View Single Post
  #35  
Old 11-13-2012, 07:26 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww THỦY HỬ TRUYỆN - Hồi 69, 70 (HẾT)

Hồi 69

Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng;
Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ.


Khi đó Tống Giang toan kéo quân về Lương Sơn Bạc, bỗng thấy Bạch Thắng về báo rằng:
- Lư Tuấn Nghĩa đánh thành Đông Xương bị thua luôn hai trận. Trong thành có một tên mãnh tướng, tên là Trương Thanh, quê ở phủ Chương Đức, vốn tay kị hổ xuất thân, tài nghề ném đá đánh người, trăm viên đều trúng, người ta thường gọi là Một Vũ Tiễn xưa nay, Thủ hạ hắn ta có hai viên phó tướng, một người tên là Hoa Hạng Hổ Cung Vượng, toàn thân chạm nốt hổ, trên cổ chạm đầu hổ, tài nghề phóng thương trên mình ngựa; Và một người tên là Trúng Tên Hổ Đinh Đắc Tôn, từ mặt xuống cổ đều lỗ chỗ những sẹo, phóng cây thoa trên mình ngựa rất giỏi. Khi Lư Viên Ngoại dẫn quân đến, rồi mười ngày trời không chịu ra đánh, mãi đến hôm vừa rồi, Trương Thanh mới ra thành đánh nhau, bên nầy Hắc Tư Văn nghênh địch, bất đồ đánh được mấy hiệp, thì Trương Thanh vờ chạy, cho Hắc Tư Văn đuổi theo. Sau Trương Thanh quay lại ném một viên đá, trúng ngay vào trán Hắc Tư Văn ngã lăn xuống ngựa. Bấy giờ may có Yến Thanh bắn một mũi tên trúng vào con ngựa củ Trương Thanh, nên mới cứu được Hắc Tư Văn về trận. Đến hôm sau Phàn Thụy dẫn Hạng Sung, Lý Cổn ra đánh nhau, không dè Hạng Sung bị Đinh Đắc Tôn phóng cây thoa vào nách, lại phải thua chạy. Hiện nay hai người vẫn còn dưỡng bệnh ở trong thuyền. Bởi vậy quân sư cho Tiểu đệ mời Ca Ca đến cứu ứng ngay cho.
Tống Giang nghe nói, than với mọi người rằng:
- Lư Viên Ngoại thực là vô duyên quá, ta để cho Ngô Dụng, Công Tôn Thắng ở đó, cũng tưởng rằng đến trận thành công, để nhường ngôi chủ toạ cho ông ta, nào ai ngờ lại gặp tay địch thủ như vậy. Đã thế thì anh em ta phải mau mau đi cứu mới được.
Nói đoạn truyền lệnh các tướng lên ngựa, dẫn tam quân kéo sang phủ Đông Xương. Khi tới nơi bọn Lư Tuấn Nghĩa đón tiếp Tống Giang, cho quân tạm hạ trại rồi bàn định thi kế với nhau.
Đương khi bàn bạc chuyện trò, bỗng thấy tin báo Một Vũ Tiễn ra khơi đánh. Tống Giang liền đem quân ra cánh đồng nội rộng, dàn thành thế trận rồi các Đầu Lĩnh đều xông ngựa ra đứng trước cửa cờ để đợi.
Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì thấy Trương Thnah phi ngựa xông ra, bên tả có Cung Vượng, bên hữu có Đinh Đắc Tôn, ba ngựa cùng đến trước cửa trận, rồi ba tướng trỏ Tống Giang mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ ở Vũng nước, nay ta quyết một trận với ngươi...
Tống Giang lại hỏi:
- Ai ra đánh tên ấy cho ta?
Nói dứt lời thì thấy một vị anh hùng ra dáng tức giận, tay cầm Câu Liêm Sang giục ngựa ra trước trận để đánh Trương Thanh. Tống Giang trông ra biết rằng vị anh hùng ấy là Kim Sang Thủ Từ Ninh, thì trong bụng mừng thầm chắc là hai tay địch thủ với nhau được.
Từ Ninh đánh nhau được chừng dăm hiệp, thì TRương Thanh tay tả cầm thương hất vờ một cái, rồi tay hữu thò vào túi gấm lấy một viên đá, nhằm giữa mi mắt Từ Ninh ném cho một phát, Từ Ninh ngã lăn ngay xuống đất.
Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cùng xông ra bắt Từ Ninh; Bên nầy Lã Phương cùng Quách Thịnh liền sấn ra cứu Từ Ninh đem về bản trận.
Bọn Tống Giang thấy vậy, đều kinh sợ thất sắc. Rồi Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Đầu Lĩnh nào ra đánh một trận nữa xem sao?
Nói chưa dứt lời thì thấy Cẩm Mao Hổ Yến Thuận phi ngựa xông ra đánh. Tống Giang toan ngăn giữ lại, thì Yến Thuận đã xông tót đến giữa trận, không sao cầm lại được.
Yến Thuận đương đánh nhau với Trương Thanh được vài hiệp thì đuối sức, không sao cự địch nổi, liền quay ngựa chạy về, Trương Thanh thừa thế đuổi theo, ném cho một viên đá vào giữa miếng kính yểm tâm ở sau lưng, đến keng một cái, Yến Thuận vội phục xuống lên ngựa mà chạy.
Đoạn rồi bên trận Tống Giang, Bách Thắng tướng Hàn Thao quát lên rằng:
- Đồ thất phu, ta sợ gì.
Nói đoạn múa gươm xông ra đánh luôn Trương Thanh. Đôi bên hăng hái đánh nhau, quân sĩ đều reo hò váng cả lên.
Hàn Thao muốn khoe tài trước mặt Tống Giang nên càng cố gắng hết sức bình sinh, mà đánh nhau rất là kịch liệt. Đánh nhau chừng mươi hiệp thì Trương Thanh lại quay ngựa chạy. Hàn Thao biết mẹo Trương Thanh ném đá, bèn kìm ngựa lại, mà không đuổi theo nữa.
Trương Thanh thấy Hàn Thao không đuổi, lại vội quay cương ngựa lại. Hàn Thoa liền giơ gươm lên để đón đánh. Chàng vừa mới giơ gươm lên, bỗng bị Trương Thanh ném ngay một viên đá trúng vào mũi, máu chảy lênh láng rồi chạy về bản trận.
Bành Dĩ thấy vậy nổi giận đùng đùng, không đợi tướng lệnh của Tống Giang vội xốc ngựa, múa đao hai lưỡi ra đánh Trương Thanh. Đôi bên chưa kịp giao nhau, thì Bành Dĩ đã bị một viên đá vào mặt, vất cả đao xuống mà chạy. Tống Giang thấy mấy tướng bị thua luôn trong lòng hơi núng, toan rút quân mã về trại. Chợt đâu thấy Xú Quận Mã Tuyên Tán ở đằng sau Lư Viên Ngoại chạy ra kêu lên rằng:
- Ngày nay nếu để giảm mất uy phong, thì sau nầy đánh làm sao được? Thử xem đá có ném được ta không?
Nói đoạn múa đao xông ngựa ra đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một kẻ ra chạy một kẻ, hai kẻ ra chạy hai kẻ, ngươi lại không biết những viên đá của Trương Thanh hay sao?
Tuyên Tán nói:
- Ngươi ném trúng được người khác, chú sao ném trúng được Trương Thanh?
Vừa nói dứt lời thì bỗng thấy viên đá ném ngay vào bên mồm, rồi Tuyên Tán bị ngã ngay lập tức. Bên kia Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn vội kéo ra bắt Tuyên Tán song vì quân tướng Tống Giang rất đông nên không sao bắt nổi.
Tống Giang thấy vậy khí giận đầy trời, rút kiếm ra tay cắt vạt áo mà thề rằng:
- Nếu không bắt được người nầy thì không lui quân về nữa.
Hô Duyên Chước thấy Tống Giang thề nguyền như vậy bèn nói lên rằng:
- Huynh trưởng nói như vậy thì anh em ta còn được việc gì nữa?
Nói đoạn vỗ ngựa Tích Tuyết Ô Truy ra trận, quát mắng Trương Thanh rằng:
- Quân trẻ con cậy thế khoe tài, có biết Đại tướng Hô Duyên Chước đây không?
Trương Thanh mắng lại rằng:
- Đồ tướng hèn nhục nước, phen nầy gặp ta thì đáng kiếp.
Nói đoạn phóng một viên đá trong tay ra.Hô Duyên Chước thấy vậy giơ tay lên đỡ, bị viên đá ném phải tay, không sao khiến nổi cây thương đành phải quay về bản trận.
Tống Giang bảo các Đầu Lĩnh rằng:
- Các Đầu Lĩnh mã quân bị thương nhiều rồi, còn Đầu Lĩnh bộ quân ai ra bắt nó cho ta? Nói đoạn thấy Lưu Đường múa đao sùng sục đi ra, Trương Thanh trông thấy cả cười mắng rằng:
- Mã quân còn chả làm chi nữa là bộ quân.
Lưu Đường cả giận chạy thẳng đến đánh Trương Thanh. Trương Thanh không đánh vội vàng quay ngựa về bản trận. Lưu Đường liền sấn lên đuổi theo giơ đao chém một nhát vào ngay chân ngựa của Trương Thanh. Con ngựa của Trương Thanh giơ chân hắt về đằng sau, rồi vẩy đuôi vung lên đập vào mặt Lưu Đường, làm cho Lưu Đường hoa mắt không biết lối nào mà lẫn.
Bấy giờ Trương Thanh ném ra một viên đá, Lưu Đường ngã lăn xuống đất, rồi đám quân Trương Thanh đổ ra bắt Lưu Đường mà quay về bản trận.
Tống Giang thấy vậy kêu to lên rằng:
- Cứu Lưu Đường với...
Nói chưa dứt lời thì thấy Thanh Diện Tú Dương Chí múa đao xông ngựa ra đánh Trương Thanh. Trương Thanh giơ thương lên đón, Dương Chí liều giơ đao lên chém, Trương Thanh né người về một bên, Dương Chí chém một nhát trượt ra ngoài.
Trương Thanh liền lấy một viên đá cầm ra tay quát một tiếng mau rồi thấy viên đá luồn thẳng qua nách Dương Chí, Trương Thanh lại ném luôn một viên đá, rúng vào mũi Dương Chí. Dương Chí cuống người lên vội cúi gục xuống yên ngựa mà chạy về trận.
Tống Giang nom thấy thế nói lên rằng:
- Nếu phen nầy bị tỏa mất nhuệ khí thì trở về Lương Sơn sao được? Ai ra đối trận cho ta bây giờ?
Chu Đồng nghe Tống Giang nói liền đưa mắt nhìn Lôi Hoành mà bảo rằng:
- Một người không ăn thua gì thì hai anh em ta cùng ra xem sao?
Nói đoạn Chu Đồng ở bên tả, Lôi Hoành ở bên hữu, cùng múa đao xông ra để đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một người không làm gì được, lại thêm một người nữa... Cho các người đến mười người xông ra cũng vô ích...
Chàng vừa nói vừa thò tay vào túi lấy đá, nét mắt vẫn nhâng không có dáng gì sợ hãi. Bấy giờ Lôi Hoành sấn đến trước, bị Trương Thanh ném cho một viên đá ngay vào giữa trán lăn xuống đất. Chu Đồng vội xong vào cứu, bất đồ lại bị một viên đá trúng ngay vào cổ.
Quan Thắng đứng bên trận Tống Giang, trông thấy vậy liền gắn hết uy thần, múa đao Thanh Long, phóng ngựa xích thố ra cứu Lôi Đồng, Lôi Hoành. Chàng vừa đến cứu hai người để chạy về bản trận, thì đã thấy một viên đá ném thẳng tới nơi, Quan Thắng nhanh mắt trông thấy, bèn giơ đao lên đỡ, thì viên đá ném trúng vào thanh đao bật cả lửa lên, Quan Thắng lại vội vàng quay về bản trận.
Song Chiên Tướng Đổng Bình thấy vậy, nghỉ thầm trong bụng: "Ta đây mới đầu hàng Tống Giang nếu không thi tài võ nghệ cho biết, thì khi về trên núi tất không có giá trị được".
Nghĩ đoạn liền vác song thương phi ngựa ra trận, Trương Thanh trông thấy Đổng bình quát mắng rằng:
- Ta với ngươi là hàng xóm với nhau, đáng lẽ nên đồng tâm để bắt giặc mới phải, nay ngươi nở lòng nào bội bạc triều đình, mà đi phò tá với giặc, như thế phỏng nhục hay không?
Đổng Bình cả giận, múa song thương vào đến Trương Thanh. Hai bên người ngựa tiến lui, ba cây thương lên xuống, đến nhau chừng năm bảy hiệp, thi Trương Thanh quay ngựa mà chạy ngay.
Đổng Bình quát lên rằng:
- Người khác bị trúng đá của ngươi, chứ ta đây thì đá nào gần được?
Nói đoạn xốc ngựa đuổi theo, Trương Thanh vừa chạy vừa lấy viên đá ném lại Đổng Bình, Đổng Bình nhanh mắt nhanh tay gạt viên đá nẩy ra ngoài mất.
Trương Thanh lấy viên đá thứ hai ném luôn phát nữa. Đổng Bình né mình tránh về một bên, viên đá lại trẫng ra ngoài.
Trương Thanh thấy hai viên đá ném không ăn thua, trong lòng hơi núng. Bấy giờ Đổng Bình đuổi sát đến đằng sau Trương Thanh, cầm thương đâm một nhát giữa sau lưng, Trương Thanh giơ lá chắn lên đỡ và né mình vào một bên, Đổng Bình đâm gãy thương trượt ra ngoài, rồi con ngựa Đổng Bình sấn lên đều với ngựa của Trương Thanh. Trương Thanh vội vàng vất thương xuống đất, rồi khoành tay ra ôm chặt lấy cả Đổng Bình, lẫn cây thương của Đổng bình mà vật xuống. Bất đồ chàng vật không thấy chuyển, rồi hai người ôm chặt nhau mà quây quần ở giữa vòng trận.
Sách Siêu ở bên trận Tống Giang, liền múa đại phủ ra giải cứu. Bên kia Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cũng xông ngựa ra đón đánh Sách Siêu, ba tướng lại dằn nhau rúm vào một chỗ, mà không sao gỡ ra được.
Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh bèn cùng nhau xông ngựa, múa gươm múa kích ra đánh cứu Đổng Bình cùng Sách Siêu. Trương Thanh thấy thế lực không địch nổi, vội bỏ Đổng Bình chạy về bản trận. Đổng Bình hăng hái xông vào để đuổi Trương Thanh, bất chợt Đổng Bình vô ý bèn lấy viên đá nhằm khi Đổng Bình đến gần ném cho một phát. Đổng Bình nhanh mắt né mình để tránh, viên đá đi sượt qua bên tay đánh vù một cái. Đổng Bình liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa.
Đằng kia Sách Siêu bỏ Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn toan xông sang để đuổi Trương Thanh, Trương Thanh lấy đá ném một phát trúng vào mặt Sách Siêu, bắn phọt máu tươi ra, rồi Sách Siêu chạy về bản trận. Khi ấy Lâm Xung, Hoa Vinh đương đánh nhau với Cung Vượng. Lã Phương, Quách Thịnh thì đương đánh nhau với Đinh Đắc Tôn. Cung Vượng đánh nhau được mấy hiệp, trong bụng đã hơi chồn, liền lấy mũi thương ra phi đánh Lâm Xung cùng Hoa Vinh, bất đồ phi thương ra không trúng, thành ra trơ trọi tay không, không có khí giới để đánh, bị Lâm Xung cùng Hoa Vinh bắt sống đem về trại Tống Giang.
Còn Đinh Đắc Tôn múa cây phi thoa, ra sức chống cự với Lã Phương, Quách Thịnh rất là hăng hái. Sau Lãng Tử Yến Thanh đứng trong trận nom thấy, liền nghĩ trong bụng rằng: "Trong một nháy mắt, mà quân ta có tới mười lăm tên Đại Tướng bị đánh, vậy nếu không bắt được thằng Tiểu Tướng nầy của họ, thì còn mặt mũi nào nữa! "Nghĩ đoạn liền vất gậy xuống lấy tên nỏ ra, nhằm bắn một phát vào chân ngựa của Đinh Đắc Tôn, con ngựa bị đau ngã khuỵu xuống đất, rồi Lã Phương, Quách Thịnh sấn nghiến vào bắt sống lấy Đinh Đắc Tôn.
Trương Thanh thấy vậy, toan xông ra cứu, song vì ít người không địch nổi, liền truyền lệnh lui quân, rồi giải Lưu Đường về phủ Đông Xương.
Hôm đó quan phủ Đông Xương đứng trên thành xem trận, thấy Trương Thanh đánh luôn mười lăm viên tướng của Lương Sơn Bạc, sau dẫu bị bắt mất Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn song lại bắt được Lưu Đường về đó thì trong lòng lấy làm vui vẻ vô cùng, liền trở về trong phủ để nâng chén mừng Trương Thanh và sai giam Lưu Đường vào trong ngục, để cùng bàn định việc quân.
Bên kia Tống Giang thu quân về trại, sai giải hai người Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn về sơn trại trước, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa cùng Ngô Dụng rằng:
- Tôi nghe về thời Ngũ Đại xưa, có Vương Ngạn Chương, trong một nháy mắt mà bắt được ba mươi sáu tướng của nhà Đường, ngày nay Trương Thanh cũng chỉ trong một loáng mà đánh nổi mười lăm viên Đại Tướng của ta, vậy sức khoẻ của Trương Thanh cũng chẳng kém gì Vương Ngạn Chương ngày trước.
Chúng nghe nói, đều im phăng phắc một lượt, Tống Giang lại nói rằng:
- Tôi xem người ấy toàn nhờ Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn làm vây cánh, vậy nay vây cánh đã bị mất, thì ta sẽ dùng lương sách mà bắt người ấy được.
Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi hiểu cách của anh ta, và đã định kế sách lâu rồi... Nay hãy xin cho các Đầu Lĩnh bị thương về sơn trại, và cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lý Lập đem hết thủy quân đi, và sắp cả xe ngựa thuyền bè nhất tề tiến lên, rồi lừa Trương Thanh ra thành, thì tất là xong việc.
Nói đoạn quay ra cắt đặt hiệu lệnh cho các quân sĩ.
Về phần Trương Thanh một hôm bàn định với quan phủ Đông Xương rằng:
- Ta tuy đánh được hai trận, nhưng thế giặc còn to, chưa trừ được gốc, vậy xin cho người đi dò xét hư thực ra sao.
Đương khi bàn luận, chợt thấy người vào báo: Về mạn Tây Bắc có tới hơn trăm xe tải lương, và trên mặt sông cũng có hơn năm trăm chiến thuyền, đều chở lương thảo tiến đi, chỉ có mấy người Đầu Lĩnh đi áp tải ở đó, Thái Thú nghe báo nói rằng: Cái đó không khéo lại mưu kế gì chăng? Ta phải cho người đi thám lại, xem có hẳn là tải lương hay không?
Ngày hôm sau, người đi thám về báo: Các xe đều xếp đầy những gạo, các thuyền dẫu có che đậy song ở trong toàn thị là túi gạo tất cả không sai.
Trương Thanh nói:
- Nếu vậy đêm nay ta ra thành đón chặn lấy đám xe, rồi sẽ cướp lấy các thuyền, thí tất là đắc thắng.
Quan phủ khen phải mà rằng:
- Làm thế thì diệu lắm, song Tướng quân phải cẩn thận mới được.
Trương Thanh vâng lệnh, rồi đến đêm kéo quân ra đi. Hôm đó mây quang trăng sáng, sao chiếu đầy trời, quân đi mười dặm đường, thì đã thấy xe lương tải đến, trong cờ viết rõ là "Lương Trung Nghĩa của trại Thủy Hử" và có một nhà sư Lỗ Trí Thâm vác thuyền trượng đi trước.
Trương Thanh trông thấy Lỗ Trí Thâm liền nói một mình rằng:
- Ta cho thằng trọc nầy một viên đá vào óc mới được...
Nói đoạn liền lấy viên đá ra ném. Lỗ Trí Thâm tuy nom thấy Trương Thanh đến, song trong bụng đương giả vờ làm mặt không biết, cứ vác thuyền trượng cắm đầu để chạy. Bất đồ bị một viên đá ném ngay vào đầu, máu tươi chảy vọt ra rồi ngã lăn xuống đất.
Quân mã Trương Thanh đều reo hò xông đến để bắt, Võ Tòng đi sau thấy, vội múa hai khẩu giới đao, sấn lên cứu lấy Lỗ Trí Thâm rồi bỏ cả xe cộ mà chạy.
Trương Thanh cướp được lương thảo lấy làm mừng rỡ, liền không đổi theo Lỗ Trí Thâm, mà giải lương thảo vào thành, Quan phủ thấy vậy cả mừng truyền thu để vào trong kho.
Trương Thanh lại xin ra đánh, Quan phủ lại dặn với rằng:
- Tướng quân phải liệu cơ đấy...
Trương Thanh vâng lời lên ngựa đi ra cửa Nam. Bấy giờ trông thấy thuyền lương đầy dẫy trên sông, không biết tới đâu mà kể. Trương Thanh liền sai mở cửa thành, mà nhất tề kéo ra cả bên sông.
Khi tới nơi bỗng thấy mây mù đen kịt, sương tối đầy trời, đám quân nhìn sát tận nhau, mà không ai trông thấy ai cả
Nguyên đó là phép thuật của Công Tôn Thắng, dùng để làm mê man quân mã của Trương Thanh, Trương Thanh thấy vậy trong lòng kinh sợ vội lui quân mã để quay về. Dè đâu vừa quay lại, thì thấy bốn mặt có tiếng hò reo, rồi bỗng thấy quân mã ở đâu ầm ầm kéo đến. Đoạn rồi thấy Lâm Xung dẫn quân kị ra ngăn áp cả người lẫn ngựa Trương Thanh xuống nước.
Bấy giờ dưới nước đã có đám Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh cùng chực sẵn ở đó. Trương Thanh xuống nước luống cuống không lên được, bị ba anh em họ Nguyễn bắt trói đem về trong trại.
Ngô Dụng cùng Tống Giang được tin, liền thôi thúc quân mã ra đánh thành rất khẩn. Một mình Tri Phủ hết sức giữ thành được một lúc, thì quân mã Tống Giang đã phá cửa tràn vào, không sao ngăn nổi. Tống Giang kéo vào trong thành, trước hết cứu cho Lưu Đường ra, rồi sau mở kho tàng lấy tiền lương, chia một phần cho dân cư ở đó, còn thì đem cả về Lương Sơn. Quan Phủ Đông Xương vốn là người chính trực thanh liêm, nên tha không giết hại. Đoạn rồi Tống Giang tụ quân chúng ở trong Phủ Đông Xương.
Bấy giờ thủy quân Đầu Lĩnh giải Trương Thanh vào phủ. Các tướng bị Trương Thanh đánh trước đều nghiến răng nghiến lợi muốn giết Trương Thanh. Duy Tống Giang thấy giải đến nơi, thì vội vàng xuống thềm đón tiếp mà nói lại rằng:
- Quân chúng không biết lỡ phạm hổ uy, xin ngài tha lỗi ấy cho...
Nói đoạn toan mời Trương Thanh lên ngồi, chợt đâu thấy Lỗ Trí Thâm đầu buộc khăn tay bằng vải, tay cầm thuyền trượng bằng sắt, xông ra để đánh Trương Thanh.
Tống Giang thấy vậy, vội ngăn Lỗ Trí Thâm lại mà quát nạt im đi. Trương Thanh thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy bèn cúi đầu lạy tạ mà xin hàng.
Tống Giang lại đổ rượu xuống đất, lại bẻ một mũi tên mà thề rằng:
- Anh em ai còn thù hằn với Trương Thanh, thì trời đất không dung tất bị chết ở nơi đao kiếm.
Chúng nghe nói đều im phăng phắc, không ai con hục hặc chi nữa. Đoạn rồi Trương Thanh nói với Tống Giang rằng:
- Ở Phủ Đông Xương có một người thú y họ Hoàng Phủ tên Đoan, xem tướng ngựa rất giỏi, xem bệnh ngựa và chữa bệnh ngựa rất tinh. Nguyên người quê ở U Châu, mắt biếc râu vàng, người ta thường gọi là Tử Nhiêm Bá (bác râu vàng). Lương Sơn Bạc ta tất có khi dùng đến hắn... Vậy xin cho đón cả vợ con người ấy lên sơn Bạc một thể cho tiện.
Tống Giang nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu được Hoàng Phủ Đoan có lòng cùng nhau tụ nghĩa, còn gì hơn được nữa?
Trương Thanh thấy Tống Giang một dạ tin yêu, chàng liền đi gọi Hoàng Phủ Đoan đến để bái kiến Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh.
Tống Giang trông Hoàng Phủ Đoan mắt xanh lóng lánh, râu dài quá bụng, rõ ra một bậc phi thường thì lấy làm khen ngợi vô cùng. Hoàng Phủ Đoan thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy, thì cũng vui mừng mà thuận phục xin theo tới Lương Sơn.
Khi trò chuyện thỏa hiệp rồi, Tống Giang liền truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh thu xếp xe ngựa, chỉnh đốn quân mã và tải tiền lương đem về Sơn Trại. Khi về tới sơn trại, Tống Giang sai thả Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn ra, lấy lời ngon ngọt dỗ dành hai người rất ân cần tử tế. Hai người đều lạy tạ mà xin quy hàng ở đó.
Bấy giờ ở trong sơn trại tính tất cả lớn nhỏ có tới một trăm Đầu Lĩnh cùng đề huề xum họp với nhau. Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn sai đặt tiệc ăn mừng rồi nói với anh em rằng:
- Từ khi anh em ta bước chân lên núi tới đây, ơn nhờ trời đất, các công việc đều được trơn tru, không hề chút gì vấp váp. Ngày nay lại nhờ trí dũng của anh em, tôn tôi lên làm chủ trại, vậy tôi có một lời nầy muốn giải bày khúc nhôi, dám xin anh em lấy lòng nghĩa khí mà chấp thuận lấy cho, thì thực là hân hạnh cho sơn trại vô cùng.
Ngô Dụng đáp rằng:
- Huynh trưởng có điều gì dạy bảo, xin cứ nói cho anh em được biết.
Tống Giang bèn ung dung đem ý kiến để giải bày cùng các vị Đầu Lĩnh:
Mới hay:
Mấy phen lỡ đất long trời,
Anh hùng trải lắm trần ai mới già,
Đôi phen bốn bể một nhà,
Đông, Tây họp mặt san hà khiếp gan.
Cùng nhau hợp thể liên đoàn,
Non cao độc lập sóng tràn tự do.
Dọc ngang riêng một cơ đồ,
Máu nồng chan chứa một lò nghĩa chung.
Lương Sơn trăm tám anh hùng,
Giang hồ nghĩa nặng muôn trùng ai ơi!
Lời bàn của Thánh Thán.
Từ xưa chưa từng nghe nói đem đá ra đánh giặc, tự Thi Nại Am bổng không nảy ra một chuyện lạ đời, để kết lại một thiên, khiến đọc giả lạ mắt chột lòng, thấy rằng hòn đá nén ra, như đạn bay tên bắn, anh hùng Sơn Bạc, hầu hết bó tay! Không ngờ tác giả phô trương tài lạ hơn một trăm người, đến đây như hết, thế mà đến đây lại thấy tài năng của một phi thường, đọc một bộ sách bảy mươi hồi đã thấy bao nhiêu kẻ tài cao thấp, kết lại nẩy một kẻ lạ thường như cuốn như quét, như ruỗi như hịch...hết thẩy thực là chương pháp rất ly kỳ...
Bầy ra một trăm linh tám anh hùng, đến sau chót một Hoàng Phủ Đoan giỏi về tướng ngựa. Hỡi ôi! Khéo thay! Đó làm ra cho thành một chuyện Thủy Hử, xét ra cái tài dong duỗi, chưa chắc vô duujng cho thuyền xe, mà cái tật thét gào thở hộc, chưa chắc không phải cản sức đi ngàn dặm, nệ theo bề ngoài ngoài là một con vật, chưa chắc đã chẳng đáng của ở trong...cho nên bậc Tể tướng tài hiền thường có những món thưởng thức về tài phá cách, vì trong trăm năm co báo lại bất thần, thì biết chữa bệnh cho ngựa, dùng vào việc binh mã, há chẳng đáng trọng dụng lắm hay sao? Thế mà đời không ai là Bá Nhạc tri âm, coi hiền với ngu đều đến chết. Coi thường những thứ vẫn dùng, mà không biết đến, gặp khi tai vạ tới, thấy lỗi ở những chỗ thường kia, bấy giờ mới đáng than, thì thấy ra đã muộn. Nên việc dùng Hoàng Phủ Đoan, chính là gồm mọi đủ tài năng, không coi thường một chút gì hết thảy.


Hồi 70 (Hồi kết)

Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn;
Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng.


Bấy giờ Tống Giang bảo với các Đầu Lĩnh rằng:
- Lũ anh em ta bấy lâu vào sinh ra tử, mong mỏi tìm nhau, để kết lấy giang hồ đại nghĩa, vậy ngày nay đã sum họp tất cả được một trăm lẻ tám anh em, trí dũng kim toàn, anh tài không thiếu, thực là một cơ hội rất hiếm xưa nay, ai trông thấy thế mà chẳng đồng tâm hiệp lực, để cùng liên lạc với nhau. Duy trong khi gây cuộc binh đao, kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng. Vậy ngày nay muốn lập đàn trai để tạ ơn trời đất qủy thần, một là cầu đảo cho anh em được vui vẻ yên lành, hai là mong triều đình sớm ra ơn xá tội để cùng nhau hết sức báo đền non nước, thì dẫu chết cũng không dám từ nan, ba là cầu cho Tiều Thiên Vương sớm thăng thiên giới thế thế sinh sinh rồi sau lại được gặp nhau, và nhân tiện cầu nguyện cho các linh hồn bị chết chóc từ trước tới nay, đều được siêu sinh tĩnh thổ về chốn lạc viên. Chẳng hay ý tưởng anh em nghĩ ra sao?
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Đó là một công quả phúc đức, anh em đều xin theo ý kiến Ca Ca chỉ giáo.
Ngô Dụng nói:
- Việc nầy tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi cho người đi đón Đạo sĩ các nơi để về cúng mới được.
Nói đoạn liền bàn định đến rằm tháng tư bắt đầu làm chay, hạn bảy đêm ngày công quả cho các người đi đón các Đạo Tràng về cúng, và sai người mua sắm lễ vật cùng là bày dọn Đạo Tràng. Trước Trung Nghĩa Đường dựng cây phàn lớn, bốn xung quanh kết ba từng đài rất cao, trong bày thánh trượng Tam Thanh, Thất Bảo, hai ban đặt thờ hai mươi tám vì tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng các tinh chủ trên trời, và phía ngoài đặt giám đàn thờ thần tướng Thôi, Lưu Trung Thư, Đặng, Đậu.
Hôm ấy khi trời trong trẻo, gió mát trăng thanh, đàn tràng đã lập xong rồi. Công Tôn Thắng liền dẫn tất cả bốn mươi tám người đạo tràng ra làm lễ. Bấy giờ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu, rồi đến Ngô Dụng cùng các Đầu Lĩnh ra đốt hương coi lễ.
Công Tôn Thắng chủ việc đàn tràng, coi giữ các giấy sớ ấn bùa, và cùng bốn mươi tám người đạo tràng, cùng nhau mỗi ngày ra làm lễ ba khoá lễ.
Tống Giang nhất tâm cầu nguyện, mong Hoàng Thiên báo ứng hiển nhiên, liền bảo Công Tôn Thắng đốt sớ tâu lên Thượng Đế.
Đến đêm hôm thứ bảy, Công Tôn Thắng ở trên tấng đàn Hư Hoàng thứ nhất, các đạo tràng ở tầng thứ hai, Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh ở tầng thứ ba, còn các tiểu Đầu Lĩnh cùng bọn tướng tá, đều đứng cả dưới đàn, mà cùng nhau vái lạy trời xanh, cầu xem báo ứng.
Được một lát vào khoảng canh ba, chợt nghe thấy trên trời có một tiếng soạt, như tiếng xé lụa rất to, rồi thấy cửa trời về phía Tây Bắc kiền phương mở tung ra, và có một cái ban vàng, hai đầu nhỏ ở giữa rộng trông như mặt trời chói lọi, sáng rực xuống khắp trần ai. Chợt lại thấy trong đàn, có một khối lửa to như cái thúng, lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng, quanh chuyển một vòng, rồi lặn xuống dưới đất, về phía chính Nam.
Đoạn rồi mặt trời trở lại như cũ, rồi mọi người cùng nhau lạy tạ xuống đàn mà đào đất để tìm.
Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy có một miếng bia đá, chạm thiên thư ở mặt giữa và cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi sáng hôm sau đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.
Khi nom đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo, khác hẳn lối thường, không còn ai biết nghĩa lý ra sao cả. Sau có một người đạo tràng, họ Hà tên là Diệu Thông, nói với Tống Giang rằng:
- Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách, chuyên để cắt nghĩa các lối chữ thiên thư, vậy lối chữ đây tức là lối chữ khoa đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài để cho tôi dịch giúp.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp, và dịch cho mọi người cùng hiểu nghĩa.
Hà Diệu Thông xem một lúc, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Hai bên cạnh bia, một bên có bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" (Thay Trời làm Đạo), và một bên có bốn chữ "Trung Nghĩa Lưỡng Toàn" (trung nghĩa vẹn hai), trên có các vì sao trên trời và phía dưới chưa đủ tên họ các ngài ở đó. Nếu các ngài rộng tha phép cho, tôi xin viết rõ ra để các ngài xem.
Tống Giang nói:
- Chúng tôi mê muội không biết văn trời, nay nếu được Đạo Sĩ chỉ bảo đường mê, thì còn gì hơn nữa, dám xin Đạo Sĩ chỉ bảo rõ ràng cho biết, hoặc giả ở trong có điều chi Hoàng Thiên quở phạt, cũng xin chớ dấu chúng tôi.
Nói đoạn liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy vàng mực đen ra để Hà Diệu Thông đọc cho viết.
Hà Diệu Thông lại nói rằng:
- Trong tấm bia nầy, trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn thị là sao Thiên Cương, mặt sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là sao Địa Sát, phía dưới có chứa tên họ các nghĩa sĩ ở đây cả.
Nói đoạn liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia:
Thiên Khôi Tinh, Hô Bảo Nghĩa Tống Giang
Thiên Cương Tinh, Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa
Thiên Cơ Tinh, Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Thiên Nhàn Tinh, Nhập Long Vân Công Tôn Thắng
Thiên Dũng Tinh, Đại Đao Quan Thắng
Thiên Hùng Tinh, Báo Tử Đầu Lâm Xung
Thiên Mãnh Tinh, Tích Lịch Hỏa Tần Minh
Thiên Uy Tinh, Song Chiên Hô Duyên Chước
Thiên Anh Tinh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh
Thiên Quý Tinh, Tiểu Toàn Phong Sài Tiến
Thiên Phú Tinh, Phác Thiên Bằng Lý Ứng
Thiên Mãn Tinh, Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng
Thiên Cô Tinh, Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm
Thiên Thương Tinh, Hành Giả Võ Tòng
Thiên Lập Tinh, Song Thương Tướng Đổng Bình
Thiên Tiệp Tinh, Một Vũ Tiễn Trương Thanh
Thiên Âm Tinh, Thanh Diện Thú Dương Chí
Thiên Hựu Tinh, Kim Sang Thủ Từ Ninh
Thiên Không Tinh, Cấp Tiên Phong Sách Siêu
Thiên Dị Tinh, Xích Phát Quỹ Lưu Đường
Thiến Sát Tinh, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ
Thiên Tốc Tinh, Thần Hành Thái Bảo Đới Tung
Thiên Vi Tinh, Cửu Văn Long Sử Tiến
Thiên Cứu Tinh, Mộc Già Lan Mục Hoằng
Thiên Thoái Tinh, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành
Thiên Thọ Tinh, Hỗn Giang Long Lý Tuấn
Thiên Kiếm Tinh, Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị
Thiên Bình Tinh, Thuyền Đầu Hỏa Trương Hoành
Thiên Tội Tinh, Đỏan Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ
Thiên Tổn Tinh, Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận
Thiên Bại Tinh, Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất
Thiên Lao Tinh, Bệnh Quan Sách Dương Hùng
Thiên Tuệ Tinh, Biểu Mệnh Tam Lang Thạch Tú
Thiên Bảo Tinh, Lưỡng Đầu Sà Giải Trân
Thiên Khốc Tinh, Long Vĩ Hạt Giải Bảo
Thiên Xảo Tinh, Lãng Tử Yến Thanh
Bảy mươi hàng chữ mặt sau bia:
Địa Khôi Tinh, Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ
Địa Sát Tinh, Trấn Tam Sơn Hoàng Tín
Địa Dũng Tinh, Bệnh Uùy Trì Tôn Lập
Địa Kiệt Tinh, Xú Quận Mã Tuyên Tán
Địa Hùng Tinh, Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn
Địa Uy Tinh, Bách Thắng Tướng Hàn Thao
Địa Anh Tinh, Thiên Mục Tướng Bành Dĩ
Địa Kỳ Tinh, Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê
Địa Mãnh Tinh, Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc
Địa Văn Tinh, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng
Địa Chính Tinh, Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên
Địa Tịch Tinh, Ma Vân Kim Sí Âu Bằng
Địa Hạp Tinh, Hỏa Nhỡn Toan Nghê Đặng Phi
Địa Cường Tinh, Cẩm Mao Hổ Yến Thuận
Địa Âm Tinh, Cẩm Báo Tử Dương Lâm
Địa Phụ Tinh, Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn
Địa Hội Tinh, Thần Toán Tử Tưởng Kính
Địa Tá Tinh, Tiểu Ôn Hầu Lã Phương
Địa Hựu Tinh, Kiển Nhân Quý Quách Thịnh
Địa Linh Tinh, Thần Y An Đạo Toàn
Địa Thú Tinh, Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan
Địa Vi Tinh, Nụy Cước Hổ Vương Anh
Địa Tuệ Tinh, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương
Địa Hao Tinh, Táng Môn Thần Đào Húc
Địa Mặc Tinh, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy
Địa Xương Tinh, Mao Đẩu Tinh Khổng Minh
Địa Cường Tinh, Độc Hỏa Tinh Khổng Lượng
Địa Phi Tinh, Bát Tý Na Tra Hạng Sung
Địa Tẩu Tinh, Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn
Địa Xảo Tinh, Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện
Địa Minh Tinh, Thiết Dịch Tiên Mã Lân
Địa Tiến Tinh, Xuất Động Giao Đồng Uy
Địa Thoái Tinh, Phan Giang Thần Đồng Mãnh
Địa Mãn Tinh, Ngọc Phan Cang Mạnh Khang
Địa Toại Tinh, Thông Tý Viện Hầu Kiện
Địa Chu Tinh, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt
Địa An Tinh, Bạch Hoa Sà Dương Xuân
địa Di Tinh, Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ
Địa Lý Tinh, Cửu Vỹ Quy Đào Tôn Vượng
Địa Tuấn Tinh, Thiết Phiến Tử Tống Thanh
Địa Nhạc Tinh, Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà
Địa Tiệp Tinh, Hoa Hạng Hổ Cung Vượng
Địa Tốc Tinh, Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn
Địa Trấn Tinh, Tiểu Già Lan Mục Xuân
Địa Cơ Tinh, Thao Đao Quỹ Tào Chính
Địa Ma Tinh, Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn
Địa Yêu Tinh, Mô Trước Thiên Đỗ Thiên
Địa U Tinh, Bệnh Đại Trùng Tiết Vĩnh
Địa Phục Tinh, Kim Nhỡn Bưu Thi Ân
Địa Tịch Tinh, Đả Hổ Tướng Lý Trung
Địa Không Tinh, Tiểu Bá Vương Chu Thông
Địa Cô Tinh, Kim Tiền Báo Tử Thang Long
Địa Toàn Tinh, Quỹ Kiểm Nhi Đỗ Hưng
Địa Đỏan Tinh, Xuất Lâm Long Trâu Uyên
Địa Giốc Tinh, Độc Giốc Long Trâu Nhuận
Địa Tù Tinh, Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý
Địa Tàng Tinh, Tiểu Diện Hổ Chu Phú
Địa Binh Tinh, Thiết Tý Phụ Xái Phúc
Địa Tổn Tinh, Nhất Chi Hoa Xái Khánh
Địa Nô Tinh, Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập
Địa Sát Tinh, Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân
Địa Ác Tinh, Một Diện Mục Tiêu Đĩnh
Địa Xú Tinh, Thạch Tướng Quân Thạch Dũng
Địa Số Tinh, Tiểu Uùy Trì Tôn Tân
Địa Âm Tinh, Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu
Địa Hình Tinh, Thái Viên Tử Trương Thanh
Địa Tráng Tinh, Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương
Địa Liệt Tinh, Hoạt Diêm La Vương Đình Lục
Địa Kiện Tinh, Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ
Địa Hao Tinh, Bạch Nhật Tử Bạch Thắng
Địa Tặc Tinh, Cổ Thượng Tao Thời Thiên
Địa Cẩu Tinh, Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ.
Tiêu Nhượng viết xong tất cả, rồi đọc lại một lượt cho mọi người ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.
Tống Giang liền nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi là kẻ tiểu lại ngu hèn, ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú trên trời, cùng với anh em lại cùng chung một hội...Nay số trời đã định, tất phải xum họp cùng nhau, vậy anh em ta phải y theo thứ tự, giữ lấy bổn phận mà làm, chớ nên trái ý trời mới được.
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Ý Trời đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất tâm...
Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông. Hà Diệu Thông bèn bái tạ Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh, rồi cùng với bọn đạo tràng xuống núi mà chia tay trở về.
Bấy giờ Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh để chỉnh đốn lại trong sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ "Trung Nghĩa Đường "rất to. Đoạn kim đình cũng thay một bức biển lớn. Phía trước đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng, chính giữa đặt một bàn thờ Tiều Cái.
Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đông; Lư Tuấn Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.
Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng bên tả; và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở dẫy bên hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng Chấn coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng, và bên hữu thì có Hoa Vinh, Phàn Thụy, Hạng Sung và Lý Cổn.
Cửa quan đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ, Cử Quan thứ nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi Hoành coi giữ.
Bên Đông núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ.
Bên Tây một cửa quan, Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi giữ.
Ngoài sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ, và bốn trại dưới nước. Trại bộ chính Nam có Tầm Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng Phi. Trại Chính Đông có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính Tây có Lâm Xung, Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô Duyên Chước, Dương Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị; Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn các Đầu Lĩnh ai vào việc ấy.
Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế một ngọn cờ Hoành Hạnh, viết bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" rất to. Trước cửa Trung Nghĩa Đường chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ "Sơn Đông Hô Bảo Nghĩa"; và một bên năm chữ "Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân ". Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, và các đồ Hoàng Việt, Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để dùng ra trận.
Lại sai chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập Bát Tú, Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái, và tất cả một trăm hai mươi bốn thứ cờ. Còn các việc ấn tín binh phù, thì giao cho Kim Đại Kiện coi giữ.
Đoạn rồi chọn ngày lành tháng tốt, giết trâu giết ngựa tế lễ trời đất qủy thần treo biển lên Trung Nghĩa Đường. Đoạn Kim Đình và cắm cờ "Thế Thiên Hành Đạo "lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm đó Tống Giang tay cầm binh phù ấn tín, tuyên cáo hiệu lệnh cho các Đầu Lĩnh rằng:
- Từ nay anh em đều phải giữ theo chức trách, không được cưỡng trái, để hại đến Đại Nghĩa trong sơn trại. Nếu ai trái lệnh không theo, thì lấy quân pháp trị tội...
Nói đoạn liền kê các chức vụ của các Đầu Lĩnh cho mọi người cùng biết:
Hai viên Tổng binh Đô Đầu Lĩnh ở sơn bạc, là Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa.
Hai viên Quân Sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, coi giữ việc cơ mật.
Một viên Tham Tán Quân Vụ, là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ.
Hai viên Đầu Lĩnh coi giữ tiền lương, là Sài Tiến và Lý Ứng.
Năm viên Hổ Tướng Mã Quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, và Đổng Bình.
Tám viên mã quân Đại Khiêu Kị, kiêm chức Tiền Phong Sứ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Dương Chí, Sách Siêu, Trương Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến, và Mục Hoằng.
Mười sáu viên Mã quân Tiểu Bưu Tướng, kiêm việc Thám tiểu là Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông.
Mười viên bộ quân Đầu Lĩnh, là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Yến Thanh, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.
Mười bảy viên Tướng Hiệu Bộ Quân, là Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch Dũng.
Tám viên Đầu Lĩnh Thủy Quân là Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy và Đồng Mãnh.
Tám viên Đầu Lĩnh coi bốn mặt tửu điếm, để dò xét tin tức. Điếm bên Đông có Tôn Tân và Cố Đại Tẩu; Bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương. Bên Nam có Chu Quý, Đỗ Hưng; Bên Bắc có Lý Lập, Vương Đình Lục.
Một viên coi đại quyền về việc do thám, là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung. Tám viên Đầu Lĩnh Bộ Quân, phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, Bách Thắng.
Hai viên Kiều Tướng Mã quân thủ hộ ở Trung Quân, là Lã Phương, Quách Thịnh.
Hai viên Kiều Tướng Bộ quân, Thủ Hộ ở Trung Quân là Khổng Minh, Khổng Lượng.
Hai viên chuyên việc hành hình là Xái Phúc, Xái Khánh.
Hai viên Đầu Lĩnh Mã Quân giữ việc do thám trong tam quân là Vương Anh và Hổ Tam Nương. Mười sáu viên Đầu Lĩnh coi việc chế tạo sửa sang. Một viên giữ việc văn thư giấy má, trong khi khi khiển tướng điều binh là Tiêu Nhượng. Một viên Quân Chính Tư coi việc thưởng phạt là Bùi Tuyên. Một viên coi các việc tính toán tiền nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang. Một viên chuyên chế tạo ấn tín là Kim Đại Kiện. Một viên chế các thứ cờ quạt áo bào là Hầu Kiện.
Một viên giữ việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng Phủ Đoan.
Một viên chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.
Một viên coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang Long.
Một viên chuyên chế các thứ súng là Lăng Chấn.
Một viên coi các việc nhà cửa là Lý Vân.
Một viên coi việc giết mổ trâu bò gà lợn là Tào Chính.
Một viên coi việc yến tiệc là Tống Thanh.
Một viên coi việc rượu chè là Chu Quý.
Một viên coi đắp thành trì là Đào Tôn Vượng.
Một viên coi giữ cờ súy là Úc Bảo Tứ.
Hôm đó là ngày hai mươi hai, tháng tư năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, Tống Công Minh họp hết thẩy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc để truyền lệnh cắt đặt xong việc. Các Đầu Lĩnh đều vâng lệnh ấn tín, cùng nhau yến ẩm ở Trung Nghĩa Đường, rồi quay ra chia giữ các việc. Trong đó có người nào chưa cắt định công việc thì cho ở tạm ở trước Nhạn Đài để chờ hiệu lệnh.
Ngày hôm sau Tống Giang lại sai khua trống tụ họp các Đầu Lĩnh ở Trung Nghĩa Đường, đốt một lò hương, rồi nói với mọi người rằng:
- Anh em ta ngày nay xum họp ở đây, là tại số trời định trước, chiếu ứng bởi các vì sao, vậy ta nên một dạ một lòng, thề cùng trời đất mà trăm năm sinh tử có nhau, thì ngõ hầu mới khỏi phụ ý Trời trọng đãi... Các anh em xin chớ sai lời.
Chúng nghe nói đều vui mừng khen phải, liền cùng nhau thắp hương, mà cùng nhau quỳ ở trước Trung Nghĩa Đường, để tuyên lời thề nguyện.
Tống Giang quỳ ở hàng đầu, tuyên lời thệ rằng:
- "Ngày hai mươi ba, tháng tư, năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, bọn nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là: Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đổng Bình, Trun, Dương Chí, Từ Ninh, Sách Siêu, Đới Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Trương Hoành, Nguyễn tiểu Ngũ, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng Chấn, Tưởng kính, Lã Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Bào Húc, Phàn Thụy, Khổng Minh, Khổng lượng, Hạng Sung, Lý Cổn, Kim Đại Kiện, Mã Lân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mạnh Khang, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Mục Xuân, Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Lý Trung, Chu Thông, Thang Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập, Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Vương Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, cùng nhau giốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin Thần minh soi xét chứng cho.
Nguyên Chúng tôi vốn người bốn bể, nay họp một nhà.
Theo tinh tú làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ.
Một trăm tám người, tuy khác mặt song cũng vẻ vang.
Một trăm tám người, tuy khác lòng, song đều trong sạch.
Vui phải cùng vui, lo phải cùng lo.
Sống phải cùng sống, chết phải cùng chết.
Đã liệt tên trên Thượng Đế, chớ để hổ với dân gian;
Một ngày thành tâm khí đã tin, trọn kiếp tâm can không đổi.
Nếu ai mang dạ bất nhân, bỏ lòng đại nghĩa, ngoài hay trong dở, có trước không sau, thì Thượng Đế soi trên, quỷ thần soi dưới, thân tất lìa tan vì đao kiếm, mà tội còn mang nặng với phong lôi; trăm năm không được hưởng thanh bình, muôn kiếp còn sa vào địa ngục.
Đạo trời đất phân minh báo ứng, dám xin soi xét lòng thành...".
Tống Giang đọc xong, mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng:
- Xin nguyện trăm năm xum họp cùng nhau, muôn kiếp không hề xa cách, mối giây liên lạc, bao giờ cũng được như nay...
Nói đoạn đều uống máu ăn thề, rồi cùng nhau chè chén, đến khi quá say mới tan.
Miền Thủy Bạc, vũng Lương Sơn,
Nước bèo gặp gỡ, tâm can hẹn hò,
Tài kinh tế, chí giang hồ,
Giữa trời dựng một ngọn cờ nghĩa trung,
Từ đây thỏa chí tang bồng,
Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời,
Trăm năm nhắm bạn anh tài,
Làm trai cho đáng thân trai mới là...
Đêm hôm đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm mê thấy một người cao lớn, tay cầm cây bảo cung, đến nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ta tên là Kê Khang, vì vua nhà Đại Tống, mà đến bắt giặc ở đây. Vậy các ngươi nên mau mau mà tự trói lấy thân, đừng để cho ta phải động đến thêm phiền.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, đùng đùng nổi giận, vội cầm đao đuổi sấn lên để chém. Bất đồ chàng giơ đao lên, thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi nào rồi, không sao mà chém được.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy lấy làm cả kinh, vội vàng chạy ra giá đao, để chọn lấy thanh khác. Chẳng dè khi ra tới giá đao, thì thấy bao nhiêu gươm giáo đao thương, đều gãy mẻ hết một lượt, không còn cái nào dùng được nữa.
Khi đó người kia đuổi sấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa, Lư Tuấn Nghĩa luống cuống không biết làm thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa giơ được tay lên, thì người kia đã cầm thương, đánh cho một cái gãy hẳn một cánh tay ngã lăn xuống đất. Đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở lưng ra trói chặt Lư Tuấn Nghĩa mà dong đi.
Được một lát đi đến chỗ khoảng giữa kê một cái án công, và có một người ngồi nghiêm chỉnh, trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở trên bãi cỏ trước chốn công đường, mà sắp sửa để tra hỏi. Chợt đâu lại thấy ngoài cửa có tiếng khóc vang trời, rồi người kia lại quát lên rằng:
- Có việc gì cứ cho cả vào đây.
Đoạn rồi thấy một tụi rất đông, vừa khóc vừa đi vào trong đó. Lư Tuấn Nghĩa trông lên thấy cả tụi Lương Sơn Bạc, một trăm lẻ bảy người đều trói tay đi đất, mà lướt xướt cùng kéo nhau vào quỳ ở đó. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, trong lòng lấy làm kinh lạ vô cùng.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ quỳ ở gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn khẽ hỏi Đoàn Cảnh trụ rằng:
- Cớ làm sao bắt được cả bọn ta đến đây thế?
Đoàn Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống Ca Ca biết Viên Ngoại bị bắt, không có kế gì cứu được, liền bàn với Quân Sư làm khổ nhục kế như thế, để quy phục với triều đình, thì mới có thể bảo toàn tính mạng cho Viên Ngoại được.
Cảnh Trụ vừa dứt lời, thì thấy người ngồi trên, vỗ tay xuống án mà mắng rằng:
- Quân cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệt đầy trời, mấy phen triều đình sai quân đến đánh, bay đều cự địch với cả quan quân, ngày nay lại còn giả trá kêu van, để mong tránh tội hay sao? Nếu ta tha cho chúng bay, thì còn lấy đâu pháp luật để trị thiên hạ nữa được? Vả chăng chúng bay là đồ gian tham phản trắc, ta không thể nào mà tin bay được. Đám quân binh của ta đâu?
Nói đoạn liền thấy hai trăm mười sáu người Hình Quan ở cạnh vách đổ ra, cứ hai người dìu một, mà đem tất cả bọn Tống Giang, một trăm linh tám người ra sân để chém.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy trên Công Đường có một cái bảng đề bốn chữ xanh "THIÊN HẠ THÁI BÌNH".
Lời bàn của Thánh Thán.
Một bộ sách bảy mươi hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi là kết thúc lớn lao, đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không còn chút nào cảm thấy chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu thêm, thấy còn xấu thêm ra nữa.
Hoặc có kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng? Hay là Tống Giang đặt ra giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ màng, tác giả tự viết ra, đến đây là hết, khéo đem họ tên một trăm linh tám người, nhất nhất bày trình ra, điểm nhởn kết huyệt trong bảy mươi hồi của bộ sách vậy? Xét bắt đầu từ Thạch Kệ, Kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn, kể việc thì 70 mươi hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách nầy còn việc đó người kia. Dù có hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì đọc giả can chi phải thắc mắc hỏi đến?
Họp 108 người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được họ, Chợt đâu khéo diễn một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án Trương Thúc Dạ thu đánh sau nầy cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó nữa coi như đánh lúc nào xong lúc bấy giờ. Chao ôi; quân tử xưa kia chưa rừng Tiểu Lâm cung thận như người xem xét sau nầy! Ta xem Thủy Hử đầy vẫy hàn vàn lời nói, rồi cũng phải lấy bốn chữ "Thái Bình Thiên Hạ" kết chung, thì thấy ý lắm vậy! Đời sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ tội của triều đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ "Trung Nghĩa" nêu cho họ, sau mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều, mà chẳng viết gì như thế nhỉ?
Những tên sau Thiên Cương, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm người, sao lại có án văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn làm sao dựng dậy Thi Nại Am mà hỏi cho ra.

HẾT
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn