Ván Bài Lật Ngửa
Phần 3 - Chương 1
Phát súng trên cao nguyên
Khuôn viên rợp tàn cổ thụ êm ả đến nỗi từ gian phòng lớn – xưa kia, Toàn quyền Đông Pháp và Đại Nam Hoàng đế Bảo Đại vẫn ngự mỗi khi vào Sài Gòn. Tổng thống Ngô Đình Diệm nghe rõ cả tiếng lá rơi bên ngoài. Qua cửa sổ, tổng thống mơ màng nhìn chiếc thảm cỏ sân trước trải rộng một màu xanh dịu dàng. Các chuyên gia quả không uổng công du học: thảm cỏ đã cho tổng thống cảm giác là dinh Độc Lập bồng bềnh giữa một thảo nguyên mênh mông.
Tổng thống thích đi bách bộ vòng quanh dinh, ông vừa làm xong việc đó mà ông muốn mọi người xem như thói quen của một tổng thống – đi bách bộ để suy gẫm quốc gia đại sự. Dưới ánh nắng bình minh, lâu đài quét vôi màu vàng nhạt nổi lên với tất cả phong thái bệ vệ. Tổng thống thầm cảm ơn kiến trúc sư Hermitte, người thiết kế, phó đô đốc De La Grandière, người đặt viên đá đầu tiên, đã lưu lại một công trình thi công vỏn vẹn 19 tháng – từ 23-2-1868 – góp vào vẻ đẹp của “Hòn ngọc Viễn Đông”. Đôi khi ông chợt so sánh dinh Norodom này – mà ông quyết định gọi là dinh Độc Lập – với Viện Cơ mật ẩm ướt nằm trong Hoàng thành Huế, nơi có lúc ông giữ ấn đầu triều kiêm Thượng thơ bộ Lại. Lúc đó, ông chưa kịp đánh giá – đúng ra, ông hơi choáng ngợp, bởi dầu sao Viện Cơ mật vẫn đồ sộ hơn dinh Tuần vũ Bình Thuận và dinh Tuần vũ vẫn đồ sộ hơn chỗ làm việc của viên tri huyện Hải Lăng. Nhưung, thời gian giữ ngôi tể tướng quá ngắn ngủi – chưa được một năm – ông đã phải cay đắng bàn giao cho Phạm Quỳnh, cái gọi là “cuộc cách mạng cung đình” (nhằm đưa số trẻ vào nội các thay cho số già) xì hơi nhanh hơn bánh xe thủng ruột. Lý do thất sủng của ông được hiểu mỗi người một phách. Lúc đầu ông sợ nhưng về sau ông thấy hay hay về cái dư luận cho ông vì “chống Tây”, “chống vua bù nhìn” nên phải ra rìa. Cũng có lúc cái dư luận gán ông là “thân Nhật”, “muốn đem Cường Để về thay Bảo Đại” đe dọa đẩy ông vào khám, song khi Nhật nổ súng ở Lư Cầu Kiều, ông được an ủi ít nhiều và mơ mộng ít nhiều. Còn dư luận cho rằng ông quá trẻ - bấy giờ ông mới 32 tuổi – để đảm đương trọng trách tể tướng, ông thích thú. Nó mơn trớn tính tự phụ của ông. Gia tộc ông đều “Nhất phẩm đại thần” – cha từng là Phụ chính, anh ruột làm Tổng đốc nhưng chưa ai rút ngắn hoạn lộ bằng ông và chưa ai vừa đến tuổi “thành nhân chi mỹ” đã trèo lên ghế cực phẩm như ông. Một dư luận khác, có vẻ thâm thúy hơn, giúp ông tính toán bước đi sau này: những năm 1930, Pháp muốn thực hiện một chính sách phỉnh phờ ở Đông Dương, Phạm Quỳnh là nhà báo làm Thượng thư bộ Học thích hợp hơn ông – quá khứ của ông đánh dấu bằng những vụ sát phạt đẫm máu suốt dải Bình Trị Thiên, sẽ hữu dụng lúc khác. Vả lại, ông thuộc một gia đình đạo Thiên Chúa toàn tòng, khó mà thuận thảo với các đồng liêu hấu hết nếu không theo Khổng cũng là tín đồ đạo Phật.
Mười bảy năm – kể cũng khá dài – ông đứng ngoài lề chính sự. Đôi lúc, ông ao ước nhà vua hồi tâm. Nhưng, nhà vua làm gì có thể nhớ đến ông: vợ của Nguyễn Duy Quang, vợ của các viên quan sẵn sang nhận ơn vũ lộ. Hoàng thượng bận rộn với những chương trình tính hằng đêm… Các người bạn Pháp – họ tiếp cận Toàn quyền, Khâm sứ khuyên ông cứ ẩn nhẫn chờ thời. Về mặt kinh tế, ông chẳng gặp một chút khó khăn nào. Ông đứng ngoài lề chính sự - nói theo nghĩa ông không đảm đương một chức vụ. Chẳng lẽ ông nài nỉ Hoàng đế xin một cương vị thấp hơn cái ông đã mất. Dù sao, ông không thể bắt chước Nguyễn Công Trứ một mực tuân phục ý chỉ của quân thượng, từ Thị lang tụt xuống làm tên lính thú sơn phòng, rồi bò lên Án sát… Chữ “Trung” trong ông không còn giữ nguyên chất. Trên tất cả, ông có Chúa Trời. Vả lại, vua nào chớ vua Bảo Đại thì khó mà cảm hóa ông thành lương tể được.
Ông tự an ủi: Ông Khương Tử Nha ngày xưa đến 80 mới nhận lời thỉnh của Võ Vương Cơ Phát, cầm búa Việt cờ Mao phạt Trụ, hà huống tuổi ông chưa bằng nửa ông Khương. Hơn thế, sau mấy năm đọc sách, quan sát và suy nghĩ, ông tự thấy không nên quá khiêm tốn, dừng ước vọng ngang mức ông Khương.
Từ khi ông thôi quan, tình hình trong và ngoài nước phát triển vùn vụt. Trong nước, Cộng sản lộng hành, ngay ở vùng ông trị nhậm xưa kia và ông đã trừng trị chúng với tất cả sự cứng rắn, vượt qua luật Gia Long hà khắc. Phong trào Mặt trận Bình Dân bên Pháp trực tiếp yểm trợ cho Cộng sản bản xứ và ông thắc mắc mãi vì sao nhà nước Pháp mềm yếu như vậy. Ngoài nước, Hitler lên nắm quyền ở Đức, chương trình Đại Đông Á của thủ tướng Nhật Bản Đông Điều (1) gây bàn tán xôn xao trong các giới mà ông thân quen.
Ông đi lại luôn giữa Huế, Hà Nội, Sài Gòn. Ở Hà Nội, ông ngụ tại nhà luật sư Trần Văn Chương – sau này là bố vợ Ngô Đình Nhu, em ông. Ở Sài Gòn, ông quen bác sĩ Nguyễn Văn Nhã – người không che giấu lòng ngưỡng mộ đối với Chiêu Hòa Thiên hoàng (2), kế tục sự nghiệp vang dội của Minh Trị Thiên hoàng (3). Có thể nói là ông giao du rộng, được sự kính trọng của giới thượng lưu. Sống độc thân, nổi tiếng chính trực và thanh liêm, dám “bỏ ấn tể tướng” vào cái tuổi vừa hơn 30, học rộng – ông thạo văn hóa Hán lẫn Tây phương – thuộc một đại thế gia: gia đình ông đi vào ca dao đương thời ở đất Thần kinh với câu “Đày vua không Khả” (4), ông hội đủ điều kiện để trở nên một chí sĩ mà tầng lớp quý tộc vẫn khao khát. Với tầng lớp này, lòng tin rạn nứt sau khi cụ Phan Sào Nam (5) bị giam lỏng, cụ Phan Tây Hồ (6) qua đời, cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Nguyễn An Ninh không phải là mẫu người mà họ kỳ vộng bởi tư tưởng dân chủ quá gần gũi với nhóm Mác-xít, trong khi Bùi Quang Chiêu, Lê Quang Liêm, Trần Văn Khá thân Pháp quá lộ liễu. Cho nên ông nổi bật như là một điềm báo trước. Sự úy kỵ đối với tín ngưỡng của ông được giải tỏa dễ dàng: không bao giờ ông chen Đức Chúa Trời vào các buổi trao đổi thời cuộc – nhiều người ngỡ ông theo đạo Phật, đạo Khổng hơn là đạo Cơ Đốc. Nhưng, ở Phát Diệm, Xã Đoài, việc ngoan đạo của ông và của một gia đình toàn tòng từ xa xưa lại là một ưu thế khác của ông: các cha cố rao giảng về ông một cách rộng rãi, nhất là khi anh ông thụ phong Giám mục. Thân hào đất Nghệ hỗ trợ ông đắc lực. Sau này, khi Ngô Đình Nhu vào đời, ông hưởng thêm sự ủng hộ của lớp trí thức trẻ, bạn của Nhu và vợ Nhu.
Chiến tranh thế giới bắt đầu. Theo ông, đó là cơ hội. Ông nghiễm nhiên thành một chính khách, tên tuổi gắn liền với giải pháp A hay B nào đó. Nhật đổ bộ vào Đông Dương, ông được hỏi ý kiến, bí mật, tất nhiên. Những người bạn Pháp lại cho ông lời khuyên quý báu: chưa phải lúc.
Đầu năm 1945, ông có mặt ở Hà Nội, ung dung đi nghe Trần Văn Giáp diễn thuyết về đạo Phật tại Viện bảo tàng Finot, đọ tin về Hội nghị Yalta, giữa một mùa rét chưa từng có: 4 độ. Ông đi vào Sài Gòn được íi hôm, Nhật đảo chính Pháp, giới thượng lưu rộn ràng hẳn. Tuy nhiên, tuyên cáo của Hoàng đế khiến ông buồn cười: Bảo Đại mà “đích thân” cầm quyền thì vui thật!
Suốt ngày, khách khứa đầy nhà, đủ loại dự đoán, đủ loại ước mơ, đủ loại “đường lối”. Ai cũng tin là ông sắp được vời ra Huế - ông cũng tin chắc như vậy. Ông chờ đợi. Ông suy tính sẽ lập ra một nội các như thế nào, gồm những ai…
Đùng một cái, nội các do Trần Trọng Kim làm tổng lý ra đời! Ông bị bỏ quên. Bực tức, ông ngả bệnh, phải vào bệnh viện. Điều an ủi ông ít nhiều là Phạm Quỳnh không còn được trọng dụng và nghe đâu đã bị Trần Đình Nam, Tổng trưởng Nội vụ tống giam.
Nằm trên giường bệnh, qua báo chí và bạn bè, ông lần lần thấm thía ông không “lai kinh” là không ngoan. Nội các Trần Trọng Kim như một màn hài kịch – loại kịch dở. Sau này, ông được biết Bảo Đại từng đánh điện vời ông – bấy giờ có một giải pháp gọi là “giải pháp Ngô Đình Diệm”: ông lập nội các với một ít bộ, coi như lát đường để chờ thời cuộc ngã ngũ. Người Nhật ỉm bức điện đó. Nhật không thích một người biết tính toán như ông.
Về sau, ông cho rằng ông may - thanh danh ấy không bị hoen ố - ông suy nghĩ như vậy.
Song cái lo lắng ghê gớm lại là Việt Minh. Việt Minh lù lù, đâu cũng có. Một số thuộc giới thượng lưu cảm tình với Việt Minh. Không thể ở Sài Gòn được. Ông lên Đà Lạt.
Cách mạng tháng Tám nổ bùng. Cái mà ông ghét nhất đã xảy ra. Chế độ Dân chủ Cộng hòa thiết lập với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Vua Bảo Đại thoái vị. Anh Khôi của ông bị xử tội chết. Ông bị bắt. Gần đây, thiên huyền thoại về ông được tô vẽ đầy những nét ly kỳ, ông thích thú với mọi sự tâng bốc. Song, ông không dám quá trớn vì một điểm: ông sống sót là nhờ cụ Hồ tha ông… Hú hồn, chính Phạm Quỳnh đã thế mạng ông! Tốt nhất là lờ đi vậy.
Năm 1947, ông trở lại Đà Lạt. Lúc bấy giờ gia đình Nhu ở đó. Pháp móc với ông, nhưng chưa phải “giải pháp Ngô Đình Diệm”. Vẫn là Bảo Đại. Người Pháp chưa hiểu rằng họ đã trễ tàu.
Linh mục Huệ, như đấng tiên tri Gabriel trông kinh thánh, với nhiều sáng kiến đã lôi ông ra khỏi sự lãng quên và đã định giá ông trên thị trường: đánh tiếng với người Mỹ. Rồi linh mục Cao Văn Luận đưa ông sâu vào vòng tay cơ quan tình báo Mỹ, bấy giờ chưa gọi là CIA mà OSS (7). Một linh mục khác, Emmanuel Jaques Houssa – người Bỉ, từng sống ở Phát Diệm từ 1939 đến 1945, rất quen ông – sửa soạn với chính giới Mỹ. Cao Văn Luận làm con thoi nối Đà Lạt – Ba Lê – Nữu Ước.
Mọi sự đến năm 1950 đã khá rõ rang: Pháp chẳng những không thể quét sạch Việt Minh trong vòng vài tuần lễ, thậm chí vài năm như Leclerc cam đoan mà đang tự hỏi: bao giờ thì bỏ cuộc? Sau trận đại bại trên biên giới Việt Trung, Pháp mất 5.000 quân tinh nhuệ và hai đại tá Lepage và Charton – những kẻ cuồng tín nhất về một nước Pháp gì thì gì chứ không thể thua bọn “Annamít” đã suy sụp tinh thần. Ván bài tuy chưa kết thúc, song triển vọng thì bi thảm. Cho nên, ván bài khác được hối hả xếp đặt. Mượn cớ đi dự năm Thánh bổn mạng, ông sang Mỹ. Fishell, một trong những chỉ huy trung tâm tình báo Mỹ cùng với linh mục Houssa và Cao Văn Luận thu xếp cho ông vào dòng tu Maryknoll ở bang New Jersey. Giám đốc tu viện Keagan bị ông lừa: ông ta nghĩ rằng Diệm sẽ suốt đời làm tông đồ của Chúa bởi không ai trong tu viện cần mẫn hơnn ông – 5 giờ sáng ông đã cầu kinh và kéo dài 3 năm ròng rã. Giữa năm 1953, ông rời tu viện trước sự kinh ngạc của Keagan và mọi người: ông quả quyết khi vào và cũng quả quyết khi ra. Thế là giới chính trị Mỹ lần lượt quen ông. Fishell tổ chức cho ông đi diễn thuyết ở các trường đại học, nhiều trường như Cornell giữ vai trò chi phối dư luận xã hội Mỹ. Giải pháp về Đông Dương do ông trình bày trực tiếp bằng ngôn ngữ và tư tưởng Mỹ là đề tài lôi cuốn, bởi nước Mỹ đang chìm trong hỏa mù chiến tranh lạnh, đặc biệt sau khi Mao Trạch Đông giành quyền bính ở Hoa lục và cuộc xung đột trên bán đảo Triều Tiên còn nóng hổi. Ông trao đổi quan điểm với tổng thống Mỹ Eisenhower, Phó tổng thống Nixon, ngoại trưởng Foster Dulles. Ông đánh bạn với các nhà báo, các nghị sĩ, các nhà doanh nghiệp. Còn hồng y Spellman thì là chỗ cố cựu, ông được Đức Hồng y chiếu cố ngay từ những ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ, coi ông như đứa con tinh thần. Linh mục Cao Văn Luận và Houssa thật có công to: từ những năm 1940, họ đã chăm sóc, đào tạo cán bộ cho ông, tiếp tục đều đặn như vậy – hàng mấy chục người được học bổng nay đã thành tài, ở Mỹ, ở Pháp, Tây Đức và các nước khác. “Một đường lối cổ truyền phương Đông phải do các trí thức tiêm nhiễm kỹ thuật phương Tây thực hiện” – chủ trương của ông được em ông – Ngô Đình Nhu, tán đồng. Đương nhiên, hai anh em ông đều hiểu: người Mỹ không quảng đại đến mức tình nguyện cung cấp vây cánh cho ông mà không đòi hỏi một chút gì “có đi có lại”. Fishell và Houssa chăm sóc cực kỳ tỉ mỉ các du học sinh do linh mục Cao Văn Luận gửi sang và chính linh mục Cao Văn Luận đã sàng lọc cẩn thận khi tuyển chọn.
Ông vốn rất tự cao, tự đại. “Thi ân bất cầu báo” của các hủ nho thời xa xưa, ông thích đọc chơi chứ không hề thích ý nghĩa của nó. Người Pháp nói khác: mỗi chiếc mề đay đều có bề trái. Bây giờ, ông thấy óc thực dụng Mỹ đáng noi theo hơn là sự bay bướm Pháp. Người Mỹ nói: không có cái gì gọi là cho không. Ờ, đúng vậy. Chẳng qua đây là cuộc đấu trí cuối cùng, ông sẽ làm chủ. Vấn đề then chốt là ông về nước, chấp chánh. Mọi thứ đều thứ yếu. Tuổi ông đã vượt con số 50. Tất cả đã chín muồi…
Năm đó, ông sang Ba Lê, ở nhà của một hoàng tộc là Tôn Thất Cần. Người Mỹ khuyên ông giữ quan hệ với Bảo Đại, dù cho bằng sợi chỉ mỏng manh. Cần phải tạo thế hợp pháp trong giai đoạn đầu. Người Mỹ hạ quyết tâm thay chân Pháp ở vùng Đông Nam Á, nhưng thay chân từng bước.
Ông gặp Nguyễn Đệ - đổng lý văn phòng của “Quốc trưởng”. Gã lái buôn dốt đặc cán mai nầy – như ông đánh giá – chẳng vồn vã. Bởi người Pháp nghi ngờ ông. Tuy vậy, do một áp lực ở đâu đó, Quốc trưởng tiếp ông, tại Cannes. Bấy giờ, cựu hoàng sống chính thức với Mộng Điệp – thiên hạn gọi là thứ phi; còn ông, ông gớm ghiếc.
Khá lâu rồi, ông mới gặp nhà vua. Ông kính cẩn chào và bồi hồi trong khoảnh khắc. Gia đình ông đến ba đời phò các vua Nguyễn, ân sủng ấy vẫn chưa phai. Song trong khoảnh khắc ấy, ông lấy lại tư thế để khỏi cúi rạp người như thói quen trước mặt đấng kim thượng. Trước mặt ông chỉ là một cựu hoàng trác táng – nơi sân cỏ cạnh lâu đài Thorene dưới ánh nắng Địa Trung Hải, Mộng Điệp đang phơi mình và ông ngượng nghịu nhìn lên tường, khốn nạn thay: tường treo toàn những bức tranh giống hệt cảnh tắm nắng của “thứ phi”.
Quốc trưởng mỏi mệt. Buổi nói chuyện nhạt nhẽo. Bửu Lộc được chọn thay Nguyễn Văn Tâm chứ không phải Ngô Đình Diệm.
Trên đường trở về Ba Lê, ông hả dạ. Bảo Đại tiêu pha bừa bãi chút thông minh cuối cùng và rõ ràng ông ta nhập nhòa như cái bóng của quá khứ. Đối thủ của ông có lẽ không cần so găng cũng ngã.
Ông chỉ phiền là tình thế thì cấp bách mà cơn mặc cả Mỹ - Pháp lại nhùng nhằng. Việt Minh thừa thắng đánh mạnh, ông sẽ phải đương đầu với bao phức tạp.
Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn cử linh mục Cao Văn Luận sang thúc giục ông. Houssa và Fishell bảo ông hãy thong thả.
Hội nghị Genève khai mạc. Pháp gãy đổ ở Điện Biên Phủ. Và, như một công thức toán học mà Fishell trù liệu 4 năm trước, người ta vời ông ra gánh vác cái cơ ngơi hầu như chẳng còn gì để gánh.
Ông bắt tay vào việc…
*
Sáng nay, trong dinh Độc Lập, ông muốn làm một cái gì đó cho vơi bớt niềm sung sướng đang hành hạ ông và tương xứng với khung cảnh mà ông bỗng phát hiện vẻ huy hoàng như chưa một lần ông cảm thấy.
Ngày nầy, năm ngoái, một ngày trọng đại. Sân trước dinh Độc Lập đông nghịt. Mấy vạn người dự buổi công bố kết quả cuộc trưng cầu dân ý. Tổng trưởng Nội vụ Bùi Văn Thinh dõng dạc thông báo cho quốc nội và quốc ngoại các con số - đầy tin cậy vì có cả số lẻ - 5.838.907 người bỏ phiếu, 5.721.735 người tán thành truất phế Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm lên ngôi tổng thống. Thật nực cười, một tuần lễ trước, chính Bảo Đại ra lệnh cách chức thủ tướng của ông. Thay vì cãi vã, ông lấy nguyện vọng của dân để trả lời cho ý tưởng ngông cuồng và đần độn của ông vua cuối cùng triều Nguyễn. Hẳn là nhà vua phải hiểu: nửa thế kỷ ăn chơi là quá đủ.
Nền Đệ nhất cộng hòa khai sinh. Ông long trọng đọc bản hiếu ước tạm thời và, mặc dù lời lẽ nhuộm màu dân chủ, ông đón nhận sự hoan hô của công chúng như đón nhận lòng chiêm ngưỡng của thần dân. Tiếc là ông đăng quang nơi dinh Độc Lập chứ không phải điện Thái Hòa. Rời Viện Cơ mật năm 1933, non phần tư thế kỷ sau, ông ngồi lên chiếc ghế bành lót nhung đỏ giữa gian phòng tràn ánh sáng. Một chút ân hận: chiếc ghế không chạm rồng.
Có tiếng người rón rén vào phòng.
- Thưa bác con với mẹ con đi dạo một lúc!
Ngô Đình Lệ Thủy đến gần ông. Con bé đã vào lứa nữ sinh, hội nét đẹp của cha và mẹ. Trần Lệ Xuân đứng ngoài cửa phòng, ngoan ngoãn như một cô em dâu mẫu mực.
- Ờ… Con đi với mẹ con đi, nớ về kịp cơm trưa.
Ông vuốt tóc đứa cháu gái.
Chín năm trước, trên Đà Lạt, không phải sự thể êm đềm với ông như vầy. Bấy giờ, Trần Lệ Xuân đanh đá, ngay cả với ông. Cô ta chưa khám phá cái tiềm ẩn trong họ Ngô Đình vào buổi cả nhà điêu đứng. Chồng cô ta, một công chức giữ thư viện, không thể đáp ứng các khát vọng của cô. Còn ông, ông đang mai danh ẩn tích. Chỉ những chuyện bình thường, Trần Lệ Xuân cũng trút nỗi bất bình lên đầu Lệ Thủy. Cô mắng con – bằng tiếng Pháp – và đó là điệp khúc mà ông phải nghe suốt ngày, trước cái lắc đầu ngao ngán của em ông. Bây giờ, Lệ Xuân đang thập thò ở cửa.
Đúng ra, Lệ Xuân đã ngoan ngoãn từ khi cô ta sang Pháp, mùa xuân năm 1954. Nghe ông phàn nàn về chuyến gặp Bảo Đại vô ích, cô ta an ủi ông với những phân tích sắc sảo. Cô ta xuống Cannes và xin yết kiến cựu hoàng. Họ đi tắm biển. Ông nghe đồn và ông giận. Ngô Đình Luyện, em trai ông, được Bảo Đại bổ làm đại sứ lưu động, khuyên ông chớ nghe lời thị phi. Lệ Xuân ở Cannes ngót tuần lễ, cô ta rạng rỡ cho hay là ông sửa soạn về nước gấp.
Những tháng cuối năm 1954 thật đáng lo ngại. Tướng Nguyễn Văn Hinh chống đối ông quyết liệt. Binh mã của ông còn non yếu, làm sao chọi nổi với cả một đạo quân và nhất là đạo quân ấy dựa vào binh lính Pháp? Một lần nữa Lệ Xuân tự nguyện đi thương lượng. Lại đồn đãi, thậm chí, có người dám cam đoan với ông là bà vợ người Pháp của tướng Hinh dọa bắn Lệ Xuân và bà ta có trong tay những tấm ảnh khỏa thân của cả hai người. Ông nổi giận, Nhu khuyên ông chớ để lọt tai những điều nhảm nhí, ông yên lòng, vì ai hiểu vợ hơn chồng. Rồi tướng Hinh “đầu bò” riu ríu giao chức Tổng tham mưu trưởng cho tướng Tỵ, lên máy bay sang Pháp.
Nói thật công bằng, Lệ Xuân vất vả vì nhà chồng. Ông cảm động, quên những gì cô ta làm phiền ông trước kia.
Trần Lệ Xuân cung kính chào ông, khoác vai con gái, ra tiền sảnh. Ông lại chìm vào ký ức…
Thế là 2 năm thử thách gay gắt đã qua. Trong vòng 26 tháng kể từ ngày ông chấp chánh, ông đã xoay chuyển cả một tình thế. Suốt đời chưa bao giờ ông phải xử lý hàng loạt vấn đề lớn lao cỡ đó và ông làm trót lọt. Sau vụ tướng Hinh đến vụ Bình Xuyên rồi giáo phái – không ai đủ sức cự nổi với ông. Bảy Viễn lưu vong. Năm Lửa đầu hàng. Ba Cụt bị chém đầu – Phạm Công Tắc sợ quá trốn qua Nam Vang. Quốc hội lập hiến bầu xong. Quân đội được xây dựng lại. Người của ông nắm hết các ngành, các địa phương. Gần một triệu dân di cư đứng sau lưng, ông bảo họ nhảy vào lửa họ cũng không từ chối. Ông sang Băng Đung và xuất hiện như một nguyên thủ quốc gia cách tân và giàu ý chí. Từ Nam vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, giang sơn đang biến đổi theo chỉ thị của ông. Tất nhiên, góc nhỏ này còn quá chật chội. Ông sẽ là lãnh tụ cả nước, chuyện đó không có gì cần bàn cãi; toàn ông sẽ là lãnh tụ toàn bán đảo Đông Dương, chuyện đó cũng không có gì cần bàn cãi. Tại sao ông không thể là lãnh tụ tinh thần của cả Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện, Phi Luật Tân?
Ông tự hào – những binh lính Pháp cuối cùng đã rời Sài Gòn, sau ngót 100 năm thống trị đất nầy. Chính ông chứng kếi lễ từ giã Việt Nam của tướng Jacquot và đô đốc Jozan. Từ nay không còn Toàn quyền, Cao ủy mà chỉ có đại sứ Pháp, Jean Fayart vừa trình ủy nhiệm thư – chứ không phải quốc thư – trong một không khí biết thân biết phận.
Đôi điều khiến tổng thống chưa hài lòng. Tổng hội Phật giáo Việt Nam họp đại hội lần thứ hai, đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang với các quyết định ẩn ý: xin chánh phủ công nhận ngày lễ Phật đản như ngày Chúa Giáng sinh, trong tinh thần chính sách bình đẳng tôn giáo. Mấy lão thầy chùa nầy muốn gì? Để xem. Quốc hội cứ loay hoay mãi mà không chọn được quốc kỳ, quốc ca, giữa 350 mẫu cờ, 50 bài nhạc dự thi. Có kẻ phá chăng? Đại sứ Mỹ Rheinartd nhắc ông đến lần thứ mười: cố gắng mở rộng căn bản đoàn kết quốc gia. Những người như Phan Quang Đán phải đâu là của hiếm? Đại sứ Mỹ muốn ông trở thành viên thơ lại của Hoa Thịnh Đốn chăng?
Còn Việt Minh, cho đến giờ phút nầy, không đáng sợ như ông từng sợ. Chiến dịch tố Cộng thu kết quả. An ninh lần hồi khôi phục tận xóm ấp. Họ đã không nhân lúc ông và các giáo phái xung đột mà lấn đất thì bây giờ, họ chỉ có nước rút sâu vào chốn thâm sơn cùng cốc. Không phải chuyện Cộng sản ở Việt Nam Cộng hòa làm bận tâm ông. Xóa miền Bắc Cộng sản mới là điều mà mỗi bữa cầu kinh ông đều nhắn gửi với Thượng đế…
Hiệu kỳ “Tiết trực tâm hư” (8) đặt trước mặt ông. Thợ thêu khéo tay thật. Cặp ngà voi cực to bày giữa phòng. Ông lẩm bẩm:
- Phải bảo thằng tỉnh trưởng Đắc Lắc tìm cho vài cặp nữa, gửi biếu ông Lý Thừa Vãn, với ông Tưởng Giới Thạch!
---
(1) tức Hideki Tojo (1884-1945), quân phiệt hiếu chiến, thủ tướng Nhật Bản 1941-1944, tội phạm chiến tranh, bị xử treo cổ năm 1948.
(2) tức Nhật hoàng Showa Hirohito (1901-1989), trị vì Nhật Bản 1926-1989
(3) tức Nhật hoàng Meiji Mutsuhito (1852-1912), trị vì Nhật Bản 1867-1912
(4) Ngô Đình Khả (1857-1923), phụ chánh đại thần triều Nguyễn, cha của anh em Diệm-Nhu, người phản đối việc Pháp đày vua Thành Thái năm 1907.
(5) tức Phan Bội Châu
(6) tức Phan Chu Trinh
(7) Office of Strategic Services: Cơ quan Tình báo Chiến lược
(8) “Tiết thẳng lòng ngay”, hay Chính trực vô tư, chỉ cây tre, hiệu kỳ của Diệm.
Phần 3 - Chương 2
Viên bí thư cóm róm vào. Ông ta chờ đã trót 15 phút, không dám kinh động tổng thống. Mãi khi tổng thống lầm bầm, ông ta mới cúi rạp người, nâng chiếc cặp giấy, đặt thật nhẹ lên mặt bàn.
- Việc chi? – Diệm hỏi.
- Trình cụ, báo cáo của Bộ ngoại giao.
Diệm mở cặp, khẽ liếc viên bí thư. Bên trong cặp một xấp giấy đánh máy, trên góc từ đầu ghi hàng chữ đỏ: “Kính trình cụ”. Diệm bỗng nhỏm lên lật tiếp các tờ còn lại, tìm tờ cuối.
- Răng mà như thế ni?
Ông đẩy cặp giấy về phía viên bí thư. Thường chỉ khi quá vui hoặc quá bực Diệm mới nói giọng Quảng Bình pha Thừa Thiên.
Viên bí thư luống cuống. Ông ta chưa rõ tổng thống nhận xét về cái gì. Luống cuống, râu mép ông ta động đậy như lính thủy đánh semaphore.
Hai người bước vào phòng, nghiêng mình chào Diệm.
- À! Chú Nhu, cháu Luân... - Diệm hờ hững đáp lễ vừa châm một điếu thuốc.
Nhu nhìn Luân, cả hai ngồi xuống ghế đặt sát bàn làm việc của tổng thống. Viên bí thư, ngỡ thoát nạn, chào vui vẻ:
- Thưa ông cố vấn... Chào thiếu tá!
Diệm dụi thuốc mà ông vừa rít hơi, sẵng giọng:
- Tôi bảo đến cả vạn lần: Bộ trưởng không có quyền phê chữ đỏ trên đầu các công văn trình cho tôi. Hiểu chưa! Thầy nói với ông Mẫu, là luật gia phải biết là cuối công văn trình cho tôi cần ghi câu gì chứ?
Diệm không có vẻ chỉ nói với viên bí thư. Trước mặt ông, còn có Nhu và Luân, và ông muốn dặn luôn cả hai người.
Viên bí thư không dám cười nữa. Ông ta “dạ” “dạ” liên hồi, dù rằng ông ta thật tình chưa hoàn toàn nắm được ý nghĩa câu sau của tổng thống.
- Thầy coi đây!
Diệm lôi xấp công văn trở lại, lật tờ chót, mang chữ ký của Bộ trưởng Bộ ngoại giao Vũ Văn Mẫu.
- Nay kính trình... - Diệm trỏ vào hàng chữ nghi thức đó – Cụt như rứa! Trình lên Tổng thống mà chi gọn lỏn hàng tôm hàng cá rứa, coi sao được.
Viên bí thư vẫn ngơ ngác. Diệm nổi nóng, tất nhiên vô cớ mà nổi nóng thì khó giống như thật được. Điều đó chỉ Nhu và Luân thấy rõ, còn viên bí thư, ông ta toát mồ hôi.
- Trước kia, họ trình cho ông Bảo Đại, kết thúc các văn bản mần răng?
Viên bí thư vỡ lẽ, nói trong giọng khấp khởi:
- Trình cụ, cụ dạy chí phải! Kết thúc công văn phải ghi: “ Xin cụ nhận nơi đây tấm lòng tri ân cung kính và trung thành... ”
Nhu nhìn Luân cười nhẹ - nụ cười đượm buồn.
- Thầy nói đúng có một phần. – Diệm đã dịu giọng – Từ này, tôi cấm dùng tiếng “cụ” thay cho tiếng “Tổng thống”. Hiểu chưa?
- Dạ...
Diệm lật một trang trong xấp công văn, hỏi:
- Thằng ni ai bổ nhiệm mà sang Nhật buôn lậu? Tùy viên chi thứ lưu manh đó!
Viên bí thư lại luống cuống. Ông ta phải lấy khăn tay chậm mồ hôi trán.
- Tôi hỏi sao thầy không trả lời? Ai bổ nhiệm Nguyễn Hữu Thế... - Diệm dồn viên bí thư.
Nhu đủng đỉnh đứng lên, lại bàn, lấp xấp công văn.
- Anh bổ nhiệm, chứ ai!
Diệm trợn mắt:
- Chú nói chi lạ rứa? Tôi?
Diệm gạt phăng chiếc gạt tàn thuốc rơi xuống nền, vỡ tan. Gói Ruby Queen cũng rơi theo. Viên bí thư lăng xăng lượm các thứ.
Nhu vẫn điềm đạm trỏ vào một tờ giấy đính trong xấp công văn:
- Thì đây, anh xem!
Tờ giấy có hàng chữ bút chì đỏ của Diệm: Phê chuẩn việc bổ nhiệm này.
Diệm thừ mặt:
- Ai mà lường nổi...
Rồi, như để lấp liếm, Diệm hỏi viên bí thư:
- Hắn là con ai?
Viên bí thư hối hả:
- Trình Tổng thống, con của bác sĩ Nguyễn Hữu Thanh... .
Diệm lại sừng sộ:
- Thầy vẫn chưa bỏ tật hồ đồ! Con của bà nào? Bác sĩ Thanh có tới ba, bốn vợ...
Viên bí thư đành gãi tai, lúng búng:
- Dạ...
- Thôi, thầy sang Bộ ngoại giao...
Viên bí thư mừng rỡ, xếp lại công văn.
- Khoan! – Diệm lại đổi ý. - Thầy gọi cho tôi ông Bộ trưởng tài chính... Bảo ông ấy đến ngay, với tất cả các con của ông ấy.
Viên bí thư đến chỗ đặt điện thoại. Diệm hỏi Nhu:
- Chú với cháu Luân đi đâu về?
- Em với anh Luân đến Bộ thông tin. Em muốn biết lệnh cấm ngoại kiều làm 11 nghề của ta ảnh hưởng tốt xấu ra sao...
- Thế à? Ra sao?
- Xôn xao dữ! Các bang Hoa kiều họp mấy hôm nay, họ cử một đoàn đại biểu do ông Trần Thành cầm đầu xin yết kiến Tổng thống.
- Gây áp lực, hử?
- Chắc là có. Đại sứ Trung Hoa Dân quốc cũng xin gặp ngoại trưởng Mẫu.
- Chú thay tôi mà tiếp Trần Thành. Nói cho họ hiểu: tôi cấm 11 nghề là nhân đạo, đáng lý tôi tịch thu tài sản của họ. Dư luận trong nước thế nào?
- Dĩ nhiên, người ta hoan nghênh. Đã có hai chục nghìn người Việt xin phép hành nghề xuất nhập cảng, thay cho Denis Frères, Poiosard et Veyret, Ismael... và bây giờ thay cho các công ty Hoa...
- Tốt quá!
- Em sẽ thưa với Tổng thống sau...
- Chú không tán thành?
- Nói phải dài. Ngày mai em xin phép làm việc... Anh cần nghỉ, tối nay chiêu đãi Quốc khánh. Chiều nay anh phát biểu với đài truyền hình Mỹ và thu thanh đài quốc gia... Xin nhắc anh: hôm nay, ngày ban bố Hiến pháp.
- Được... Ý chú với cháu Luân thống nhất không?
Nhu tế nhị nhường lời cho Luân.
- Thưa Tổng thống,về căn bản, tôi đồng ý với anh cố vấn!
Viên bí thứ gọi điện xong, báo cáo:
- Trình Tổng thống, 10 phút nữa, ông Bộ trưởng và các con tới. Ông ấy đang ngủ trưa.
- Ủa? Giờ này mà ngủ trưa sao? – Diệm trợn mắt.
- Sắp 12 giờ rồi thưa anh! – Nhu xem đồng hồ.
- Chà tôi không dè... Đợi cháu Lệ Thủy về ăn cơm luôn thể. À! Lịnh cho dân đốt pháo 3 ngày, chú đã kiểm tra lại chưa?
Nhu gật đầu. Viên bí thư lùi ra cửa.
- Này! – Diệm gọi giật ông ta – Sao tên thầy lại là Vương Văn Mì? Sửa lại đi! Mì chẳng có nghĩa gì cả. Một nước văn hiến không nên có người mang tên cục mịch... Hiểu chưa?
Viên bí thư dạ dạ.
- Mỹ được không? Vương Văn Mỹ! Đẹp quá!
Viên bí thư chắp tay:
- Xin tri ân Tổng thống!
Diệm chợt hỏi:
- Sao thầy để râu?
Viên bí thư chưa biết làm gì, Nhu gỡ rối cho ông ta:
- Anh ra đón ông Bộ trưởng.
Diệm ngã người lên ghế bảo:
- Tôi đã ký sắc lệnh đổi tên các tỉnh, các quận. Một nước văn hiến không thể có tên tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một... Căn cứ vào Đại Nam Nhất thống chí mà sửa. Bến Tre là phủ Kiến Hòa. Mỹ Tho nguyên là trấn Định Tường... B’lao nghe mọi rợ quá, tôi đổi là Bảo Lộc. Bù Đốp chẳng có nghĩa gì, nên kêu là Bố Đức, Tônglêcham nêu kêu là Tống Lê Chân...
Rồi Diệm chép miệng:
- Dân ta còn nặng thói nô lệ. Người Pháp đặt tên gì họ kêu tên ấy. Các chính phủ như ông Xuân, ông Hoạch, ông Tâm, chẳng có đầu óc Quốc gia.
Trước thái độ kiêu hãnh của Diệm, Nhu đăm chiêu, Luân lặng lẽ ngồi nghe.
- Chú thấy thế nào? – Diệm hỏi Nhu, khó chịu.
- Em nghĩ nhưng việc anh nêu ra đều quan trọng. Song...
- Song, – Diệm cướp lời Nhu – Chú cho rằng sự chống đối lệnh cấm nhảy đầm là quan trọng hơn, phải không?
Diệm ngồi ngay trở lại, giọng hậm hực:
- Một xã hội xa rời đạo đức cha ông thì còn gì là xã hội. Tôi xem ảnh một đoàn xiếc, con gái đàn bà gần như lõa thể. Ra chợ tôi thấy món lạ, hỏi thì mới biết đó là thứ ngừa thai. Bậy quá, ai cho nhập cảng thứ phản thiên nhiên đó? Sao cứ thổi phồng nhu cầu sinh lý? Chỉ có những kẻ mang hạ bộ trên đầu mới chống luật lệ của Chính phủ!
Nhu, mặt đau khổ, nói chậm rãi:
- Thưa anh, thưa Tổng thống... chúng ta thuộc về một gia đình mà số phận gắn liền với vận mệnh quốc gia. Em thấy bất kỳ việc lớn nhỏ, Tổng thống nên hết sức thận trọng.
- Chú chậm hiểu hơn thím Nhu! – Diệm kêu lên – Chú học rộng, thông minh, có tài, sao lại lờ mờ quá vậy? Gia đình là nền tảng của xã hội. Lý thuyết Cần lao Nhân vị của chú không dựa trên sự củng cố đạo đức gia đình thì mong gì thi thố được ngoài xã hội!
Nhu khẽ lắc đầu. Diệm ngó anh ta trừng trừng. Có vẻ Tổng thống sắp nổi cơn thịnh nộ.
Viên bí thư trở vào, và lần này ông ta cứu Nhu:
- Trình Tổng thống, ông Bộ trưởng tài chánh và bốn con đã tới...
- Vậy hử? Thầy lấy cái máy ảnh Polaroiid của Đông cung Thái tử Nhật biếu tôi...
Diệm chợt thấy Vương Văn Mì đã cạo bộ ria mép, hỏi:
- Ủa, sao thầy cạo râu?
Mì không trả lời, lầm lũi rời phòng.
- Chú với Luân ngồi chơi. Tôi gặp ông Bộ trưởng năm ba phút... Trưa nay Luân ăn cơm với gia đình, nghe!
- Anh thấy ở anh Diệm có điều gì khác lạ không? – Nhu hỏi. Luân im lặng, ngó theo làn khói thuốc.
- Không chỉ một điều mà nhiều điều khác lạ. - Nhu nói trầm ngâm – Chẳng hạn vừa rồi, Tổng thống nghiêm cấm các Bộ trưởng trưởng châu phê trên công văn. Trước đây, Tổng thống nghiêm cấm các Bộ trưởng cắm quốc kỳ trên xe, nghiêm cấm các quan chức đi lại có hộ tống, kể cả Tổng tham mưu trưởng. Tổng thống đòi cuối công văn phải ghi công thức tâng bốc Người. Tôi còn biết, Tổng thống ra lệnh các báo đài đăng ảnh của Tổng thống, ảnh nào, mỗi ngày mấy ảnh, khôi phục “kim khánh” coi như là huân chương cao nhất của Việt Nam Cộng hòa. Chưa hết, Tổng thống quyết định sáng mồng Một Tết, Nội các phải đến dinh Độc Lập chúc mừng năm mới Tổng thống...
Nhu nói một thôi, càng nói càng nặng giọng.
- Tất cả những điều khác lạ đó chứng tỏ Tổng thống chú ý những cái vặt vãnh. Tổng thống dồn tâm trí đổi tỉnh lỵ Bến Tre ra Trúc Giang, đổi Vương Văn Mì ra Vương Văn Mỹ, bắt bẻ từng dấu chấm phẩy trong công văn... đồng thời lấy cá nhân mình làm trung tâm chân lý. Chỉ còn đổi dinh Độc Lập ra điện Thái Hòa, tôi không bào đệ mà hoàng đệ, lấy bài “Đăng đàn cung” làm quốc ca, cờ “Long Tinh” làm quốc kỳ là đủ! Ngay Tổng trưởng phải hạ xuống là Bộ trưởng, không phải vì sự chính xác của ngôn từ mà vì anh tôi muốn hạn chế chia sẻ chữ “Tổng” cho người khác! Khi đầy quyền uy, người ta thêm tính xấu, tính ganh tị...
- Tôi e rằng anh quá bi quan! - Luân nói giọng vui.
- Không! – Nhu phản ứng – Giữa Tổng thống và tôi có một khoảng cách về sự đánh giá tình hình. Tổng thống cho rằng chúng ta đã lên đến đỉnh của sự thành công, tôi cho rằng chúng ta đang bắt đầu leo núi. Còn biết bao việc cũ chưa xong, đã nảy ra biết bao nhiều việc mới phải đối phó... Tôi nhớ lời Trần Bình nói với Hán Cao tổ: Bệ hạ có thể ngồi trên lưng ngựa mà cái trị thiên hạ...
Nhu ngó thẳng Luân, giọng tha thiết:
- Tôi mong anh, được Tổng thống tin cậy, đôi trường hợp, Tổng thống nghe anh hơn nghe tôi và thường lấy anh để soi rọi lại tôi, nên có lời khuyên Tổng thống... Anh thạo Lê-nin hơn tôi. Tôi chống Lê-nin về toàn bộ ý thức hệ của ông ấy, song tôi tán thành nhiều ý của Lê-nin, trong đó có ý rằng: Một khi người ta bắt bào chữa cho sai lầm thì đó là nguy cơ chính trị... Tổng thống đang bào chữa cho sai lầm!
Luân lựa lời nói với Nhu. Anh thừa hiểu, giọng Nhu tha thiết như mắt Nhu lại chứa chất hoài nghi – Anh che sai lầm của Tổng thống và giúp Tổng thống bào chữa sai lầm!
- Tôi sẽ làm hết sức mình... Có điều sự thể chưa đến nỗi như anh nghĩ, đó là theo ý riêng của tôi. Tổng thống thích quyết đoán – không phải lúc nào cũng không cần thiết cả!
... Ngoài sân, Bộ trưởng tài chánh và bốn con nhỏ ngơ ngác. Diệm đứng trên tam cấp. Viên bí thư mang cho ông chiếc máy ảnh.
- Trình Tổng thống, đã chỉnh xong. Tổng thống bấm chỗ này...
Diệm nhận máy ảnh, tươi cười bảo:
- Đông cung Thái tử Nhật Bản vừa tặng tôi chiếc máy ảnh loại mới, chụp lấy liền... Gọi ông và các cháu tới để tôi tặng một tấm. Ông với các cháu đứng gần nhau... Rứa... Tôi bấm đây... Chú ý!
Diệm bấm. Bấm xong, trao máy ảnh cho viên bí thư, còn ông thì bước xuống thềm,vò đầu mấy đứa bé. Chúng sợ đến xanh mặt. Viên bí thư rút tấm ảnh, đưa lên ánh sáng mặt trời, sau đó trình cho Diệm tấm ảnh màu đã chụp xong.
- Đẹp hỉ! – Diệm thỏa mãn - Chỉ có cái là chẳng ai cười cả!
- Thầy Mỹ! - Diệm bảo – Vào lấy bọc kẹo!
Diệm phân phát kẹo cho bốn đưa bé và tặng Bộ trưởng tài chánh tấm ảnh.
- Ông Bộ trưởng có thể về!
Bộ trưởng tài chánh nghiêng mình chào Diệm, bốn đứa bé khoanh tay lí nhí thưa. Tất cả lủi thủi ra xe.
Diệm trông theo:
- Ông Bộ trưởng khéo dạy con, hỉ!
Diệm ngồi vào ghế, châm thuốc.
- Chà! Nghe Tỉnh trưởng Quảng Nam phúc tình mà tội cho dân. Việt Cộng ngăn cản mà dân cứ ùa ra quận lỵ, tỉnh lỵ thỉnh ảnh của tôi. Lễ “thượng ảnh” thật long trọng, khắp thôn xã...
- Tối nay, sau chiêu đãi, anh định tiếp ai, ngoài ngoại giao đoàn? – Nhu như vô tình ngắt lời Diệm.
- Mời cho tôi đại biểu quốc hội, đại biểu các hiệp hội...
- Thưa anh, em muốn gặp một số trí thức, nhà báo...
Diệm xua tay:
- Thôi! Họ hay lý sự lắm. Lúc nào cũng dân chủ... Họ chẳng hiểu thế nào là dân chủ Đông phương. Ở nước ta, dân chủ tồn tại trong đời sống dân tộc cả ngàn năm rồi: trong nhà có cha anh, trong họ có tộc trưởng, trong hương thôn có chức việc. Trên cao nhất, cần một minh quân và một lương tể. Chính ông Ayub Khan bên Hồi, thư cho tôi nói rằng nước ông ấy đang học tập nước ta để xây dựng nền dân chủ đó!
Rồi Diệm cười hả hê:
- Chú rất giỏi. Gọi chú là bác học cũng không quá. Song, không phải hễ bác học là đã nghĩ chu đáo mọi thứ!
Diệm cười to, đỏ mặt. Nếu là Ngô Đình Lệ Thủy và Trần Lệ Xuân chưa về, không biết ông còn cười đến bao giờ.
Phần 3 - Chương 3
Tin tức trên các báo hàng ngày:
Lựu đạn nổ tại rạp Nguyễn Văn Hảo giữa lúc đoàn Kim Thoa đang diễn vở “Lấp sông Gianh” của Duy Lân. Nữ nghệ sĩ Tâm Ái chết. Duy Lân gãy một chân. Nhạc sĩ Tám Sự mù mắt. Nhiều người bị thương. Hung thủ mặc quần áo An ninh quân đội, bị cảnh sát hạ tại chỗ...
Phóng sự của báo buổi sáng:
Như bổn báo đưa tin, tối hôm kia, một quả lựu đạn nổ trên sân khấu Nguyễn Văn Hảo. Phóng viên Văn Hồng, người chứng kiến từ đầu đến cuối nội vụ, tường thuật như sau:
“Sài Gòn... tháng 11-1956. Mặt tiền rạp Nguyễn Văn Hảo rực rỡ trong ánh điện nhiều màu. Khán giả chen nhau mua vé. Gánh Kim Thoa khai trương với vở dã sử của soạn giả Duy Lân: Lấp sông Gianh.
Chẳng rõ vì hiếu kỳ hay vì danh tiếng của Duy Lân và của cô đào trẻ đang lên Tâm Ái, cùng toàn ban Kim Thoa với Tám Vân, Minh Chí mà người xem đông đảo khác thường như vậy. Chưa đến giờ, không còn một ghế trống. Đặc biệt khá nhiều quân nhân hoặc ngồi các ghế “súp” hoặc đứng. Cốt truyện theo “Programe”: Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có một đôi trai gái yêu nhau và gia đình đồng ý cho họ cưới. Song, cô Ngọc Lê (Tâm Ái) sinh sống ở bờ Nam sông Gianh, còn Thành Duy (Tám Vân) lại ở bờ bắc con sông bị chúa Trịnh và chúa Nguyễn lấy làm ranh giới chia hai đất nước. Thành Duy toan vượt sông đón người yêu thì bị quân chúa Trịnh bắt và đày lên mạn ngược. Ngọc Lê bởi nhan sắc kiều diễm, bị sung vào cung chúa Nguyễn để đàn hát giúp vui cho Chúa. Thế tử Phúc Đông (Minh Chí) say Ngọc Lê tìm cách chiếm đoạt nhưng Ngọc Lê một lòng chung thủy với Thành Duy, lại nhờ bà đầu gánh che chở, nên giữ được tiết trinh. Một hôm, Chúa (Hoàng Giang) gọi gánh hát vào phủ. Ngọc Lê hát một bài dâng lên Chúa. Chúa khen và cho phép cô xin một điều bất cứ điều gì Chúa cũng sẽ làm cô vừa lòng, Ngọc Lê xin được về bên bờ Bắc để sum họp với chồng. Chúa nổi giận, ra lệnh cho cô phải chọn giữa việc vào nhà ngục với việc lấy Phúc Đông. Ngọc Lê chọn nhà ngục. Phúc Đông cảm phục Ngọc Lê, tìm cách cứu cô. Chẳng may, Chúa phát giác và Phúc Đông bị đày ra đồn Nhật Lệ. Thành Duy trốn thoát trại giam, trà trộn theo quân chúa Trịnh và đánh chúa Nguyễn, dùng lời hơn lẽ thiệt gợi lòng yêu đồng bào ruột thịt của bình sĩ và, tiếng sáo của anh làm xúc động cả binh lính bờ nam. Ngọc Lê, nhờ bà đầu gánh giúp, có mặt vào lúc đó. Lính và dân hai bờ, mặc kệ quan hăm dọa, khiêng đất lấp sông Gianh...
Tuồng diễn trót lọt từ đầu đến phút lấp sông Gianh. Khi các diễn viên bằng động tác tượng trưng ùa ra giữa sân khấu nhảy múa thì đèn vụt tắt và một quả lựu đạn nổ dữ dội... Tiếng rú thê thảm vang lên. Gần như đồng thời với tiếng lựu đạn, một tiếng súng ngắn nổ tiếp, một nạn nhân trúng đạn chết liền. Khi đèn sáng lại, người chết và người bị thương nằm đầy sân khấu. Cảnh sát rúc còi. Hình như trước đó đã xảy ra xô xát ở chỗ đặt cầu dao điện. Nội vụ đang trong vòng điều tra. Tổn thất cả gánh Kim Thoa rất nặng. Sau đây là danh sách người chết và bị thương... Có tin gì thêm, chúng tôi sẽ đăng số báo ngày mai.
Báo cáo của Nha cảnh sát Đô thành.
Top Secret(1) số 22/TS.
Sài Gòn, November (2)...
Kính gởi Nha tổng giám đốc cảnh sát Quốc gia.
Kính Thiếu tướng Nguyễn Ngọc lễ, Tổng Giám đốc.
Tiếp báo cáo số 19-TS chung quanh việc lựu đạn nổ ở rạp Nguyễn Văn Hảo, nay kết quả giám định và điều tra cho biết:
1) Một nhóm An ninh quân đội đã đánh trọng thương trung úy cảnh sát Lê Văn Minh, tòng sự tại Nha cảnh sát Đô thành – người do bà Hoàng Thị Thùy Dung, Bí thư của Thiếu tướng tổng giám đốc gọi đến giữ trật tự trong rạp – để cắt cầu dao điện. Cầu dao bị cắt 45 giây. Đó là lúc lựu đạn được ném lên sân khấu.
2) Hung thủ dùng lựu đạn O.F loại mới. Lựu đạn nổ vào 23 giờ 37 phút.
3) Vào 23 giờ 37 phút 2 giây, đèn chưa cháy lại, một kẻ lạ mặt dùng súng ngắn bắn chết một quân nhân. Kẻ lạ mặt lẫn lộn trong khán giả trốn thoát.
4) Theo một số người chứng kiến, kẻ lạ mặt dong dỏng cao, tuổi lối 25, mặc quần áo cảnh sát. Khám nghiệm tử thi quân nhân, biêt rằng kẻ lạ mặt dùng súng Vesson ngắn nòng. Điều đó xác minh thêm kẻ lạ mặt.
5) Người chết, trúng đạn ngay đầu, đạn xuyên óc. Tên là Vũ Đình Chu, thiếu úy An ninh quân đội. Khám nghiệm xác nhận đây là hung thủ ném lựu đạn, trong túi Chu còn một quả O.F.
6) Công việc điều tra gặp một số khó khăn:
a) Thiếu tướng giám đốc Nha An ninh quân đội không tạo điều kiện dễ dàng cho thiểm nha hỏi những nhân viên An ninh quân đội cùng đi với Vũ Đình Chu và thiểm Nha tin rằng đồng bọn hành động có chỉ huy, theo một kế hoạch định trước.
b)Linh mục Hoàng Quỳnh trực tiếp gặp giám đốc nha cảnh sát đô thành sáng nay, buộc thiểm nha phải chấm dứt cuộc điều tra, tống giam trung úy Lê Văn Minh và giao nộp cho linh mục kẻ đã bắn Vũ Đình Chu.
7) Dư luận dân chúng rất bất lợi cho chính phủ, nhất là các báo tung tin trái ngược nhau. Báo Em của Nguyễn Tấn Sĩ (Dương Từ Giang) quả quyết “Bàn tay của bọn chia rẽ Bắc Nam nhúng vào máu nghệ sĩ”, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai và Sài Gòn Mới của bà Bút Trà thì nghi nghi hoặc hoặc: Tự do, Ngôn luận, Cách mạng, Quốc gia... cáo buộc Cộng sản, mà lý lẽ hàm hồ, nên tác dụng ngược lại.
Xin kính trình Thiếu tướng để tường.
Trung tá Giám đốc
*
Luân, cùng Dung vào rạp trước giờ mở màn. Thạch và Lục tháo mồ hôi mới vẹt được đường cho họ. Khi tất cả ngồi vào chỗ - trên lầu, hàng ghế đầu – Dung dùng khăn tay quạt lấy quạt để, Luân mua cho cô chiếc quạt giấy và tiện thể mua luôn mấy gói hạt dưa.
- Khủng khiếp! – Dung vừa quạt vừa cắn hạt dưa, giọng nũng nịu – Không có anh, đời nào em vào đây. Từ bé, lần đầu em xem cải lương. Em không thích. Giá ban Việt kịch Năm Châu diễn tiếp những vở như “Người mặt cháy”, nóng mấy em cũng xem.
Luân thông cảm với Dung, Dung lớn lên trong một môi trường khác, chưa quen nghệ thuật dân gian. Một lần, anh rủ cô xem tuồng cổ, cô gắng gượng ngồi vì ngại Luân buồn – cô chẳng hiểu gì cả. Trái lại, xem kịch “Người mặt cháy”, cô sôi nổi hẳn. Kịch gần gũi cô hơn, ngoài lý do cô đã đọc nguyên tác “Tính cách người Nga” của A. Tolstoi mà Nguyễn Thành Châu Việt hóa thành kịch. Anh cũng đã đưa cô đi xem phim “Không một mái nhà” và “Lòng nhân đạo” – những bước chập chững của nền điện ảnh có xu hướng tiến bộ ở Sài Gòn. Tất nhiên, Dung thích.
Luân còn thông cảm với Dung bởi rạp hát cải lương quá ngột ngạt. Hơi nóng hừng hực – dù mùa này thời tiết khá dịu. Quang cảnh hỗn tạp càng ngột ngạt hơn: trẻ con khóc, người lớn cãi vã tục tằn, nào khạc nhổ, nào rao hàng.
Dung đọc khe khẽ tờ chương trình cho Luân nghe. Anh đã biết sơ sơ nội dung vở tuồng và vì vậy mà anh rủ Dung đi xem. Gần đây, một sự thôi thúc vô hình khiến Luân luôn muốn chia sẻ niềm vui riêng với Dung. Từ từ nhưng vững chắc, Dung chiếm một chỗ trong tình cảm sâu kín của Luân, tuy chưa bao giờ hai người vượt quá làn ranh cho phép và riêng Luân, chưa bao giừo phát triển mối quan hệ xa hơn mối quan hệ cộng tác giữa hai người.
- Lính xem đông dữ! – Thạch nhận xét.
Từ trên lầu, Luân nhìn tòan rạp và anh thấy ngay cảnh tượng không bình thường: quân nhân chiếm một tỷ lệ khá trong khán giả. Một nhóm áp sát sân khấu, số còn lại ngồi rải rác trên ghế “súp” dài theo đường dẫn từ cửa ra vào sân khấu. Trên lầu, quanh Luân, không có một bóng quân nhân nào cả. Nội dung vở tuồng khó mà lôi cuốn những người lính, nhất là những người lính mặt mũi hung tợn, có vẻ sẵn sàng xung trận hơn là thưởng thức nghệ thuật.
“Thanh toán với nhau chăng?”. Luân ngẫm nghĩ. Chuyện các sắc lính ẩu đả, đâm chém, thậm chí bắn lộn... xảy như cơm bữa. Dẫu sao, cũng cần đề phòng. Anh bảo Thạch xuống lầu quan sát.
Thạch trở lên thì màn đã mở. Thạch cho biết hầu hết quân nhân là An ninh quân đội, dân di cư. Một toán lảng vảng nơi đặt cầu dao điện.
“Hay là chúng định hành hung đoàn Kim Thoa. Tuồng Lấp sông Gianh mang ý nghĩa chống chia cách đất nước, tuy tố cáo chúa Trịnh và chúa Nguyễn, song vẫn đập chúa Nguyễn mạnh hơn”.
- Cô gọi điện cho Nha cảnh sát đô thành yêu cầu phái cảnh sát đến giữ trật tự. Tôi ngại bọn An ninh quân đội gây rối. - Luân bảo Dung.
Thạch đưa Dung xuống phòng chủ rạp, nhờ điện thoại. Sân khấu lắng đọng với tiếng hò cao vút của Ngọc Lê.
- Xong rồi! – Dung trở lại bảo Luân.
Bây giờ, màn một đang hồi vui vẻ: Ngọc Lê và Thành Duy đang tỏ tình bên bờ sông.
- Nếu em là Ngọc Lê em sẽ bảo anh chàng Thành Duy: nên về học cách tỏ tình với phụ nữ. Chưa chi đã: Nàng đẹp tựa tranh Tố Nữ, suối tóc dài lay gợn trong mây, mắt hồ thu vừa ngó đã say, màu da ngọc làu làu bông tuyết... - Dung cười nắc nẻ.
- Cô quên là câu chuyện cách chúng ta hai trăm năm!
- Anh nói sai rồi! Cách hai trăm năm mà dám khen: môi nàng tựa đóa hải đường vừa hé nụ... Hồi đó, nhận xét thế các cụ đét cho mà chết!
Tuy phê phán lời lẽ ba hoa của vở tuồng, Dung lại vỗ tay hăng hái khi màn một kết thúc. Và, cô rưng rưng nước mắt với hàm hai, khi Thành Duy vượt sông bị bắt, bị đày. Không chỉ có Dung, mà Lục cũng khụt khịt mũi.
Thạch dẫn hai sĩ quan cảnh sát đến trước Dung.
- Thưa, tôi là trung úy Lê Văn Minh, tòng sự ở Nha cảnh sát đô thành, được lệnh đến trình diện với bà!
Một trong hai người chập gót chân, báo cáo.
- Cùng đi với tôi có thiếu úy Lê Ngân và hai tiểu đội!
Dung vội vã chậm nước măt, chạm nhẹ tay Luân, cầu cứu. Luân ngồi yên. Không thể khác được, Dung phải đứng lên bắt tay hai sĩ quan. Trung úy Minh thẳng người, nhưng môi cố mím. Anh rất trẻ và chắc chắn đã kinh ngạc vì Dung còn trẻ hơn anh. Một cô gái đẹp, rụt rè, chưa lau sạch nước mắt thương cảm với số phận một cô gái khác trên sân khấu, lại là người đủ quyền lực gọi sĩ quan như anh đến nghe lệnh.
Dung phát bực. Luân không giúp cô. Dung đâu biết Luân đang sững sờ. Thiếu úy Lê Ngân chính là Quyến, trung đội trưởng truyền tin của tiểu đoàn 420, cùng với Sa được Luân chọn về thành giúp anh. Từ khi chia tay ở Phụng Hiệp, anh bặt tin Quyến. Ai dè Quyến lò mò vào nha cảnh sát! Mắt Quyến hấp háy!
“Nó không ngờ gặp mình” – Luân nghĩ.
Khán giả trên đầu ngó Dung. Cô càng quýnh.
- Cám ơn hai anh. Đây là anh Luân của tôi! - Dung giới thiệu Luân. Nói xong, như trút gánh nặng, cô thở phào, ngồi xuống.
Luân đứng lên, bắt tay hai sĩ quan. Dĩ nhiên anh và Quyến bóp ngầm tay nhau đến mức xương tay muốn vỡ.
- Có triệu chứng An ninh quân đội gây rối trong buổi hát. Phiền trung úy và thiếu úy cho cảnh sát theo dõi, nhất là nơi đặt cầu dao điện và sân khấu...
Hai sĩ quan cảnh sát đi làm nhiệm vụ. Dung càu nhàu:
- Anh ác ghê! Không tiếp họ ngay lúc đầu. Em xấu hổ đến chín người.
- Họ đến trình diện với “bà” chớ có phải với “ông” đâu!
Luân đùa. Và anh vội né Dung đấm anh. Sau này, mỗi khi vui, Dung thường đấm anh.
Màn ba đang diễn. Dung quên việc vừa rồi, nói khẽ:
- Cải lương hay, phải không anh? Em thích quá!
*
Kịch bản màn ba và màn năm vở Lấp sông Gianh:
Màn ba: Phủ chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn và vương phi vừa nhắm rượu vừa xem múa. Đoàn vũ nữ múa một điệu Chàm.
Chúa Nguyễn (khoát tay): Múa như vậy là đủ. Bây giờ ta muốn nghe hát. Trong bọn ngươi ai hát hay, ta trọng thưởng cho.
Bà đầu gánh quỳ xuống.
Bà đầu gánh: Nàng kia (trỏ Ngọc Lê) hát hay nhất...
Chúa Nguyễn (ngó Ngọc Lê): Nàng hát đi... Nàng tên gì, quê quán ở đâu? Sao mặt mày buồn bã lắm vậy?
Ngọc Lê (quỳ): Dạ tiện nữ làm nghề dệt lụa bên bờ Nhật Lệ, tên Ngọc Lê, họ Trần...
Chúa Nguyễn: Tên và người cùng đẹp!Hát đi!
Vương phi (ngó Ngọc Lê): Nàng là Trần Ngọc Lê?
Ngọc Lê: Thưa vâng!
Vương phi (với chúa Nguyễn): Chúa công không biết nàng sao? (chúa Nguyễn lắc đầu). Vì nàng mà Thế tử Phúc Đông ốm o gầy mòn đó!
Chúa Nguyễn: Vậy sao?... Ta sẽ tác thành cho!
Ngọc Lê: Tiện nữ xin dâng chúa thượng cùng vương phi một bài hát. Nếu bài hát vừa lòng hai vị, xin hai vị cho tiện nữ một lời thỉnh cầu...
Vương phi: Được! Vàng bạc, gấm vóc... (cười) và ngôi chánh thất của Thế tử.
Ngọc Lê: Tiện nữ sẽ trình thỉnh cầu sau. Bây giờ, tiện nữ dâng hai vị bài hát (Ngọc Lê nắn phím đàn, mắt ngó mông lung): Chàng ở bờ bắc sông Gianh, em ở bờ nam, nhớ nhau mà không sao gặp mặt, dù hai ta vẫn cùng uống chung dòng nước...
(Vọng cổ câu 1)... in bóng hai đưa đôi bờ... Nước trong veo và nước chảy hững hờ. Ai chia cắt mối tình vốn trắng tinh như hồn ta con gái và như nụ hoa còn giấu mùi hương, nhìn màu xanh bên kia là gặp bóng người thương nghe sóng vỗ ngỡ lời than, nghe gió khuya như ai đó thì thầm. Đêm khẽ gọi: chàng ơi! Mà đáp lại chỉ lạnh lẽo vầng trăng chia Nam Bắc...
Hậu trường, Thành Duy đệm: Hỡi em gái nhỏ bờ nam mỗi sáng không còn ra bờ sông ngồi giặt lụa, tận biên thùy gối kiếm, ta nghe em như tiếng nhạn sương sầu thảm, cành liễu ta vịn u buồn như hoàng hôn nhuộm xám...
(Vọng cổ, câu 2) Ta đếm bước đi và nghe cát sỏi cũng sụt sùi.
Ngọc Lê (ca nối): Anh ở đầu non, trăm nỗi ngầm ngùi. Em nhặt lá khóc tình duyên cuối bãi. Sỏi cát sụt sùi hay chính lòng ta...
Thành Duy (ca nối): Trách ai? Muốn hỏi trăng ngà.
Trăng im. Hỏi trúc. Là đà, trúc im!
Ngọc Lê (ca nối và dứt): Trời cao dẫu hỏi, trời cao nữa
Còn lại đôi bờ vọng xót xa...
(Hậu trường tấu nhạc, bài “Tình trong lá thiếp” của Phan Huỳnh Điểu). Sân khấu lắng một lúc.
Chúa Nguyễn: Hát hay mà buồn quá!
Vương phi: Bây giờ, nàng hãy vào trong thay đổi xiêm y. Ta cho gọi thế tử nơi đồn Ái Tử...
Ngọc Lê: Không! Tiện nữ là gái có chồng... Xin vương thượng giữ lời hứa, tha cho tiện nữ về bờ bắc sông Gianh!
Vương phi (sửng sốt): Nhà ngươi nói chi?
Ngọc Lê: Tiện nữ muốn sum họp với chồng! Chồng tiện nữ ở bờ bắc...
Chúa Nguyễn (vỗ bàn): Cha chả, giỏi cho con tiện tì!
Vương phi: Nàng điên loạn rồi sao chớ? Nàng không biết sông Gianh là quốc giới hay sao?... Nàng không biết là lệnh chúa cấm qua lại con sông đó, hay sao?
Chúa Nguyễn (cười gằn): Rồi nhà ngươi sẽ mãn nguyện. Nhà người vượt sông khi ta tuốt gươm và trở cờ bắc phạt... Ta phải diệt hết lũ vô đạo đang ngự trị bờ bắc. Thượng đế trao cho ta sứ mệnh đó...
Ngọc Lê (đứng thẳng): Chúa công lầm rồi! Non nước này từ Lạng Sơn đến Cà Mau chung một nòi giống. Sông Gianh làm sao là biên giới được? Sự chia cắt bấy lâu đau lòng trăm họ, chúa công nỡ nào vấy máu đồng bào mình...
Vương phi: Con nhỏ này lớn mật! Ta hỏi mi lần cuối: chọn lầu son gác tía cùng con ta hay chọn ngục đá gômg cùm?
Ngọc Lê: Tôi chọn một dải gian sơn toàn vẹn!
Chúa Nguyễn: Con tiện tì phải đền tội!
Ngọc Lê: Trăm họ sẽ hỏi tội chúa công. Một đầu rơi chớ vạn đầu rơi, chúng dân cũng nhất quyết đòi xóa lằn ranh sông Gianh vô lý!
Chúa Nguyễn: Võ đao quân! (Dạ!)
Tiếng Phúc Đông, hậu trường: Xin vương phụ hay dằn cơn thịnh nộ, đừng làm cho họ Nguyễn nhà ta phạm tội ác giết một người con gái kiên trinh và bị lịch sử lên án đã vì lòng tham ích kỷ nỡ cắt đôi non nước chung máu thịt tự bao đời...
Màn năm: Cảnh lấp sông Gianh
(Hò lơ) Lấp sông này! Lấp sông này...
Lấp sông lấp cả những bầy sói lang!
Thanh bình ta đón nhau sang
Nghìn năm con cháu Hồng Bàng cầm tay!
(Ngọc Lê ngã đầu vào ngực Thành Duy. Nhạc đánh bài Câu hò bên bờ Hiền Lương của Văn Cận).
*
Dung sụt sùi mãi.
- Chị Ngọc Lê chinh phục em! Em nhớ quê quá...
Luân suy tư về hiệu quả của nghệ thuật. Tuy vậy, vở tuồng lộ liễu, không thể diễn tiếp được. Duy Lân giở gắm nhưng chưa làm đủ liều lượng. Bộ Thông tin không phải là những thằng ngu...
Khi vở diễn đến đoạn cao trào thì chừng chục tên An ninh quân đội xông vào nơi đặt cầu dao điện. Trung úy Minh giang tay cản chúng.
- Các anh định làm gì?
- Chúng ông đánh bỏ mẹ mày! – Một tên không đeo cấp hiệu, mặt choắt, cằm phất phơ mấy sợi lông đen, thét to. Cả bọn túm lấy Minh, tước súng. Tên mặt choắt nện lên đầu Minh một thanh sắt, Minh ngã quỵ.
Quyến vẫn theo dõi đám An ninh quân đội áp sát sân khấu, chợt thấy một trong số đó – một gã to béo – móc túi ra một vật tròn tròn.
Khán giả vỗ tay hoan hô. Đèn vụt tắt. Từ tay gã to béo, vật ấy bay lên sân khấu.
- Lựu đạn! – Quyến hô hoán. Anh nâng nòng khẩu Vesson. Ánh lửa lóe, kèm một tiếng nổ dữ dội. Quyến bóp cò, nhắm đúng gã to béo đang khom lưng tránh miểng lựu đạn, dưới ánh mờ của lóe lửa.
Luân nhìn thấy tất cả. Anh rút súng, kéo Dung vào lòng, Thạch đâu lưng vào anh, còn Lục, tuy chậm chạp, song cũng án trước Dung.
- Chết tôi, trời ơi! – Tiếng của cô đào Tâm Ái, thủ vai Ngọc Lê.
- Nó đấy! – Mấy tên An ninh quân đội lao vào Quyến. Một ghế đẩu, ném thật mạnh, trúng ngực anh.
- Bắn nó!
Quyến nghe tiếng cò súng khua. Nhịn đau, anh đạp tung cửa hông, thoát ra hẻm cạnh rạp, vừa chạy vừa thổi còi báo động.
Trung úy Minh tỉnh dậy. Anh cố sức đẩy một tên giữ chặt cầu dao. Cầu dao đóng lại. Đèn bật sáng.
Bọn An ninh quân đội tháo lui. Bấy giờ, còi cảnh sát đã rộ.
... Cảnh náo loạn kéo dài 15 phút. Sân khấu đẫm máu. Sau cùng Luân dìu Dung ra khỏi rạp. Anh đích thân chỉ huy cứu cấp nạn nhân của đoàn Kim Thoa và gọi riêng một xe Hồng thập tự chở trung úy Minh và Quyến vào bệnh viện quân đội. Quyến bị chấn thương nơi ngực. Anh thều thào:
- Anh đừng lo...
Luân dặn thật khẽ.
- Vào nhà thương chú đề phòng tụi nó trả thù... Tôi sẽ nhờ quân cảnh coi chừng giúp.
Trên xe về nhà, Dung khóc thành tiếng:
- Tội nghiệp chị Ngọc Lê!
(1) Tối mật
(2) Tháng 11.
Phần 3 - Chương 4
Nhu rít hết hơi thuốc này đến hơi thuốc khác. Trước mặt anh ta, một linh mục đẫy đà, tóc cắt ngắn, áo chùng đen, ngực lủng lẳng tượng Chúa.
- Con phải hạ lệnh tống giam tên trung úy cảnh sát đã đưa lính đến can thiệp, cho bác sĩ Tuyến bắt và điều tra ngay con Thùy Dung nào đó, cảnh cáo giám đốc cảnh sát đô thành và tổng giám đốc cảnh sát quốc gia! Bọn ăn hại! Con ra lệnh trong vòng ba ngày phải lôi cho ra kẻ bắn chết thiếu úy Vũ Đình Chu. Trong ngành cảnh sát thôi. Đạn Vesson mà!
Giọng ông linh mục thật hách. Đôi mắt lương ti hí của ông không thèm ngó Nhu.
Nhu cố kềm chế.
- Cha đợi kết quả. Con cho biết bao giờ thì ý cha được thi hành?
- Cha nói hết chưa? – Nhu dụi thuốc. Anh ta nhỏm dậy, ém từng lời trong kẽ răng:
- Cha hành động mà không hỏi ai hết! Cha đọc tin trên báo này thì biết.
Nhu đẩy tờ Tiếng chuông sang ông linh mục. Báo chạy “tít” màu đỏ, suốt 8 cột: “Côn đồ nổ lựu đạn giết nghệ sĩ”. Ông linh mục cầm tờ báo, liếc qua, rồi vứt xuống bàn, lấy khăn lau tay, nói lạnh lùng:
- Con ra lệnh đóng cửa tờ báo Cộng sản này nội hôm nay!
- Thế, có cần đóng cửa trụ sở hội Ái hữu nghệ sĩ, cấm đoàn Kim Thoa và lôi quan tài nạn nhân vứt ra đường không? - Nhu hỏi thô lỗ.
- Làm chính trị mà nhân đạo kiểu con, có ngày chết không đất mà chôn! - Linh mục vẫn khinh khỉnh – Cha cho con hay, hôm nay giáo dân Hố Nai, Xóm Mới biểu tình đập phá rạp Nguyễn Văn Hảo, đánh cho tụi nào dính đến tuồng “Lấp sông Gianh” một trận tơi bời...
- Cha ra lịnh?
Linh mục cười mỉa:
- Tất nhiên!
Nhu vụt đứng lên. Linh mục bấy giờ mới ngó theo anh ta. Nhu lại máy nói, quay số, tay run bần bật:
- Alô! Tôi, Nhu đây – Giọng Nhu khản đặc – Tôi muốn nói chuyện với trung tướng tổng tham mưu trưởng... Nhanh lên! – Trong lúc chờ đợi, tay Nhu nhịp liên hồi trên bàn – Ông Tỵ đó phải không? Tôi, Nhu... có mấy việc: Một, ông cho cấm trại số An ninh quân đội vào đêm hôm qua có mặt ở rạp Nguyễn Văn Hảo... Phạt một tuần trọng cấm trung tá phó giám đốc Nha an ninh quân đội... Sao? Ông Mai Hữu Xuân không đồng ý à? Phạt ông ta luôn! Sẽ xét sau vụ truy tố...Ông ghi kỹ cho. Hai, điều ngay ba đại đội dù, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, dẹp tất cả trò biểu tình bất kỳ ai... Cho phép lính dù được tước vũ khí các đám quân nhân biểu tình, giam giữ tụi nó. Ai chống cự bằng vũ khí thì lính dù được phép bắn! Bảo vệ rạp Nguyễn Văn Hảo trụ sở hội Ái hữu nghệ sĩ, đoàn hát Kim Thoa... bảo vệ lễ cầu siêu các nạn nhân, giúp họ an toàn đưa đám... Di cư à? Tôi cho quyền ông tống giam tất... Cả linh mục làm xằng, cách ly tạm thời. Xin ý kiến giám mục? Tôi đồng ý... Chào trung tướng...
Nhu gác máy, trở lại chỗ ngồi. Linh mục tái mặt.
- Con xử sự với cha như thế sao?
Nhu bốp chát:
- Thế cha không tự hỏi cha xử sự như vậy thì còn ra cái thể thống gì nữa. Ở đây không phải là Bùi Chu, Phát Diệm! Cha không còn là tổng chỉ huy bộ tự vệ!
Chuông điện thoại reo, Nhu đến, cầm ống nghe.
- Vâng, tôi, Nhu đây... Chào giáo sư Mẫu... Thế à? Ông bà Unu, có thể hỏi chúng ta vụ Kim Thoa sao? Chà... Rối quá... Tùy giáo sư... Cứ cho là kẻ giả làm an ninh quân đội... Đang điều tra... Đại sứ Mỹ Rheinardt cũng hỏi à? Tôi sẽ trực tiếp trả lời đại sứ...
Nhu ngó xéo linh mục:
- Cha thấy đấy, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đang rồi ruột vì... Xin lỗi cha, tôi đành phải vô lễ, vì cái kém thông minh của cha! Ông bà Unu đang là quốc khách của ta, họ chẳng hiểu ta làm ăn thế nào. Họ vừa ở Hà Nội vào, ngoài đó đâu có loạn xạ như vầy... Quái lạ thật! Làm chính trị vào thời đại này mà cha ngỡ như vào thời buổi trung cổ, không bằng!
- Anh không được xấc xược! Tôi có quần chúng trong tay, anh hiểu chưa? Anh có cái gì? - Linh mục nhìn Nhu thách thức.
- Thế à? - Nhu làm vẻ kinh ngạc – Cha có quần chúng ư? Quần chúng ngu xuẩn như mấy thằng ném lựu đạn vừa rồi, tôi bắn ráo! Tôi không yêu cầu cái tuồng xỏ lá đó... Tôi không yêu gì bọn nghệ sĩ bị Cộng sản đầu độc đó... Song, tôi cũng ghét lũ người cục súc, chẳng biết lường hậu quả chính trị... Ai đời, Hiến pháp vừa ban bố, lại chào Hiến pháp bằng lựu đạn, loại tấn công, mới chết chứ! Thằng nào hạ tay thiếu úy cưng của cha, tôi mà biết được, tôi gắn mề đay ngay... Nó đỡ cho chính phủ bị nhục, bị chửi... Tôi sợ cái thằng đó lại là thằng Cộng sản, ta mới bí lối... Quốc gia giết nghệ sĩ, Cộng sản trừng phạt kẻ giết nghệ sĩ!... Sao, cha thấy chỗ hay ho đó chưa?
Nhu rít thuốc, lừ lừ nhìn linh mục:
- Còn cha, nếu cần tôi nói với Đại sứ Rheinardt một tiếng, quỹ cứu trợ dân đi cư chuyển qua người khác, là xong! Là hết sạch quần chúng...
Linh mục vụt xìu xuống. Ông ta không biết làm gì, hai tay chùi lia lịa mặt bàn đầy sợi thuốc cả tàn thuốc.
- Thôi được! Ta rút kinh nghiệm. Con cho hủy lệnh bố trí lính dù đi, kẻo náo động dân chúng... Mà, cũng thương dùm số An ninh quân đội bị phạt... Có nên kỷ luật trung tá phó giám đốc không?.... Còn việc này nữa, cha sẽ làm lễ cho thiếu úy Chu ở nhà thờ lớn...
Giọng linh mục nhẹ nhàng như ông ta hát kinh đạo.
Nhu lắc đầu:
- Tôi nhốt bọn An ninh quân đội, ít ra một tháng! Cha đừng cho thăm nuôi. Ai thăm nuôi, tôi bỏ tù! Thằng trung tá chịu khó ăn gạo lứt khô vài bữa, để nó hiểu ai là cấp trên của nó... Còn lễ cầu hồn, cha muốn thì mang về xứ đạo Bình An mà làm... Cha làm lễ, báo chí nó vạch ra chính cha chỉ huy vụ ném lựu đạn, dư luận rùm lên, có khi cha phải ra tòa... Đừng hòng làm lễ ở Vương cung thánh đường... Đức giám mục chẳng chịu đâu... Nhiều linh mục không tán thành cha, cả giáo dân nữa... Nói để cha liệu mà từ nay dè dặt. Thôi, cha về được rồi!
Linh mục uể oải đứng lên, Nhu dặn với:
- Cha muốn bắn Cộng sản, tôi không cản. Thiếu gì dịp. Miễn phải khôn ngoan một chút... Đã bắn thì bắn công khai, đàng hoàng, bắn theo pháp luật! À! Đừng bày đặt lạc quyên cho thằng thiếu úy an ninh... Cha đâu có thiếu tiền xài, phải không?
Linh mục khuất sau cửa, Nhu ngả người, thở dài.
Chuông điện thoại reo.
- Alô! Nhu đây... À, anh Luân... Sao? Anh có mặt ở hiện trường? Bậy bạ vô cùng... May quá... Ồ! Cả nàng của anh cũng “lâm trận” nữa? Chính cô Dung gọi điện cho nha cảnh sát? Bravo! Tôi sẽ thưởng trung úy Minh, cho anh ta lên đại úy. Sao? Anh nói lại đi... lẽ nào loạn đến thế?
*
Bệnh viện Cộng hòa giữa khuya.
Trung úy Minh, mặc quần áo bệnh nhân, đầu quấn băng, nặng nhọc nhỏm dậy... Anh rời giường chuệnh choạng bước vào phòng vệ sinh.
... Anh mở cửa phòng. Tấm gương gắn trên bồn rửa mặt chợt hiện lên một chiếc mũ. Minh quay lại... Một người, blouse trắng, ghì anh. Anh kêu ú ớ... Một người nữa từ ngoài vào, khép cửa. Cả hai đè anh. Anh vùng vẫy... Chúng bịt mũi anh bằng chiếc khăn long. Anh lịm dần... Một tên, cằm phe phẩy mấy sợi lông đen, cột một dây điện lên bồn nước. Cả hai xốc thi thể Minh, đã mềm nhũn, tròng dây vào cổ. Thi thể Minh lo lửng như người tự vận.
... Cũng tại bệnh viện Cộng hòa, đêm đó tương tự xảy ra ở phòng khác.
Quyến thức giấc. Cánh cửa phòng khua khẽ. Trước khi ngủ, Quyến cẩn thận chèn cửa bằng chiếc bàn con. Đồng hồ tay của Quyến chỉ hơn 1 giờ. Không phải y tá vào thăm bệnh, hẳn rồi. Quyến nghiêng người, kéo khăn trùm kín đầu, chừa một khoảng trống nhỏ quan sát.
Cửa phòng hé từ từ bởi vướng chiếc bàn con. Ánh đèn hành lang in hai bóng người lên cửa kính. Hai người vận blouse của nhân viên bệnh viện.
Quyến tháo chạy khỏi dám an ninh quân đội. Xe cấp cứu đưa anh vào đây và anh mê man suốt đêm hôm đó, lên cơn sốt suốt ngày nay. Chập tối, anh tỉnh dậy. Bác sĩ cho biết ngực anh va chạm mạnh, may mà xương sườn và nội tạng không thương tổn. Sau khi ăn bát súp, Quyến khỏe dần. Anh đòi khẩu Vesson và đặt nó lên đầu giường.
Bây giờ, Quyến mới sống lại giây phút gặp Luân. Quyến không nghĩ rằng anh sẽ gặp Luân trong trường hợp như vậy. Chia tay Luân ở Phụng Hiệp cuối năm kia, Quyến và Sa lại chia tay ở Trà Ôn. Quyến theo kế hoạch của anh Sáu Đăng, về nhà người bác ruột, chủ sự bưu điện quận Lái Thiêu. Bác của Quyến, vợ mất sớm, không con, nuôi Quyến lúc Quyến vừa biết nói, cho ăn học và cũng lén cho Quyến đi kháng chiến. Ông đón Quyến với tấm lòng của người cha, xoay sở cho Quyến một tờ lý lịch và tấm thẻ kiểm tra bảo đảm: con trai một “ách” (1) trong quân đội Pháp, quê Ninh Hòa, cha bị Việt Minh thủ tiêu, trình độ văn hóa năm thứ hai chương trình trung học Pháp. Với chừng đó vốn liếng, Quyến được nhận vào trường sĩ quan cảnh sát đào tạo cấp tốc theo đòi hỏi của chế độ mới. Tháng 7 năm nay, sau một năm học tập, anh thi tốt nghiệp, đỗ cao, hạng tối ưu, cùng đôi người nữa là khôi nguyên của khóa. Lập tức, anh được gắn lon thiếu úy cảnh sát trù bị, tập sự tại nha cảnh sát, chuyên trách an ninh.
Anh vẫn thường để ý tìm Luân. Lúc đầu, không có tin tức gì. Anh không được quyền liên lạc với Sa, nhưng tình cờ một lần anh gặp Sa. Qua Sa, anh biết tin Luân. Thế là yên tâm.
Tối hôm qua, không nhằm phiên trực, anh định dạo phố, đã thay quần áo. Trung úy Lê Văn Minh, trưởng toán an ninh, hớt hải đến buồng anh - ở ngay trong vòng rào nha, khu dành riêng cho sĩ quan độc thân. Trung úy cho biết cần đưa hai tiểu đội cảnh sát đến rạp hát Nguyễn Văn Hảo ngay, theo mật lệnh của người tên là Hoàng Thị Thùy Dung, vì không sẵn sĩ quan trực, trung úy nhờ anh cùng đi. Vốn chơi thân với Minh, anh vui vẻ đồng ý. Thạch đón họ trước cửa rạp. Thạch là cảnh sát bảo vệ, họ biết, còn Thùy Dung là ai họ không rõ. Cả Minh và Quyến đều bật ngửa: Thiệt là khó gọi cô gái ấy bằng bà. Nhưng, Quyến mới thật sự lảo đảo. Luân ngồi cạnh Thùy Dung. Cha mẹ ơi, anh Bảy Luân đây... Không thấy thằng Sa, Quyến đã vồ tay Luân bằng cả hai tay mình. Và, bây giờ thì vỡ lẽ thêm. Cái “bà” tên Thùy Dung há chẳng giới thiệu: Anh Luân của tôi, đó sao? Quyến như đi trên ngọn cỏ. Chà, anh Bảy xáp vô một chị, chưa chắc “Hoa hậu Vespa” qua mặt nổi... Vậy là chị này cũng “đàng mình”chẳng sai!
Quyến dò la Thạch, Thạch “lên lớp” Quyến:
- Biết ít thì sống lâu, biết nhiều quá chết yểu!
Chị Thùy Dung làm chức gì mà nha cảnh sát te te theo lệnh? Coi bộ ngon lành dữ đa!
Rồi lựu đạn nổ. Rồi Quyến hạ thằng An ninh quân đội. Anh hành động hoàn toàn theo lương tâm. Một tên giết người, nó phải đền tội. Sự việc tiếp sau phức tạp quá, song Quyến không ân hận. Anh sửa soạn trước thái độ: sẽ nhận và nói rõ lý do... Anh tin là cái vỏ hợp pháp đó che được anh. Rồi Luân ân cần dặn dò...
... Cuối cùng, cánh cửa hé rộng. Hai bóng người lách vào. Cả hai mặc blouse trắng, đội mũ trắng.
Quyến một tay bấm công tắc đèn, một tay nắm gọn khẩu Vesson, khoát chăn, bật dậy. Hai người lạ mặt chói mắt vì ánh đèn đột nhiên sáng rực, chưa kịp phản ứng thì họng súng đã chĩa vào họ:
- Giơ tay lên! – Quyến ra lệnh.
Hai người líu ríu giơ tay.
- Quay lưng lại! – Quyến ra lệnh tiếp.
Đúng như Luân liệu trước, bọn An ninh quân đội trả thù. Một trong hai đứa cằm dính mấy sợi lông trông như khỉ đột. Quyến suy tính nhanh.
- Tụi bây là An ninh quân đội, tao biết! Tao có thể bắn chết tụi bây như chơi. Tao có thể hô hoán, lính gác vô còng tụi bây... - Quyến nhăn mặt: ngực anh nhói – trong hai thằng chắc có thằng ném ghế vào anh.
- Nhưng mà, tao tha cho lần này. Lần này thôi! Nhớ nghen. Ra ngay khỏi đây...
Có tiếng chân người rậm rịch.
- Quân cảnh tới đó... Hai đưa bước đi tự nhiên, đừng để linh nghi!
Hai tên không kịp cám ơn, lách vội ra ngoài. Quyến chùi khẩu Vesson dưới gối, ôm ngực. Toán quân cảnh thò vào phòng:
- Có chuyện gì vậy thiếu úy?
- Không có chuyện gì... Hai bác sĩ vào thăm bệnh tôi! – Quyến trả lời điềm tĩnh.
- Thăm bệnh gì vào giờ này? Thiếu úy có gọi họ không?
Một quân cảnh chợt thấy sợi dây điện rơi dưới đất:
- Không phải bác sĩ... Tụi giết người!
Lập tức báo động khắp khu bệnh viện.
Dĩ nhiên, Quyến không thể biết quân cảnh vừa tìm thấy xác trung úy Minh, phòng bên cạnh.
---
(1) Adjudant: hạ sĩ quan Pháp, tương đương với thượng sĩ.
Phần 3 - Chương 5
Ly Kai đinh ninh là gã không thể nào lọt vào cuộc họp, mặc dù Suần Quài hứa chắc là gã sẽ được tiếp đón, thậm chí còn thân tình hơn số thương gia, nghiệp chủ người Hoa có mặt hôm nay. Dương Tái Hưng, qua Loẽng, bảo gã phải lân la với nhóm “Lâm Sử”, nhờ nhóm đó bắc cầu mà phăng ra nhóm Hoa vận “Giải Liên”… Nói chung gã mù tịt những phe nhóm trong đám người Hoa này.
- Thây kệ, chúng nó nói chính trị, nó nói cái gì thì nị ừ cái nấy… Nhóm “Giải Liên” có thể dính đến thằng cha gì mà ông chủ biểu nị theo dõi đó! – Loẽng bảo.
Từ khi nhận được chỉ thị của Dương Tái Hưng, Ly Kai bám sát Luân. Cả khi Luân học trên Đà Lạt, Ly Kai cũng lên đó vài lần dò hỏi. Tuy nhiên, tài liệu về Luân chẳng được là bao. Ly Kai vấp một khó khăn: Ngô Đình Nhu và bác sĩ Tuyến lạnh nhạt dần với gã. Gã hiểu lờ mờ nguyên cớ: Họ không tin gã thoát chết nhờ phóng xuống nước. Có thể họ cho gã đầu hàng Lại Văn Sang, phun hết bao nhiêu điều cơ mật. Có thể họ nghi gã dính líu vào cái chết của Tiểu Phụng. Và cũng có thể họ ghép gã trong danh sách điệp viên của CIA – lý do sau chót vững hơn hết, bởi họ chỉ giảm tin dùng gã chớ chưa đuổi gã hoặc làm một cái gì khác ghê rợn hơn.
Dương Tái Hưng không hài lòng nhiều về gã. Một trong yêu cầu mà Dương Tái Hưng chỉ thị là gã phải dụ cho được Thạch hoặc Lục, hay tiếp cận với bác sĩ Soạn và vợ ông ta – người thân của Thùy Dung – gã không làm được. Khó lắm! Thằng Thạch láu lỉnh, không khéo nó biết gã dò la Luân, báo với Luân, Luân hỏi Nhu – tất nhiên Nhu không giao gã việc đó, họ sẽ trị gã. Thằng Lục lù đù, cạy răng không nói. Gia đình bác sĩ Soạn chẳng có quan hệ nào với Hoa kiều, làm sao xáp vô được? Trần Vĩnh Đắt làm việc vói Dung khi lão ta còn ở ngành công an, song lão “dê xồm” tán những thứ linh tinh về cô gái mà lão đam mê, ngoài ra chẳng cung cấp được một chút gì bổ ích. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ biết Dung trong công vụ - ông ta ngại, dòm ngỏ việc riêng của cô sẽ phật ý Luân mà Luân thì đang được họ Ngô trọng dụng.
Bây giờ, Dương Tái Hưng lại chỉ thêm cách cho gã lần mối…
Pô Xường Thài, do nghị định của chính phủ buộc mọi công dân phải lấy tên theo âm ngữ Việt Nam, nên đổi ra Bá Thượng Đài, ngụ trong một ngôi nhà hai tầng kiến trúc lối Pháp vào đầu thế kỷ khá đồ sộ, nằm giữa vòng rào sắt mà mỗi thanh giống như ngọn giáo chĩa lên trời, trên đường lớn Gaudot, vừa cải danh thành Khổng Tử.
Pô Thường Xài nổi tiếng là “vua sắt” – chuyên mua bán vật liệu xây dựng. Ông ta thuộc hạng ngươi Hoa điển hình ở Chợ Lớn: Từ Quảng Châu sang đây, khi vừa biết nói, tài sản của gia đình ông – cha, mẹ và ông ta gọn lỏn trong hai cần xé. Nghề đầu tiên của cha mẹ ông ta là mua ve chai, đôi dép lốp xe mỏng dính bấu vào chân bằng một sợi thun phía sau giữ lấy gót và một sợi thun phía trước ghì ngón chân cái, đã lội khắp hang cùng ngõ hẻm thành phố, từ Bà Chiểu đến Phú Lâm. Hai cần xé, vẫn là hai cần xé mây theo họ sang đây, nhứn nhẩy trên vai, dưới chiếc nón mây rộng vành và trong bộ quần áo xanh vá chằng vá chịt. Đó là hình ảnh mà Pô Xường Thài lưu giữ trong ký ức về cha mẹ mà cũng là về bản thân mình. Hồi lên 7, Pô Thường Xài bắt đầu nối nghiệp cha mẹ, mặc dù nhà đã khấm khá – rời khoảng trống cạnh rạp Casino Chợ Lớn, mướn một căn phố lùi phía sau đường Thủy Binh.
Khi Pô Xường Thài lên 15, bang Quảng Đông cho phép cha của ông ta hùn vốn mở một tiệm lạc son (1) ngay dưới chân cầu Palikao. Năm lên 20, gia đình ông tách riêng, làm chủ một tiệm bán sắt vụn trên đường La Ceinture, trước cổng đồn Cây Mai. Đó là năm Thế chiến thứ nhất kết thúc. Pô Xường Thài đã khôn lớn, cha mẹ ông vẫn ngày ngày quảy cần xé len lỏi các xóm trong thành phố, giao cho ông mở mang cơ nghiệp theo lối khác. Mãi năm lên 30, Pô Xường Thài mới cưói vợ, con một chủ hiệu lạc son ở cầu Ông Lãnh. Ông ta cưới vợ chưa bao lâu thì cha qua đời. Đám tang đơn giản. Rồi đến lượt mẹ ông. Khi những người thuộc thế hệ cũ khuất bóng, Pô Xường Thài một mặt xây cho họ mồ mả thật lộng lẫy để đền ơn, một mặt mua nhà đồ sộ ngay mặt tiền đại lộ.
Những tiệm lạc son nhỏ lần lượt về tay Pô. Sau cùng, chính cha vợ ông bán cơ ngơi ở cầu Ông Lãnh cho ông. Thế chiến thứ hai mang tiền vào nhà ông như nước: sắt là của quý, mà ông có hằng kho đầy ắp, ngay Dainan Koosi cũng phải tìm đến ông để xưởng tàu vủa họ ở Chánh Hưng có thể hoạt động. Chiến tranh Việt - Pháp tiếp tục hỗ trợ ông. Ngày nay, tuy còn danh nghĩa “vua sắt” ông thật sự đã là vua dệt, vua chất dẻo, và cũng có lẽ được gọi là vua ngân hàng: cổ phiếu của Pô – ông chưa bao giờ tiết lộ, song chẳng có gì là khó hiểu – khá cao trong Bank of China, Bank of Communication, và cả trong chi nhánh Hong Kong Exchange office (2). Dụ 53 của chính phủ Diệm, gây trở ngại cho Pô – trong 11 nghề ngoại kiều không được làm, có nghề sắt đồng – nhưng chỉ vài hôm, mọi sự đâu vào đấy: Pô Xường Thài lãnh thẻ căn cước với tên Bá Thượng Đài, dù cho mãi tới bây giờ, câu tiếng Việt mà Pô nói suôn sẻ nhất vẫn là câu: de chai pể, sắt pể pán hôn…(3).
Ấy vậy mà Bá Thượng Đài lại dám mời Lâm Sử mở hội nghị tại nhà.
Vì sao đại thương gia Bá Thượng Đài quan hệ với Lâm Sử, ta sẽ tìm hiểu sau. Ta hãy làm quen với Lâm Sử.
Người Triều Châu, thầy giáo dạy học ở Bạc Liêu, Lâm Sử đi kháng chiến, cán bộ của Hoa kiều giải phóng liên hiệp hội, gọi tắt Giải Liên, thành viên của mặt trận Việt Minh – và sau này, của Liên Việt. Lâm Sử được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1947, lần lượt công tác trong hội Giải Liên cấp quận, cấp tỉnh rồi lên tổng hội. Năm 1951, Lâm Sử trở thành một trong những cán bộ chủ chốt của ban Hoa vận xứ ủy, tổng biên tập báo Giải Liên. Năm đó, Lâm Sử đang học lớp chỉnh huấn thì vợ anh có thai – té sông chết đuối. Tin đến giữa lúc anh đang “ngồi thị phạm” (4). Anh chỉ biến sắc một thoáng, tiếp túc hành thành bản tự kiểm điểm. Bấy giờ, anh được nhà trường nêu lên tấm gương kiên cường có một không hai.
Sau hiệp định Genève, Lâm Sử được phân công về hoạt động ở Sài Gòn. Anh lấy vợ kế. Do sự thỏa thuận giữa trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Lâm Sử - cùng một số cán bộ - tác khỏi đảng Việt Nam, trực thuộc Bắc Kinh. Nhiệm vụ của ban cán sự này là chuyên trách với Hoa kiều tầng lớp trên, còn quần chúng lao động Hoa kiều thì do đảng Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, qua một số cán bộ vốn công tác chung với Lâm Sử trong tổng hội Giải Liên.
Tới đây, xuất hiện sự khác biệt có tính nguyên tắc trong phương châm vận động quần chúng, Hoa kiều giữa hai đảng. Trực tiếp nhận chỉ thị từ Bắc Kinh, nhóm Lâm Sử đưa ra khẩu hiệu “Trường kỳ mai phục, xúc tích lực lượng diện hương Tổ quốc” (5) trong nhóm Giải Liên, theo quan điểm “Ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh” của đảng Việt Nam mở rộng phòng trào và gắn phong trào của lao động người Hoa với phòng trào lao động nói chung. Đảng Việt Nam xem những tư sản mại bản người Hoa câu kết với đế quốc ngụy quyền – kẻ áp bức bóc lột quần chúng Hoa Việt – là đối tượng đấu tranh, còn nhóm Lâm Sử xem bọn chúng như đồng minh, xuất phát từ huyết thống chứ không từ giai cấp.
Bá Thượng Đài chẳng biết ất giáp gì – ông ta thoạt đầu cũng ngán tiếp đón một “Trung cộng” như Lâm Sử, nhưng Suần Quài giải thích cho ông ta hiểu: Trung Cộng hay Trung Hoa Dân quốc chẳng qua là bề ngoài, tương lai sẽ chỉ là một nước Trung Hoa bá chủ; cái cần đối phó là bọn “Ố nàm chảy” (6) , nhất là bọn Cộng sản “Ố nàm” (7) chúng nó vừa đánh bại Pháp, nếu chúng nó đánh bại Mỹ nữa, con đường thu hồi Đông Nam Á của Trung Quốc sẽ tắc nghẽn. “Không có hai mặt trời”, Suần Quài lý luận như vậy. Bá Thượng Đài hỏi: Mà tại sao Trung Cộng lại ủng hộ Việt Cộng?
- Hà! – Suần Quài tỏ ý thương hại cho sự tối dạ của “vua sắt” – Giả tỷ như Mỹ thắng Việt Cộng, làm sao nước Tàu xuống phía Nam được? Con cò con ngao cắn nhau, ngư ông mới thủ lợi được chứ! Mỹ với Việt Cộng đánh nhau, đứa thắng đứa bại đều yếu xìu… Biết chưa?
Bá Thượng Đài phục lăn. Ông ta vững bụng hơn nữa vì biết rõ sự họp mặt sẽ có Tào Phu, thân cận với Lý Lương Thần – được hiểu ngầm là dính dáng chặt chẽ với đặc vụ Tưởng Giới Thạch.
Cuộc họp gồm tất cả sáu người: Lâm Sử, Tần Hoài (8), Bá Thượng Đài, Tào Phu – Giám đốc Mekong Rice Export (9), Diệu Thọ, chủ nhà thuốc Vạn An Đường với hiệu cù là tự nhận “chánh gốc Miến Điện” – tóc đen nhánh dù tuổi đã hơn 70. Người thứ sau là Ly Kai – nguyên chủ chứa sòng bạc Đại Thế Giới, bây giờ vẫn tiếp tục nghề cũ, nhưng gom lại còn một món “đề 36 con” dành cho giới giàu có, mở lưu động. Khi thì Đại La Thiên, khi thì khách sạn Bồng Lai, khi thì nhà hàng Đồng Khánh.
Suần Quài – bao giờ cũng phì phò chiếc điếu cán dài, người xương xẩu – giới thiệu Lâm Sử khi sáu người ngồi chiếc bàn đặt ở gian phòng tĩnh mịch phía sau. Ông ta nói tiếng Bắc Kinh, chưa sõi lắm.
- Các vị đã biết, ông Lâm Sử muốn làm quen với chúng ta. Tôi đã nhiều lần nói về ông với các vị…
Lâm Sử - trẻ nhất trong số có mặt – đi vòng, bắt tay từng ngươi. Anh ta nắm tay Ly Kai thật lâu:
- Hẩu! Tôi nghe danh tiếng xếnh xáng từ khi còn kháng chiến trong khu…
Suần Quài đã nói đúng: Ly Kai được đón tiếp đặc biệt thân tình – đến khi tan cuộc họp gã mới hiểu lý do.
- Tôi hân hạnh gặp các vị hôm nay. – Lâm Sử nói, tiếng Bắc Kinh thật trôi chảy, văn hoa – Tôi thay mặt cho Tổ quốc chào các vị!
“Lại Tổ quốc!” – Ly Kai nói thầm.
- Đối với chúng ta, – Lâm Sử nói tiếp – Những người tha phương cầu thực, tuy sống nghìn dặm xa nơi sinh trưởng, vẫn không bao giờ quên Tổ quốc vĩ đại của mình. Nhà thơ lớn Thôi Hiệu đời Đường, đã nói về quê hương:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu. (10)
Chúng ta còn hơn Thôi Hiệu, bởi vì Thôi Hiệu đề thơ nơi Hoàng Hạc lâu đất Giang Nam trên núi sông Hoa Hạ, chúng ta thì đang ngồi tận chót vót bán đảo Đông Dương.
Lâm Sử nói khá dài. Thỉnh thoảng, anh ta chen thơ, phú và kết thúc bằng hai câu cuối bài từ “Vịnh tuyết” của Mao Trạch Đông anh ta không hài tên tác giả:
Sổ phong lưu nhân vật
Hoàn khán kim triều (11)
Cả Suần Quài, Bá Thượng Đài, Diệu Thọ đều dốt đặc văn chương – cuộc sống của họ chỉ lách cách của bài toán – nên há hốc mồm nghe Lâm Sử. Người học cao hơn hết trong bọn là Tào Phu – kiếng trắng, dáng vẻ trí thức – thạo văn học phương Tây hơn Trung Quốc. Ly Kai dĩ nhiên còn quá tệ: gã nói sành sỏi tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng đọc không xuôi một trang sách chữ Tàu!
Mở đầu thì long trọng – đôi lúc, Bá Thượng Đài ngại bài nói hay ho của Lâm Sử nhằm vào tủ sắt của ông ta – mà công việc lại thật giản đơn. Có thể tóm tắt “lời kêu gọi của Tổ quốc” qua miệng của Lâm Sử như sau: Hãy làm giàu nữa, làm giàu gấp năm gấp mười như hiện nay, hãy mua nhiều cổ phần các hãng Hồng Kông, Nhật, Singapore, Nam Triều Tiên và… Đài Loan. Tất nhiên, trước hết hãy làm chủ những ngành kinh tế có thể làm chủ ở Việt Nam Cộng hòa, càng nhiều càng tốt. Hãy đổi quốc tịch. Chẳng ăn nhằm gì những thứ lặt vặt ấy. Tên gì thì tên, miễn nuôi dòng máy Hoa Hạ sôi sục!
- Té ra Trung Cộng không chống lại người giàu có.
- Té ra Trung Cộng không thù địch Đài Bắc, mặc dù ngày nào họ cũng bắn đại bác vào Kim Môn, Mã Tổ, cảnh cáo Quốc quân đến lần thứ nghìn lẻ…
- Té ra “diện hướng Tổ quốc” không mấy gì làm khó.
Đại loại những người có mặt hiểu bài nói của Lâm Sử như vậy.
Và, bữa cơm của Bá Thượng Đài – nấu theo lối Nam Hải – dùng rượu Mao Đài chính gốc, hút thuốc Penda Thượng Hải…
Lâm Sử, lúc uống trà, thì thầm với Ly Kai.
- Ông vẫn còn làm việc với Ngô Đình Nhu?
- Còn!
- Từ nay, ông cung cấp cho tôi những tin tức cần thiết, qua ông Suần Quài. Ông sẽ giúp ích cho Tổ quốc rất nhiều…
“Tổ quốc! Và, cũng Suần Quài!”. Ly Kai ngẫm nghĩ bởi chính Suần Quài móc nối gã với Dương Tái Hưng.
- Tôi muốn làm quen với nhóm “Giải Liên”. – Ly Kai đề nghị.
- Chi vậy?
- Có việc…
- Khó! Họ không tiếp ông đâu. Có thể họ khử ông nữa! Họ thuộc Việt Cộng lãnh đạo. Mà, việc gì?
- Tôi tìm hiểu một người…
- Ai?
- Nguyễn Thành Luân.
- À!
- Ông quen?
- Quen… Đúng hơn, vì cùng kháng chiến, biết ông ta. Tôi nghĩ là nhóm “Giải Liên” không liên hệ gì với Luân. Luân đang làm việc cho Nhu, nghe đâu anh ta cắt mọi quen biết cũ. Nhóm “Giải Liên” chắc chắn sợ anh ta. Nhu nghi ngờ anh ta?
Ly Kai hơi lúng túng. Gã không dám nói đến Dương Tái Hưng – Suần Quài đã dặn gã đến chục lần: muốn còn thở thì quên hẳn Dương Tái Hưng khi đến đây.
- Nghi ngờ! – Ly Kai trả lời liền.
- Về mặt nào?
- Anh ta đi sâu vào gia đình Diệm để làm gì!
- Biết bấy nhiêu, rồi thôi?
- Sẽ liệu!
- Định khống chế anh ta?
Ly Kai do dự một lúc rồi gật đầu.
- Khống chế cho ai?
Câu hỏi ngược của Lâm Sử làm Ly Kai chới với. Gã cũng nói liều:
- Cho Nhu!
Lâm Sử nhẹ cười…Cái cười rất tươi song Ly Kai lấm tấm mồ hôi.
- Tôi sẽ giúp ông. Chưa nói được bằng cách nào và bao giờ, nhưng tôi hứa. Phần ông, ông nhớ cho tui tin về Nhu. Ông có biết một chỗ gọi là P.42 không?
Ly Kai biết lờ mờ về căn hầm giam người dưới lòng đất trong vườn bách thú, song gã lắc đầu, giả ngơ ngác:
- P.42? Tôi chưa nghe bao giờ…
- Thôi được, ông dò la chỗ đó giúp tôi.
Lâm Sử trao cho Ly Kai bao thuốc Cotab hút dở, bên trong thò ra mấy tờ đô la.
- Ông cất mà hút!
Lâm Sử chào mọi người, về trước. Anh ta từ chối xe riêng của Bá Thượng Đài, gọi taxi.
Tào Phu cùng Ly Kai ra khỏi nhà cùng một lượt.
- Tôi đưa ông. – Tào Phu mở cửa xe, mời Ly Kai. Ông ta tự ái.
- Ông muốn làm quen với Đại sứ Trung Hoa Dân quốc không? - Tào Phu hỏi – Tôi sẽ giúp ông! Tôi tin là đại tá tùy viên Tôn Phương Truyền sẽ rất vui nếu ông đến sứ quán…
“Tiểu na má!” – Ly Kai rủa thầm – “Lại đặc vụ Đài Loan!”
- Ông sẽ chẳng thiệt chút nào. Tôn đại tá biết người biết của lắm. Qua nhất định nặng hơn bao Cotab kia nhiều!
Vậy là nó thấy mình nhận tiền của Lâm Sử!
- Tôi cũng muốn làm quen với sứ quán!
Ly Kai trả lời xong, gã và Tào Phu cùng cười hơn nữa, nháy mắt với nhau…
*
Báo cáo hàng ngày của Sở nghiên cứu chính trị.
Tin đáng chú ý:
1) Có dấu vết về kẻ giết trung úy Lê Văn Minh: hung thủ đi giày bata cỡ to (chân không to tương xứng với giày, như vết in trên bờ rào bệnh viện lúc chúng vượt rào tẩu thoát cho thấy), mang găng tay nên không để lại dấu tay. Tuy vậy, nhiều bằng chứng gián tiếp xác nhận an ninh quân đội gây ra vụ này.
2) Thiếu úy Lê Ngân, đội phó đội trinh sát an ninh thuộc Nha cảnh sát đô thành đã bắn chết thiếu úy An ninh quân đội Vũ Đình Chu, theo nhiệm vụ của anh ta. Chính anh ta báo cáo với trung tá giám đốc nha.
3) Tin tái đắc cử Tổng thống Mỹ của ông Eisenhower khiến số trí thức “đối lập” thối chí. Phan Quang Đán nói tại một cuộc gặp gỡ giới thầy thuốc mừng thạc sĩ Trần Vỹ được Bộ trưởng bộ y tế: “Il faudra encore quatre ans pour un changement” (12)
4) Nhân Chu Lai sang Hà Nội, Hoa kiều hoạt động mạnh ở Chợ Lớn. Theo nguồn tin chắc chắn, hôm kia, tại ngôi nhà số 3 đường Khổng Tử, có một cuộc họp gồm chủ nhà (Bá Thượng Đài, “vua sắt”), Tào Phu “vua lúa gạo”, Tần Hoài, chủ nhà hàng Đại La Thiên, Diệu Thọ “vua thuốc bắc” với một người lạ tên là Lâm Sử thay mặt cho Trung cộng. Nội dung cuộc họp chưa thẩm tra. Chỉ biết là sau đó Tào Phu gặp riêng đại tá Tôn Phương Truyền, phụ trách đặc vụ sứ quán Đài Loan, có lẽ thông báo về cuộc họp đó.
5)Tình hình Hung Ga Lợi được khai thác tối đa trên báo chí, đài phát thanh của ta. Số tiền 2.450.000 đồng của Việt Nam đã chuyển tới hội Cứu trợ quốc tế. Bộ ngoại giao ta điện cho thủ tướng Hung Imre Nagy, song ông ta đã bị Janos Kadar lật đổ.
6) Giữa Việt tấn xã và báo Tự do đưa tin không ăn khớp về việc 19 người từ Nghệ An vượt tuyến Đà Nẵng ngày 19-11 vừa rồi: Việt tấn xã nói họ là ngư dân bị bão, được chính quyền địa phương giúp đỡ v.v… còn báo Tự do thì đăng một bài phóng sự dài, kèm ảnh, nói họ là những người khởi nghĩa Quỳnh Lưu trốn thoát. Sở Công an Trung bộ nghi một số trong họ là do Cộng sản cho trà trộn vào Nam.
7) Một điện đài bí mật vừa lên tiếng tại vùng rừng Bời Lời (Tây Ninh). Công suất máy cỡ 15W, chắc chắn là dùng pin, dây trời định hướng phía Nam, chưa rõ mỗi ngày, mỗi tuần phát bao nhiêu lượt, vào giờ thay đổi cố hay cố định. Lượt đầu tiên kéo dài 27 phút, bộ phận mã thám chưa đọc được bức điện, nhóm chữ số khác các điện ta chưa bắt được. Sẽ nhờ trung tâm tình báo Mỹ giải mã. Điều đáng chú ý là manip của đài này với đài phát hiện trước đây ở B’lao giống nhau.
Bên lề báo cáo của Sở nghiên cứu chính trị, Ngô Đình Nhu ghi bút đỏ:
- Khoản 1 và 2: Chấm dứt điều tra.
- Khoản 3: Tin lếu láo! Sau này, nhớ cho tin có giá trị hơn.
- Khoản 4: Hỏi Ly Kai chi tiết. Nguồn tin chắc chắn có phải là Ly Kai không? Y dự họp hay nghe tin? Cần chú ý tin của Ly Kai - cung cấp tin cho ta hay phao tin? Đã bố trí theo dõi chặt y chưa? Vô lý: Trung Cộng nào dám công khai vỗ ngực xưng tên, nhất là với Tào Phu, đặc vụ của Đài Loan? Thẩm tra bằng mọi cách, kể cả xác định Ly Kai, nếu tung tin thì để làm gì. Điều tra Ly Kai thật khéo (ba gạch đậm dưới chữ “thật khéo”).
- Khoản 5:Vô duyên! Báo cáo làm gì? Tin tức “đặc biệt” mà chỉ cóp nhặt trên báo!
- Khoản 6: Lưu ý Sở công an Trung bộ sớm kết luận về ý kiến của họ. Nghi? Bằng chứng? Mơ hồ quá!
- Khoản 7: Không được nhờ Mỹ déchiffrer (13) (gạch đậm). Cố mà tự lực. Cần máy móc gì không?
*
Tin tức báo chí ngày 11-12-1956
Trung tướng Lê Văn Tỵ được phong đại tướng. Đại tá Phạm Xuân Chiểu thay thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ làm tổng giám đốc cảnh sát công an quốc gia. Các thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh, Thái Quang Hoàng được thăng trung tướng. Đại tá Lê Văn Kim thăng thiếu tướng.
*
Liên lạc của họ với A.07 nối lại vài tuần nay. Các báo cáo do Dung mã và Luân chuyển qua một trạm lưu động nào đó mà Dung không được quyền biết, đến cả điện đài bây giờ đặt ở vùng rừng Tây Ninh. A.07 thỉnh thoảng gởi cho họ một dòng động viên, còn ngoài ra các yêu cầu, hoặc xác minh, hoặc sưu tra tình hình, hoặc nhận định của Luân về những sự kiện quan trọng. Nói chung, A.07 chỉ thị họ sử dụng điện đài thật thưa, không định kỳ, không theo quy luật. Có lần, Dung được một điện riêng: “CR hỏi thăm sức khỏe Mimosa tại ông cụ. Cẩn thận hơn, tuy ông cụ đối phó tốt”. CR tức là “Centre de Recherche”, ký hiệu chỉ trung tâm tình báo Sài Gòn. Như vậy chúng cho điệp viên ở Hà Nội điều tra về Dung qua bố của cô. Lý do có lẽ liên quan đến điện đài ở B’lao. May mà nửa năm nay, điện đài ngưng hoạt động ở hướng đó.
Đọc điện, Dung nhớ nhà điếng người. Tội nghiệp, tuổi cha đã cao, có ai giúp đỡ không? Vì công tác của Dung, chú Thuận chắc ít đến – hoặc có đến cũng kín đáo. Dung mong tin tức của cha, gần đây, ông cụ nhắn tin trên đài, giọng còn rất khỏe. Ông cụ gởi cả bưu thiếp cho vợ chồng bác sĩ Sự - tất nhiên là gởi cho Dung. Dung bồi hồi đọc nét chữ của cha, dù sao, cũng đã yếu đi nhiều. Vợ bác sĩ Sự cũng gởi cho ông bưu thiếp, báo tin Dung. Ông cụ chắc đỡ lo.
Xe Dung nối dòng xe sáng sáng vẫn nghệt con đường môt chiều Nguyễn Trãi, trước khi giáp với đại lộ Cộng hòa. Ngang Lycéc Franco Chinoise (14) Dung chợt thấy điều khác thường: mỗi ống cống xi măng xếp đứng của ngành giao thông đặt ven đường – mang một chữ viết bằng sơn xanh. Ghép các chữ ấy lại ra khẩu hiệu với hai dấu than cẩn thận: Đả đảo Ngô Đình Diệm! Hồ Chí Minh muôn năm!
Một cơn lạnh chạy dài theo sống lưng Dung. Khẩu hiệu của anh em mình! Dòng xe như chậm lại, mọi người cố kéo dài thời gian qua ống cống. Khẩu hiệu nhất định viết đêm qua. Các đồng chí hẳn phải canh gác vất vả để viết được chừng ấy chữ - Dung nhẩm tính: 32 chữ và hai dấu than. Hai người viết nhanh mấy cũng phải mất 15 phút. Chữ to, bề cao đến 40 phân, bề ngang 20, nét khá sắc, chữ Đ mở đầu viết kiểu và toàn bộ chữ đầu các từ Hồ Chí Minh đều viết hoa. Công trình của dũng cảm và theo Dung, của nghệ thuật. Tuy chỉ 32 chữ nhưng là một thứ tuyên cáo về sức mạnh của phong trào cách mạng thành phố. Không có tổ chức vững vàng, quyết không thể làm nổi việc này – cách Nha tổng giám đốc cảnh sát công an quốc gia không đến 50 mét.
Trong công vụ, Dung thường đọc báo cáo các nơi nói về “Việt Cộng rải truyền đơn, lưu hành báo, dán khẩu hiểu”, phần lớn ở nông thôn. Còn đây là Sài Gòn.
Từ ngày 20-7, Dung cảm giác phong trào cách mạng chuyển mình. Nha tổng giám đốc ngày một nhận được nhiều hơn các loại tài liệu của “Việt Cộng” – danh nghĩa chưa thống nhất, khi thì “Những người kháng chiến cũ”, khi thì “Ủy ban đấu tranh bảo vệ hiệp định Genève”, khi thì “Lực lượng nhân dân miền Nam” in bằng giấy sáp. Dung biết, Nha tổng giám đốc nhìn những tờ giấy thô sơ ấy với tất cả sự lo lắng, kinh hãi. Bởi đây không phải là các giáo phái, không phải chỉ lời nói suông. Chẳng có gì khó hiểu: những người kháng chiến cũ cảnh cáo sự phản bội của chính quyền Ngô Đình Diệm. Hai năm đã qua từ khi ký hiệp đình Genève, không có tổng tuyển cử, mà hiệp thương và quan hệ bình thường giữa hai miền cũng không có nốt. Vào đúng ngày 20-7, Sài Gòn báo cáo cho Ngô Đình Diệm biết sự phản bội sẽ bị trừng phạt: trong vòng 2 giờ, thành phố vắng tanh – bãi chợ, bãi công, bãi khóa và mọi người ở trong nhà. Hôm đó, Luân còn học ở Đà Lạt, Dung đành nâng ly nước cam chào mừng những công dân của thành phố, quả xứng đáng là thành đồng Tổ quốc.
Mấy chiếc xe Jeep màu ô liu, biển số “VN” đầy cảnh sát dã chiến, quần áo rằn ri, đổ lại. Chúng thổi còi inh ỏi, xua người đi đường tản khỏi khu vực đã bị phong tỏa bằng kẽm gai. Chẳng rõ chúng bôi xóa hay dời các ông cống. Cách nào thì cách, cả thành phố sẽ sôi nổi với tin này. Dung cười rạng rỡ, lái xe vào cổng Nha… Chắn cổng nhấc lên, Dung vẫy tay chào viên sĩ quan trực…
---
(1) Nguyên gốc: à la solde (tiếng Pháp) – đồ ve chai , bán rẻ bán tháo
(2) Trung Quốc Ngân hàng – Giao thông Ngân hàng – Ngân hàng hối đoái Hồng Kông.
(3) Ve chai bể, sắt bể bán không?
(4) Người bị kiểm điểm ngồi nghe phê phán, chỉ được tiếp thu chứ không được thanh minh dù sự phê phán không đúng (kiểu chỉnh huấn của Trung Cộng).
(5) Mai phục lâu dài, xúc tích lực lượng, hướng về Tổ quốc.
(6) Thằng An Nam.
(7) An Nam
(8) tức Suần Quài
(9) Xuất khẩu lúa gạo Cửu Long.
(10) Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói cho buồn lòng ai
(Tản Đà dịch)
(11) Bao nhiêu nhân vật đó (tức Hạng Vũ, Lưu Bang, Lý Thế Dân). Hãy nhìn ngày hôm nay.
(12) Cần thêm bốn năm nữa cho một thay đổi.
(13) Giải mã.
(14) Trung học Pháp - Hoa