Cột đồng chưa xanh (tt)
Mấy chục người trong phòng như chùng lòng xuống khi nghe kể về kết cục bi thảm của một vị đại tướng giàu lòng yêu nước, không thiếu tài thao lược mà phải chết oan uổng chỉ vì lỡ sống trong triều đại vua yếu tôi hèn. Ngừng một chút cho tâm tư lắng đọng, người họ Phạm ngậm ngùi tiếp:
_ Nỗi oan của Viên Sùng Hoán kéo dài hơn 100 năm. Trớ trêu thay, vị vua công bố sự thật và xuống chiếu minh oan cho ông lại là hậu duệ của đối thủ không đội trời chung của ông, tức là Hoàng đế Đại Thanh Càn Long, cháu đời thứ năm của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực.
Trong phòng giam vang lên nhiều tiếng tắc lưỡi thương tiếc. Rồi một người nói:
_ Quả là cả triều thần từ vua đến quan toàn bọn ăn hại. Người có công chống giặc cứu dân cứu nước thì bị xử, còn bọn ngồi trên chuyên vơ vét ăn của đút, giặc đến cửa chỉ biết chăm chăm dâng kế sách nghị hoà!
Lát sau một người lại hỏi tiếp:
_ Còn Niên Canh Nghiêu là ai thế, thưa Phạm tiên sinh?
_ Ông ta là đại thần triều Khang Hy. Nhờ em gái được tuyển làm trắc thất của Ung thân vương Tứ hoàng tử, lúc đó giữ chức Kỳ chủ Tương Hoàng Kỳ, là đạo kỳ thứ nhì, chỉ đứng sau Chính Hoàng Kỳ trong lực lượng Bát Kỳ Mãn Châu, gia tộc Niên trở nên vinh hiển, được cải thuộc Hán quân Tương hoàng kỳ, chính thức gia nhập hàng ngũ quý tộc Thanh triều. Bản thân ông làm tâm phúc cho Ung Thân Vương suốt một thời gian dài. Ông được phong Định Tây tướng quân, phò tá Phủ Viễn Đại tướng quân Thập Tứ hoàng tử dẹp loạn ở Tây Tạng. Do lập nhiều công trạng được thăng làm Tổng đốc Xuyên Thiểm. Khang Hy qua đời chỉ định cho Ung Thân Vương kế vị, tức là Thanh Thế Tông hay Ung Chính hoàng đế. Niên Canh Nghiêu ra sức phò tá tân quân dẹp tan sự đố kỵ và tranh chấp của các hoàng tử khác, nhất là Thập tứ hoàng tử Dận Trinh, bởi vì trong việc lên ngôi của Thế Tông có điều mờ ám nên nhiều người không phục.
Mọi người ồ lên ngạc nhiên:
_ Mờ ám như thế nào, Phạm tiên sinh kể rõ ra cho chúng tôi nghe được chăng?
Người họ Phạm chậm rãi đáp:
_ Thiên hạ đồn đãi rằng Khang Hy viết di chiếu truyền ngôi cho Thập Tứ hoàng tử Dận Trinh, nhưng Thế Tông đã âm mưu thay đổi di chiếu của vua cha bằng cách thêm một nét, sửa chữ “thập tứ” (十四) thành chữ “vu tứ” (于四, vu nghĩa là "cho"). Chứng cứ cho quan điểm này là dựa trên việc chữ “vu” (于) không được dùng rộng rãi trong suốt thời đại nhà Thanh, vì người ta thường dùng chữ “ư” (於). Tiếp đó, phong tục của nhà Thanh là di chiếu sẽ được viết cả bằng tiếng Mãn Châu và tiếng Hán, mà tiếng Mãn Châu khó viết hơn, trong trường hợp này việc sửa di chiếu có lẽ khó khăn hơn. Nhiều nghi ngờ dấy lên khi mà di chiếu viết bằng tiếng Mãn bị thất lạc đâu đó và di chiếu bằng tiếng Hán chỉ được ban bố hai ngày sau cái chết của Khang Hy. Người đọc di chiếu là Tổng đốc Bắc Kinh Long Khoa Đa và Ung Thân Vương đã ngầm liên kết với ông này từ trước để chuẩn bị quân đội kiểm soát Tử Cấm Thành và các vùng chung quanh để ngăn ngừa binh biến. Ung Chính bèn ra khẩu dụ đòi Thập Tứ hoàng tử đang giữ chức Phủ Viễn Đại tướng quân trấn thủ miền Tây bắc về kinh chịu tang để tước binh quyền.
Trong phòng lại vang lên nhiều tiếng xôn xao:
_ Thật là một tay cáo già nhiều thủ đoạn nhỉ? Không ngờ trong Thanh cung lại có nhiều điều bí ẩn vậy! Rồi sao nữa Phạm tiên sinh?
Ái Hoa
(còn tiếp)
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)
|