View Single Post
  #6  
Old 12-06-2012, 01:19 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Giang nam oán lục - hồi 10, 11

Giang Nam Oán Lục


Hồi 10

Khấp hồi sơn cốc ưu hương hoa
Nhất đáo Nghi Xương Độc giáo vong


Tuấn Hạc mang nặng nỗi thương tâm, dong ruổi suốt đêm, trưa hôm sau đã đến Thiên Ma Cốc. Chàng tần ngần đứng trước tòa tiểu đình, do dự không muốn cất tiếng gọi.
Chàng đến đây để nhờ vả vì đường cùng và với trái tim tan nát này, ân tình của Mạn Ngọc, Phương Phương sẽ gởi gấm vào đâu?
Nhưng Tiểu Bạch lại chẳng hề phân vân. NÓ rất thích vườn cây ăn trái trong sơn cốc này nên đã hú lên cao vút để gọi cửa.
Tiếng hú của Thần Viên khỏe mạnh khác hẳn với lũ vượn thường nên người trong cốc nhận ra ngay.
Một tỳ nữ lấp ló sau một tảng đá lớn, nhìn xem khách là ai. Nàng ta mừng rỡ rú lên:
- ôi chao! Công tử đã trở lại.
Tiếng cơ quan phát động vang lên ầm TLàn sương mù trong thạch trận biến mất.
Ả tỳ nữ chạy đến nghiêng mình bái kiến:
- NÔ tỳ là Đông Bách.
Nhận ra gương mặt hốc hác và đôi mắt sầu khổ của Tuấn Hạc, nàng kinh hãi hỏi:
- Công tử sao vậy?
Chàng gượng cười đáp :
- Tại hạ không còn chỗ để trở về nữa rồi. Mong cô nương vào báo với nhị vị tiểu thư rằng tại hạ muốn vào bái kiến.
Đông Bách xua tay:
- Bất tất phải bẩm báo. Mọi người trong cốc này đều hoan hỉ được gặp lại công tử.
Nàng xăng xái nắm dây cương dắt ngựa đi vào thạch trận. Con đường này không rộng và rất quanh co.
Đến bìa trận phía trong, nàng quay lại xô mạnh một tảng đá. Tức thì làn sương mù mịt lại hiện ra.
Đông Bách giải thích:
- Bọn nô tỳ sợ lão giáo chủ Thiên Sư Giáo đến nên phải đề phòng cẩn mật.
Lúc này, Mạn Ngọc, Phương Phương và mười bảy nữ tỳ kia đã ra đến. HỌ hân hoan chào đón và khựng lại trước sắc diện đau khổ của Tuấn Hạc.
Mạn Ngọc ấp úng:
- Chẳng hay công tử đã gặp biến cố gì?
Tuấn Hạc thở dài :
- Văn gia bảo đã bị cường địch tập kích đêm hai mươi bảy tháng giêng. Toàn gia gần hai trăm người không một ai sống sót Đám nữ nhân kinh hãi Oà lên. Phương Phương sa lệ hỏi:
- Công tử có đoán ra lai lịch hay không?
Tuấn Hạc bi phẫn đáp :
- CÓ lẽ là bọn Thiên Độc Giáo, Thiên Sư Giáo và Biến Hình Môn.
Chàng ngần ngừ một lúc, vòng tay nói:
- Tại hạ mạo muội cầu xin chư vị ra tay tương trợ, cho mượn Thiên Ma Cốc làm nơi huấn luyện cao thủ, hầu báo phục mối gia thù.
Phương Phương nghiêm giọng:
- Mong công tử chờ cho một lát, chị em tiện nữ sẽ cùng nhau bàn bạc.
Nàng kéo hết đám nữ nhân ra thật xa.
HỌ thì thầm, thương lượng gì đó rất mau chóng.
Thế rồi, cả bọn quay lại, nhất tề quỳ xuống trước mặt gọi:
- Cốc chủ"
Tuấn Hạc đang ngỡ ngàng không biết nói sao thì Mạn Ngọc mở lời:
- Bọn tiện nữ là những đứa trẻ mồ côi, không hề biết cha mẹ mình là ai. Nay Song Lão đều đã qua đời, chẳng lẽ bọn tiện nữ đành ru rú suốt đời trong Thiên Ma Cốc rồi chịu chết già hay sao? Nay, bọn tiện nữ đồng lòng làm tôi tớ cho công tử góp phần tiêu diệt bọn cường địch.
Nếu công tử không nhận lời, bọn tiện nữ sẽ quỳ mãi nơi này.
Tiểu tỳ Đông Bách là người tinh ranh, lém lĩnh nhất bọn, tiếp lời:
- Bọn nô tỳ học được kiếm pháp mười mấy năm nay, chẳng lẽ lại dành để giết gà? Mong công tử đưa bọn nô tỳ xuất đạo vẫy vùng cho thỏa chí. Còn hơn là quanh quẩn mãi chốn này.
Cả đám nhất tề khen phải. Tuấn Hạc nhìn đám thiếu nữ mặt hoa da phấn, tuổi trên dưới đôi mươi kia, chua chát bảo:
- Cuộc chiến tranh trước mặt cực kỳ hung hiểm, sinh tử khó lường. Tại hạ đâu nỡ đưa chư vị vào tử lộ?
Bọn nữ nhân đồng thanh nói:
- Chúng nô tỳ tự nguyện, chẳng màng đến chuyện sống chết.
Tuấn Hạc không còn được lựa chọn, đành gật đầu:
- Được! Chư vị đứng lên đi, tại hạ nhận lời Các nàng hân hoan đứng lên, đến trước mặt chàng nghiêng mình báo danh. Tất cả đều không có họ riêng, mà theo họ của Song Lão. Tên của mười tám nữ tỳ đặt theo tên của các loài hoa và thảo mộc:
Mâu Đơn, Trà Mi, Ngọc Lan, Hoàng Cúc, Thanh Huệ, Phong Trà, Thước Dược, Tử Trúc, Tường Vi, Hồng Đào, Hàn Mai, Hải Đường Bạch Lê, Nhược Liêu, Bạch Dương, Xuân Tùng, Thủy Sơn, Đông Bách.
Nhan sắc của họ tuy không bằng Mạn Ngọc và Phương Phương, nhưng nếu đem tiến cung thì chẳng giám khảo nào chê ca.
Sự có mặt của chàng công tử anh tuấn phi phàm Văn Tuấn Hạc đã đem lại sinh khí cho hai mươi xuân nữ cô đơn này. HỌ không mong chiếm hữu được nhưng ai cũng có quyền mơ mộng. Tuổi thanh xuân luôn khao khát có được một hình bóng để tôn thờ, để say đắm. Nếu không, cuộc sống của họ sẽ rất vô vị.
Hơn nữa, các bậc vương hầu, đại phú đương thời có rất nhiều tỳ thiếp, vì vậy họ lại càng hy vọng.
Mạn Ngọc và Phương Phương cũng chỉ là người cùng chung cảnh ngộ, nhờ may mắn nên được Song Lão sủng ái, nhận làm đệ tử chân truyền. Tình nghĩa giữa họ và đám nữ tỳ thân thiết như ruột thịt nên chắc cũng biết nghĩ đến chị em.
Ngay sáng hôm sau, Tuấn Hạc bắt tay ôn luyện võ công. Thấy vậy, các nàng cũng xách kiếm ra múa. Tuấn Hạc ngấm ngầm quan sát, nhận ra kiếm thuật của họ đều rất cao cường. CÓ điều bộ pháp không được minh khoái, như chưa hề luyện qua phép khinh công. Chàng hỏi thì Phương Phương đáp:
- Song Lão sợ bọn tiểu muội bỏ trốn nên đâu dám dạy khinh công.
Tuấn Hạc bèn đem khẩu quyết của pho Thiên Tinh Quá Hải ra truyền lại. Dưới ánh mắt nghiêm khắc và buồn rầu của vị cốc chủ đẹp trai, chẳng ai dám lười biếng ca.
Không hiểu họ đã bàn bạc với nhau thế nào mà đều đồng thanh xưng là tiểu muội. Tuấn Hạc hài lòng vì chẳng hề ưa hai tiếng nô tỳ.
Chàng đỡ băng khoăn khi thấy bản lãnh các nàng rất lợi hại. Nhất là khi họ chia thành từng cặp một.
Trong hai mươi nàng thì một nửa thuận tay trái. Đây chính là ý đồ của Song Lão.
HỌ đã nhờ đấu pháp Tả Hữu Hợp Kiếm này mà cầm đồng Tây Phật.
Nếu hôm trước, chàng không tinh ý nhận ra và dùng kế khích tướng để đơn đấu thì chưa chác đã qua khỏi hai trăm chiêu của Song Lão.
Mấy ngày sau, trong bữa ăn tối, Tuấn Hạc nghiêm giọng bảo mọi người:
- Tại hạ đã thức ngộ ra lẽ vô thường của nhân gian và hiểu rằng nước mắt chỉ là vô ích. Vì vậy, chư vị chớ nên vì tại hạ mà đánh mất niềm vui của chính mình.
Thời gian qua, hầu như chẳng ai dám cười cả khiến lòng này vô cùng áy náy.
Đông Bách dương đôi mắt to tròn linh lợi nói:
- Vậy hôm nay bọn tiểu muội sẽ múa vài điệu để công tử được khuây khỏa.
Tuấn Hạc thấy ánh mắt giọi người sáng rực niềm vui, không nỡ phụ lòng, đành gật đầu:
- Chư vị cứ tự nhiên.
Đám thiếu nữ này quen múa hát từ nhỏ nên đã thành thói quen, họ vui mừng được biểu diễn.
Đàn sáo vang lên và những cô gái xinh đẹp kia tận tình cống hiến những điệu múa ảo huyền, diễm lệ.
Tuấn Hạc gượng vui mà xem, nhưng qua những thân hình, những gương mặt kia, bóng dáng Tiểu Băng và Doanh Doanh hiện về. Chàng mở mắt nhưng hồn chìm đắm trong hoài niệm và thống khổ.
Tuấn Hạc luôn tay nâng chén và say mèm lúc nào không biết nữa.
Khi đám vũ nữ dừng lại thì Tuấn Hạc cũng gục xuống bàn. Mạn Ngọc và Phương Phương vội dìu chàng vào phòng riêng.
Hai nàng cùng cởi y phục chàng rồi dùng khăn nóng lau sạch mồ hôi.
Phương Phương tủm tỉm:
- Đại tỷ ở lại chăm sóc công tử, tiểu muội về phòng đây.
Mạn Ngọc đỏ mặt, nắm tay giữ lại:
- Không được ! Nhị muộ cũng phải ở lại Cuối canh ba, Tuấn Hạc tỉnh rượn thì nhận ra hai nữ nhân đang ngồi dưới đất, gối đầu vào mép giường mà ngủ. Chàng nhẹ nhàng bước xuống, ngồi bên kỷ trà, uống vài chung cho đỡ khát. Chàng nhìn khuôn mặt khả ái của hai nàng, lòng xót xa vô hạn. Trái tim chàng đã chết theo Tiểu Băng và Doanh Doanh.
Chàng biết họ yêu chàng và mai đây sẽ theo chàng vào chốn rừng gươm biển giáo. Chàng lấy tư cách gì để chiếm đoạt cuộc sống bình yên quý giá của họ?
Chàng có gì để đền bù cho họ?
Tuấn Hạc bỗng thức ngộ rằng mình đã sai lầm. Chàng không có quyền vì mối gia thù mà lôi kéo người khác vào chỗ chết. Bọn đệ tử Cái Bang thì khác, họ là người của giang hồ và mang nặng trên vai mối thù của tứ trưởng lão Cù Sở Hòa.
Bỗng Mạn Ngọc trở mình thức giấc.
Nhận thấy Tuấn Hạc đang uống trà, nàng hổ thẹn lay Phương Phương dậy, hai nàng đỏ mặt sửa lại xiêm y rồi cáo từ.
Tuấn Hạc ngăn lại, buồn rầu nói:
- Ngày mai tại hạ sẽ rời Thiên Ma Cốc, tìm chỗ khác đào tạo thủ hạ. Chư vị còn quá trẻ tuổi xuân còn dài, không nên dự phần vào ân oán giang hồ.
Hai nàng thảng thốt sa lệ nói:
- Công tử đừng đi "
Phương Phương nức nở:
- Nếu công tử dứt áo ra đi xin cho bọn tiểu muội được làm người bảo toàn tông mạch họ Văn. Đứa bé kia sẽ là niềm an ủi cho phận hồng nhan bạc bẽo, nơi chốn quạnh hiu này.
Mạn Ngọc cũng gật đầu sướt mướt:
- Mong chàng đừng chê bỏ, chị em thiếp chỉ dám cầu xin có thế thôi.
Tuấn Hạc choáng váng vì mối chân tình và cũng vì vấn đề tông tự. Chàng đã quên bẵng đi việc mình là hậu duệ duy nhất của Văn thừa tướng.
Quan niệm bất hiếu hữn tam, vô hậu vi đại,, được nho gia nên Tuấn Hạc không dám lơ là.
Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Cảm tạ hai nàng đã nhắc nhở. Tại hạ không biết lấy gì mà đền đáp mối ân tình này.
Biết chàng đã chấp thuận, hai nàng mừng rỡ sụp xuống :
- Tiện thiếp bái kiến tướng công.
Tuấn Hạc xót xa đỡ họ lên xiết chặt vào lòng.
Phương Phương thỏ thẻ:
- Việc chàng chung thủy với vong thê, không ngó ngàng gì đến người khác, chỉ khiến bọn thiếp thêm ngưỡng mộ.
Tuấn Hạc ôm người đẹp trong tay mà lòng nặng trĩu đau thương, chẳng xao xuyến chút nào .
Phương Phương liếc yêu:
- Tướng công trơ như đá thế này, làm sao mau có người nối dõi được.
Nàng bèn đi về phía bàn, róc một chung trà bưng đến:
- Tùng ngộ nhi an là đạo thánh nhân.
Kiếm vốn để giết người nhưng cũng có thể con người, tướng công uống đi.
Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, hiểu ngay trong chén trà có Xuân Dược.
Nhưng chàng cũng thầm khen Phương Phương khéo biện luận.
Uống cạn chén nước, Tuấn Hạc nghe lửa dục bùng lên. Chàng thầm tạ lỗi với vong linh Tiểu Băng và Doanh Doanh rồi quạt tắt đèn.
* * *
Trong bữa điểm tâm sáng hôm sau, chỉ cần nhìn hai gương mặt rạng rỡ như hoa đào của Mạn Ngọc và Phương Phương là đám tỳ nữ đã đoán ra nội tình. HỌ xúm lại chúc mừng và gọi hai người là cốc chủ phu nhân.
Tuấn Hạc vô cùng hổ thẹn với vong thê nói lảng sang chuyện khác:
- Ta có hẹn với một đệ tử Cái Bang là xảo Thủ Cái. Các nàng phải thường xuyên ra cửa cốc xem gã có đến hay không.
Phương Phương hỏi ngay:
- Bẩm tướng công! Chẳng hay Xảo Thủ Cái đến đây với mục đích gì?
- Ta muốn nhờ gã hóa trang, biến thành Thiên Ma đại lão Đinh Sơn Giáp. CÓ như thế mới mong che mắt được giáo chủ Thiên Sư Giáo. Lão ta nhất định sẽ đến đây để đòi mua Hàn Ngọc Thần Trượng.
Mạn Ngọc nũng nịu nói:
- Sao tướng công không nói sớm?
Thiếp và Phương muội cũng tinh thông nghề dịch dung.
Phương Phương cướp lời:
- Ngoài ra, tướng công còn phải học thuộc thân thế, sự nghiệp cũng như bắt chước phong thái của lão ta. Vì đại cốc chủ cũng là bạn đồng liêu của Trương Tỳ Vân. Trước đây, hai người ấy cùng là thủ hạ thân tính của Minh Thái TỔ Chu Nguyên Chương.
Tuấn Hạc ngỡ ngàng hỏi lại:
- Thế sao Đinh lão lại không ở lại triều đình mà hưởng vinh hoa phú quý?
Phương Phương cười dáp:
- Cũng như Trương Thiên Sư, Đinh lão hiểu rõ tâm địa của Thái TỔ nên rút lui ngay. Thiên Tử đã ban cho lão hai vạn lượng vàng và chức BỐ Y Hầu kiêm chức Trấn VÕ Thái Bảo. Yù của Thái TỔ là dùng Đinh lão để trấn áp các phái võ lâm. ông ta sợ có ngày họ làm phản, khôi phục nhà Tống.
Tuấn Hạc cau mày:
- Với uy quyền to lớn như vậy, sao không thấy Đinh lão đại dương danh võ lâm mà lại giấu mặt nơi sơn cốc này?
Mạn Ngọc ứng tiếng:
- Song Lão bị chứng vô sinh nên chỉ lo việc chữa trị, hầu có những nối dỗi. HỌ đến tận Miêu Cương tìm loại âm Dương Thảo, đem về Thiên Ma Cốc trồng cạnh suối nước nóng. Loại cỏ quý này có tác dụng bồi bổ nguyên dương và chữa được chứng vô sinh. Nhưng đã mấy năm rồi mà không có kết quả gì.
Tuấn Hạc nhớ lại Y Kinh, lắc đầu bảo:
- HỌ lầm rồi. Phải nấu chung với đậu đen mới có tác dụng.
Sau đó Mạn Ngọc đưa các nàng ra vườn luyện võ, còn Phương Phương đưa Tuấn Hạc vào thư phòng.
Nàng đem ra một tập sách dày:
- Tướng công! Đây chính là quyển hồi ức của Đinh lão đại. Trong này, lão ta ghi chép tỉ mỉ mọi việc xảy ra trong đời.
Chàng cứ yên tâm nghiên cứu, việc chế tác mặt nạ đã có thiếp lo liệu.
Tuấn Hạc mãi mê đọc, không để ý rằng mình đã uống cạn một bình trà lớn có mùi đậu đen là lạ.
Hôm sau, chàng lại xem đến quyển Thiên Ma Bảo Lục. Muốn giả dạng họ Đinh thì phải biết chút ít võ công của lão.
Hàng đêm, lúc chàng tắt đèn hai mỹ nhân mới vào phòng. Trong bóng tối, Tuấn Hạc đỡ hỗ thẹn hơn, cùng họ ái ân say đắm. Sáng ra, khi chàng thức giấc thì họ đã rời phòng.
Sau nửa tháng trời, chàng nhận ra cơ thể mình sung mãn hơn trước, dù đêm đêm vẫn phải làm công việc duy trì nòi giông.
Mặt nạ đã chế xong, Tuấn Hạc đã thuộc làu tiểu sử và hành vi của Đinh Sơn Giáp. Chàng được các nàng hướng dẫn tận tình nên phong thái họ Đinh không sai một nét.
Mạn Ngọc cười bảo:
- Giờ đây, tướng công có thể đưa bọn thiếp đi khắp thiên hạ được rồi. Với vai trò Trấn VÕ Thái Bảo, bất cứ môn phái nào cũng phải mở cửa nghênh đón.
Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, hôn lên trán nàng:
- Ngọc muội giỏi lắm. Yù kiến của nàng rất tuyệt diệu.
Vào cuối tháng hai, HỒ Diện Cái đưa một trăm đệ tử Cái Bang đến Thiên Ma Cốc Tuấn Hạc nôn nóng hỏi ngay:
- các hạ có dò la ra tin tức gì không?
- Bẩm trưởng lão, bang chúng ở Giang âm, Nghi Xương, ôn Châu đều xác nhận ba bang hội kia có sự điều động nhân lực hồi giữa tháng giêng. Còn về kế hoạch tung hỏa mù thì bổn bang đã thực hiện xong. Giờ đây, thiên hạ đều tin rằng Văn nhị công tử vì quá đau đớn nên đã đâm cổ rồi nhảy xuống Trường Giang tự vẫn.
Nhờ vậy lực lượng mai phục ở Lư Lăng đã rút đi gần hết.
Tuấn Hạc nghe xong, hỏi thêm:
- Cục diện võ lâm hiện nay thế nào?
Luân Hồi Ma Cung và Thiên Độc Giáo có tương sát hay không?
- Bẩm trưởng lão! Ma Cung đã ba lần tấn công Thiên Độc Giáo ở Nghi Xương nhưng đều thất bại. Gần đây, Biến Hình Môn đã đến tăng cường cho ôn giáo chủ nên Luân Hồi Đế Quân kém thế, không dám xuất quân nữa. Chủ yếu là do chất độc của đối phương quá lợi hại.
Tuấn Hạc liền triệu tập mọi người rồi tuyên bố ý định của mình:
- Anh em Cái Bang sẽ ở lại Thiên Ma Cốc để rèn luyện pho kiếm pháp Tả Hữu Hợp Kiếm, dưới sự hướng dẫn của hai mươi nữ nhân kia. Phần ta sẽ cải trang đến Hợp Phì giúp Ma Cung tiêu diệt Thiên Độc Giáo. Cù Y Thảo sẽ theo ta để lo việc liên lạc.
xảo Thủ Cái là một hán tử tam tuần nhỏ bé, mắt lớn, mắt nhỏ. Gã cung kính nói:
- Thuộc hạ xin được theo hầu để giúp trưởng lão dịch dung khi cần thiết.
Phương Phương cười nhạt:
- Tài nghệ các hạ được bao nhiêu mà dám múa môi. Ta đi theo tướng công mới là phải đạo.
Xảo Thủ Cái cười hề hề:
- Té ra phu nhân cũng là cao thủ trong nghề. Thuộc hạ đành phải rút lui.
Phương Phương bước ra tươi cười bảo:
- Chắc các hạ không phục chứ gì?
Dứt lời, nàng đưa tay vuốt mặt, lập tức biến thành người khác. Trong vòng nửa khắc nàng thay diện mạo đến tám lần khiến mọi người phục lăn.
Xảo Thủ Cái le lưỡi bái phục:
- Thuộc hạ xin tâm phục.
Phương Phương đến bên Tuấn Hạc nũng ri!u nói:
- Mong tướng công cho thiếp đi theo cùng. Tử nhỏ đến giờ, thiếp chưa lần nào ra khỏi dãy Hoàng Sơn này.
Mạn Ngọc cũng nói:
- Thiếp còn được đi theo Song Lão đi Miêu Cương, chứ Phương muội suốt đời chỉ ru rú trong sơn cốc. Hơn nữa, có Phương muội tháp tùng, đối phương sẽ ít nghi ngờ hơn.
Con người nào phải gỗ đá mà không biết rung động? Con tim chai đá của Tuấn Hạc cũng phải mềm đi vì ánh mắt thiết tha của Phương Phương. Chàng gật đầu ưng thuận:
- Thôi được! Phương muội sẽ đi theo Năm ngày sau, một cỗ xe song mã xuất hiện trước cửa Hợp Phì đệ nhất khách điếm.
Thượng khách là một cặp phu thê quyền quý. Nam nhân tuổi độ năm mươi, mặt trắng như ngọc, râu ba chòm đen nhánh Còn nữ nhân kia chỉ mới hơn nhị thập da hơi ngăm ngăm nhưng dung mạo diễm lệ phi phàm.
Chỉ nhìn hai bộ y phục bằng tơ lụa thượng hạng và những viên bảo ngọc lấp lánh trên đầu nữ nhân cũng đủ biết họ thuộc hàng đại phú.
Bọn tiểu nhị khom lưng tươi cười mời thần tài vào. Khách điếm này sang trọng bậc nhất Huy Châu, giá mướn phòng cũng mắc đến đau ruột, nên chỉ có bậc quan quyền và đám lái buôn giấy mực giàu sụ là dám vào mà thôi.
Gã xà ích lái xe lúc nãy cũng là võ sĩ hầu cận. Gã giao xe cho bọn tiểu nhị rồi bước vào nói với chưởng quỹ:
- Thương đại thiếu gia và phu nhân ở Cảnh Đức trấn.
Chỉ cần khai báo như vậy là đủ, ở Cảnh Đức trấn chỉ có một Thương gia trang Phú Xương Địch Quốc.
Gã xà ích nói tiếp:
- Lão hãy cho dọn hai phòng thượng hạng liền nhau. à, còn ta là HỒ Thảo, võ sĩ hộ viện.
Dù luật triều đình đã quy định là khách trọ phải trình thẻ thuế thân, nhưng chỉ có các khách điếm hạng trung hoặc bình dân là thực hiện. Còn ở những nơi mà vàng bạc ngự trị thì thẻ thuế thân là những xấp Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, hoặc những thỏi vàng lấp lánh.
Tuy Minh Thái TỔ đã cấm dùng vàng bạc để thanh toán, nhưng trong thực tế, người dân Trung Hoa vẫn ngấm ngầm sử dụng. HỌ tin tưởng vào những thỏi kim loại bền chắc kia hơn là những tờ giấy mỏng manh, dễ bị hủy hoại. Trung Hoa là đất nước loạn lạc liên miên, nhà cửa đa số có kết cấu bằng gỗ. Nếu tích trữ tiền giấy thì có ngày đi ăn mày.
Vì vậy đôi mắt lão chướng quỹ sáng rực lên khi nghe tiếng vàng bạc khua nhẹ trong đống hành lý của thượng khách.
Ngay sau bữa cơm trưa, HỒ hộ viện rời khách điếm, đi đến tối mịt mới về, gã vào phòng chủ nhân thì thầm bàn bạc gì đó.
sáng ra, dùng điểm tâm xong, phu thê Lương đại thiếu gia đủng đỉnh che dù đi dạo. Khi đến trước tòa Thiên Hương đại tửu lâu họ ghé vào. Đến tầng ba, hai người mới chịu an tọa. Trời còn khá sớm nên tửu khách chẳng được mấy người.
Uống rượn vào giờ này chỉ có những kẻ nghiện ngập hoặc đám đệ tử của Trích Tiên Lý Bạch. họ Lý bao giờ cũng vừa uống rượn, vừa làm thơ.
Quả nhiên, ở đây cũng có một kẻ say thơ ĐÓ là công tử Tần Thái Bách. Gã ngồi sát lan can, ngắm làn mưa phùn đang phủ mờ cảnh vật Hợp Phì.
Thái Bách cạn liền ba chung mà không tìm ra thi tứ, đành mượn bài Thanh Minh của Đ Oá Mục đời Đường :
"Thanh minh thời tiết vụ phân vân LỘ thượng hành nhân dục đoạn hồn Tá vấn tửu gia. hà xứ hữu Mục đồng dao chí Hạnh Hoa thôn." (Dịch thơ) "Thanh minh lất phất tiết mưa phùn Khiến khách đường xa thấm nỗi buồn Quán rượu đâu đây, nhờ mách hộ Mục đồng xa chi Hạnh hoa thôn." HỌ Tần đắc ý, tự thưởng mình một chung rượn. Bông từ bàn bên vang lên tiếng ngâm sang sảng. Đây là bài Khiến Hoài cũng của ĐỖ thi sĩ:
"Lạc phách giang hồ tái tửu hành, Sở Yên tiên tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng, Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh." (Dịch thơ) "Lang bạt giang hồ chén chén nhanh, Lưng ong gái múa giữa tay mình.
Dương Châu chợt tinh mười năm mộng, Được tiếng lầu xanh gã bạc tình." Tần Thái Bách nghe xong cười ha hả đứng lên vòng tay nói:
- Không ngờ lão huynh cũng là bậc nhã sĩ Tiểu đệ là Tần Thái Bách, xin phép được với cao.
Gã là kẻ chỉ biết sống vì thơ, coi nhẹ của cải và mọi thứ trên đời, nên bưng chén bước ngay sang bàn của khách.
Tuấn Hạc tươi cười :
- Tại hạ là Phương Sơn Lâu. Còn đây, thuyết thê Đinh Phương Phương. Mời công tử an tọa.
Thái Bách chỉ nhìn qua, vòng tay chào mỹ nhân rồi ngồi xuống. Gã chẳng cần hỏi lai lịch, say sưa nói ngay:
- Mùa thu năm ngoái, tiểu đệ được may mắn hạnh ngộ với một bậc anh hùng trong thi đàn, hai bên ngâm vịnh vô cùng tương đắc. Nay phải chăng lại gặp được tri âm?
Gã nâng chén mời rồi ngâm nga:
"Kim nhật hoa tiềm ẩn, Cam tâm túy sở bôi." Đây là hai câu đầu trong bài ngũ ngôn tứ tuyệt ầm Tửn Khán Mẫu Đơn của Lư Vũ Tích. Quả thực dưới vườn dưới kia có vài khóm mẫu đơn đang khoe màu sắc.
Tuấn Hạc mỉm cười đọc tiếp:
"Khả liên nhật mộ yên hương lạc, Giá dữ xuân phong bất dụng môi." Hai câu này tuy là thất ngôn nhưng ý tứ cực kỳ thích hợp, vần điệu không chê vào đâu được Yù cả bài là:
"Nay nhắp chén bên hoa.
CỐ say lấy vài ly.
Thương thay chiều tối tìm hương sắc, Chàng gió đông nào mối lái chi?" Tần Thái Bách vỗ đùi, vòng tay bái phục:
- Tôn huynh quả là bậc tài hoa xuất chúng, chỉ trong sát na đã tìm ra hai câu trong bài Nam Viên của Lý Hạ. Tiểu đệ tự thẹn không bằng được.
Bỗng gã lộ vẻ nuối tiếc:
- Giá mà Van nhị công tử còn sống thì Thái Bách tôi đâu cô đơn đến thế này.
Không ngờ một kẻ có tài bảy bước làm thơ lại bạc mệnh như thế.
Tuấn Hạc cảm động nói:
- Tại hạ xin thay họ Văn để làm bạn văn chương với công tử có được chăng?
HỌ Tấn gượng cười :
- CÓ lẽ không nên, tiểu đệ là người xui xẻo bất tường, kết giao với ai cũng chỉ làm hại người ấy mà thôi.
Tuấn Hạc mỉm cười, nhìn vào mắt gã ngâm khẽ:
"Ngô cung hoa thảo mai u kính, Tấn đại y quan thành cỗ khâu." Thái Bách giật mình nhìn chăm chú gương mặt người đối diện, như cố tìm một bóng hình trong quá khứ. ánh mắt, nụ cười kia nào có xa lạ gì? HỌ Tần run giọng:
- Văn công tử đấy ư?
Tuấn Hạc gật đầu, đưa tay gỡ nhanh mặt nạ. Gương mặt thực chỉ lộ ra trong khoảnh khắc nhưng cũng đủ để Thái Bách nhận ra cố nhân. Gã vui mừng khôn xiết siết chặt tay chàng thì thầm:
- Túc hạ làm ta đau xót đến đứt ruột đi được Tuấn Hạc nghiêm giọng:
- Tại hạ mang nặng huyết thù, đành phải giả chết để chờ ngày báo phục. Lần này đến đây, trước là thăm Tần huynh, sau có việc muốn nhờ cậy.
Thái Bách sốt sắng nói:
- Tại hạ đã xem công tử như tri kỷ, dẫu việc to tát đến đâu cũng chẳng từ nan.
Tuấn Hạc mời cạn chén tương phùng rồi mới hỏi:
- Tần huynh đã tỏ lai lịch của mình chưa?
Thái Bách tư lự đáp :
- sau khi ở đại hội Hoa Sơn về đến nhà tại hạ đã hỏi thẳng gia phụ. Người xác nhận rằng Luân Hồi Đế Quân chính là gia tổ . . .
Tuấn Hạc giật mình:
- Lệnh tôn được bao nhiêu niên kỷ?
- Gia phụ mới hơn năm mươi.
Thái Bách nói tiếp:
- Người cam đoan gia tổ không phải là tai sai của Triều Nguyên, mà ngược lại còn là thủ hạ của Minh Thái Tổ. Lúc cuộc kháng chiến kháng Mông sắp thành công thì gia tổ hy sinh. Vì vậy, Ma Cung cũng thoái xuất giang hồ. Còn bốn vị điện chủ bỏ sang Mông CỔ để tìm bản đồ kho báu.
Mười năm trước, họ trở lại Trung Nguyên, yêu cầu gia phụ trùng hưng Ma Cung. HỌ bảo rằng đó là di chí của gia tổ.
Gia phụ đồng ý trở thành Luân Hồi Đế Quân - đời thứ hai . Nhưng khi Ma Cung lớn mạnh, tứ vị điện chủ kia dùng quyền cố mệnh, lấn áp cung chủ. Gia phụ chán nản, để mặc họ tung hoành, không dể ý đến sự vụ Ma Cung nữa.
Nhân lúc Thái Bách thấm giọng bằng một chung rượn ngon, Tuấn Hạc hỏi gã:
- Vậy lệnh tôn có nói vì sao lại chấp nhận cho Tần huynh ra tranh chức minh chủ hay không?
Thái Bách cười đáp :
- Thực ra, trong bốn vị điện chủ kia có một người rất trung thành với gia phụ-.
ĐÓ là Nam điện điện chủ hay Đào Hoa Khuê Chủ Hồng Hợp Khuê. Hồng lão có chân trong ban giám đài nên hứa sẽ bảo đảm thắng lợi và an toàn cho tại hạ. Hôm ấy khi công tử uy hiếp Bách này, lão đã ngấm ngầm phóng một mũi độc châm vào lưng để giải cứu. Nhưng không hiểu sao lại chẳng có tác dụng?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Tại hạ cũng đã biết điều ấy, nhưng không rõ ai đã xuất thủ?
Thái Bách kể tiếp:
- Nhờ lời tố cáo của công tử nên âm mưu của Đông điện điện chủ bị vạch trần.
Lão ta liền cùng Tây điện điện chủ trốn ngay về Nghi Xương. Còn Bắc điện điện chủ là một lão già ngốc nghếch, ba phải, chẳng có tâm cơ gì, do bị hai lão kia lôi kéo nên mới dự phần. Nhưng thực tâm lão không hề nghĩ đến chuyện tạo phản nên đã nhận lỗi với gia phụ. Hiện nay, hai lão Nam, Bắc điện chủ kia đang sát cánh với gia phụ để tiêu diệt Thiên Độc Giáo.
Tuấn Hạc đã nắm rõ nội tình, liền nói thực :
- Mong Tần huynh tiến cử tại hạ với lệnh tôn để Hạc này có cơ hội báo phục mối huyết cừn. Thiên Độc Giáo và Biến Hình Môn chính là hai trong bốn hung thủ đã thiêu hủy Văn gia bảo.
Thái Bách gật đầu ngay:
- chuyện ấy không khó, Bách tôi có thể làm được. Nhưng xin hỏi ngoài hai bang hội kia, còn kẻ nào đã nhúng tay vào máu?
Tuấn Hạc nghi ấn răng đáp :
- Nếu tại hạ đoán không sai thì chúng là bọn Thiên Sư Giáo và Khuất gia trang.
Tần Thái Bách chính sắc nói:
- Tại hạ còn sống đến nay là nhờ công tử và Văn bảo chủ. Bách tôi sẽ đưa công tử đến HỒ Quảng. Lực lượng Ma Cung đang đóng ở một căn cứ bí mật, cách Nghi Xương hơn trăm dặm.
(Đầu đời nhà Minh, HỒ Bắc và HỒ Nam được gọi chung là HỒ Quảng.) * * *
Đêm cuối tháng ba, vùng trung du Trường Giang lất phất mưa phùn, nên ngàn sao tắt lịm, trời tối đen như mực.
Phía sau ngọn đồi thấp cạnh bờ Bắc Trường Giang - cách Nghi Xương vài dặm về phía Đông, xuất hiện năm trăm kiếm thủ mang mặt nạ gỗ. Mục tiêu của họ là tổng đàn Thiên Độc Giáo trên đỉnh đồi Ba lần trước, đoàn quân này không có cách vượt qua khu rừng đầy độc dược độc vật nên phải đánh thẳng vào cổng chính.
Chưa lên đến đỉnh đồi họ đã phải rút lui vì thương vong quá lớn. Đối phương phục sẵn trong rừng cây hai bên đường, dùng cung nỏ, ám khí mà tấn công.
Nhưng đêm nay, họ vào bằng lối phía sau, xuyên qua khu rừng rậm rạp và nguy hiểm. Thiên Độc Giáo Chủ tự hào mình là cao thủ số một của Độc Môn nên cho rằng không ai giải được chất kỳ độc trong khu rừng. Do đó, lực lượng phòng vệ phía sau rất mỏng.
Dẫn đầu đoàn cao thủ Ma Cung là một người không mang mặt nạ gỗ mà bịt mặt bằng khăn vải đen. Kế đó là Luân Hồi Đế Quân cùng hai vị điện chủ. Đế Quân đeo tấm mặt nạ bằng vàng óng ánh.
ĐAU giáo chúng Thiên Độc Giáo cũng ỷ y nên xúm lại đánh bài, uống rượn dưới hiên những căn nhà gỗ. Chúng chẳng tội gì tuần tra trong một đêm lạnh lẽo và ướt át như thế này.
Chỉ trong chớp mắt, bốn mươi tên giáo chúng biến thành những cái xác không hồn. Đoàn quân Ma Cung nương theo bóng đêm tỏa ra, vây chặt lấy những cơ ngơi của tổng đàn. Những túi dầu trên vai họ được lấy xuống, rưới vào những bức vách gỗ.
Khi nghe tiếng huýt sáo, các nơi đồng thời châm lửa. Dù trời mưa lất phất nhưng chất dầu kia vẫn bốc cháy bừng bừng.
Đây chính là loại dầu mỏ khai thác từ lòng đất, nó được gọi bằng nhiều tên:
Thạch Du, Thạch Tất (Sơn đá) Thạch Chi Thủy (nước mở đá) .
Vào thời nhà Hán, người Trung Hoa đã phát hiện và khai thác mỏ dầu lửa đầu tiên ở huyện Cao NÔ thuộc Tượng Quận - tức Diên Châu ngày nay. Đến thời nhà Minh, họ đã biết cách lọc dầu mỏ để thắp đèn.
Cho nên, chưa đầy nửa khác, ngọn lửa đã lan tràn khắp tổng đàn Thiên Độc Giáo. Tiếng quát tháo hòa với tiếng kêu cha gọi mẹ vang dậy đêm trường. Trong cơn hoảng loạn, bọn giáo chúng mất cả dũng khí và trở thành mồi ngon cho bọn kiếm thủ Ma Cung.
Thiên Độc Giáo Chủ ôn Thiếu Bảo, Giang Lăng Thần Nữ, Đông điện chủ, Tây điện chủ cùng các cao thủ đầu não quát vang, cố điều động thuộc hạ chống chọi. HỌ đang ngủ say nên y phục chẳng chỉnh tề chút nào cả.
Luân Hồi Đế Quân ngửa cổ cười vang dội:
- ôn Thiếu Bảo! Chắc lão không ngờ có ngày hôm nay chứ gì?
Dứt lời, ông cùng các đại cao thủ Ma Cung ập vào tấn công.
Người áo đen bịt mặt kia không tham chiến mà tiến thẳng về phía thạch lao ở mé hữn tổng đàn. Trên đường tiến của gã có đến mấy chục tên giáo chúng vong mạng vì lỡ dại cản đường.
Đến nơi, Mông Diện Nhân vung kiếm chặt đứt khóa sắt, đạp cửa nhảy vào. Gã nhô cây đuốc trên vách, chạy dọc dãy lồng sát, tíu xem có ai không?
Đến lồng cuối cùng, gã mừng rỡ nhận ra có một tù nhân áo đen đang nằm sóng soài trên Oå rơm. Nhìn vóc dáng gầy nhỏ, có thể đoán được đó là một nữ nhân.
Người bịt mặt vung kiếm phá khóa lồng, đến lật ngửa người ấy lên xem thử.
Gương mặt nạm đen vằn vện kia là của ôn Tiểu Băng. Người bịt mặt chính là Tuấn Hạc, chàng ôm chặt lấy ái thê vừa khóc vừa gọi:
- Tiểu Băng! Tiểu Băng! Ta đến cứu nàng đây"
Nhưng Thiên Độc Thánh Nữ vân hôn mê trầm trầm, không hề tỉnh lại.
Tuấn Hạc kinh hãi thăm mạch rồi mớm cho nàng năm viên linh đan. Chàng cởi thắt lưng, cột chặt Tiểu Băng vào lưng mình rồi cõng ra ngoài.
Đôi mắt chàng sáng rực lửa căm hờn nhưng ẩn chứa niềm hạnh phúc. Chàng chỉ vào tìm cầu may, không ngờ lại cứu được người mình yêu quý nhất đời .
Chàng không ngó ngàng gì đến cuộc chiến giữa Ma Cung và Thiên Độc Giáo, chỉ mong sao đưa ái thê đào thoát an toàn. Do đó, Tuấn Hạc xuất thủ cực kỳ ác độc không để một tên nào có cơ hội phản kích. Thanh trường kiếm loang loáng dưới ánh lửa hồng trông như lưỡi hái đẫm máu của tử thần.
Với pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải, Tuấn Hạc lướt đi như bóng dơi đêm, triệt hạ tất cả những vật cản trên đường.
Cuối cùng chàng vào được khu rừng phía sau đồi, thoát ra ngoài.
Tần Thái Bách không tham chiến, đứng giữ đàn ngựa cách chân đồi hơn dặm. Gã nhận ra chàng, thảng thốt hỏi ngay:
- Công tử cõng ai trên lưng vậy?
Tuấn Hạc nghẹn ngào đáp :
- Tại hạ may mắn tìm thấy thuyết thê ôn Tiểu Băng trong thạch lao. Quả trời cao có mắt, tại hạ phải đưa nàng về căn cứ ngay.
Thái Bách hớn hở nói:
- Xin chúc mừng công tử! Tại hạ sẽ hộ tống nhị vị.
Gã giao đàn ngựa cho mấy tên đệ tử Ma Cung rồi cùng Tuấn Hạc đi ngay.
Trên đường đi, Thái Bách nói với giọng đầy hy vọng:
- Tại hạ cho rằng nếu Thánh Nữ thoát chết thì những người khác trong Văn gia bảo cũng có thể vẫn còn sống.
Tuấn Hạc phấn khởi đáp :
- Tại hạ cũng nghĩ như thế, Vạn Bác HỒ Tinh là người đa mưu túc trí, thông tuệ tuyệt luân, lẽ nào không có cách đưa mọi người đào thoát an toàn?
Mặt trời vừa lên được một sào thì bọn Tuấn Hạc về đến căn cứ bí mật của Ma Cung.
Cơ ngơi này nằm sâu trong một khu rừng rộng, gồm nhiều dãy nhà gỗ.
Phương Phương và HỒ Diện Cái nghe tiếng vó ngựa dồn dập phi vào, vội chạy ra xem. HỌ đang nóng ruột lo lắng cho Tuấn Hạc .
Chàng ôm Tiểu Băng tung mình xuống đất vui vẻ nói :
- Phương muội ! Trời còn thương nên ta còn tìm được Tiểu Băng.
Phương Phương là người hào sảng, rộng rãi như nam nhân nên thật tình mừng rỡ:
- ôi chao ! Sao mà may mắn thế "
Tướng công mau đưa ôn đại thư vào phòng cho thiếp săn sóc.
Tuấn Hạc bồng Tiểu Băng vào phòng của mình, đặt nàng xuống giường.
Phương Phương nhìn rõ gương mặt nam đen, xấu xí, giật mình kinh hãi.
Nàng quay sang bảo Tuấn Hạc:
- Thiếp cứ ngỡ ôn đại thư là bậc tiên nữ giáng phàm nên ngày đêm tướng công thương nhớ, không ngờ người lại xấu xí như vậy Tướng công quả là bậc kỳ nam tử hiếm có trên đời.
Mắt nàng rực rỡ niềm yêu thương và ngưỡng mộ.
Tuấn Hạc buồn bã nói:
- Nhan sắc nữ nhân như hoa sớm nở tối tàn! Chỉ có tình yêu là đáng trân trọng mà thôi Tiểu Băng vì ta mà chịu biết bao tai họa rồi. Lần này, nàng bị Thiên Độc Giáo Chủ hạ thủ, biết có thể hồi phục được hay không? Ta thuộc làu Y Kinh của ân sư, nhưng lại chẳng có chút kinh nghiệm nào về dược thảo và bệnh chứng.
Chàng ngồi xuống chẩn mạch, vạch mắt xem xét và cởi cả y phục nàng ra, nhưng không tìm thấy manh mối. Phương Phương vào nhà sau bưng lên thau nước ấm, lau mình cho Tiểu Băng và thay y phục sạch.
Trưa hôm ấy, Luân Hồi Đế Quân dẫn thủ hạ về đến. ông phấn khởi nói:
- Nhờ có thuốc giải độc của Văn công tử mà chúng ta đại thắng trận này. Trừ ôn giáo chủ và Giang Lăng Thần Nữ, không một ai thoát chết cả. Lão ta nhờ có Thiên Độc Thần Châu hộ thân nên bổn tòa không ngăn cản nổi.
Tuấn Hạc gượng cười :
- Xin chúc mừng cung chủ.
Đế Quân cười bảo:
- Bổn tòa cũng xin chúc mừng công tử đã cứu được ái thê Tuấn Hạc buồn rầu đáp :
- Thuyết thê đã bị ôn lão hạ kỳ độc.
Tại hạ đã tận lực mà không sao tìm ra bệnh lý.
Nam điện điện chủ tức Đào Hoa Khê Chủ nói :
- Lão phu cũng biết chút y thuật nhưng không thiện về chất độc. Chỉ có Hằng Sơn Thiền ông là giỏi cả y đạo lẫn độc môn.
Tuấn Hạc mừng rỡ vái dài :
- Cảm tạ tiền bối đã nhắc nhở. Thiền ông chính là bá phụ của tiện nội. Tại hạ phải lên đường ngay mới được.
Hồng lão giật mình:
- Té ra lão trọc kia lại là bào huynh của Thiên Độc Giáo Chủ. Thế mà lão phu không hề hay biết.
Luân Hồi Đế Quân lấy ra một hộp gỗ nhỏ:
- Đây là viên Tuyết Sâm Bảo Mệnh Hoàn. Tuy nó không có tác dụng giải độc nhưng tăng cường sức đề kháng cho cơ thể Công tử hãy cho Tiểu Băng uống vào mới đủ sức cầm cự cho đến lúc gặp Thiền ông.
Tuấn Hạc biết linh đan này cực kỳ quý giá, vội vòng tay bái tạ. Đế Quân cười khanh khách:
- Công tử còn Bách nhi và còn giúp bổn cung đại phá cường địch. Công lao ấy bổn tòa chẳng dám quên. Sau này, có gì sai bảo xin cứ nói.
Thái Bách dắt ra chiếc xe song mã, mui phủ kín bằng da. Đây là xe riêng của Đế Quân. Gã vui vẻ nói:
- Xe này được chế tạo đặc biệt nên rất êm ái. Tại hạ còn bỏ thêm vài tấm nệm bông nữa.
Phương Phương và HỒ Diện Cái vào trong thu xếp hành lý. Thấy chỉ còn cha con Đế Quân, Tuấn Hạc hạ giọng hỏi:
- Tại hạ muốn biết trong hai tấm họa đồ của cung chủ và Trương Thiên Sư, tấm nào là thật? Theo tại hạ được biết thì giáo chủ Thiên Sư Giáo đã dám bỏ ra ba vạn lượng vàng để mua thanh Hàn Ngọc Thiền Trượng của Tây Phật. Nghe nói vật ấy chính là chìa khóa mở cửa đá của kho tàng.
Đế Quân sững sờ:
- Như vậy có lẽ cả hai tấm họa đồ đều giống nhau. Trong bản của bổn tòa cũng vẽ một chiếc chia khóa có hình dáng giống như thiền trượng. Nhưng bổn tòa không ngờ rằng đó lại là bảo vật của Tây Phương Tự. Thế lão họ Trương đã mua được vật ấy chưa?
Tuấn Hạc chính sắc nói :
- Nếu kho tàng kia đúng là của người Mông CỔ để lại thì cung chủ nên tìm cho được và nộp vào quốc khố. Tài sản ấy vốn là của bách tính Trung Hoa.
Luân Hồi Đế Quân mỉm cười:
- Không được đâu! Kho tàng này là của một tay đại phú thời nhà Tùy. Nếu công tử có hứng thú thì khi xong việc ở Sơn Tây, về Hợp Phì cùng bổn tòa đi tìm xem thử.
Tuấn Hạc gật đầu:
- Tại hạ sẽ đi Cam Túc hỏi mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng. Nếu chúng ta không nhanh tay, Thiên Sư Giáo sẽ đắc thủ, chẳng khác nào hổ thêm cánh.
Chàng vào phòng bồng Tiểu Băng đặt lên xe rồi cáo biệt. HỒ Diện Cái làm xà ích, còn Tuấn Hạc cởi ngựa đi song song.
Phương Phương vén rèm cửa ở hông xe, nói với Tuấn Hạc:
- Tướng công. Tần công tử quả là hảo bằng hữu, xe chạy rất êm và đầy đủ lương thực, rượn ngon.


Hồi 11

Kim Ngân năng sát nhân
Giang biên phùng phật nữ


Để tranh thủ thời gian, Tuấn Hạc đi thẳng lên hướng Bắc. Bốn ngày sau họ đến Chương Phàn - tận bờ sông Hán Thủy. Tuấn Hạc cho xe ghé vào khách điếm nghĩ ngơi và bảo HỒ Diện Cái đi dò hỏi tin tức, đồng thời báo về Thiên Ma Cốc cho Mạn Ngọc biết họ đang trên đường đi Sơn Tây.
Phương pháp truyền tin bằng chim bồ câu đã có từ thời nhà Đường, nhưng không phổ biến. Nay chỉ còn duy nhất có cái Bang là duy trì được hệ thống liên lạc độc đáo này.
Trước bữa cơm tối, Cù Y Thảo trở lại, báo rằng Thiên Ma Cốc vẩn an toàn. Mạn Ngọc đã giả nét chữ của Thiên Ma đại lão Đinh Sơn Giáp, gởi thư cho Trường Thiên Sư nói rằng Tây Phật đã đến Thiên Ma Cốc giết chết lão nhị và đoạt lại Phật Trượng. Sau đó, Trương Tỳ Vân không đến Hoàng Sơn nữa.
Mờ sáng, bọn Tuấn Hạc lại lên đường.
Tiểu Băng vẫn mê man, chỉ sống bằng nước cháo loãng nấu với sâm già. Nàng không chủ động được sự bài tiết nên Phương Phương rất cực khổ. Tuy nhiên, cô gái này vẫn vui vẻ chăm sóc bệnh nhân rất chu đáo.
Một là Phương Phương cảm thương kiếp hồng nhan bạc phận của Tiểu Băng.
Hai là nàng hiểu rằng mình tận tâm với người chị chung thuyền này thì sẽ dành được lòng yêu mến của Tuấn Hạc.
Quả đúng như vậy, Tuấn Hạc vô cùng cảm kích và nhìn Phương Phương với ánh mắt trìu mến.
Đã bước vào mùa hạ nên vầng dương chói lọi trên cao, thiêu đốt vạn vật. Nền đường khô cứng lại và bụi bốc lên mờ mịt theo vó ngựa. Tuấn Hạc nhờ công lực thâm hậu nên không đến nỗi khổ sở, chỉ tội cho HỒ Diện Cái Cù Y Thảo và hai nữ nhân.
Phương Phương đã phải lấy mấy tấm nệm bông cột chặc vào nóc và quanh mui xe để giảm bớt cái nóng kinh người.
Thỉnh thoảng, nàng nhảy lên lưng ngựa Tuấn Hạc, dùng khăn ướt lau mặt phu tướng hoặc cho chàng uống nước.
Đến chiều ngày mùng năm tháng tư, họ đã đi thêm được gần bốn trăm dặm đường vượt qua thành Nam Dương một quảng khá xa. Một con chó của nhà nông dân nào đó băng ngang qua dường, suýt nữa bị vó ngựa đạp bẹp. Cũng may, nó chỉ bị đau ít, kêu ăng ẳng và bỏ chạy về phía sau. Nhờ vậy, chàng phát hiện xa xa đám bụi mù mịt bốc cao và di chuyển rất nhanh.
Chàng cau mày đoán rằng đoàn ky mã kia rất đông đảo nên mới gây hiện tượng như vậy Một cảm giác bất an thoáng hiện, có thể họ đang cố bắt kịp chàng thì sao?
Nghĩ đến câu cẩn tắc vô ưu," Tuấn Hạc bảo họ Cù:
- Các hạ cho xe phóng nhanh lên, có thể cường địch đang đuổi theo.
HỒ Diện Cái vội vung roi quất đôi ngựa gia tăng tốc độ.
Đường xấu nên xe bị nhồi lắc dữ dội.
Phương Phương thò đầu ra hỏi:
- Tướng công! Tại sao lại cho xe chạy nhanh làm gì?
Tuấn Hạc thở dài chỉ về phía sau:
- Phương muội xem kìa, đám bụi kia tiến đến rất nhanh, chứng tỏ đám ky mã đang đuổi theo chúng ta. Nếu quả đúng như vậy thì lấy nệm bông che chắn cả phía sau để đề phòng cung tiễn. Ta sẽ bảo vệ không cho chúng đến gần.
Chàng lại bảo HỒ Diện Cái:
- Các hạ hãy đưa cây roi ngựa dữ trữ cho ta.
Thói thường, bao giờ trên xe cũng có thêm một, hai cây roi da để thay thế.
Cù Y Thảo vội lấy vòng dây treo trên càng xe đưa cho chàng.
Cây roi này dài gần trượng, khi múa lên có thể che chắn một phạm vi khá rộng.
Hơn khắc sau, đoàn ky mã kia đã đến nơi. Người dẫn đầu chính là Khuất Bạch Thành . Gã quát vang :
- Tuấn Hạc ! Nếu ngươi không chịu giao ôn Tiểu Băng lại thì đừng hòng sống sót Để thị uy bọn ky mã giương cung bắn liền. Bốn mươi mũi trường tiễn xé gió bay đến. Tuấn Hạc cho ngựa chạy ngay sau xe, ngồi xoay ngược lại, múa tít roi da. Luồng chân khí hùng hậu của chàng đã biến cây roi mềm mại thành một tấm lưới bền chắc, kín đáo, hứng lấy tất cả những mũi tên.
Lại thêm mấy loạt bắn nữa nhưng đều vô ích. Tuy nhiên, khoảng cách hai bên càng lúc càng gần. Tuấn Hạc phát hiện trong xe vang lên những tiếng như nhà bếp động dao thớt mà không hiểu Phương Phương đang làm gì.
Lát sau, nàng thò ra, đưa cho chàng một túi lụa :
- Tướng công! Thiếp đã chặt nhỏ những thỏi vàng bạc, chàng hãy dùng làm ám khí để đối phó với bọn chúng.
Tuấn Hạc mừng rỡ nhận lấy, bỏ vào lòng rồi bắt đầu tấn công. Mảnh vàng đầu tiên xé gió bay vào ngực Khuất Bạch Thành. Nhờ ánh hoàng kim lấp loáng nên gã nhận ra, nghiêng mình tránh thoát.
Nhưng viên ám khí đắt tiền nay trúng vào tên đệ tử phía sau. Gã rú lên thảm khốc, rơi khỏi mình ngựa. Lại thêm bốn tên nữa chết vì số vàng bạc mà chúng chẳng hề ham muốn. Khuất Bạch Thành đành chậm lại để tránh xa tầm ném. Đường quan đạo chật hẹp, hai bên là ruộng nước nên chúng không thể vượt lên được.
Thỉnh thoảng, Tuấn Hạc ghì cương ngựa, chờ phe đối phương đến mà rải ám khí Chàng giết thêm được vài tên rồi bỏ chạy the o xe .
Tuấn Hạc nhận ra hai lão nhân đi song song với Khuất Bạch Thành có kiếm pháp rất lợi hại. Những thỏi bạc bị bắn vào họ đều bị chặt nát thành những mảnh nhỏ Chàng biết đôi ngựa kéo xe không thể chịu đựng được lâu. Chúng đã đi bảy tám trăm dặm và được nghỉ ngơi rất ít.
Tuấn Hạc quay lại nói với Phương Phương:
- Phương muội bảo họ Cù ghé vào chỗ nào có địa thế hiểm yếu.
Được hơn trăm dặm là hết vùng ruộng lúa, đến rặng núi Hạc Sơn. HỒ Diện Cái quyết định cho xe rẽ sang mé hữn, đi vào con đường gồ ghề, lởm chởm đá. Gã nói lớn:
- Trưởng lão cố cầm chân bọn chúng lại xe không chạy nhanh hơn được. Chỉ hơn dặm nữa là đến nơi trú ẩn.
Tuấn Hạc gật đầu, cho ngựa chạy chậm lại chặn ngang giữa đường quan đạo.
Những mảnh vàng bạc trong tay chàng đã bay ra như sao sa, lại có vài tên nữa bỏ mạng.
Khuất Bạch Thành gầm lên ghê rợn, cùng hai lão nhân áo xanh múa tít trường kiếm tiến lên. Bọn thủ hạ của gã cũng bám theo.
Ba luồng kim quang rực rỡ đã gạt phăng những viên ám khí của Tuấn Hạc.
Chàng cười nhạt, nhắm vào ức ngựa mà hạ thủ. Trường kiếm không thể với tới nên ba con ngựa đều trúng đòn, chúng đau đớn hí lên rồi ngã quị, hất bọn Bạch Thành xuống đất.
Tuấn Hạc nhân cơ hội ấy quay ngựa phi theo xe song mã. Đến chân núi, chàng nhận ra xe đã chạy vào một khe đá hẹp, chỉ vừa lọt chiều ngang của thùng xe, hai bên là vách đá dựng đứng. Địa thế này đáng gọi là tuyệt hiểm, nhất phu đương quan, vạn nhân nan quá.
Chàng thúc ngựa vào, chỉ năm trượng đã đến một khoảng trống rộng rãi, cây cối rậm rạp, xanh tươi. Vách sơn cốc cũng cao vun vút khiến bầu trời phía trên như nhỏ lại Bọn Khuất Bạch Thành cũng đến nơi nhưng không dám vào, đứng lố nhố ở ngoài cửa cốc. Tuấn Hạc xuống ngựa, nhặt cục đá to bằng nắm tay, vận toàn lực ném ra ngoài.
Viên đá bay ra với tốc độ kinh hồn, dập vỡ sọ một tên ky sĩ. Chúng hoảng sợ, dạt cả ra hai bên.
Khuất Bạch Thành thở dài bảo hai lão nhân:
- Vàng bạc thì có thể đỡ được chứ với đá xanh thì phải cẩn trọng, tiểu tử họ Văn có đến năm mươi năm công lực trong người, không thể coi thường được.
HỌ Khuất ra lệnh xuống ngựa nghỉ ngơi ăn uống. Bên trong cốc, bọn Tuấn Hạc cũng đang chuẩn bị việc phòng ngự.
Phương Phương và Cù Y Thảo chạy đi nhặt những viên đá to bằng trứng ngỗng, chất thành đống trước hẻm núi .
Tuấn Hạc vui vẻ khen ngợi :
- Vì sao Cù các hạ lại biết nơi này?
Cù Y Thảo cười hì hì :
- Bốn năm trước, gia phụ sai thuộc hạ đến vùng Hạc Sơn này tìm một vị thuốc, nhờ vậy mới khám phá ra chỗ tuyệt địa này.
Phương Phương giận dỗi nói:
- Cù huynh dẫn chúng ta vào đây thì có hay ho gì? Chỉ như cá trong rọ mà thôi.
Vài ngày nữa hết nước hết lương thực là chết đói ngay.
HỌ Cù cười xó a :
- Phu nhân yên tâm, trong này có cả một hồ nước trong vắt, đầy cá. Còn chồn thỏ cũng hằng hà sa số.
Phương Phương là nữ nhân không chịu được cảnh dơ dáy vì thiếu nước nên mừng rỡ:
- Thế thì được .
Nàng tất tả quay xe lại, lấy y phục và bồng Tiểu Băng đi sâu vào trong.
Cù Y Thảo cũng bày lương khô và rượn ngon ra nhấm nháp. Ai cũng đói bụng vì hoàng hôn đã buông xuống. Hai người ngồi ngay vị trí phòng thủ mà dùng bữa.
Tuấn Hạc trầm ngâm nói :
- Bệnh tình của Tiểu Băng không cho phép chúng ta lưu lại nơi này lâu hơn được Đêm nay các hạ và Phương muội giữ vững đường vào, ta sẽ ra ngoài tiêu diệt bọn chúng. Chỉ cần tiêu diệt được Khuất Bạch Thành là đối phương phải rút lui thô ăn uống xong, chàng điều tức một lúc để khôi phục công lực rồi lướt ra ngoài.
Phương Phương và HỒ Diện Cái núp hai bên vách chờ đợi.
Cửa sơn cốc sáng rực vì phe Bạch Thành đã đốt một đống lửa rất lớn ở mé tả Chúng muốn nhìn thấy rõ khi đối phương đi ra.
Tuấn Hạc thản nhiên lộ diện, trầm giọng gọi:
- Bạch Thành, hãy ra đây làm vài chiêu xem nào. Hay là hậu duệ của VÔ Tâm Kiếm Khách chỉ biết dùng cung tiễn?
Khuất Bạch Thành là người cao ngạo, không chịu nổi lời khiêu khích liền kéo thuộc hạ xông đến.
Tuấn Hạc cười nhạt :
- Bạch Thành! Ngươi học cái thói ỷ chúng hiếp cô từ bao giờ thế? CÓ dám cùng ta đơn đấu hay không? Nếu trong ba chiêu ta không khiến máu ngươi ướt đất này thi Văn mỗ nguyện vung kiếm tự vẫn ngay.
câu hỏi khinh bạc, ngạo nghễ kia khiến họ Khuất giận run người. Gã ngửa c Oå cười dài :
- Được! Nhất ngôn cửn đỉnh. Bổn tước gia sẽ dạy cho ngươi ba chiêu.
Gã rút kiếm đến đứng đối diện Tuấn Hạc. Từng bị Tuấn Hạc đánh trọng thương nên Bạch Thành hiểu rất rõ công lực của đối thủ. Nhưng gã không tin rằng kiếm pháp của Tuấn Hạc cũng cao siêu như chưởng pháp. Thường thì cao thủ nào cũng chỉ sở trường một môn công phu.
Tuấn Hạc dựng trường kiếm trước mặt, tay tả bắt kiếm quyết, chỉ về phía đối phương. Thế thức này rất thông dụng và chẳng có gì đặc sắc cả. Chỉ khác một điểm là chàng đứng trên hai đầu bàn chân, gót nhón cao. Thân hình chàng trôi dần về phía Khuất Bạch Thành. Khoảng cách càng lúc càng ngắn lại, Bạch Thành phải xuất thủ trước để chiếm tiên cơ.
Thanh kiếm rung động, hóa thành ngàn kiếm ảnh, đưa thân hình gã bốc lên cao.
Tuấn Hạc chỉ chờ có thế, hóa thành mũi tên bạc bay chếch lên, chặn ngang đường đối phương. Khuất Bạch Thành ở trên, chàng ở dưới nên mục tiêu của chàng chính là hạ bàn của gã.
Chiêu kiếm này có tên là Trường Đoạn VÔ Nghi (Đứt một chẳng còn nghi). Tuấn Hạc chưa bao giờ dùng đến vì nó cực kỳ hiểm ác. Nay chàng ở tuyệt lộ, chẳng còn khách sáo được nữa.
Khuất Bạch Thành kinh hoàng chúi xuống, cố chặn đường kiếm của đối phương. Nhưng đã quá muộn, sau tám tiếng va chạm chói tai là tiếng rên đau đớn của họ Khuất. Gã rơi xuống đất, đứng ôm bụng rên rỉ. Một vết kiếm vắt ngang rốn và bốn vết nữa vạch nát hai đùi Hai lão già áo xanh vội lao đến đỡ lấy thiếu chủ và quát vang:
- Giết"
Gần ba mươi gã kiếm thủ của Khuất gia trang dù sợ chết khiếp cũng phải xông vào CÓ điều chúng dùng chiến thuật xa luân, từng đợt bốn tên tiến lên tấn công rồi rút ngay, nhường cho đợt khác.
Tuấn Hạc cười mát, lùi nhanh vào khe núi, biến mất trong bóng tối. Và hàng loạt phi thạch bay ra khiến phe đối phương không dám đuổi theo. Thì ra Phương Phương và Cù Y Thảo nóng ruột nên đã ôm đá ra tận ngoài cửa hang để quan chiến.
Ba người rút vào sơn cốc nghỉ ngơi, bên đống lửa bập bùng. Phương Phương âu yếm lau mặt cho Tuấn Hạc và thỏ thẻ :
- Gã họ Khuất đã bị trọng thương, chắc bọn chúng phải rút thôi.
Quả nhiên, lát sau tiếng vó ngựa lọc cọc khua vang, ngày càng xa sơn cốc. CÓ lẽ chúng phải đi ngay để tìm cách trị thương cho Khuất Bạch Thành.
HỒ Diện Cái ấp úng:
- Bẩm trưởng lão! Theo thiển ý của thuộc hạ thì bọn chúng không đi hẳn đâu.
Chắc chắc chúng sẽ cho người mai phục ở lối ra. Hai bên đều có loạn thạch, rất dễ ẩn thân.
Tuấn Hạc tán thành:
- Ta cũng nghĩ thế. Chỉ cần hai người để đưa Khuất Bạch Thành về Nam Dương chữa thương, số còn lại sẽ chân đường chúng ta. Nhưng không sao, các vị cứ nghĩ ngơi, sáng mai sẽ tính sau.
Phương Phương bỗng nói:
- Tướng công! Tiện thiếp nghĩ mãi không ra vì sao Khuất Bạch Thành lại biết rằng ôn đại thư nằm trong xe và chúng ta sẽ đi đường này?
Tuấn Hạc thở dài :
- Ta cũng thắc mắc nhưng không lý giải được.
HỒ Diện Cái nói ngay:
- Theo ý thuộc hạ thì có ba khả năng xảy ra. Một là ôn giáo chủ đã đào thoát đến Khuất gia trang ở Giang âm và báo cho Khuất Bạch Thành biết. Hai là trong Ma Cung có nội gián. Ba là chính Luân Hồi Đế Quân đã bán rẻ chúng ta.
Tuấn Hạc cân nhắc :
- Khả năng thứ nhất không đứng vững vì ôn lão không biết ta đã còn được Tiểu Băng. Còn việc bị Đế Quân bán đứng cũng không hợp lý. Lão còn cần đến ta để mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng của Tây Phương Tự.
Phương Phương cướp lời chàng:
- Thiếp lại nghĩ khác chàng. CÓ thể VÔ Giới đại sư đã ngộ hại dọc đường và Ngọc Trượng đã rơi vào tay Đế Quân.
Khi tướng công nói với lão về việc Ngọc Trượng là chìa khóa, thiếp thấy ánh mắt lão rất kỳ lạ, có vẻ như đắc ý.
Tuấn Hạc gạt ngay:
- việc ấy tính sau, phải đến cho được Hằng Sơn cái đã.
* * *
Trời còn mờ mờ, Tuấn Hạc đã rời sơn cốc Chàng không đi dưới lòng đường mà luồn lách những bụi rậm hoặc loạn thạch ở trên. Chàng học hỏi của Thần Viên cách di chuyển êm thắm nên đến được đoạn mai phục mà không hề bị phát giác.
Ba mươi tên cung thủ đang dật dựa ngủ gật. Tuấn Hạc chăm chú quan sát, cố tìm ra hai lão già áo xanh. Chàng phải tiêu diệt họ trước vì Phương Phương và HỒ Diện Cái không thể ngăn được.
Tuấn Hạc mừng rỡ nhận ra chỉ có một lão đang ngồi nhập định sau một tảng đá.
Lão kia chắc đã đưa Khuất Bạch Thành đi khỏi Chàng nhảy lên tảng đá cao nhất rồi hắng giọng. Lão nhân và đám cung thủ giật bắn mình chồm dậy. Tuấn Hạc không để trễ một giây, tung mình chụp lưới kiếm xuống đầu thanh y lão nhân.
Chàng nóng ruột vì an nguy của Tiểu Băng nên sát khí ngập hồn, xuất thủ rất nặng tay. Chàng đã thức ngộ ra rằng trong chốn võ lâm tanh máu này, lòng nhân hậu không còn chỗ đứng nữa.
Tuấn Hạc xuất chiêu Hoàng Diệp Diêu Linh, vẽ lên hàng trăm kiếm ảnh mờ mờ, phất phới, lả lơi như lá vàng rụng bởi gió thu.
Thanh y lão nhân mất tiên cơ, lại kẹt tảng đá sau lưng lên không còn đường tiến thoái. Lão nghiến răng múa tít bảo kiếm chống đỡ.
Tiếng thép ngân dài hòa với tiếng rú ghê rợn của lão áo xanh. Ngực và bụng lão thủng lỗ chỗ, máu phun thành vòi.
Cái chết thảm thiết của đầu lãnh đã khiến đám cung thủ hồn phi phách tán, ném vũ khí đào tẩu không còn một mống.
Chúng sợ đến nỗi không dám nhảy lên lưng ngựa, chỉ mong sống sót nhờ đôi chân mà cha mẹ đã ban cho.
Tuấn Hạc hài lòng, chẳng truy sát làm gì Chàng ngửa cổ hú vang báo hiệu. Lát sau, xe song mã ra đến. Chàng nhẫy lên lưng tuấn mã của mình, đi trước mở đường Giữa tháng tư, bọn Tuấn Hạc đến được dãy Hằng Sơn mà không gặp thêm trở ngại nào. Bắc Nhạc Hằng Sơn là một dãy núi hùng vĩ ở phía Bắc tỉnh Sơn Tây, nằm cách huyện Đại Đồng chừng trăm rưỡi dặm.
Trên sườn núi có nhiều chùa chiền, nổi tiếng nhất là Hằng Sơn Ni Viện và Huyền Không Tự.
Tuấn Hạc để Phương Phương và Cù Y Thảo trong quán trọ dưới chân núi, rồi bồng Tiểu Băng thượng sơn. Huyền Không Tự là ngôi chùa lớn nhất Sơn Tây, tăng chúng có đến hơn trăm người.
Hôm nay đã là ngày mười tám tháng tư nên chùa đóng kín. Huyền Không Tự theo thiền tông, chỉ mở cửa vào các ngày rằm và mùng một.
Tuấn Hạc lên đến nơi thấy một lão ni đang quét lá dưới sân liền gọi:
- Vãn sinh có việc khẩn cấp. Muốn cầu kiến Thiền ông.
Lão ni buông chổi bước ra, mở cửa.
Thấy gương mặt nạm đen của Tiểu Băng, bà biến sắc hỏi:
- Băng nhi bị sao vậy?
Chàng buồn rầu đáp :
- Nàng bị Thiên Độc Giáo Chủ bắt từ Văn gia bảo về giam ở thạch lao. Không hiểu lão hạ độc thủ thế nào mà nàng hôn mê mãi không hồi tỉnh"
Lão ni nhìn chăm chú chàng rồi hỏi:
- Thí chủ đây là . . . ?
- Bẩm sư thái, vãn sinh là Văn Tuấn Hạc, trượng phu của Tiểu Băng.
Lão ni mỉm cười gật gù:
- Cốt cách của thí chủ khá lắm, hèn gì con nha đầu này không hết lòng yêu mến.
Tuấn Hạc kinh hãi, hiểu ngay bà là ai.
Chàng quỳ xuống ra mắt :
- Tiểu tế bái kiến nhạc mẫu"
Lão ni đỡ chàng lên, an ủi:
- Hiền tế yên tâm, đã đến được đây thì Băng nhi không có gì phải lo cả. Hãy theo ta vào hậu tự gặp Thiền ông.
Bà dẫn chàng đi xuyên qua khu rừng bên hông đại điện, đến một tăng xá rất là mộc mạc, phòng ngoài có một chiếc bàn bát tiên và có hai người đang ngồi uống trà Tuấn Hạc nhận ra ngay lão nhân râu dài là Thanh Ngưu Cuồng Tử ôn Thần Phong. Người thứ hai là một lão tăng râu dài bạc phếch, dung mạo hiền từ, có lẽ là Hằng Sơn Thiền ông ôn Thanh Liêm.
Chàng vẫn bồng Tiểu Băng trên tay, quỳ xuống thi lễ :
- Tiểu tế bái kiến nhị vị bá phụ.
Cuồng Tử mừng rỡ cười ha hả :
- Lão phu cho rằng diệt tế chẳng phải chết được ! Mau đứng lên "
Lão bỗng nín bặt vì nhận ra Tiểu Băng:
- Tiểu liễu đầu làm sao vậy?
ôn phu nhân đỡ lời chàng :
- Băng nhi lại bị ôn Thiếu Bảo hạ độc thủ.
Thiền ông vội nói:
- Hãy đặt nó lên chõng tre kia ta xem thử.
Tuấn Hạc làm theo lời lão. Thiền ông đứng bên bắt mạch và trầm ngâm rất lâu.
Cuối cùng, lão thở dài bảo:
- Nguy rồi! Nhị đệ đã dùng đến Thiên Độc Bế Tâm Tán, bần tăng đành phải bó tay"
Lão ni - tức ôn phu nhân sa lệ nói:
- Không ngờ lão ta lại nhẫn tâm đến thế Tuấn Hạc chết đi ếng người :
- Bẩm đại bá phụ, chẳng lẽ trong thiên hạ không còn kỳ trân dị dược gì cứu được Băng muội hay sao?
Thiền ông suy nghĩ một lúc lâu mới đáp:
- Nếu mượn được bảo vật trấn sơn của Tây Phương Tự trên núi Lục Bàn thì Băng nhi mới thoát chết"
Tuấn Hạc mừng rỡ nói :
- việc ấy không khó, chính tiểu tể đã đoạt lại vật ấy trong tay Thiên Ma Song Lão, hoàn lại cho đệ tử Tây Phật. Tiểu tế sẽ đi ngay Cam Túc để mượn lại.
Thiền ông vẫn chưa hết ưu tư:
- Nhưng thí chủ phải đi cho thật nhanh.
Băng nhi không sống nổi quá bốn mươi ngày nữa đâu.
Tuấn Hạc nghẹn ngào hứa:
- Tiểu tế sẽ kiêm trình ngày đêm, chắc chắn sẽ về kịp thời hạn.
Chàng sụp xuống thi đại lễ rồi hạ sơn ngay. Xuống đến khách điếm nơi chân núi, chàng bèn kể lại cho Phương Phương và HỒ Diện Cái nghe mọi sự.
Tuấn Hạc nghiêm giọng:
- Cuộc hành trình cấp bách này rất gian khổ hai người không thể kham nổi đâu.
Hãy trở lại Hoàng Sơn trước đi. Cứu được Tiểu Băng rồi ta sẽ cùng nàng đến Thiên Ma Cốc.
Phương Phương phụng phịu nói:
- Thiếp sẽ ở lại đây và lên Huyền Không Tự chăm sóc ôn đại thư chờ tướng công cùng về. Cứ để Cù huynh đi Thiên Ma Cốc trước.
Tuấn Hạc gượng ngừng nói :
- Ta biết giới thiệu nàng với các trưởng bối của Băng nhi thế nào đây?
Phương Phương mỉm cười:
- Tướng công chẳng phải lâm vào tình trạng khó xử. Thiếp sẽ có cách kề cận đại thư, tướng công cứ lên đường ngay đi.
Nàng bèn soạn hành lý cho Tuấn Hạc.
Nhân lúc HỒ Diện Cái bước về phòng, chàng kéo Phương Phương vào lòng hôn lên má nàng rồi âu yếm nói:
- Phương muội quả là tuyệt diệu, ta rất cảm kích.
Phương Phương hôn trả lại rồi nũng nịu:
- Chỉ mong sau này tướng công và ôn đại thư không hất hủi tiểu muội và Mạn Ngọc là đủ rồi.
Tuấn Hạc nghiêm giọng:
- sao nàng lại nghĩ quẩn như vậy? Ta đâu phải kẻ bạc hạnh vô tình.
Phương Phương thấy chàng có ý giận, vội bịt miệng chàng lại, cười khúc khích:
- Thiếp chỉ đùa chút thôi, ai mà không biết tướng công là đệ nhất chung tình?
Tuấn Hạc đeo tay nải vào vai rồi lên ngựa đi ngay. Dù không thuộc đường nhưng Lục Bàn Sơn ở hướng mặt trời lặn nên không sợ lạc.
Trưa hôm sau chàng đã vượt nhánh phải Hoàng Hà, đi vào vùng cao nguyên Hoàng Thổ của Thiểm Tây. Cao nguyên đất vùng này rộng đến gần tám mươi vạn dặm vuông, nằm ở phía Tây Bắc lãnh thổ Trung Hoa, trong địa phận các tỉnh: Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Thanh Hải và Nội Mông.
Dưới chân Tuấn Hạc là một loại đất nâu vàng, gồm các hạt bụi mịn: khi mưa xuống thì bở, xốp, khi nắng ráo thì rắn lại và trên mặt là lớp bụi dày.
Ngay chiều hôm ấy, chàng đã phải đối phó với một cơn giông cát bụi mịt mù.
Dù đã lấy áo quấn chặt mũi miệng, lớp bụi vàng kia cũng khiến chàng muốn ngợp thở. Mà ở Thiểm Tây, năm nào cũng có vài cơn giông như vậy.
Tuấn Hạc vẫn cắc răng thúc ngựa đi không nghĩ. Tuy nhiên, cước trình cực kỳ chậm chạp vì địa hình bị chia cắt dữ dội, cả về chiều ngang lẫn chiều dọc, tạo nhành những gò đồi hình tròn hoặc bầu dục. Hoàng thổ rất dễ bị nước mưa xói mòn nên mới gây ra hiện tượng này.
Vần thái dương mùa hạ chói chang, đổ lửa xuống đầu, vắt kiệt những giọt nước trong cơ thể lữ khách.
Cuộc hành trình gian khổ kéo dài suốt mười lăm ngày, thay bốn lần ngựa mới đến được nhánh tả của Hoàng Hà. Bên kia sông, chính là thành Ngân Xuyên, thủ phủ của đất Tây Hạ.
Giờ đây, Tuấn Hạc đã nhẹ đi mười cân, râu ria rậm rì trên gương mặt sạm nắng.
Chàng khoan khoái đứng cạnh bến đò ngang, hít thở luồng gió mát của sông Hoàng. Thấy một gã ăn mày bước đến xin tiền. Chàng cho hắn một nắm tiền đồng rồi hỏi:
- Các hạ có biết chừng nào thì đò ngang sang đến hay không?
Gã cười đáp :
- Giờ mới là cuối giờ Ngọ, công tử phải chờ đúng một canh giờ nữa.
Tuấn Hạc thất vọng bảo :
- Mong các hạ chỉ cho ta một chỗ để tắm rửa và ăn uống.
Gã hò a tử vui vẻ chỉ về hướng Nam :
- Công tử cứ đi dọc theo bờ sông, độ bốn chục trượng sẽ có một tửu quán, tên gọi Tẩy Trần quán. Nơi ấy có cả những phòng tắm dành cho khách lữ hành.
Gã bỗng bụm miệng cười rúc rích:
- Chắc đã lâu công tử chưa hề tắm?
Trông người còn dơ bẩn hôi hám hơn cả tiểu nhân.
Tuấn Hạc gượng cười :
- Đã nửa tháng nay ta chỉ rửa ráy qua loa.
Chàng quay đầu ngựa đi về phía Tẩy Trần quán. Giao ngựa cho tiểu nhị xong, chàng bước vào gọi một mâm cơm rượn rồi đi thẳng đến nhà tắm.
Tuấn Hạc dùng hết ba mươi viên tạo giáp mới gột hết bụi đất trên cơ thể và mái tóc.
Tạo giáp chính là viên bồ bết, loại cây này mọc khắp lãnh thổ Trung Quốc và trái của nó đã trở thành chất tẩy rửa đầu tiên, từ thời nhà Tấn. Người ta giã nát bồ kết ra rồi viên thành hạt nhỏ như hạt quệt để tắm gội.
Tắm xong, Tuấn Hạc rút thanh bảo kiếm ra cạo râu. Chàng rất hài lòng với thanh kiếm bề ngoài xấu xí nhưng rất sắc bén này.
Lúc ra ngoài, chàng trở lại là một vị công tử anh tuấn phi phàm, làn da rám nắng càng tăng phần lịch lãm.
Đã mười mấy ngày nay chàng chỉ ăn toàn bánh hấp, bánh bao, lương khô và không uống một giọt rượn. Vì vậy, dù cơm rượn ở quán Tẩy Trần chẳng ra gì, chàng cũng cảm thấy rất ngon.
Tuấn Hạc đã ăn xong bốn chén cơm mà cây khắc hương trên quầy của chủ quán mới cháy được một nửa. Như vậy, còn đến bốn khắc hay nửa canh giờ nữa đò mới sang. Chàng bèn gọi thêm bình rượn nhỏ ngồi nhâm nhi.
Bông một cỗ xe độc mã dừng lại trước cửa quán. Người đánh xe là một lão nhân mặc áo lụa xám, râu tóc hoa râm, dung mạo phương phi phúc hậu.
Lão bước xuống, vén rèm xe phía sau, bồng ra một vị cô nương, đem vào đặt ngồi trên ghế. Lão tươi cười phân bua:
- Khuyển nữ chẳng may mắc chứng quái tật Không cử động và cũng không nói được. Cũng may nó còn ăn uống được nếu không lão phu sẽ chẳng biết làm sao.
Mụ chủ quán suýt soa:
- Thật tội nghiệp! Một nữ nhân xinh đẹp thế này mà lại mắc chứng nan y.
Chẳng hay lão gia định đưa tiểu thư đi đâu vậy?
Lão nhân ngồi xuống ghế, rầu rĩ đáp:
- Lão phu nghe nói ở Thạch Chuỳ Sơn có bậc thần tiên giáng hạ nên đem khuyển nữ đến đấy xem sao.
Tuấn Hạc bỗng nhận ra gương mặt thiếu nữ kia rất quen thuộc. Nàng giống hệt ni cô Huệ Vân, người đã bị chàng đả bại và cứu mạng ở đại hội Hoa Sơn.
Nàng ta ngồi đối diện với chàng và ánh mắt to đen kia ánh lên vẻ bi thương, đau đớn Tuấn Hạc nhìn thật kỹ rồi vận công truyền âm:
- Tại hạ là Đơn Thu Cốt đây. Nếu cô nương chính là Huệ Vân thì hãy chớp mắt ba cái.
Mắt nữ lang sáng lên và chớp đúng ba cái Tuấn Hạc hỏi tiếp:
- Vậy cô nương bị lão già kia khống chế?
Huệ Vân lại chớp mắt xác nhận.
- cô nương yên tâm! Tại hạ sẽ giết lão ta ngay bây giờ.
Chàng sợ đò sắp đến nên quyết định xuất thủ liền lập tức. Mụ chủ quán tính tiền xong, chàng khoác bọc hành lý vào vai, cầm kiếm đi ra.
Lúc ngang qua bàn Huệ Vân, chàng thò tay giật mái tóc óng ả trên đầu nàng. Quả nhiên lộ ra lớp da đầu không có tóc. Tuấn Hạc tức tốc nắm thành ghế của nàng, kéo lùi về phía sau, rồi chỉ mặt lão nhân áo xám quát lớn:
- Lão là yêu nhân nhượng nào, sao lại dám bắt cóc đệ tử phái Hằng Sơn?
Lão ta giảo hoạt kêu lên:
- Ngươi đừng vu khống, khuyển nữ lâm trọng bệnh nên phải cạo đầu để đỡ mất công gội.
Tuấn Hạc cười nhạt :
- Để xem lão có chịu lộ nguyên hình hay không?
Chàng vung hữn thủ giáng một chưởng sấm sét vào ngực đối phương. Lão ta không còn cách nào khác, đành tung mình né tránh. Thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng giống một viên ngoại chút nào. Tuấn Hạc rất quý thời gian nên rút phăng trường kiếm, xuất chiêu Tịch Dương VÔ Ngũ.
Lúc này, trên tay lão nhân đã xuất hiện hai thanh đoản kiếm tẩm độc xanh lè. Lão nghiến răng xông vào lưới kiếm vì thấy chẳng có gì đáng sợ.
Nhưng lão đã lầm giống như những người đã từng so kiếm với Tuấn Hạc.
Chiêu kiếm này không xuất ra âm thanh hay ánh sáng lóe mắt nhưng lại vô cùng nguy hiểm. Mũi kiếm cứ âm thầm lướt đến, xuyên qua màn kiếm quang của đối phương và cắm thẳng vào ngực.
Lão ác ma đau đớn ôm ngực trái, dương cặp mắt oán độc, nói thều thào:
- Ngươi . . . đừng hòng . . . tho át chết dưới . . . tay Hoàng Thổ Chi Vương.
Dứt lời, lão gục xuống chết tốt.
Tuấn Hạc xách lão ra phía sau ném xuống dòng nước vàng đục của Hoàng Hà. Chàng trở ra nghiêm nghị bảo mụ chủ quán và các thực khách:
- Đối với ân oán giang hồ, chư vị chớ nên dính vào uổng mạng. Cứ coi như lão ta không hề xuất hiện ở nơi này. Nhâm thần lạnh lẽo uy nghiêm của chàng đã khiến họ run bắn lên, đồng thanh gật đầu:
- Bọn tiểu nhân đã hiểu.
Tuấn Hạc nhặt mái tóc giả, bồng Huệ Vân đặt lên thùng xe, cột ngựa của mình vào phía sau rồi đánh xe đi.
Đến bến đò, thấy gã hóa tử lúc nãy còn ngồi đấy, chàng vẫy gã lại gần rồi xòe cụp ngón tay đủ ba lần. Gã sợ hãi hỏi lại:
- Công tử bao nhiêu tuổi?
- Ta tròn bổn mươi .
Gã ta run rẩy vòng tay vái :
- Đệ tử là Lật Tử Cái Đổng Trung, xin bái kiến tứ trưởng lão.
- Các hạ thuộc phân đà nào?
- Bẩm trưởng lão! Cam Túc, Tây Hạ cùng chung một phân đà, trụ sở trong thành Ngân Xuyên.
- Tốt lắm! Các hạ cùng ta qua sông rồi tìm phân đà chủ, bảo gã đến Tây Phương Tự trên Lục Bàn Sơn gặp ta. Còn các hạ dẫn con ngựa sau xe kia theo ta.
chàng lại đưa thêm một tờ tiền giấy trị giá năm mươi lượng:
- Đây là lệ phí.
Đổng Trung mừng rỡ vái tạ, tháo dây cột ngựa, dẫn lên đò.
Sang đến bờ bên kia, Tuấn Hạc hỏi Lật Tử Cái:
- Gần đây có nơi nào vắng vẻ, kín đáo để ta xem xét bệnh trạng cho vị cô nương này không?
Đổng Trung gật đầu, lên ngựa dẫn đường đi về hướng Nam. Được hơn dặm là đến một khoảnh rừng liễu nằm dựa bờ sông. Trong rừng có một tòa phế miếu điêu tàn. HỌ Đổng cười bảo:
- Bẩm trưởng lão! Đây là nơi cư ngu của tiểu nhân. Bề ngoài hoang phế nhưng bên trong rất sạch sẽ.
Tuấn Hạc nghiệm giọng:
- Nhờ các hạ cảnh giới dúm cho.
Chàng mở rèm xe, bồng Huệ Vân vào miếu. Quả thực nền miếu được quét dọn tươm tất, và có cả một Oå rơm dày.
Tuấn Hạc đặt Huệ Vân xuống Oå rơm rồi bảo:
- Tại hạ sẽ hỏi, nếu đúng thì ni cô chớp mắt. Sai thì thôi.
Huệ Vân chớp mắt trả lời. Tuấn Hạc hỏi liền:
- Ni cô bị lão điểm huyệt?
Huệ Vân xác nhận đúng.
- Những huyệt đạo ấy nằm ở đâu?
Nói xong chàng mới nhớ câu này không có cách trả lời. Chàng bèn hỏi lại:
- Phía trước?
Huệ Vân chớp mắt. Tuấn Hạc thở dài, ngượng ngừng nói:
- Tại hạ sẽ đọc tên từng huyệt đạo, ni cô sẽ xác nhận những huyệt mà lão kia đã điểm.
Cuối cùng thì Huệ Vân đã xác định được bảy huyệt mà lão ác nhân đã phong tỏa: Giáp Xa, Nhu Thượng, Thiên Tuyền, Thực Đầu, Thông Lốc, Bế Quan, Thạch Môn.
Tuấn Hạc trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, chính sắc nói :
- Thủ pháp điểm huyệt này rất quái dị nhưng không làm khó được tại hạ. Tuy nhiên khi chữa trị tất phải mạo phạm đến những chỗ cấm ky của ngọc thể. Chẳng hay ni cô có thể tất cho không?
Da mặt của Huệ Vân đỏ bừng lên và nàng chớp mắt tỏ ý ưng thuận.
Do người bị phong tỏa kinh mạch quá lâu nên không thể dùng thủ pháp cách không chỉ lực mà giải được. Tuấn Hạc bắt buộc phải đặt ngón tay vào da thịt Huệ Vân, chân khí mới vào sâu đáy huyệt.
Tuy không cần cởi y phục nhưng thời gian chàng đả thông hai huyệt Nhũ Trung và Khí Xung lại khá lâu nên Huệ Vân xấu hổ đến sa lệ. Đấy là hai vùng cấm của nữ nhân.
Gần hai khắc trôi qua, Tuấn Hạc mới cứu được Huệ Vân. Sự ngượng ngừng khẩn trương đã khiến mồ hôi chàng toát ra như tắm. Huệ Vân lại tưởng chàng quá mệt nhọc nên càng cảm kích. Nàng ngồi lên, đổi thành thế quỳ, chắp tay vái Tuấn Hạc:
- Đại ân hai lần cứu mạng của thí chủ, bần ni xin tạc dạ. Kiếp này bần ni sẽ luôn cầu nguyện Phật TỔ độ trì cho thí chủ.
Tuấn Hạc vội đỡ nàng lên:
- Ni cô đừng bận tâm.
Huệ Vân thỏ thẻ :
- Theo bần ni được biết thì công tử chẳng phải là Đơn Thu Cốt hay Doãn Tự Vân gì cả? Xin cho biết đại danh.
Chàng cười đáp :
- Tại hạ là Văn Tuấn Hạc, quên ở đất Lư Lăng, Giang Tây. à, ni cô đi đâu mà bị lão yêu quái kia bắt đem về tận chốn này?
Huệ Vân ngượng ngừng đáp :
- Bần ni rời Hằng Sơn về Hán Trung thăm gia quyến. Không ngờ khi đến Trường An thì lại bị lão nhân kia dùng mê hương ám hại. Lão nói rằng mình là Tầm Hoa sứ giả của Hoàng Thổ Vương Gia, có nhiệm vụ đi tìm nữ nhân về dâng cho Vương Gia.
Tuấn Hạc thầm nghĩ: ~VỊ cô nương này có dung mạo kiều diễm phi phàm, sao lại nương thân cửa phật?" Chàng hỏi tiếp:
- Lão Tầm Hoa sứ giả có nói ra tọa lạc căn cứ của Hoàng Thổ Vương Gia hay không?
- Bần ni có nghe lão nhắc đến Hoàng Thổ Thành, nhưng không nói rõ ở đâu.
Nàng hỏi lại:
- Dám hỏi Văn thí chủ đến vùng biên tái này có việc gì?
Tuấn Hạc thở dài đáp :
- Thuyết thê bị trúng độc, tại hạ phải đến Tây Phương Tự để mượn Hàn Ngọc Thiền trượng về giải cứu. Nàng chỉ còn sống có hơn hai chục ngày nữa thôi.
Huệ Vân vội nói:
- Vậy tướng công hãy lên đường ngay đi Bần ni một mình trở lại Hán Trung cũng được .
Tuấn Hạc lắc đầu:
- Không được đâu! Lão Vương kia đã xưng là Hoàng Thổ Chi Vương tất thế lực bao trùm mấy tỉnh Tây Bắc này. Ni cô chỉ mới phục hồi hai thành công lực, tại hạ chẳng yên tâm chút nào cả. Hay là ni cô theo tại hạ đến Lục Bàn Sơn? Xong việc, tại hạ sẽ nhờ bằng hữu là VÔ Giới hòa thượng hộ tống ni cô về Hán Trung?
Huệ Vân bẽn lẽn ưng thuận:
- Thí chủ đã có dạ quan hoài, bần ni xin tuân mệnh.
Mặt hoa bỗng thoáng hồng, nàng ngượng ngừng nói:
- Trong đại hội Hoa Sơn. Đào Hoa Khê Chủ đã nói với mọi người rằng công tử là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y tiền bối. Lúc về đến núi Hằng Sơn, chưởng môn sư tỷ đã tiết lộ rằng Công Tôn tiền bối chính là Tiêu Dao Thượng Nhân của phái Nga Mi. Như vậy, đối với Hằng Sơn phái cũng có uyên nguyên. Bần ni mong thí chủ xưng hô như huynh đệ đồng môn có được không?
Tuấn Hạc giật mình, không ngờ rằng ân sư của mình lại là cao thủ của Nga Mi.
Chàng ngượng ngừng gật đầu. Huệ Vân mừng rỡ vòng tay:
- Tiểu muội bái kiến sư huynh"
Huệ Vân sửa sang xiêm y và mái tóc giả trên đầu rồi cười bảo:
- Sư huynh thấy không? Với trang phục này mà cứ gọi là ni cô thì khó nghe biết chừng nào "
Tuấn Hạc thấy ánh mắt nàng chan chứa niềm vui và nụ cười đầy mị lực, vội quay sang chỗ khác.
chàng bước ra gọi Lật Tử Cái:
- Chiếc xe này không nên lưu lại, các hạ hãy phi tang dúm ta và vào thành tìm phân đà chủ. Giờ ta và Huệ Vân sư muội phải lên đường ngay.
Lật Tử Cái mau mắn tháo con ngựa.
Lão xin phép ra ngoài và trở về với một bộ yên cương cũ kỹ nhưng còn rất tốt.
Gã cung kính tiễn đưa:
- Trưởng lão thượng lộ bình yên.
* * *
Lục Bàn Sơn là dãy núi nằm giữa ranh giới Tây Hạ và Cam Túc. Sườn Bắc thuộc đất Hồi, sườn Nam thuộc đất Cam.
Tuấn Hạc cùng Huệ Vân đi chếch xuống hướng Tây Nam, vào địa phận Cam Túc. HỌ ghé vào một trấn lớn dọc đường để mua y phục cho Huệ Vân. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của phái Lạt Ma nên chẳng tìm đâu ra được tăng bào. Huệ Vân đành phải bằng lòng với những bộ võ phục may sẵn. Nàng dịu dàng thố lộ:
- Sư huynh! Lúc chưa xuất gia, tục danh của tiểu muội là Mạc ái Luân.
Tuấn Hạc hiểu ý:
- Ta sẽ gọi nàng là Mạc sư muội.
Ba ngày sau, hai người mới đến được ngọn cực Tây của rặng núi Lục Bàn. Tây Phương Tự nằm phơi ngói đỏ trên sườn nul.
Thấy ngay chân núi có ngôi quán lá, treo ngọn tửu kỳ phất phới. Tuấn Hạc rủ Huệ Vân đến đấy gởi ngựa. Cách vài trượng đã nghe tiếng VÔ Giới oang oang:
- Chủ quán đâu? Phật gia gọi thêm vò rượn nãy giờ sao không thấy bưng ra?
CÓ tiếng người đáp lại:
- Đại sư thông cảm cho, bổn quán ít vốn mà đại sư thiếu đến ba mươi lượng, tiểu nhân chẳng thể cho ghi sổ thêm nữa.
Tuấn Hạc mỉm cười, kéo sụp chiếc nón rộng vành xuống, che khuất gương mặt rồi bước vào.
chàng nhẹ nhàng ngồi xuống một bàn trong góc ngoài. Huệ Vân hỏi nhỏ:
- Sư huynh định bỡn cợt với VÔ Giới hòa thượng đấy ư?
Chàng gật đầu, lấy mặt nạ mang vào rối cao giọng:
- Chủ quán đâu, cho lão phu một vò rượn lâu năm và một mâm thịnh soạn.
Lão chủ quán dạ vang, bưng ngay vò rượn ra trước. Lão cười giả lả:
- Đây là vò rượn Lan Sinh cất ba mươi năm, xin đại nhân thưởng thức thử xem.
Lúc này, Tuấn Hạc mang dung mạo của một lão nhân lục tuần. Chàng gật đầu mở nắp, mùi rượn bay ra thơm ngát, chàng giả vờ than:
- Hảo tửu! Không ngờ vùng đất hoang vu thô lậu này lại có được vò rượn ngon thế này. Chẳng lẽ không ai biết thưởng thức?
Chàng róc ra uống liền ba chung, tấm tắc khen mãi. VÔ Giới hòa thượng tròn mắt nhìn, nuốt nước miếng liên hồi. Lão điên tiết đập bàn mắng chủ quán:
- Lão có rượn ngon sao không bán cho bần tăng, để người ngoài đến đây nhiếc móc dân đất Cam không biết thưởng thức?
Lão chủ quán dường như có chỗ dựa nên không hề sợ hãi:
- Phương trượng Tây Phương Tự đã cấm tiểu nhân bán rượn cho đại sư, thiếu như thế cũng là quá lắm rồi.
Nghe nhắc đến Tây Phật, VÔ Giới xìu ngay xuống:
- Thôi được! Bần tăng không dám đòi hỏi nữa! Đành phải giới tửu vậy.
Gương mặt thiểu não của lão khiến Huệ Vân bật cười. VÔ Giới bực mình quắc mắt nhìn nàng. Lão giật mình nhận ra nữ lang kia rất quen thuộc.
Huệ Vân vui vẻ gọi:
- Mời đại sư cùng uống cho vui .
VÔ Giới khoan khoái bước đến, ngồi ngay xuống ghế đối diện. Lão sững sờ khi nghe lão già kia nói:
- Đã thích uống rượn sao không trở về Thiên Ma Cốc làm cốc chủ?
Hòa thượng vui mừng khôn xiết, cười ha hả, bước đến ôm lấy Tuấn Hạc:
- Té ra là Văn thí chủ! Hòa thượng ta gặp may rồi.
Lão quay sang Huệ Vân ngập ngừng hỏi:
- Còn nữ thí chủ đây là ai mà bần tăng không nhớ ra?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Người chính là ni cô của phái Hằng Sơn vô Giới lại cười ha hả, giơ ngón cái khen:
- Văn thí chủ giỏi thật! Quyến rũ được cả đệ tử Phật môn.
Tuấn Hạc bẽ bàng nói ngay:
- Đại sư nên cẩn ngôn.
VÔ Giới thấy ánh mắt chàng có sắc giận, còn mặt Huệ Vân đỏ như gấc chính, biết ngay mình đã lỡ lời. Lão vội nói chữa thẹn:
- Bần tăng biết mình nói bậy, tự phạt mình ba chén lớn.
Lão uống xong nghiêm giọng hỏi:
- Vì sao nhị vị thí chủ phải lặn lội đến tận chốn này?
Tuấn Hạc rầu rỉ nói :
- Thuyết thê ôn Tiểu Băng vẫn còn sống nhưng lại bị độc thủ của ôn giáo chủ. Tại hạ muốn lên chùa Tây Phương mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về chữa trị cho nàng.
VÔ Giới cười xòa:
- Việc ấy không khó! Gia sư cũng rất muốn gặp mặt thí chủ. Nhưng giờ là lúc người nhập định, chúng ta hãy uống hết vò rượn này rồi hãy lên.
Trong thâm tâm, VÔ Giới vẫn coi Tuấn Hạc là bằng hữu vong niên của mình. Lão yêu mến chàng và rất mừng được tái ngộ.
Ba người trò chuyện rất vui vẻ. VÔ Giới nghe kể đến Hoàng Thổ Chi Vương, nhăn mặt bảo:
- Lão quỷ ấy đã từng đến đây mời gia sư về làm phó vương, cùng mun bá nghiệp. Gia sư lựa lời từ chối và khi lão đi rồi, người thở dài bảo: người này ngộ kỳ duyên, bản lãnh đáng xưng là vô địch.
Lão ta lại nuôi dã tâm quá lớn, e rằng võ lâm Trung Nguyên sẽ chẳng được yên thân.
Tuấn Hạc nhíu mày hỏi thêm:
- Đại sư có biết danh rành của lão không?
- Gia sư có tiết lộ điều ấy. Lão ta là người Đột Quyết, họ Hướng tên Y Xích.
Tuấn Hạc gọi lão chủ quán tính tiền.
Chàng đưa thêm ba chục lượng để trả món nợ của VÔ Giới.
Lão cười hề hề:
- Nếu biết đại sư đây có bằng hữu là bậc đại phú thế này, dẫu thiếu bao nhiêu tiểu nhân cũng cho cả.
Ba người kéo nhau lên núi, Tây Phật đã nhập định xong, bước ra tiếp khách.
Huệ Vân tỏ lòng kính trọng nên tháo tóc giả quỳ xuống ra mắt:
- Hằng Sơn mạt học Huệ Vân bái kiến Thần Tăng "
Tuấn Hạc cũng gỡ mặt nạ, thi đại lễ.
Tây Phật vóc người nhỏ bé, râu dài đến bụng, da dẻ hồng hào như trẻ thơ. ông cười khà khà mời hai người an tọa.
Tây Phật ngắm nhìn dung mạo của đôi nam nữ rồi thở dài:
- Huệ Vân dạo hữu! Lão nạp xin tặng mấy câu kệ thế này:
"Phật độ hữu duyên nhân, Hồng nhan nhập không môn.
Nhược đông thời thiệp xuyên, Nhất niệm tồn nan quá"
Khứ chi ! Khứ chi ! " (Dịch thơ) "Phật kia độ kè hữu duyên, Má hồng nương tựa cửa tuyền khó xong.
Sang sông giữa tiết trời đông, Lòng còn vương vấn đừng mong tới bờ.
Đi thôi! BỎ thôi!" Huệ Vân nghe xong biến sắc, không hiểu Tây Phật muốn khuyên mình cố gắng tu hành hay hoàn tục. Chữ khứ kia vừa có nghĩa đi tới, vừa có nghĩa vứt bỏ đi Huệ Vân ấp úng nói :
- Bần ni không hiểu diệu ý của Thần Tăng; Tây Phật mỉm cười :
- Chẳng cần phải thấu hiểu. Cái gì cần làm thì cứ làm.
Lão quay sang bảo Tuấn Hạc:
- Thí chủ đột ngột đến đây, chắc là có việc cần?
- Bẩm Thần Tăng! Vãn sinh muốn mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về Sơn Tấy để cứu thuyết thê .
Tây Phật tủm tỉm cười :
- Vật ấy vốn của thí chủ đòi lại giùm, lão nạp đâu dám tiếc.
Lão bước vào phòng lấy Ngọc Trượng ra, trao cho Tuấn Hạc rồi bảo:
- Lão nạp nghe nói vật này còn là chìa khóa mở cửa một kho tàng nào đấy! Nếu có cơ hội, thí chủ hãy tìm cho được kho tàng kia.
Tuấn Hạc gượng cười :
- Vãn sinh không hề có tham vọng ấy.
Tây Phật nghiêm trang bảo:
- của cải nằm chất trong kho chỉ là vật vô dụng. Nhưng nếu dùng để chẩn tế cho dân nghèo thì cũng là cách tạo phúc.
Tuấn Hạc thức ngộ ra, cúi đầu nhận mệnh. Chàng cáo từ đi ngay.
Tây Phật hỏi bát tự của Tiểu Băng, bấm tay tính toán một hồi rồi trấn an:
- Mạng của người này rất lớn, tuổi thọ trên tám mươi, chẳng thể nào đoản mệnh được Thí chủ cứ thong thả mà đi .
Tây Phật đã ngoài trăm tuổi, tinh thông cả phật pháp lẫn dịch số, được xem là đệ nhất kỳ nhân đương đại. Vì vậy, Tuấn Hạc rất vui mừng, yên tâm ở lại một đêm.
Sáng hôm sau, lúc tiễn đưa Tuấn Hạc xuống núi, VÔ Giới gãi đầu nói với Tây Phật:
- Sư phụ! Hàn Ngọc Thiền Trượng là bảo vật trấn sơn, đồ nhi xin đi theo bảo vệ và mang về. Văn thí chủ đây gia vụ đa đoan, chắc không rảnh rỗi để lặn lội ngàn dặm đem trả cho chúng ta.
Tây Phật mỉm cười :
- Muốn đi thì cứ thu xếp hành lý, hà tất phải viện cớ quanh co như vậy?
VÔ Giới mừng rỡ chạy vào trong xách tay nải ra, quỳ xuống lạy tạ rồi đi theo Tuấn Hạc. Xuống đến chân núi, chàng bảo lão:
- Phiền đại sư hộ tống Huệ Vân sư muội về Hán Trung, hẹn gặp nhau ở Hằng Sơn Huệ Vân lắc đầu cười bảo:
- Tiểu muội không nhất thiết phải về Hán Trung nữa. Ơø đấy chỉ còn vài người bà con xa mà thôi. Ba chúng ta về cả Hằng Sơn cho thuận đường.
VÔ Giới hoan hỉ nói:
- Té ra vị ni cô này trong lòng có tâm sự gì nặng nề nên mới định đi chơi một chuyến cho khuây khỏa?
Huệ Vân đỏ mặt, cúi đầu.
Nàng không ngờ lão hòa thượng quái dị này lại đoán ra tâm tình của mình.
Quả thực là từ sau đại hội Hoa Sơn, lòng nàng không còn tĩnh lặng như trước nữa. Đơn Thu Cốt đã cứu mạng nàng và để lại những cảm giác khó quên. Nàng nhớ mãi cảnh tượng mình nằm trong vòng tay một nam nhân, dù khổ công tụng niệm cũng chẳng thể xóa mờ ký ức.
Huệ Hà sư thái thấy nàng gầy đi nhiều và trầm lặng khác thường, bà hiểu ngay tâm sự, dịu dàng nói rằng:
- Sư muội được tạo hóa ban cho một nhan sắc thiên kiều bá mị, tất không phải là người của phật môn. Sư muội hãy hạ sơn ngao du một thời gian xem sao. Nếu tìm được người ấy thì bất tất phải về núi nữa.
Chính vì vậy, Huệ Vân mới rời Hằng sơn bôn tẩu giang hồ và được biết kẻ giả dạng Đơn Thu Cốt và Doãn Tự Vân chính là Văn nhị công tử của Văn gia bảo. Sau đó nàng lại nghe chàng tự vẩn vì toàn gia bị thảm tử.
Huệ Vân đau đớn định trở về Hán Trung thăm mộ song thân một chuyến rồi trở lại Hằng Sơn tu niệm. Nào ngờ, họa trung đắc phúc, tuy bị Tầm Hoa sứ giả bắt cóc, nhưng lại tái ngộ người trong mộng.
Được Tuấn Hạc cứu mạng lần thứ hai, mối tình kia càng sâu nặng. Nhưng Huệ Vân tu hành từ nhỏ nên sợ hãi chính tình yêu của mình. Nàng không dám và cũng không biết cách thổ lộ.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn