè, và bắt được Hoàng An ở đó. Hai là lấy được tài vật kim ngân rất nhiều, đấy thực là toàn nhờ ở tài năng của anh em hết cả.
Chúng Đầu Lĩnh khiêm tốn mà rằng:
- Việc ấy là nhờ ở phúc ấm của Ca Ca chứ chúng tôi có tài cán chi đáng kể.
Tiều Cái lại nói với Ngô Dụng rằng:
- Mười anh em ta sở dĩ còn được tính mạng đến đây, là ơn của Chu Đô Đầu và Tống Áp Ty, có khi nào mà ta quên được! Cổ nhân nói:"Biết ơn không báo, không phải là người". Vậy ngày nay ta có kiếm được kim ngân châu báu kia là bởi tại đâu? Việc đó ta phải sai người đem một ít đến Vận Thành, để trả nigh ân nhân là một sự quan trọng thứ nhất. Còn một điều là Bạch Thắng hiện nay bị giam ở nhà pha Tế Châu, ta cũng phải đến đó mà cứu hắn mới được.
Ngô Dụng đáp rằng:
- Việc đó huynh trưởng không cần phải nghĩ, tiểu đệ xin chu tất được, Tống Áp Ty là một người nhân nghĩa, không cần gì đến sự ta báo ơn, nhưng lễ phép phải thế, cũng không bỏ thiếu được, vậy xin để tên việc một chút, rồi sẽ bảo anh em đi ngay. Đến như Bạch Thắng thì tất phải sai một người nào thạo việc, đem tiền đến đút lót mọi nơi, để dần dần về sau sẽ liệu bề thoát thân cho hắn. Còn chúng ta đây bây giờ phải thương lượng với nhau, và đồn lương tích thảo, chế khí tạo thuyền sửa sang thành quách, chỉnh đốn nhà cửa, và tu bổ các thứ y giáp cung thương để dự phòng nghinh địch quân quan thì mới được.
Tiều Cái nói:
- Cái đó xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương Sơn một ngày một hưng thịnh mãi lên.
Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Nói về tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về, báo cho Tri Phủ Tế Châu biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo hán ở Lương Sơn Bạc toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả chăng hồ nước mênh mông, kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng mà truy bắt được. Quan phủ nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư rằng:
- Trước đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được thoát ra về, mà chúng còn cắt tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được mống nào. Tới nay sai Đoàn Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem bao nhiêu quân mã đi truy tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt lên núi mà quan quân thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho được?
Tri Phủ đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo rằng:
- Có quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa Đông Môn.
Tri Phủ nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp. Khi đến quan cư hai bên chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri Phủ xem, Tri Phủ xem xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín sương khố, cùng các giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết đãi.
Trong khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể cho quan mới nghe. Quan mới nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng: "Thái Sư đem việc này đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở đây tướng giỏi thì không, binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ chúng kéo đến đây để vay lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được". Nghĩ vậy trong lòng càng áy náy vô cùng.
Sáng hôm sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh tội. Bấy giờ quan phủ mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn định chiêu binh mãi mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và mư trí hiến sĩ, để phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên Trung Thư Sảnh, xin sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ quân giặc, nhắc diện lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ, cũng phải đề phòng truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc cướp.
Bấy giờ quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi tiếp được giấy sức phải coi giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi Tống Giang lên cho thảo văn án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ cho nghiêm. Tống Giang xem thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: "Ta không ngờ bọn Tiều Cái lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết cả quan quân, cắt tai Hà Đào, rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến chu diệt chín họ chứ chẳng chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật cũng không tha, vậy hoặc khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được? ".
Chàng nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền giao các công văn cho Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn hương thôn, rồi một mình lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi. Tống Giang ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương dắt tay một người đàn bà mà bảo rằng:
- Nhà mụ nầy thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
- Có việc gì thế?
Vương Bà trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
- Nguyên người nầy là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là Diêm Công, giỏi nghề ca xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới mười tám tuổi, nhan sắc cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng bố con, đưa nhau sang Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện Vận Thành nầy, cũng muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người thưởng thức, thành ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang cùng ngõ hẻm. Chẳng may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó, mẹ con không có tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây giờ cũng khó lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi qua đây, nên tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà giúp cho người ta một cỗ quan tài.
Tống Giang nghe nói mà đáp rằng:
- Nếu vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút nghiêng tôi viết cho mấy chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan tài.
Khi vào tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Nhà mụ có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà đáp:
- Chẳng dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
- Nếu vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
- Áp Ty có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin được làm trâu ngựa để đền ơn lớn.
Tống Giang gạt đi rằng:
- Bất tất phải nói thế.
Nói đoạn lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy cho đi lấy quan tài, rồi đứng dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma cho chồng. Khi tống táng xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn chi dụng với nhau.
Một hôm Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có đàn bà con trẻ, liền về hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
- Sao nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta chưa có vợ chăng?
Vương Bà nói:
- Tôi chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy nói có vợ con chưa? Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời thường lại cho quan tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ chưa có vợ con gì thì phải.
Diêm Bà nói:
- Con bé nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói khôn ngoan, ngày trước ở Đông Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người nhà tử tế toan xin làm con nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên không muốn cho đi, ai ngờ ngày nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy gì để trả ơn, nên cũng muốn kết làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ bà tác thành giúp cho.
Vương Bà nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang trước còn khảnh khái không nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói ngon, thì cũng bằng lòng y thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây huyện, mà sắm sanh các đồ vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là áo lượt, lượt giắt trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện tập võ nghệ, còn về phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân Bà Tích là con gái mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu, Tống Giang không thể nào mà chìu dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ với nhau, rồi ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là Trương Văn Viễn cùng đến uống rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một phòng Áp Ty với Tống Giang, thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô, hình dung dón dả, bình sinh thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà khác, lại học được đủ mọi ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo. Tích Bà vốn là một tay ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì trong lòng hơi hơi có chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là một phường tửu sắc ăn chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu mày cuối mắt, đôi bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì Trương Tam lại giả vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói chuyện, lâu la sớm mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ lòng sở ước.
Dần dà từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương Tam càng ngày càng đằm thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống Giang có về đến nhà, thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi là tình ân ái. Tống Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan tâm, năm chừng mười họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì thế cái dây thân ái của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng khít, làm cho phố phường ai ai cũng biết.
Sau Tống Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ đồ bán tín bán nghi, vả trong bụng lại tự nghĩ rằng:"Người ấy không phải là một người vợ cái con cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm cho lắm. Nếu nó không có lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh, can chi nói đến thêm phiền!".
Nhân thế có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề qua nhà một lần nào nữa. Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống Giang lại từ chối là bận việc không về nhà được.
Có một hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi ra hàng nước ở đối cửa để ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón chiên, mình mặc áo lá đen, dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh đao, vai vác khăn gói lớn, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào huyện để nom rồi lại đi.
Tống Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo đại hán để xem. Vừa đi được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà nét mặt hơi có ý ngờ ngợ. Tống Giang nhìn kỹ nét mặt người kia, thì thấy dáng cũng hơi quen, nhưng có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng nhìn mãi Tống Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm trong bụng: Anh này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy, nhưng không dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở gần đấy rằng:
- Ông Áp Ty kia là ai đấy?
Nhà hàng đáp:
- Ông ấy là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống Giang chào một tiếng rất to mà hỏi rằng:
- Áp Ty có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống Giang đáp:
- Tôi nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người kia nói:
- Xin mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến một tửu điếm ở đấy, người kia bảo với Tống Giang rằng:
- Xin ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ bàn ghế sạch để ngồi. Người kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào một chỗ, rồi đến trước mặt Tống Giang thụp lạy.
Tống Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
- Chẳng hay ngài là ai, tôi không rõ.
- Ân nhân quên tiểu đệ rồi hay sao?
- Tôi trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin tha lỗi cho.
- Tiểu đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết ngài một lần, ở nhà Tiều Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây...
Tống Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
- Hiền đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn không?
- Vì chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết mà đến đây để bái yết ngài.
- Thế nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao? ... ai bảo hiền đệ đến đây như thế?
- Bẩm, Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được toàn tính mạng, hiện nay làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm quân sư, Công Tôn Thắng giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở đó, và mấy người nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, cũng đều thần phục bảy anh em chúng tôi, tất cả là 11 người Đầu Lĩnh, lâu la bảy tám trăm người, lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi mang cho một phong thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô Đầu một thể.
Lưu Đường nói xong, giở gói hành lý lấy ra một bức thư, và trăm lạng vàng đưa choi Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng vàng và bức thư bỏ vào túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
- Còn số tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên, rồi sai tửu bảo đứng rót rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế, tên tửu bảo đi xuống dưới nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Hiền đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại đương cần tiền bạc để tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin gửi lại ở đấy, rồi khi nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng thì nhà ông ta cũng phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông ta biết cũng xong, như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng không dám lưu hiền đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện to ngay. Vậy xin đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với các vị Đầu Lĩnh rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
Lưu Đường nói:
- Đại ân của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy gọi là cho tôi đem chút lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em. Đây là Đại Đầu Lĩnh Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi, không phải như chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không chơi, vậy xin Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
- Nếu phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho hiền đệ mang về là xong.
Lưu Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận, rồi gọi mượn bút mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để giao cho Lưu Đường.
Lưu Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái thác như thế, thì cũng không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả phong thư vào bao cẩn thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Vâng, Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay bây giờ.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây được.
Lưu Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi. Tống Giang gọi tửu bảo lên gác mà dặn rằng:
- Ông khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến tính.
Nói xong cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ đương giữa tháng tám, trời im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
- Hiền đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn thám tử rất nhiều, không phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về cho bình yên.
Nói đoạn bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời thanh bóng sáng, liền trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn họ to gan, ngộ lỡ đám công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều Cái dám bỏ nhà đi làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà nghĩ ngợi một mình.
Chợt có tiếng đằng sau gọi:
- Áp Ty đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai...Cho hay là:
Giang hồ nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao nước vẫn còn sâu,
Thân này xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu lấp được miệng đời,
Vàng đâu mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên nhắn hỏi trời công,
Làm chi đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan đến lúc căm trời,
Gươm kia hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Sách này nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai hồi giáp nhau, đều là một việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm đến, như hồi trên vừa tả Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một phen trước đã khua sông động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một dạng tài tình, một dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một câu một chữ giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong lòng, như vẽ ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng dốt như nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác nhau xa vậy.
Sách này đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An chỉ một phen. Hà Đào hai phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả va øhữu. Hà Đào hai phen Thủy chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa thực họa, nên nhiều điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau này, cũng những tay hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã phân biệt, mà ý tứ chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét bút phạm vào nhau, không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng diễn ra càng thấy ly kỳ.
Một đoạn văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt ra, để cho Tống Giang có chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người, vì muốn Tống Giang có sự giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện Bà Tích duyên kiếp, thì phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau khi Vương Bà xin áo quan, cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan, chẳng qua đưa lại cho hồi sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế tử, độc giả thấy lúc trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương Bà, cuối đến Vương Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.


Hồi 20

Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị
Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích


Bấy giờ Tống Giang thấy có tiếng người, liền đứng dừng chân lại, thấy Diêm Bà chạy lật đật đến mà nói rằng:
- Mấy hôm nay tôi cho người mời không thấy Áp Ty đâu cả, con bé nhà tôi nó ngu dại không biết gì, lỡ có điều xúc phạm đến Áp Ty, xin ngài hãy nể lòng tôi mà bỏ qua đi cho, rồi tôi sẽ bắt nó nói lại với ngài. Hôm nay được gặp đây, thể nào cũng xin đón về nhà một lúc.
Tống Giang nghe nói đáp rằng:
- Hôm nay trong huyện bận rộn lắm không thể nào về đó được, xin để khi khác vậy.
- Không được, con bé cháu nó đợi ở nhà, thế nào cũng mời Áp Ty chạy qua về một lát, sao Áp Ty lại nỡ lòng như thế?
- Tôi bận lắm thực, để ngày mai tôi về đó.
Diêm Bà nhất quyết rằng:
- Làm thế nào thì hôm nay cũng phải mời Áp Ty cho kỳ được.
Nói đoạn lại níu lấy áo Tống Giang mà rằng:
- Ai đã xúi Áp Ty thế? Con bé nhà tôi suốt một đời nó phải trông cậy vào Áp Ty cả, Áp Ty nên phải tự mình chủ trương lấy, chứ nghe người ta nói nhảm làm chi! Nếu nó có điều gì không phải, xin Áp Ty cứ chắc ở tôi đây mới được. Thôi xin mời Áp Ty về qua đây một lúc.
Áp Ty đáp rằng:
- Bà không nên gàn trở tôi, tôi còn bận nhiều việc quan trọng không thể dứt ra được!
- Việc quan thì dẫu Áp Ty có chậm trễ một đôi chút, quan Huyện cũng chả trách nào, duy tôi hôm nay nếu để cho Áp Ty đi, thì khó lòng được gặp nữa! Xin mời Áp Ty đi với tôi, về đó sẽ nói chuyện.
Tống Giang vốn là người nhanh nhẹn dễ dàng, nay bị Diêm Bà rầy rà như thế, thì không thể nào từ chối được, liền bảo Diêm Bà rằng:
- Nếu vậy cứ buông áo ra để tôi đi.
Diêm Bà nói:
- Chỉ sợ Áp Ty không về đó, thì tôi biết đâu mà theo kịp?
- Có khi nào thế, tôi đã nói là đi chứ gì?
Nghe đoạn Diêm Bà buông áo Tống Giang ra, rồi cùng đi về. Khi tới nhà Tống Giang đứng dừng ở ngoài. Diêm Bà đẩy cửa vào mà nói rằng:
- Áp Ty đã về tới đây, có lẽ lại không vào nhà hay sao?
Tống Giang nghe nói bất đắc dĩ bước lững thững đi vào trong nhà, đến một chỗ ghế ngồi xuống đó. Diêm Bà sợ Tống Giang lại chạy trốn, liền quay bên cạnh để ngồi, rồi gọi lên rằng:
- Con ơi! Người tâm ái của con là Tam Lang đã về đây.
Bấy giờ Bà Tích đương nằm ở giường trên gác, một mình nghĩ ngợi vẩn vơ bên đôi ngọn đèn chong mà đợi Trương Tam đến. Chợt nghe tiếng mẹ gọi như vậy, thì trong bụng đoán chắc Trương Tam ở đó, liền vội vàng ngồi dậy vuốt ve đường tóc, rồi nói lảm nhảm rằng:
- Đồ chết toi, làm cho người ta đợi khổ! Bà lại cho mấy cái bạt tai cho đáng kiếp!
Nàng vừa nói vừa đi tất tả xuống thang. Dè đâu đi đến chấn song ngó cổ xuống nom thấy ngọn đèn pha lê chiếu sáng, Tống Giang đương cùng Diêm Bà ngồi đó, nàng liền quay ngoắt trở lên, mà nằm vật xuống giường như cũ.
Bà Tích nằm trên giường nói với xuống rằng:
- Nhà nầy có xa gì mà người ta không lên đến đây? Người ta cũng chẳng mù chột gì mà phải đợi tôi đón lên mới được? Cần chi phải khẩn khoản như thế?
Diêm Bà nghe vậy mắng con rằng:
- Con ranh, nó không biết Áp Ty đến đây lại còn nói láo nói hỗn ở đây, để Áp Ty lại thêm phiền lòng.
Nói xong lại cười bảo Tống Giang rằng:
- Tôi với Áp Ty ta cùng lên gác vậy.
Khi Tống Giang nghe thấy những lời Bà Tích nói, thì trong lòng đã khó chịu rồi, không còn muốn lưu lại một chút nào, sau vì bà lão lôi kéo, nên cũng phải miễn cưỡng mà cùng lên gác.
Cái nhà ấy nguyên có mấy gian gác lục lăng, ngăn nửa ngoài kê làm chỗ ngồi chơi, còn nửa trong làm phòng ngủ, kê một bộ giường bình khung hai đầu đều có chấn song, trên treo một bức màn là đỏ, cạnh đầu giường có cái mắc để vắt khăn mặt, một bên để cái chậu thau một cái khăn bao, và một bên kê một cái bàn con sơn vàng, trên để cây đèn bằng thiếc. Hai bên góc tường kê hai cái ghế, trên vách trước mặt treo một bức tranh, đối diện giường kê bốn cái ghế ghép hàng chữ nhất đều nhau.
Khi Tống Giang lên gác, Diêm Bà liền kéo vào trong phòng, rồi Tống Giang ngồi vào một cái ghế ở góc nhà, mà quay mặt vào phía giường.
Diêm Bà lại vào giường dựng người con gái dậy mà bảo rằng:
- Áp Ty đã đến kia, con ơi! Sao tính nết con hư thế, cứ nói nọ nói kia, để Áp Ty giận không về đến đây nữa! Lúc không thì lại ngồi nhà mà lo nghĩ, bây giờ ta đã khó khăn mời được Áp Ty về đây, sao con không ngồi dậy nói chuyện, lại còn giở những thói ấy làm chi?
Bà Tích cầm tay mẹ đẩy ra mà nói rằng:
- Bà làm gì mà phải rối lên, tôi có tội gì chưa? Người ta không thèm về đến đây, thì bảo tôi nói chuyện làm sao?
Tống Giang nghe vậy cứ ngồi lặng yên.
Diêm Bà lại kéo cái ghế chéo kê liền cạnh Tống Giang, rồi kéo con gái đến đó mà bảo rằng:
- Con hãy đến đây ngồi với Tam Lang một lúc vậy, không nói chuyện thì thôi, không việc gì phải thế!
Bà Tích không chịu ngồi bên cạnh, liền đến một cái ghế đối diện Tống Giang để ngồi, Tống Giang ngồi cúi đầu xuống, mà không nói năng gì cả.
Diêm Bà trông thấy người con gái bấy giờ, có vẻ khác nét mặt, liền nói lên rằng:
- Không tửu không tương, sao thành đạo trường, lão có một bình rượu ở kia, để lấy thêm một ít hoa quả ra đây, rồi sẽ nói chuyện với Áp Ty, con cứ ngồi với Áp Ty một lúc, có việc gì mà thẹn, ta đến đây ngay bây giờ.
Tống Giang thấy vậy, thì nghĩ lẩm nhẩm một mình rằng:"Cái con mụ già này thực là vô lý, đem nhốt ngay mình vào đây, mà không còn thoát ra được nữa. Để con mụ ấy đi xuống gác, ta sẽ xuống sau mà đi quách cho rảnh".
Diêm Bà thấy Tống Giang có ý hơi khác, liền quay trở ra, rồi cài trái cửa ngoài đi. Tống Giang thấy vậy, biết rằng Diêm Bà hiểu mình muốn tháo, nên mới phòng bị như thế, thì lại lấy làm băn khoăn khó chịu.
Khi bấy giờ Diêm Bà xuống dưới gác, vào trong bếp thắp đèn lên, thấy có nồi nước đã bắc sẵn đó, liền dóm củi lên đun, rồi lấy một ít tiền lẻ chạy tháo ra ngoài phố mua một vài thứ hoa quả cùng là thịt gà, cá tươi đem về bày vào mâm tử tế, rồi lấy rượu để vào nồi hâm nóng rót vào hồ, bày thêm các thứ rau và ba đôi đũa, ba cái chén vào mâm, mà bưng lên gác dặt ở ngoài phòng. Đoạn rồi mở cửa đem vào phòng trong, bày la liệt trên cái bàn sơn. Khi ấy trông đến Tống Giang thì vẫn cúi đầu xuống mà lặng yên, còn Bà Tích thí lại quay đi nơi khác. Diêm Bà liền nói rằng:
- Con đứng dậy ra đây, mời chén rượu đi con.
Bà Tích đáp rằng:
- Các ngươi cứ uống đi tôi không phiền thế.
Diêm Bà lại khuyên rằng:
- Cha mẹ đã biết tính con thủa bé rồi, nhưng đối với ai, chứ với Tam Lang thì con không nên như thế mới được.
Bà Tích lại đáp luôn rằng:
- Tôi không muốn mời rượu, thì không mời rượu, chẳng lẽ phi kiếm lấy đầu tôi hay sao?
Diêm Bà cười rằng:
- Đành thế, ta lại cũng không trách, nhưng Áp Ty là người phong lưu nhân vật, không có bụng gì bao giờ. Con không mời rượu thì thôi, hãy cứ quay lại uống vài chén vậy.
Bà Tích cứ lặng yên không quay mặt trở lại, Diêm Bà rót rượu ra rồi cầm chén đũa mời. Tống Giang bất đắc dĩ phải uống một chén gượng gạo. Diêm Bà cười mà nói với Tống Giang rằng:
- Áp Ty đừng nên trách, những chuyện lôi thôi rắc rối, để mai xin kể rõ Áp Ty nghe, người ngoài họ thấy Áp Ty ở đây cho nên có vài kẻ nóng lòng sốt ruột, đặt điều ra giọng nọ kia, xin Áp Ty chớ để vào tai, Áp Ty hãy cứ uống rượu đi cho.
Nói xong lại rót ba chén rượu nữa, để lên trên bàn rồi bảo với con gái rằng:
- Sao con tính khí trẻ con thế? Hãy quay lại đây uống qua loa một chén đã sao?
Bà Tích nói:
- Việc gì cứ rầy rà đến tôi, tôi no rồi, không thể nào uống rượu được nữa...
Diêm Bà khuyên rằng:
- Con quay lại tiếp Tam Lang vài chén có được không?
Bà Tích nghe nói liền nghĩ thầm trong bụng rằng:
- "Ta đây còn bận nhớ Trương Tam, ai hơi đâu mà tiếp rượu với hắn được. Nhưng nếu không đổ cho hắn say, thì tất là họ còn nhiễu mãi, âu là ta miễn cưỡng cho êm câu chuyện đi là xong". Nghĩ đoạn bất đắc dĩ cầm lấy chén rượu uống một nửa.
Diêm Bà thấy vậy cười rằng:
- Con cứ buồn bã mãi, hãy cứ chén tràn đi vài chén, sẽ ngủ có được không? Áp Ty ngồi xơi luôn đi cho vui?
Tống Giang bị Diêm Bà mời chào khan vãn, lại phải uống luôn dăm ba chén nữa. Diêm Bà cũng uống mấy chén rồi lại chạy xuống dưới nhà để hâm rượu. Bây giờ Diêm Bà thấy con gái đã quay lại tiếp rượu với Tống Giang, thì trong bụng lấy làm hớn hở mà nói một mình rằng:
- "Nếu đêm nay giữ được lão ấy ở đây, thì tất là hắn quên cả những điều giận dữ, bấy giờ ta lại bám vào hắn một dạo đã, rồi lại liệu về sau". Mụ vừa nghĩ vừa lấy làm thích, liền đứng ở trước bếp rót ngay ba chén lớn mà uống luôn mấy hớp.
Khi đó nghe trong mình đã phảng phất có hơi rượu, liền rót luôn một chén nữa để uống hết một nữa, còn một nửa lại đổ cho vào bình, mà mang lên gác. Khi lên tới gác, thấy Tống Giang lại cúi đầu ngồi yên, mà con gái lại quay mắt đi nơi khác. Diêm Bà liền cười mà bảo rằng:
- Làm sao mà hai người như bụi đất cả, không ai nói năng gì thế? Áp Ty ơi! Mình là người đàn ông, cũng phải nói dăm ba câu chuyện cho khuây khỏa dần dần đi mới được...
Tống Giang đương phân vân trong bụng, thấy Diêm Bà nói, thì cũng lặng yên, không nói sao cả, Diêm Bà nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Anh chàng nầy không biết gì cả, cứ cho như mọi ngày mình nói chuyện đùa vậy. Hôm nay ta có phải là chuyện đùa đâu?
Bụng nghĩ vậy, liền nói ngang nói dọc, nói ngược nói xuôi, không còn thiếu câu gì.
Ở huyện Vận Thành có một anh bán hàng những đồ ướp là Đường Ngưu Nhị, vẫn thường gọi là Đường Nhị Ca, xưa nay hay quanh quẩn ở phố xá, mà thỉnh thoảng được Tống Giang cấp đỡ giúp cho. Đôi khi có việc quan việc tư gì đi báo Tống Giang, thì lại kiếm được một vài quan tiền để tiêu. Mỗi khi Tống Giang có sai việc gì, thì cố sống cố chết để làm, không hề nề quản. Hôm ấy Đường Ngưu Nhị đương bị thua bạc trần trụi, không biết xoay sở vào đâu, liền chạy đến huyện tìm Tống Giang để cầu cứu.
Bất đồ đi tới huyện, thì không thấy Tống Giang đâu, liền vội vàng quay ra phố để đi tìm. Khi ra phố mọi người quen biết đều hỏi rằng:
- Đường Nhị Ca đi tìm ai mà chạy vội vàng như thế?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Tôi đương có việc cần cấp, phải đi tìm cô lão nhưng không thấy đâu cả.
- Cô lão là ai?
- Ấy là ông Tống Áp Ty ở huyện nầy chứ ai?
Chúng liền bảo Đường Ngưu Nhị rằng:
- Chúng tôi vừa thấy ông ta cùng Diêm Bà mới đi qua đây xong.
Đường Ngưu Nhị nghe nói, trong bụng nghĩ thầm rằng:
- "Phải rồi, con thối thây Bà Tích này, nó vẫn tư thông với Trương Tam, dấu diếm không cho Tống Áp Ty biết, tiếng như vậy, cho nên lâu nay không về tới đó, thế mà hôm nay sao còn lần mò đến làm chi. Cái nầy chắc là bị con sọm già vờ vĩnh bám lấy thôi chứ gì? Hôm nay ta đương quẫn bách, bất nhược đến đấy tảo mấy quan tiền, đi chén vài chén rượu chơi". Nghĩ đoạn đi đến thẳng nhà Diêm Bà thấy bên trong vẫn còn đèn sáng mà cửa lại không đóng, liền lật đật chạy vào đến thang giá. Khi đến chân thang đã nghe thấy tiếng Diêm Bà đương cười ha hả trên gác, chàng ta liền lẻn bước đi lên ghé vào khe gác dòm thấy Tống Giang cùng Bà Tích đều cúi đầu ngồi im, còn Diêm Bà thì đương ngồi cái ghế ở đầu bàn mà miệng nói thiên hô bát sát không dứt lúc nào. Đường Ngưu Nhị biết vậy, lẻn tót vào cúi chào ba người, rồi đứng vào một bên. Tống Giang thấy hắn đến lấy làm dễ chịu, liền liếc mắt bảo cho Đường Ngưu Nhị biết ý, để thoái thoát mời đi. Đường Ngưu Nhị vốn tay ranh vặt, thấy vậy thì hiểu ý ngay, liền nói với Tống Giang rằng:
- Tôi đi tìm ngài mãi không thấy, ngờ đâu ngài ngồi uống rượu ở đây, ngài có thấy sốt ruột gì không?
Tống Giang hỏi:
- Chẳng hay trong huyện có việc gì cần đấy?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Áp Ty quên rồi hay sao? Cái việc lúc nãy, quan Huyện hiện đương cho bốn năm người lính đi tìm ngài mãi, nhưng mà không thấy ở đâu cả. Quan Huyện đương gắt ầm lên đấy, Áp Ty phải đứng dậy đi ngay mới được.
Tống Giang làm bộ hoảng hốt mà rằng:
- Nếu cần vậy, thì ta phải đi ngay mới được.
Nói đoạn đứng dậy toan đi xuống gác, Diêm Bà nắm giữ lại mà rằng:
- Áp Ty không nên thế... Gớm thực! Đường Ngưu Nhị, ngươi lại đến đây lòe lão à? Đừng múa rìu qua mắt thợ thế nữa? Bây giờ quan Huyện còn ở trong nhà uống rượu vui đùa với vợ con, chứ công việc nào bây giờ. Ngươi nói với ai chứ, với ta đây thì không khi nào ta mắc lừa đâu?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Có việc cần, quan Huyện đòi thực, chứ tôi đây nói dối làm gì?
- Thôi đừng láo, hai mắt lão nương đây gọi là sáng suốt hơn pha lê đấy, vừa rồi Áp Ty đưa mắt bảo ngươi, ta lại không biết hay sao? Người ta thường nói:"Giết người còn tha được, chứ gian ý thì dung sao được? ".
Nói xong đứng dậy đẩy Ngưu Nhị huỳnh huỵch xuống thang gác.
Đường Ngưu Nhị cáu lên mà rằng:
- Làm gì mà phải đẩy người ta thế?
Diêm Bà lại quát lên rằng:
- Mầy phá đường lối kiếm ăn của ta, thì có khác gì giết bố mẹ vợ con người ta không? Lại còn to mồm gì, hở thằng nhãi con kia! Bà đánh một chập bây giờ.
Đường Ngưu Nhị sấn vào mà rằng:
- Đây bà đánh đi.
Diêm Bà lại đương lúc chếch choáng hơi men, liền giơ tay tát cho Đường Ngưu Nhị một cái, rồi đẩy mạnh ra ngòai cửa, đóng chặt cửa lại mà miệng thì mắng nhiếc lảm nhảm không thôi.
Đường Ngưu Nhị phải một cái tát, tức giận vô cùng đứng ngoài cửa mà kêu lên rằng:
- Con khỉ già mầy liệu hồn, hôm nay không có Áp Ty ở đây, thì gọi là tan nát cửa nhà với ta. Không nay thì mai, nếu ta không kết quả được mầy, thì ta không là thằng họ Đường nữa!
Chàng ta hăm hở vỗ bụng vỗ tay nói chán một lúc rồi đi.
Bấy giờ Diêm Bà lên gác bảo với Tống Giang rằng:
- Áp Ty ôi! Rõ là vô sự, thì dung túng những đứa ấy làm chi? Nó là một thằng chè rượu loang toàng, đi đến đâu là nói quàng nói xiên, ai còn không biết. Những đồ qủy sống ấy, thì cho nó đến cửa đến nhà làm gì cho thêm bận!
Tống Giang vốn là người chân thực xưa nay, cho nên thấy mụ nói trúng vào bệnh của mình, thì ngồi ngây người ra, mà không nói được câu nào nữa.
Diêm Bà lại nói rằng:
- Xin Áp Ty đừng trách tôi, tôi có trọng Áp Ty thì mới thế. Đã lâu con gái tôi với Áp Ty không gặp nhau, hôm nay uống rượu xong chắc lá phải đi nghỉ sớm mới được. Để tôi dọn dẹp đi thôi.
Nói xong mời Tống Giang uống thêm mấy chén rượu nữa, rồi vội vàng thu dọn mà đi xuống bếp. Tống Giang ngồi trên gác nghĩ chuyện Bà Tích đối với Trương Tam, dẫu có tiếng đồn như vậy, nhưng mắt mình chưa nom thấy, cũng không chắc rằng có thực hay không? Vả chăng đêm cũng hơi khuya, đi đâu cũng không tiện, chàng liền định kế nằm tạm ở đó, để xem người đàn bà kia xử trí ra sao? Chợt đâu lại thấy Diêm Bà ở dưới nhà chạy lên mà nói rằng:
- Đêm đã khuya rồi, hai người đi nghỉ đi kẻo muộn.
Bà Tích thấy mẹ nói, liền ứng lên rằng:
- Không việc gì đến bà, bà cứ đi ngủ.
Diêm Bà lại cười khanh khách, vừa bước chân xuống vừa nói rằng:
- Áp Ty đi xuống bếp, dọn xong rồi rửa chân rửa tay, mà tắt đèn đi ngủ.
Bấy giờ Tống Giang ngồi ở trên gác, liếc mắt trông Bà Tích rồi lại thở dài, mà không nói gì cả. Được một lát, Bà Tích để nguyên quần áo trèo lên giường tựa vào gối thêu, rồi quay mặt vào trong vách mà ngủ.
Tống Giang thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Con bé này lạ thực, nó bỏ mình đây rồi vào ngủ trước là nghĩa lý gì? Hôm nay mình bị con mụ già dắt về đây, bắt uống rượu uống chè, rồi lại nói ngon nói ngọt, làm cho mình thêm khó nghĩ trong lòng. Thôi bây giờ đêm đã khuya rồi, cũng đành phải đi ngủ vậy chứ, còn biết sao giờ? ".
Chàng nghĩ vậy liền bỏ khăn lên bàn, cởi xiêm áo ngoài vắt lên trên giá, treo thắt lưng, dao túi cùng văn thư lên chỗ chắn song ở trên giường, rồi cởi bỏ giầy ra nằm ở phía sau Bà Tích.
Nằm một lát vào khoảng nửa canh hai, Bà Tích vẫn nằm quay mặt mà còn cười nhạt một mình, Tống Giang thấy vậy, trong lòng càng buồn bực khó chịu không sao ngủ được.
Đêm vui nào được bao lâu
Đêm buồn mong trước mong sau càng dài.
Lạ cho là giống trên đời,
Xưa nay gươm phấn giết người bao phen!
Tống Giang nằm nghĩ vơ vẩn dần dần sang trống canh ba, hồi lâu lại sang trống canh tư, lại cho sang đến canh năm, mà cũng không sao nhắm mắt cho yên. Chàng bèn trở dậy đến thau nước rửa mặt, đội khăn mặc áo chỉnh tề, rồi lẩm bẩm mắng rằng:
- Giống hèn hạ, nó vô lễ thực!
Bấy giờ Bà Tích cũng còn thức, nghe thấy tiếng Tống Giang mắng, thì quay mặt ra mà nói rằng:
- Người thế mà không biết dơ...
Tống Giang nghe nói, thì trong lòng càng lấy làm khó chịu, đành phải nín lặng quay ra đi xuống thang gác.
Diêm Bà nghe thấy tiếng người ở trên gác đi xuống, thì vội vàng trở dậy mà nói rằng:
- Áp Ty hãy ngủ một lúc nữa, trời sáng sẽ dậy có được không, có việc gì mà phải dậy từ canh năm như vậy?
Tống Giang nghe hỏi, cứ lặng yên mở cửa ra đi.
Diêm Bà lại nói luôn rằng:
- Áp Ty đi rồi, khép cửa lại cho tôi nhé!
Tống Giang lại lùi lũi đi ra và khép vào tử tế, rồi trong bụng vừa tức bực buồn cười, lững thững bước ra đi.
Khi gần tới cửa huyện thấy có một ngọn đèn con lấp ló ở đó, Tống Giang liền dấn bước đến nơi, thì thấy lão Vương Công là anh hàng thang đã ra chợ sớm ở trước cửa huyện để bán. Lão ta trông thấy Tống Giang đi đến liền hỏi ngay rằng:
- Áp Ty đi đâu mà sớm thế?
- Đêm qua say rượu nghe lầm tiếng trống canh dậy sớm quá.
- Nếu vậy Áp Ty uống nhiều rượu quá, xin ngài xơi một bát thang nhị trần cho giải rượu.
- Tốt lắm, đem đây tôi ăn một bát.
Tống Giang nói xong chạy đến ghế để ngồi, Vương Công múc một bát thang nhị trần, đương nóng nghi ngút đưa lên cho Tống Giang.
Tống Giang ăn xong chợt nhớ đến:"Mọi khi thỉnh thoảng vẫn ăn thang của lão này, lão ta không chịu lấy tiền. Bởi thế ta có hứa cho lão cỗ áo quan, mà vẫn chưa cho được. Nay nhân tiện có món tiền của Tiều Cái đưa cho đây, âu là đãi hắn ta một số tiền mua quan tài, thì chắc là lão ta thú lắm!".
Nghĩ đoạn liền bảo Vương Công rằng:
- Mọi hôm tôi vẫn hứa cho lão cỗ quan tài mà chưa cho được, nay nhân có tiền đây, tôi đưa cho lão, để lão ra nhà Trần Tam Lang mua lấy một cỗ áo quan; đem về để sẵn ở nhà, phòng khi trăm tuổi về sau, đỡ phải lo phiền việc ấy nữa.
Vương Công nói:
- Ân chủ ngài vẫn có lòng giúp đỡ cho lão tôi nhiều, nay lại cho tiền để lo hậu sự như thế, kiếp này lão tôi không báo đáp được, thì kiếp sau xin làm thân trâu ngựa để đền ơn.
Tống Giang cười rằng:
- Có làm chi cái đó, mà phải nói ơn.
Nói đoạn sờ tay vào trong áo để lấy túi giấy và tiền, thì bỗng kinh ngạc mà nghĩ thầm rằng:"Khổ chưa! Túi văn thư lại bỏ quên ở giường con khỉ ấy rồi, mình vội nóng đứng dậy, đi không nhớ đến.. Mấy lạng vàng thì chẳng làm chi, nhưng còn bức thư của Tiều Cái, đã định đốt ngay trước mặt Lưu Đường ở trong hàng rượu nhưng nghĩ thế không tiện nên hãy tạm để vào đấy, rồi sẽ đốt sau. Ai ngờ lại bị con mụ già nó bắt mình lôi thôi đến đó, con ranh nó lại võ vẽ biết năm ba chữ, ngộ lỡ nó xem ra thì có nguy không? ". Chàng nghĩ vậy liền đứng dậy bảo Vương Công rằng:
- Ông lão ơi! Tôi quên mất rồi, vẫn tưởng tiền để trong túi đây, sai ngờ bỏ quên mất ở nhà rồi. Lão hãy yên tâm, để tôi về lấy, rồi sẽ đem ra đây cho lão ngay lập tức. Vương Công cười đáp rằng:
- Thôi, Áp Ty cần gì phải lấy, để hôm nào Áp Ty cho tôi cũng được chứ sao?
Tống Giang nói rằng:
- Tôi còn có việc cần ở đây cũng không nên, phải về lấy ngay mới được.
Nói xong lật dật chạy về nhà Bà Tích, Bà Tích từ lúc Tống Giang đi ra cửa rồi, liền ngồi dậy nói lảm nhảm một mình rằng:"Lão quái! Làm cho bà suốt đêm không ngủ được, cái mặt ấy lại toan bắt bà phải làm lành, nhưng phải biết rằng bây giờ bà có Trương Tam rồi, bà còn hơi đâu mà tiếp đến người ấy nữa. Từ nay trở đi không về đến đây, lại càng hay lắm!". Nàng vừa nói vừa giở chăn ra, rồi cởi áo trên, rút quần ngoài, mà toan đi ngủ lại. Chợt đâu trông thấy bên chắn song ở cuối giường thấy có một cái thắt lưng da lụa đỏ vắt ở đấy, nà liền cười mà nói rằng:
- "Thằng cu Hắc Tam Lang này đáng kiếp, còn bỏ quên cái thắt lung đây, bà hãy cất lấy, để cho Trương Tam thắt đã".
Nói đoạn giơ tay vớ lấy thắt lưng, và cả con dao túi treo ở trên đo, để xem. Khi cầm thấy hơi nặng liền giũ ra xem thì thấy trong ấy có một cái túi giấy, lại có một thỏi vàng ở đó. Nàng cầm lấy soi lên đèn, quả nhiên là vàng thực, liền cười ha hả mà rằng:
- Đây là trời cho ta và Trương Tam đây, may quá, mấy hôm nay Trương Tam đương không có gì, xem hôm nay có thú không?
Nói rồi liền bỏ vàng lên bàn, mà mở bức thư ra xem. Trên đầu thư thấy viết hai chữ Tiều Cái, rồi xuống dưới có những việc quan hệ rắc rối cũng nhiều. Nàng xem xong lắc đầu mà nói rằng:
- Xưa nay ta vẫn cho là thùng rơi xuống giếng, ai ngờ ngày nay giếng cũng rơi vào thùng, ta đương muốn cùng với Trương Tam kết làm phu phụ, chỉ tại vì có mầy ngăn trở hóa không xong, phen này có lẽ khó lòng mà tránh khỏi tay ta được! Nguyên mày thông đồng với tụi cướp Lương Sơn, cho nên nó mới đưa trăm lạng vàng đến để biếu đây... Được rồi, để bà tiêu khiển cho mày một dạo. Hãy xem phong thư và tiền nong để cả túi này, mày có tài thánh cũng không đến đây mà lấy lại được nữa!
Gớm cho cái nọc nữ nhi
Thế gian còn có giống gì độc hơn?
Trách nào những kẻ non gan
Mấy phen nước mất nhà tan vì tình!
Đương khi Bà Tích đắc sách một mình, thì bỗng nghe dưới nhà có tiếng kẹt cửa, rồi có tiếng người trong giường hỏi lên rằng:
- Ai đấy?
Người ngoài cửa đáp:
- Tôi đây.
Người trên giường lại nói:
- Tôi đã bảo còn sớm, Áp Ty không nghe bây giờ quả nhiên lại phải trở về đó. Thôi hãy lên nghỉ với... một lúc rồi sáng ngày sẽ đi.
Người ấy nói dứt lời, thì đã có tiếng giầy bước lên trên gác. Bà Tích nghe đích xác là tiếng Tống Giang đã đến, vội vàng cuốn dây lưng túi giấy và dao vào một cuộn, rồi đút xuống dưới chân mà nằm quay vào vách vờ làm mặt ngủ.
Tống Giang lên đến nơi, xông vào chỗ chắn song, không thấy thắt lưng đâu, trong bụng đã bồn chồn kinh sợ, đành phải nén lòng giận mà lấy tay lay người đàn bà dậy, rồi nói rằng:
- Nàng ơi! Nàng trả lại túi giấy cho tôi.
Bà Tích nghe tiếng, giả vờ là ngủ không trả lời.
Tống Giang gượng cười mà nói rằng:
- Nàng đừng giận tôi, mai tôi sẽ nói lại với nàng.
Bấy giờ Bà Tích sẽ nói lẩm bẩm rằng:
- Bà đương ngủ, mà ai lại đến quấy nhiễu thế?
- Nàng đã biết là tôi rồi, lại còn giả cách làm chi thế?
Bà Tích trở mình ra phía ngoài mà nói rằng:
- Hắc Tam Lang, chàng nói gì đó?
Tống Giang nói:
- Nàng trả lại cho tôi cái túi giấy?
- Chàng đưa vào tay tôi từ lúc nào mà lại hỏi đến tôi?
- Tôi bỏ quên ở chắn song gần giường đây, chắc chỉ có nàng bắt được, chứ còn ai đến đây mà lấy?
- Nói lạ! Chàng nói chuyện ma qủy gì chắc?
- Đêm qua tôi có điều gì không phải, để sáng mai tôi xin nói lại...nàng trả cho tôi, đừng nên đùa thế?
- Tôi đùa với chàng làm gì? Tôi không bắt được, thì trả làm sao?
Lúc nãy nàng vẫn mặc nguyên quần áo, bây giờ đã cởi cả ra, lại đắp chăn ngủ, thì tất là nàng bắt được của tôi.
Bà Tích trợn ngay mắt mà rằng:
- Bà lấy thực đấy, nhưng mà bà không trả, tha hồ cho đi đến phủ huyện nào mà kêu là ăn cướp thì kêu.
Đàn bà đến thế thì thôi,
Gian dâm đanh ác giết người không dao.
Ở đời nhắn bạn mày râu,
Trông gương tày liếp liệu sau mà chừa!
Tuồng chi chăn chiếu thập thò,
Anh hùng tan nát cơ đồ nữa sao?
Bấy giờ Tống Giang thấy Bà Tích nói vậy, cũng còn đấu dịu mà rằng:
- Khi nào tôi lại dám bảo nàng ăn cướp.
Bà Tích làm già lên rằng:
- Phải biết bà đây không phải cướp đâu?
Tống Giang nghe vậy càng lấy làm nóng ruột, đành phải đấu dịu cho xong, liền nói rằng:
- Xưa nay tôi có điều gì không phải với mẹ con nàng, thì xin nàng trả lại cho tôi, tôi còn phải đi có việc bấy giờ.
- Mọi khi vẫn hằm hằm cho là bà đi lại với Trương Tam, dẫu có điều gì cũng chưa đến phạm tử tội, như thằng thông đồng với bọn cướp kia...
- Chết nỗi, nàng chớ nên nói to, lỡ hàng xóm nghe thấy thì nguy lắm.
- Đã sợ người ngoài nghe tiếng, sao còn làm thế được? Cái phong thư thế nào bà cũng giữ chặt lấy, bao giờ nghe bà ba điều, thì mới buông tha cho.
Tống Giang nói:
- Cứ gì ba điều, dẫu đến mười điều tôi cũng nghe theo cả.
Bà Tích nói:
- Chỉ sợ không theo được thôi.
- Làm được thì tôi theo ngay, hãy cứ nói tôi nghe xem những điều gì?
- Điều thứ nhất: Từ hôm nay phải đem tờ văn tự mua tôi dạo trước, trả lại cho tôi; mà viết thư cho tôi cải giá với Trương Tam, không được lôi thôi gì đến nữa.
- Được rồi.
- Điều thứ hai: Các đồ tôi gài giắt trên đầu, đồ tôi mặc ở mình, cùng các thứ khí dụng trong nhà, phải viết một bức thư trao cho tôi, từ nay trở đi không được đến lấy vào đấy.
- Được lắm.
- Còn điều thứ ba: Thì khí khó, chỉ sợ không theo được thôi.
- Có khi nào, hai điều kia còn nghe được, nữa là còn một điều nữa?
- Vậy thì cái món tiền một trăm lạng vàng của Tiều Cái ở Lương Sơn Bạc đưa đến đây, phải giao cho tôi, rồi tôi sẽ trả lại cho cái túi giấy, và tha cho cái tội tày trời ấy, Tống Giang ngẩn người ra mà rằng:
- Các điều trên, tôi xin theo cả, duy còn một trăm lạng vàng ấy, thì tôi không nhận của họ, nếu có thì tôi xin đưa nàng ngay lập tức bây giờ, chứ không khi nào dám tiếc.
Bà Tích lắc đầu mà rằng:
- Phải biết rằng:"Quan thấy tiền như ruồi thấy máu". Không lẽ nào nó đưa tiền cho người ấy, mà không nhận bao giờ? Anh đừng nói những câu buồn cười như thế? Mèo nào là mèo không biết ăn mỡ, của vua Diêm Vương bao giờ có tha quỷ về không? Muốn tốt thì đưa trăm lạng vàng ấy đây mới được; nếu có sợ tang chứng trộm cướp, thì cứ đưa ngay đây.
Tống Giang cố cầm lòng mà đáp rằng:
- Nàng phải biết tôi đây là một người rất thực, không khi nào lại nói dối ai, nếu nàng không tin, thì tôi hạn cho xin ba ngày, để tôi về bán đồ đạc nhà cửa lấy trăm lạng vàng đưa đến cho nàng, bây giờ nàng hãy cho tôi xin cái túi ấy đã.
Bà Tích cười nhạt đáp rằng:
- Anh Hắc Tam Lang buồn cười thực, anh lừa tôi như lừa đứa trẻ con vậy. Bây giờ tôi đưa giấy cho anh, rồi ba hôm nữa mới đến anh để hỏi tiền, thì có khác gì bắt chạch đằng đuôi không? Tôi cứ là tiền trao cháo múc, bác cứ đem đến đủ tiền đây, là tôi đưa ngay.
- Hiện bây giờ tôi không có đồng nào.
- Vậy thì sáng mai vào chỗ công đường, cũng nói là không có tiền có được không?
Tống Giang nghe đến hai chữ công đường, thì máu nóng đầy lên, không thể nào nhịn được, liền trợn mắt lên hỏi người đàn bà rằng:
- Mầy có trả lại ta hay không?
Bà Tích đáp rằng:
- Hung tợn thì làm gì ai, bà không trả có được không?
- Thực không trả phải không?
- Không trả...ta truyền cho một trăm tiếng không trả nữa đấy. Nếu mà trả thì cứ đến huyện Vận Thành mà lấy.
Chước đâu nham hiểm lạ đời
Thoạt nghe ai cũng rụng rời chân tay!
Mấy người nam tử xưa nay,
Trông gương trước đấy phỏng tày liếp chưa?
Tống Giang nghe nói, liền giằng chăn ra để tìm. Bà Tích ôm chặt lấy vào trong bụng để giữ. Tống Giang hết sức kéo một cái thực mạnh, thì thấy cuộn thắt lưng lòi ra ở đấy, chàng liền vội thò tay cướp lấy. Bà Tích cứ giữ khăng khăng. Tống Giang giằng mãi không thể nào lấy ngay ra được. Sau khi hai người giằng co mãi, thì con dao túi ở trong bọc, bỗng rơi ra ngoài. Tống Giang liền vơ lấy dao cầm lăm lăm ở tay, Bà Tích thấy vậy kêu lên rằng:
- Hắc Tam Lang giết người hay sao?
Tống Giang nghe tiếng kêu khi ấy, thì trong lòng bừng bừng tức giận nghĩ ngay ra cách trừ đi mới xong. Khi ấy Bà Tích định kêu lên tiếng nữa, thì tay tả Tống Giang đã nắm chặt lấy Bà Tích, rồi tay hữu giơ dao cho một nhát vào giữa thái dương phọt máu tươi ra như suối chảy.
Mới hay:
Anh hùng khi đã ra tay,
Trời kia cũng chuyển đất này cũng tan.
Huống chi một gái dâm ngoan,
Ngựa dày voi xé dễ còn ai thương!
Bây giờ giống lưỡi không xương,
Phỏng còn ngoắt ngoéo trăm đường nữa chăng?
Tống Giang đâm Bà Tích một nhát, sợ rằng chưa chết hẳn, liền cầm dao tặng luôn mấy nhát nữa lăn cổ xuống dưới gối, rồi vội vàng vớ lấy túi giấy, mở phong thư châm đèn đốt, rồi thắt lưng lên tử tế mà đi xuống gác. Diêm Bà nằm ở dưới nhà, lúc nghe tiếng con gái kêu:"Hắc Tam Lang giết người". Thì trong bụng không hiểu ra làm sao, bèn vội vàng nhảy bổ, mặc xống áo rồi đi xộc lên gác.
Vừa hay mới hết thang gác, thì chạm ngay phải Tống Giang đi xuống, Diêm Bà liền hỏi rằng:
- Hai người làm gì ở trên ấy mà ầm ầm lên thế?
Tống Giang nói:
- Con gái bà nó vô lễ quá, bị tôi giết đi rồi.
Diêm Bà cười rằng:
- Nói làm gì thế, có lẽ Áp Ty thấy trái mắt, hay là uống rượu say sưa mà thích giết người như thế hẳn? Thôi đừng nói đùa lão nữa!
- Bà không tin cứ lên buồng mà xem, tôi giết thực rồi đó.
Diêm Bà nói:
- Tôi không tin chút nào.
Nói xong đẩy cửa buồng vào xem, thì máu chảy lênh láng khắp buồng, mà xác con gái đã nằm chết vật ra đó.
Diêm Bà kêu lên rằng:
- Khổ quá! Bây giờ làm thế nào?
Tống Giang nói:
- Tôi đây là tay hảo hán, không bao giờ lại chịu chạy trốn, vậy bà muốn sao tùy ý.
Diêm Bà điềm nhiên bảo Tống Giang rằng:
- Con bé này nó không ra gì, Áp Ty giết cũng không lầm, duy có một điều là thân tôi già yếu, không ai nuôi nấng cho đây?
Tống Giang đáp:
- Cái đó không cần gì, cứ như lời bà nói, thì bà không phải lo. Nhà tôi cũng không đến nỗi túng, tôi xin nuôi được bà no ấm suốt đời thì thôi.
- Nếu thế hay lắm! Cám ơn Áp Ty...Còn sự con bé chết đây, thì tống táng làm sao?
- Việc ấy dễ lắm, chỉ ra nhà Trần Tam Lang mua một cỗ quan về đây là xong rồi, còn các đồ khâm liệm và chi phí, thì tôi sẽ đưa mấy lạng bạc cho bà lo liệu.
- Hay là bây giờ nhân lúc chưa sáng, ta nên đi mua áo quan đem về chôn ngay, thì hàng xóm không ai biết được.
- Được lắm, bà đem giấy bút đây, tôi viết mấy chữ cho bà đi lấy áo quan.
- Không nên viết giấy, bây giờ Áp Ty đi với tôi thì họ mới giao ngay cho.
Tống Giang khen phải, rồi hai người cùng đi xuống gác. Diêm Bà mang khóa ra khóa trái cửa lại, rồi hai người cùng đi về lối trước cửa huyện, để ra nhà Trần Tam Lang.
Khi gần đến phía tả cửa huyện thì trời mới sáng, mà cửa huyện vừa mới mở xong, Diêm Bà liền túm lấy Tống Giang, rồi giở mặt mà kêu ầm ĩ lên rằng:
- Có kẻ giết người ở đây...
Tống Giang ngạc nhiên kinh hoảng, vội giơ tay bịt mồm Diêm Bà lại, song mụ ta cứ lăn lóc kêu hoài, không ai giữ nổi. Bấy giờ có mấy người trong huyện chạy ra, trông thấy Tống Giang, thì túm đến, khuyên mụ kia rằng:
- Mụ im mồm đi, Áp Ty không phải là người thế đâu? Có việc gì cứ nói tử tế.
Diêm Bà lại kêu rằng:
- Chính nó là thằng hung thủ, nhờ các ông bắt nó mà giải vào huyện cho tôi.
Tống Giang vốn xưa nay là người rất tốt trên dưới ai cũng kính yêu, bởi thế nên bọn lính tráng không hề anh nào tin lời mụ Diêm Bà nói, mà cũng không anh nào động đến Tống Giang.
Đương khi mụ kêu gào ầm ĩ , thì Đường Ngưu Nhị rửa một mâm gừng muối ở đâu đi về đó. Đường Ngưu Nhị thấy Diêm Bà đương níu lấy áo Tống Giang, thì chợt nhớ tới câu chuyện tối hôm qua, thì trong lòng nổi giận đùng đùng, liền vội vàng đem mâm gừng để vào cái ghế của anh hàng bán thuốc, rồi hăm hở chạy ra quát lên rằng:
- Con khỉ già kia, làm gì mà níu áo Áp Ty như thế?
Mụ kia vừa kêu vừa nói rằng:
- Đường Ngưu Nhị, mày đừng đến đây mà đánh tháo cho người, mầy phải đền mạng.
Đường Ngưu Nhị nghe nói cả giận, chạy thốc vào cầm lấy tay mụ kia dằng hẳn ra, rồi tát lấy tát để làm cho mụ kia không biết lối nào mà mở mắt, đành phải buông Tống Giang ra. Tống Giang được thoát tay Diêm Bà, liền thừa lúc náo nhiệt cất lẻn chạy ngay để tháo thân.
Diêm Bà luống cuống, không biết làm thế nào, lại túm ngay lấy Đường Ngưu Nhị mà kêu lên rằng:
- Tống Áp Ty giết con gái tao, bây giờ mầy lại đây, mầy đánh tháo ra rồi, trời ơi!
Đường Ngưu Nhị kinh ngạc nói rằng:
- Nào rằng: biết đâu đến chuyện ấy.
Diêm Bà lại kêu:
- Nhờ các ông bắt hộ tôi thằng giặc con này, không có thì rầy rà đến cả bây giờ?
Khi đó bọn lính thấy Tống Giang không còn ở đó, liền bảo nhau chạy đến, anh thì bắt lấy Diêm Bà, anh thì nắm lấy Đường Ngưu Nhị mà kéo cả vào huyện.
Cho hay là:
Lòng kia hồ dễ như ai,
Chung thân vơ vẫn quanh nơi chiếu giường.
Đã lòng nặng với bốn phương,
Dẫu cho nát đá tan vàng cũng thây!
Vẻ chi một mảnh bèo mây,
Toan đem mặt phấn mà ngây dạ hùng.
Thế gian bao kẻ nông lòng,
Từ nay những ngón ăn không liệu chừa.
Chớ nên quen thói mập mờ,
Lỡ khi sấm sét nữa mà chết oan!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Hồi này mượn đề miêu tả ra lòng đen tối của đàn bà, không còn thứ xấu nào chẳng rõ ra, khiến cho đãng tử tuổi về già xem đến phải lè lưỡi; mà đãng tử tuổi còn đương ham muốn, xem đến phải chùn lòng, rõ thực là một thiên văn tự khéo châm chích những chàng đãng tử, lấy đó làm gương. Tả gái đĩ già mồm ra tuồng gái đĩ, tả sọm già đúng mốt sọm già, rất khéo đến thế?
Thế nào mà tả gái đĩ ra tuồng gái đĩ? Xem y đã bày trò, vốn bắt chẹt ông chồng cho được, tới khi nũng nịu bắt chẹt không xong, quay ra lạnh lùng cười nhạt, rõ ra mở cửa đón khách, đuổi hiền mời gian, bất đắc dĩ với nhau, rồi chồng ra khỏi thỉ chửi rủa, mới thay quần áo đi nằm lại còn xem xét trước sau, vớ được đồ vật bỏ sót, như nắm được chuôi, cố giữ cho được để mà bắt chẹt, đến khi người chồng phải quay lại nài xin, mới trở mặt phụ tình, làm tình làm tội đủ điều, đưa những điều kiện không còn chút lương tâm, chứ đừng nói gì đến ân nghĩa cũ, bắt chồng phải cho lấy kẻ khác, rõ cái dâm đã muốn giết nhau, bắt phải đưa vàng bạc, cái ác đã muốn giết nhau, lại còn đe dọa nữa, cái liều đã muốn giết người, cho nên đức Đại Hùng Thế Tôn gọi là Hoa Tiễn, như ta nói Hoa Hồng có gai, đúng không ngoa vậy.
Thế nào mà tả sọm già đúng mốt sọm già? Xem ý lúc đầu nói cho con gái phải nghĩ lại, cho tới khi con gái làm bộ giận hờn, lại giở giọng than tiếc cho con gái, một buổi tối nói ra xem từng câu ngụ ý ai oán Tống Giang, tiếc cho con gái không phải là không hết lòng vàng đá, bởi vì ai đã hững hờ? Cho tới sáng ra, thấy con gái bị giết, lại không hốt hoảng khóc lên, còn dùng lời ngọt, buông tha tội phạm, đợi đến khi ra tới cửa Huyện, mới níu áo kêu lên... gớm thực? Chẳng phải tay sọm già, thì sao giở đến những ngón ấy?
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn