Ván Bài Lật Ngửa
Phần 5 - Chương 1
Trời xanh qua kẽ lá
Mái tôn thủng lỗ chỗ, nhiều tấm xô lệch cong queo, mặt trời sắp trưa ném xuống vô số tia châm chọc, luôn cả mấy khối sáng lóa mắt báo ngày cuối cùng của năm Kỷ Hợi đang cận đến những giờ cuối cùng. Ngôi nhà trống hoác, khung cửa sổ ngổn ngang, tường lém khói. Đại tá Phan Cao Tòng - thân hình thực tế tương phản với tên gọi - ngồi sau chiếc bàn sắt màu “ghi” méo mó, trên chiếc ghế xoay mất chỗ dựa, dán mắt vào xấp giấy. Hàng chục sĩ quan đeo quân hàm thiếu tá, trung tá dồn nơi góc phòng, nín thở theo dõi từng cái nhíu mày của đại tá. Không khí im vắng, trang nghiêm đến độ những người có mặt dường như cử hành một lễ truy điệu. Đúng, 20 tử thi phủ vải dù loang lở im lặng nằm trên băng ca xếp hàng ngang ngay phòng bên cạnh. Nhưng, không phải sự mất mát nhân mạng kia gây hốt hoảng mà cái kho vũ khí lồ lộ ngay trước mặt - kho vũ khí chỉ còn nền gạch và giá gỗ - ám ảnh họ.
Ngôi nhà - Sở chỉ huy trung đoàn Lam Sơn - hết còn vẻ hách dịch và trung tá trung đoàn trưởng phiền muộn vì cha mẹ trót sinh anh ta cao lỏng khỏng, thật bất tiện vào lúc như thế này, lúc mà anh ta thấy thừa cả một cái đầu trong số những cái đầu càng cúi thấp càng tốt.
Nói chung, đại tá Tư lệnh sư đoàn đọc là chính, và khi ông liếc về hướng thuộc hạ thì có nghĩa tình thế chưa ổn. Quả đại tá chẳng còn bụng dạ đâu mà lên mặt - ông thích làm như thế để trả thù lũ thuộc hạ từng khinh nhờn ông: Trước khi xảy ra sự cố hãi hùng này chúng gọi ông là “đại tá lái bò” - việc cấp bách số một của ông bây giờ là “bào chế” bản báo cáo trơn tuột để cấp trên có thể ôkê. Chốc chốc, đại tá lau kính. Cặp kính gọng vàng ngày thường dán một chút trí thức trên khuôn mặt bè của ông giờ đây trở chứng, cứ đóng lớp hơi đục, lau mãi vẫn mờ. Lần đầu, thuộc hạ gặp vị chỉ huy sư đoàn không chải đầu và cũng lần đầu ông gặp thuộc hạ nhìn ông với sự mong chờ và đồng lõa. “Tao chứ không phải bất cứ ai trong bọn chúng mày đến hiện trường khi mùi thuốc súng chưa tan… bố tiên sư chúng mày, giỏi thì trêu ông, xem nào!”. Đại tá chợt nổi nóng, tay xoa nhẹ má - mảnh băng to tướng quấn vòng ót ông, công trình của cô vợ đã nâng thêm uy thế ông. Tuy vậy, chưa phải lúc… Bộ tư lệnh quân khu và Bộ tổng tham mưu điện liên hồi đòi báo cáo. Ông hứa giữa trưa mai thì có, báo cáo sẽ được gửi bằng một chuyến trực thăng đặc biệt.
Ông lại tiếp tục đọc, quên rít chiếc tẩu đang kéo trệ mép ông, mũi phập phồng. Nếu ngày thường, bọn thuộc hạ đã kháo: Coi kìa, đại tá đang đánh hơi dái bò!
Cô vợ mang cho ông cốc cà phê đặc, rồi kéo ghế ngồi sát ông, ghé đọc. Chẳng ai coi đó là chuyện chướng. Trái lại, ai cũng cầu khẩn cho bà đại tá đủ tài năng giữ nổi hoa mai trên cầu vai họ hoặc chí ít giúp họ khỏi ra tòa án binh như bà biến cái gò cằn cỗi ở Cẩm Giang thành trại bò sung nhất tỉnh. Băng Trinh - tên của cô - thì thầm điều gì với đại tá mà đại tá thoáng cười - cái cười hiếm hoi suốt mấy giờ qua - và mọi người nhìn cô như chiêm ngưỡng Phật Bà Quan Âm, mặc dù, lần đầu tiên họ gặp cô không thoa son, đánh phấn…
Có bốn bản báo cáo. Đại tá tự phát hiện hay cô Băng Trinh phát hiện, không ai rõ, song đại tá rút bút gạch lia lịa.
- Mỗi ông nói một phách như thế này thì chết! - Đại tá gằn giọng - Giờ Việt Cộng nổ súng không thống nhất, ông thì bảo 11 giờ, ông bảo 12 giờ, ông bảo 3 giờ sáng… Sự thật là 1 giờ 2 phút, biết chưa? Giờ mới của Việt Nam Cộng hòa còn giờ Việt Cộng thì đúng giữa khuya…
- Báo cáo thế này lố bịch quá! - Đại tá bảo, rồi lè nhè giọng - Nhân lúc lính đổi gác, một toán Việt Cộng lén lút bò vào bên trong trào trại Sùng định trộm súng. Bị phát hiện, chúng bắn bừa bãi rồi bỏ chạy. Lập tức trung đoàn trưởng trung đoàn Lam Sơn Hà Duy Cường truy kích. Quân ta đuổi kịp chúng tại rìa rừng Trà Vông, phía đông thị xã Tây Ninh 25 kilômét, diệt nhiều tên (Việt Cộng khiêng xác đồng bọn, song dựa vào dấu máu, có thể tính chắc chắn chúng bị hạ không dưới 50 tên). Ta thu 6 súng cá nhân, 2 súng cộng đồng. Bên ta 20 chiến hữu anh dũng đền nợ nước.
- Trung tá dám ký tên vào báo cáo, tôi mời! - Đại tá mỉa mai - Tôi không dám. Một toán Việt Cộng lén lút bò vào doanh trại, bỏ chạy như vịt khi bị phát hiện lại có thể gây cho quân lực Việt Nam Cộng hòa những 20 tử thương! Xác Việt Cộng thì được khiêng đi sạch, còn xác quốc gia nằm chềnh ềnh kia… Trung tá diệt hết toán Vixi nhỏ mọn đó, lấy đâu chúng đủ người khiêng đồng bọn? Và, trung tá, chạy cách nào mà nhanh thế? Hai mươi lăm kilômét nhé! Bịa…
Đại tá kịp nhận ra mình đã lỡ lời:
- Bịa, tất nhiên… Mà bịa phải hữu lý.
Không ai lên tiếng. Trung tá Hà Duy Cường thở dài.
- Đây là báo cáo của trung tá Tạ Khai, các ông nghe. - Đại tá lườm viên trung tá tham mưu trưởng sư đoàn: anh chàng mang một chiếc bụng cực to - “Vào 0 giờ 27 phút ngày 27 tháng 1, Việt Cộng thuộc các tiểu đoàn 60, 70, 80, 90, 100 của khu ủy Cộng sản Đông Nam bộ do thiếu tướng Cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến tự Tám Kiến Quốc (còn gọi là Tám Dên Dên) chỉ huy, Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ tự Tám Cao làm chánh ủy, đại tá Nguyễn Nhọn tự Tám Lê Thanh (còn có tên Tám Bằng Lăng) làm tham mưu trưởng, quân số chúng lên đến 3.000 tên, trang bị sơn pháo, bích kích pháo và đại bác không giật, dùng bộc phá đánh sập cổng trại Sùng, tràn ngập hậu cứ sư đoàn 13 bộ binh tại Tua Hai, cách thị xã Tây Ninh 5 kilômét về hướng Bắc. Trung đoàn Lam Sơn bị tổn thất tương đối nặng. Tham mưu trưởng sư đoàn, trung tá Tạ Khai sử dụng trung đoàn Bãi Sậy phản công. Sau nửa giờ kịch chiến, Việt Cộng bỏ chạy tán loạn. Quân ta truy kích tận bờ sông Vàm Cỏ. Ghi nhận đầu tiên, địch chết và bị thương 500 tên. Theo tin dân chúng, thiếu tướng cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến và Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ đã tử thương. Chúng tôi đang phối kiểm và sẽ phúc trình nay mai. Ta thâu 80 vũ khí cá nhân, phần lớn sản xuất tại Trung Cộng, 10 vũ khí cộng đồng gồm: 4 bích kích pháo 60 ly, 2 trọng liên 12 ly 8.
- Con số địch hơi nhiều! - Đại tá nhếch mép - Trung tá tham mưu trưởng bấy giờ ngủ tại Gò Dầu, nên tưởng tượng quá viễn vông. Ông lại cho trung đoàn Bãi Sậy truy kích địch về hướng Tây, ngược hẳn hướng với trung tá Hà Duy Cường… Người ta nhất định không tin báo cáo này bởi người ta biết trung tá không thể hành quân truy kích với cái bụng to như thế. Muốn thêm một hoa mai không có gì xấu, miễn đừng chơi trội người khác…
Ngôi nhà tiếp tục im ắng. Đại tá đay nghiến cay độc bao nhiêu cũng được, nhưng cần có lối thoát trước 12 giờ… Tạ Khai không có vẻ gì tự ái, ông ta chăm chú lắng nghe, chờ đợi… Báo cáo tiếp của thiếu tá trưởng phòng quân báo sư đoàn. Phần đầu, báo cáo giống phần đầu của tham mưu trưởng, chỉ khác giờ nổ súng và thêm một chỉ huy phó Việt Cộng: đại tá Nguyễn Văn Thượt tự Năm Quốc Đăng. Quân số Việt Cộng ở đây rút xuống còn 1.000 tên, không có vũ khí nặng, hình thức chiến thuật là đặc công “phối hợp với vài tên nội tuyến”, trận đánh nhằm yêu cầu tuyên truyền, thương vong đối phương chưa xác định, vũ khí tịch thu thuộc loại súng cũ. Trung đoàn Yên Thế truy kích về hướng Bắc, hủy 2 xe vận tải quân sự hiệu Môlôtôva tại cầu Cần Đăng. Thương vong của ta “không đáng kể”…
- Lộn xộn quá! - Đại tá nhận xét - Gán hai chiếc GMC cho hãng Môlôtôva không ổn… Nhắc làm gì bọn nội tuyến? Không có nội tuyến trong sư đoàn, các ông nhớ cho… Theo tôi, báo cáo của thiếu tá Lê Đạo, trưởng phòng an ninh sư đoàn là khá hơn hết, nếu sửa chữa đôi chút và bổ sung vài chi tiết có ở báo cáo của trung tá tham mưu trưởng và thiếu tá trưởng phòng quân báo.
Thiếu tá Lê Đạo được đại tá cho phép đọc báo cáo viết sẵn. Con người lùn choắt, nói giọng Quảng Bình rất khó nghe phút chốc trở nên “cây đinh” của buổi diễn tập. Bản báo cáo được hối hả đánh máy. Đại tá ký tên xong, chiếc trực thăng quay cánh. Ngôi nhà nhẹ hẳn.
Liền đó, những tiếng nổ của bộc phá, các cỡ súng rộ lên, mấy căn trại khu gia binh bốc cháy trong khi công binh vội vã xây lại cửa kho vũ khí cho nó nguyên vẹn như chưa hề vơi đi dù là vài khẩu súng lẻ…
*
Trong quân đội Liên hiệp Pháp, Phạm Văn Cảm và Phan Cao Tòng được xem như là anh em song sinh. Cảm cao to, Tòng thấp. Cảm quê Sơn Tây, Tòng Nam Định. Cảm lớn hơn Tòng trọn một con giáp. Thế mà hai người vẫn “song sinh”. Cớ sự như sau: Phạm Văn Cảm xuất thân từ lính khố đỏ, sau chuyển sang chăn ngựa cho tướng Alessandri, tư lệnh Bắc Bộ. Cảm thường đánh bạc ở phố Mã Mây, có lần thua cháy túi, nhờ Tòng cho vay. Tòng làm bồi trong một khách sạn. Hai người trở thành bạn. Chủ khách sạn, một cựu sĩ quan Pháp, có cô vợ bé tên là Băng Trinh mà hắn đưa từ Sài Gòn ra, cô này dan díu với Tòng, bị bắt tại trận, Băng Trinh phải vào nhà số, Tòng ra tòa với bản án ăn cắp.
Cảm trả ơn Tòng, xin Alessandri can thiệp hủy bản án và thu nhận Tòng cùng chăn ngựa với anh ta. Đại đội kỵ binh thành lập, hai người đều được phong chức “thống chế” – Cảm là Maréchal de logis, tương ứng với thượng sĩ bộ binh, còn Tòng Maréchal ferrant tức hạ sĩ chuyên đóng móng ngựa (1). Băng Trinh đưa tiền dành dụm cho Tòng chuộc cô ra khỏi nhà số. Hai người ăn ở chính thức từ đó. Hiệp ước Pháp Việt - gọi là hiệp ước Elyséc 8-3-1949 - ra đời, thiên hạ nháo nhào lo xây dựng quân đội quốc gia. Tổng trấn Bắc phần Nguyễn Hữu Trí đề nghị Alessandri giúp đỡ một số sĩ quan nòng cốt cho Bảo chính đoàn. Phạm Văn Cảm được phong chức phó đốc quân, tương đương hàm thiếu úy. Hai năm sau, Cảm đã là tổng chỉ huy Bảo chính đoàn, hàm đại tá và Tòng chỉ huy Bảo chính đoàn Hà Đông, hàm thiếu tá. Kết thúc chiến tranh, Tòng được thăng trung tá. Di cư vào Nam, Cảm bị bãi chức vì tội lập quân số ma. Tòng lận đận theo. Nhờ vợ vận động, Bộ tổng tham mưu lôi Tòng ra khỏi cảnh “ngồi chơi xơi nước” và dự kiến thăng Tòng lên đại tá trừ bị, giao chỉ huy sư đoàn 13 bộ binh. Đeo lon đại tá thì Phan Cao Tòng thích, nhưng làm sư trưởng cái sư đoàn mang con số 13 hãm tài thì Tòng ngại. Không có sư đoàn nào ở Việt Nam Cộng hòa ghê rợn bằng sư đoàn 13. Kể từ ngày thành lập năm 1956 đến năm 1959 - năm người ta mớm chức sư trưởng cho Tòng - sư đoàn trải qua ba lần lột xác mà nguyên nhân chỉ có một: Việt Cộng thâm nhập hạ tầng. Năm 1957, binh sĩ sư đoàn cùng dân chúng kéo biểu tình đập phá dinh tỉnh trưởng Tây Ninh; đầu năm 1958, phát hiện âm mưu binh biến trong hai trung đoàn, cuối năm lại phát hiện âm mưu binh biến liên quan tới ngót 200 binh lính và sĩ quan - cả hai lần đều dính với Hoàng Lệ Kha, Ủy viên ban thường vụ Tỉnh ủy Việt Cộng Tây Ninh phụ trách binh vận. Sư đoàn lại hoạt động trên địa bàn rừng rậm, dọc biên giới đầy dẫy mật khu Cộng sản. Có thể nói, chức sư trưởng sư 13 “ế độ”, ai cũng ê răng.
Băng Trinh suy nghĩ khác Tòng, cô thỏ thẻ bên gối: “Anh sắp 50 tuổi đầu, danh thì em không cần nhưng tụi mình cần vốn. Anh nhận chức sư trưởng, em nhơn đó mà buôn bán. Vài năm, hễ hai đứa vững chơn đứng, anh thôi đời lính. Thế nào mình cũng có con… Anh tính cho kỹ.”
Băng Trinh khuất phục Tòng dễ dàng: lính, quan sư đoàn theo ai mặc kệ chúng, sư đoàn tuy đóng gần vùng Việt Cộng mà mình không đụng họ thì mắc mớ gì phải sợ… Để Tòng thật yên tâm, Băng Trình mời một nhà tướng số nổi tiếng bói một quẻ cho tử vi. Quẻ tử vi vô cùng đẹp: Tòng có số giàu sang, sống lâu và sắp lên cha… Điểm sau cùng lại ứng trước tiên: ngày Tòng nhận hàm đại tá và chức sư trưởng, Băng Trinh mang thai. Đứa con đầu lòng giống hệt Tòng. Tòng nổi tiếng sợ vợ, Băng Trinh lấy Tòng lúc Tòng cù bơ cù bất. Nếu cô ả chỉ ham giàu thì hết me Tây sẽ thành me Mỹ, cớ chi đeo đuổi Tòng. Ngay bây giờ, Tòng không có một chút gì hấp dẫn: dốt nát, xấu mã. Còn Băng Trinh, tuổi ngấp nghé 30, vẫn hơ hớ… Băng Trinh nói sao, Tòng nghe vậy. Trong đêm hãi hùng của sư đoàn, Tòng ngủ tại nhà. Lúc đó, hơn một giờ ít phút. điện thoại dựng Tòng dậy: một chuẩn úy trực ban của trung đoàn Lam Sơn báo trại Sùng bị tấn công. Tòng ra sân nghe ngóng. Tua Hai cách thị xã không xa, thế mà chỉ vọng đến mấy tràng súng nhỏ kèm vài tiếng mọt-ta (2). Tòng gọi trại Sùng. Không ai trả lời. Ông lại gọi đến nhà riêng các trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng sư đoàn, trung đoàn. Im lặng. Đêm 29 Tết mỗi người vui chơi mỗi ngã… Ông đành gọi Tỉnh đoàn bảo an. Không có trực máy. Công đường của tỉnh trưởng lẫn nhà riêng đều giống vậy. Chẳng lẽ gọi về Sài Gòn? Ông gác máy, ngồi cú rũ. Vào những lúc rối ren này, Băng Trinh tỏ ra hết sức cần đối với ông.
- Việc gì mà anh rầu rĩ? Nếu quả Việt Cộng tấn công, đâu họ lại không tấn công được… Cứ đợi mọi việc rõ ràng, ta sẽ liệu. Ít ra, anh cũng hơn tất cả sĩ quan trong sư đoàn: anh gọi điện và chỉ có anh có mặt ở Tây Ninh… Bây giờ, anh thay quân phục, cho sửa soạn xe.
Tòng răm rắp theo lệnh vợ. Hai chiếc xe Jeep nổ máy, bật pha, song không lăn bánh.
Ba giờ sáng, thiếu tá Lê Đạo cỡi mô tô tới. Gã bảo là gã theo dõi tình hình tại nhà trong thị xã, song Tòng biết chắc gã ngủ đêm ở nhà một chức sắc cao cấp Cao Đài gần chợ Long Hoa, tay chức sắc này chịu cho con gái làm lẽ Lê Đạo.
Đại tá Phan Cao Tòng không thích Lê Đạo: hắn đồng hương với Tổng thống, phụ trách an ninh quân đội, nghĩa là chuyên nhìn chuyện phòng the của binh sĩ qua lỗ khóa, ai hắn cũng nghi, không Vixi thì giáo phái… Nhưng bây giờ, họ cùng đắm thuyền nên cùng tìm phao để bám. Lê Đạo là con nguời sắc sảo, nhấn mạnh rằng nguy cơ lớn nhất mà họ phải đối phó - tất nhiên không với Việt Cộng mà với thượng cấp: nếu trại Sùng bị hạ thì chỉ có thể bị hạ vì nội tuyến của Cộng sản. Trước thượng cấp, mọi tội đồ đều có thể giảm khinh, trừ tội dung dưỡng nội tuyến Cộng sản. Lê Đạo đã hình dung sẵn bản tường trình bịt kín những cái liên quan đến điều đại kỵ này.
Vào lối 4 giờ sáng, liên lạc nối được với hậu cứ. Một trung sĩ truyền tin tên Hai nào đó báo với sư trưởng là Việt Cộng đã rút trước đây một giờ rưỡi, dùng hai chiếc GMC chở chiến lợi phẩm ngược quốc lộ 22, thiệt hại chung của căn cứ là nhẹ: chẳng đánh đấm gì, trừ nhóm sĩ quan tình báo sư đoàn trốn vào Sở chỉ huy trung đoàn Lam Sơn kháng cự và bị diệt. Đúng như Lê Đạo đoán, cuộc tấn công của Việt Cộng trót lọt nhờ nội ứng. Viên trung sĩ truyền tin không đủ điều kiện đánh giá bao nhiêu binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tiếp tay với Cộng sản, nhưng anh ta cho biết một loạt chi tiết khủng khiếp: cổng chính trại Sùng mở đúng một giờ đêm, thủ kho trao chìa khóa cho Việt Cộng; tài xế của tiểu đoàn tiếp vận mang xe đến như sẵn sàng từ lâu; lính của các trung đoàn hướng dẫn Việt Cộng truy lùng nhân viên tình báo và an ninh quân đội. Theo trung sĩ Hai, số Việt Cộng dự trận chừng 200 có cả nữ và phần lớn không vũ khí, nhưng khi rút, có vẻ quân số tăng gấp đôi…
Ra lệnh cho hậu cứ sư đoàn bố trí đón ông dọc đường và nhờ Tỉnh đoàn bảo an cho hai xe hộ tống, đại tá Phan Cao Tòng cùng thiếu tá Lê Đạo vào Tua Hai.
“Họa đơn vô chí”, câu nói vớ vẩn ấy mà lại linh nghiệm: Bảo an tỉnh hộ tống đại tá nhè bắn lực lượng sư đoàn đón đại tá. Bảo an vô sự, sư đoàn chết bốn, bị thương cả chục. Một mảnh đạn của sư đoàn sớt má đại tá…
Đại tá đến trại Sùng, cho nổi đèn đóm lên. Lúc sau, Băng Trinh có mặt - cô nghe tin chẳng lành về đại tá, lập tức lên xe phóng vào Sở chỉ huy. Vết thương - thật ra, khó gọi một vết trầy là vết thương - được băng bó và đại tá thêm một bằng chứng hùng hồn nữa về vai trò của cá nhân mình trong sự cố.
Mãi khi trời sáng, các sĩ quan mới lục tục đến trình diện, kèm theo cái tin mà đại tá uất ức, ông bảo: “Sư đoàn 13 vừa bị đánh vừa bị đạp. Một đại đội thuộc trung đoàn Yên Thế tuần tra phía Bắc cầu Cần Đăng, khi rút về Trại Bí, đụng Việt Cộng đang đốt hai chiếc GMC, nổ súng ẩu rồi bỏ chạy, gần một trung đội nhảy xuống sông, chết chìm sáu”.
*
… Một ngày nặng nề trôi qua. Đại tá Phan Cao Tòng hy vọng mọi sự trót lọt, ông có thể yên ổn đón giao thừa.
Vào 9 giờ đêm, điện thoại réo. Phủ tổng thống lệnh cho ông ngày mai phải có mặt tại Tham mưu biệt bộ dù ngày mai là mồng một Tết. Phan Cao Tòng rụng rời chân tay. Chắc là kẻ nào đó đã thóc mách.
- Mấy thằng ở Tham mưu biệt bộ hay kiếm chuyện lắm! - Tòng than thở - Phen này tù mọt gông.
- Anh thử nghĩ có ai quen biết ở đó không? Ai chịu giúp mình, đền ơn đáp nghĩa bao nhiêu cũng được. - Băng Trinh gợi ý.
- Quen thì có, nhưng thằng chịu ăn lại không quyền hành, thằng quyền hành lại không chịu ăn… Thế mới rối!
Băng Trinh chợt nhớ người anh họ đang làm chỉ huy phó Bảo an tỉnh Tây Ninh. Cô hấp tấp tìm anh ta. Khi trở về, cô bảo chồng:
- Anh biết trung tá Nguyễn Thành Luân không?
- Biết. Cùng học trên Đà Lạt với anh. Biết mặt chớ không giao du. Thằng đó trước là Việt Minh, sau theo quốc gia, người được ông Diệm, ông Nhu tin cậy…
- Không hối lộ được thằng đó đâu! - Tòng kêu lên - Nó học giỏi, hay nói chính trị… - Tòng không tiện thú nhận: ông ta vừa nể vừa phục Luân.
- Đâu phải chổ nào cũng hối lộ hết! - Băng Trinh rầy chồng.
Theo lời khuyên của vợ, Tòng quyết định sáng mai gặp Luân. Để thật yên tâm, Tòng rủ vợ cùng đi.
---
(1) Tác giả chơi chữ. “Maréchal” cũng có nghĩa là “thống chế”
(2) mortar: súng cối
Phần 5 - Chương 2
Luân đọc đi đọc lại phần nhận xét sau cùng trong báo cáo của đại tá Phan Cao Tòng. Ngô Đình Nhu vạch một nét đỏ đậm dọc theo lề phần nhận xét đó.
Báo cáo viết: Từ cuộc đột kích này, chúng tôi thấy: a) Việt Cộng xuất phát từ bên kia biên giới - chắc chắn được sự ủng hộ ngầm của Sihanouk - ngoài khả năng trinh sát của chúng ta; b) Tuy nhiên, mặt khác, thực tế ấy vẫn cho thấy Việt Cộng chưa đủ mạnh theo cái nghĩa chưa đủ thực lực tại chỗ để tổ chức những cuộc đột kích tương tự; c) Kỹ thuật tiến công nặng yếu tố bất ngờ - chọn hậu cứ cấp sư đoàn của ta và nhân ngày giáp Tết - nói rõ, Việt Cộng không thể nhận chiến vào các trường hợp khác. Chúng chưa được huấn luyện chính quy, nhiều dấu hiệu cho thấy đây là một toán ô hợp; d) Cuộc đột kích do cơ quan quân sự và cán binh cao cấp nhất của Việt Công chỉ huy chứng minh đây là cố gắng tối đa của chúng; e) Hành động của Việt Cộng nhằm mục đích tuyên truyền hơn là quân sự; f) Từ tất cả những bằng chứng kể trên, chúng cần thì giờ chuẩn bị. Trên bình diện quân sự, đây là hành động đột xuất. Nó sẽ không luôn luôn hữu hiệu nếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đề phòng cẩn mật, tạo được màng lưới thu nhập tin tức bên kia biên giới. Hơn nữa, quân lực Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn có thể dẫn dụ bọn phiến loạn vào cái bẫy giăng sẵn để tiêu diệt chúng; g) Trận đột kích Tua Hai của Việt Cộng và phản đột kích của sư đoàn 13 bộ binh là chiếu lệ đầu tiên cần được phân tích từ góc độ công tác tham mưu, chúng tôi đã biên soạn sơ bộ và mong được thượng cấp cho phép có dịp trình bày ở Cục quân huấn.
- Anh chú ý các ý kiến của Phan Cao Tòng… - Nhu bảo Luân - Hay đấy! Chỉ có một vấn đề thôi: tôi hiểu Tòng, hắn không đủ trình độ để đưa ra nhiều ý kiến như vậy…
“Đâu chỉ có mỗi một vấn đề!” - Luân nghĩ thầm, “Các báo cáo khác nhau đến độ kỳ quặc: báo cáo của Trung tâm tình báo, của tỉnh trưởng Tây Ninh, thông báo của tùy viên quân sự sứ quán Mỹ… Nhu đọc tất cả, nhưng lại bỏ qua những điểm sai biệt, có thể vì Nhu đang dồn tâm trí cho một đòn chính trị mà với tư cách cố vấn của Tổng thống, Nhu sẽ phát biểu trên đài phát thanh quốc gia nay mai, có thể vì Nhu tin cánh nhà binh hơn. Trong mớ hổ lốn đó, báo cáo của Phan Cao Tòng lại rất giống báo cáo của Lê Khánh Nghĩa, chỉ huy phó bảo an tỉnh Tây Ninh”.
Năm 1959, với chính thể Ngô Đình Diệm, đầy diễn biến phức tạp. Có vẻ cơ ngơi mà chính thể tạo lập đạt đến tột đỉnh sau 5 năm bò theo một triền núi, tuy nhiều chướng ngại vật song đều có thể vượt qua, đến nay sườn phía khác tuồn tuột tận chân núi.
Đầu năm, Sài Gòn choáng váng: chế độ Cộng sản Fidel Castro chiến thắng ở Cuba. Tổng thống rất quyền lực và khá lâu năm, Batista - người của Mỹ, tất nhiên, bị lật đổ và phải chạy trốn. Chiến thắng càng thêm lạ lùng khi người ta đo khoảng cách giữa hai hòn đảo với thành phố Miami thuộc bang Florida của Mỹ, 200 cây số thôi - và quân phiến loạn Cộng sản thực tế chỉ là một nhóm vũ trang do một luật sư trẻ cầm đầu. Đức Hồng y Aganianian, khâm mạng của giáo hoàng La Mã, nhận sang dự đại hội Thánh Mẫu ở Sài Gòn, không giải thích với anh em Diệm, Nhu lý do vì sao Fidel đánh tan Batista và vì sao Hiệp chủng quốc Mỹ không đối phó khi nạn Cộng sản lăn sát cửa ngõ nhà mình mà trong lời huấn dụ lại có hàm ý cảnh cáo: Chúa không ở với kẻ bị dân oán. Nhà thờ Đức Bà được Tòa thánh nâng lên hàng Vương cung thánh đường không trấn an nổi gia đình Tổng thống: Chỗ dựa Vatican chỉ là vật phản chiếu mọi cử động của Washington. Người bạn lớn của Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, chết vì bệnh ung thư - chỗ dựa thêm một xói mòn quan trọng. Cho nên, mặc dù vị tư lệnh Mỹ, đô đốc Felix Stump, long trọng trao cho Tổng thống Diệm giải thưởng danh dự “Lãnh đạo tự do” của tổ chức bảo vệ tự do Pensylvanie, Sài Gòn vẫn không thoải mái.
Ngày 7-7, nhân kỷ niệm 5 năm chấp chánh, Tổng thống đáp lời giáo sư Wesley Fishel vừa là người dìu dắt Diệm đến chiếc ghế Tổng thống, vừa là quan chức CIA cao cấp điều hành công việc tại Việt Nam hiện nay - bằng lối nói bóng gió, thành công của chế độ trong 5 năm qua là do nỗ lực của toàn dân…
Cái chết bí ẩn của Tổng thống Philippin Magsaysay chưa thôi ám ảnh Diệm và lời khuyên còn bí ẩn hơn của người kế nhiệm Carlos García nhân ông này sang Sài Gòn củng cố những mặc cảm của Diệm mỗi lúc mỗi sâu thêm trong quan hệ với nước Mỹ: “Chúng ta là kẻ sống với Đức tin và hãy phó thác tất cả cho Chúa”.
Đùng một cái, Colagrove, nhân viên hãng Thông tấn Serrips-Noward tung ra một loạt bài nói về việc sử dụng sai lệch các nguồn viện trợ Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa - đúng hơn, tố cáo nạn ăn cắp viện trợ. Quốc hội Mỹ, mà Đảng Dân chủ giữ trọng lượng, la ó. Tổng thống Mỹ buộc gọi một lô tai to mặt lớn Mỹ ở Sài Gòn từ đại sứ Durbrow đến giám đốc USOM Gardiner về Mỹ trả lời đủ thứ chất vấn và Quốc hội ủy thượng nghị sĩ Dân chủ Mansfield - vốn không ưa gia đình ông Diệm - cầm đàu một phái đoàn điều tra sang Sài Gòn. Không ai không thấy qua sự việc này, chính phủ Mỹ muốn thò dần cây gậy bên cạnh củ cà rốt…
Quan hệ với Nhật tốt hơn - món tiền thưởng của Nhật trong Thế chiến thứ hai được dành trọn cho Việt Nam Cộng hòa và để tỏ lòng biết ơn, nhân thái tử Nhật Akihito cưới vợ, Tổng thống Ngô Đình Diệm gởi một cặp ngà voi làm quà. Nhưng, vào cuối thập niên 1950 này, vai trò quốc tế của Nhật còn khiêm tốn, hơn thế, sự liên hệ quá vồ vập với một đất nước từng gây đau khổ cho cả châu Á rất dễ bị hiểu lầm đã không cho phép ông Diệm đi xa hơn trong tìm kiếm liên minh với Nhật. Tình hình Nam Dương nói chung khích lệ chế độ Sài Gòn: sự tồn tại của Tổng thống Soekarno - quán quân nổi tiếng của chính sách trung lập thân Cộng - đang được đếm từng ngày trước sức ép của lãnh tụ Hồi giáo Hatta và quân đội.
Lào thì chưa ngã ngũ mà thêm rối ren. Sau khi bắt giam các cán bộ cao cấp Pathét Lào, trong đó có “ông hoàng đỏ” Souphanouvong, phái hữu quay sang tự xâu xé. Tướng Phoumi Nôsavãn mang cả thiết giáp bao vây chính phủ Sananikone, ông này từ chức, gia quyền cho Abhay, một lão già sắp chết. Cả Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa xắn tay áo nhảy vào Lào: Mỹ tăng viện trợ quân sự, Việt Nam Cộng hòa ký kết hiệp ước kinh tế, song cả hai đều thất vọng - người Lào thích dollar nhưng không thích đánh nhau…
Trước sau, Miên vẫn khiến Sài Gòn đau đầu. Biên giới lộn xộn. Chưa xảy ra trận đụng độ nào lớn nhưng súng cứ nổ dai dẳng, ngày nào cũng có. Sài Gòn lóe lên hy vọng: Sam Sary và Đáp Chuôn tấn công Sihanouk. Ngô Trọng Hiếu, đại diện Việt Nam Cộng hòa ở Nam Vang, đạo diễn cú đánh ngoạn mục này. Tuy nhiên, Sài Gòn mừng hơi sớm. Sam Sary bỏ chạy. Đáp Chuôn bị bắn chết ngay trên lãnh địa hùng cứ của ông ta là Siêm Rệp. Sài Gòn đánh giá quá cao nhóm thân Mỹ và đánh giá quá thấp Sihanouk, ngỡ rằng chỉ với vài cuộc động binh ở biên giới của Đáp Chuôn kết hợp với nhóm cảnh vệ tại thủ đô của Sam Sary, chế độ Sihanouk bị lật đổ. Âm mưu phản loạn của Đáp Chuôn - Sam Sary thật ra không lọt khỏi cặp mắt theo dõi của triều đình Nam Vang, nói đúng hơn, của Phòng nhì Pháp. Umsvouth và Kossem, thừa lệnh Nhiek Tioulong, đưa lính dù xung trận và họ dẹp loạn thật nhanh, gọn. Sự việc không kết thúc ở mức đó, bởi Sihanouk thừa hiểu cái gì đằng sau Đáp Chuôn. Và, ông ta họp báo: hai sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ cố vấn tác chiến trong Bộ tham mưu của Đáp Chuôn bị bắt sống và được trình diện. Tất nhiên, Việt Nam Cộng hòa phủ nhận, Sihanouk không cần sự công nhận hay phủ nhận. Ông muốn cảnh cáo Sài Gòn chớ chơi trò cắn trộm. Khá đông các quốc gia Đông Nam Á - tuy hùa với Mỹ - không thích Sài Gòn trở thành một lính sen đầm khu vực. Tuy ghét Sihanouk, các quốc gia đó ngại cú gây loạn vừa rồi ở Miên mở ra tiền lệ. Washington phê phán Fishel - thiếu chặt chẽ trong kế hoạch hành động - nhưng không lên tiếng công khai về sự việc đảo chính hụt ở Miên ở Sihanouk không tố cáo Mỹ mặc dù ông ta nắm nhiều tài liệu đủ vạch trần Mỹ - cùng với Sài Gòn - kẻ chủ mưu lật đổ ông. Sihanouk là con người lắm mưu mẹo vặt. Tháng 8, ông ta nhắc lại lời Nhu mời ông viếng Sài Gòn và ông đến thủ đô Việt Nam Cộng hòa giữa hàng rào danh dự, đi trên thảm nhung, nhận hoa cùng những cái hôn nóng bỏng của các cô gái… Hai bên tuyên bố “dẹp hiểu lầm, thắt chặt tình thân hữu”. Nhưng, chưa đầy một tháng kể từ chuyến viếng thăm mà báo chí đôi bên cho là “hết sức kết quả” đó, ngày 1-9, Hoàng hậu Cao Miên Kossamak - mẹ đẻ của Sihanouk - nhận được một gói quà của một hãng buôn từ Hương Cảng gửi sang nhân sinh nhật của bà.
Đó là hãng buôn vẫn chuyên cung cấp các vật dụng sinh hoạt của gia đình hoàng gia. Quốc vương Suramarit và hoàng hậu ngự trên ngai vàng, muốn đích thân xem món quà quý. Hoàng thân nội giám Vakrivan mở gói quà - trong một hộp, ràng rịt cẩn thận. Khi gói quà bóc đến lớp giấy cuối cùng, sắp mở ra thì thái tử Sihanouk vào. Ông ra hiệu cho Vakrivan tạm ngưng, để quốc vương và hoàng hậu ra phòng ngoài tiếp khách. Mọi người vừa an vị ở phòng ngoài, thì ở phòng trong, một tiếng nổ dữ dội giết chết hoàng thân Vakrivan, phá tung gian phòng… Gói quà chính là một quả bom.
Dư luận Cao Miên sôi sục. Người ta đề quyết Sài Gòn gây tội ác nhằm diệt nhà vua. Một chút ánh hữu nghị vừa nhen lên đã tắt ngấm.
Ngô Đình Nhu lỡ khóc lỡ cười. Anh ta gọi Ngô Trọng Hiếu tới dinh Độc Lập, cạo cho một trận là tên quân sư này thiếu điều độn thổ:
- Anh ngu như bò. Ai lại cho nổ vào lúc này? Tôi đã bảo ngưng tất cả các dự định dính đến bọn Miên, tại sao anh dám cãi?
Ngô Trọng Hiếu chỉ chống chế:
- Kế hoạch này sửa không kịp…
Hắn ta giấu biệt nguyên nhân: Hắn giao cho Ly Kai bố trí, Ly Kai báo với Dương Tái Hưng và Dương Tái Hưng tự mình sang Hồng Kông bố trí. Khi Hiếu bảo Ly Kai ngừng lại, Ly Kai báo với Tái Hưng. Tái Hưng lớn tiếng:
- Không! Tôi đã thu xếp xong… Ngô Trọng Hiếu là cái gì mà ra lệnh cho tôi? Thủ tiêu Sihanouk với cha mẹ nó cần thiết cho tôi chớ không phải vì Ngô Trọng Hiếu hay Ngô Đình Nhu!
Nói thì găng như vậy song Dương Tái Hưng đưa Ly Kai 1.000 dollar bảo giúi cho Hiếu.
Ly Kai vừa giúi tiền vừa bảo:
- CIA thực hiện kế hoạch này, không sửa được.
Hiếu biết nếu hé với Nhu rằng có bàn tay của CIA thì lập tức hắn bị ném xuống hầm cọp ở Sở thú - cái P.42 rùng rợn ấy.
Thế là bang giao Việt - Cambốt trở lại điểm chết. Có vẻ người Mỹ còn hung hăng hơn trong tham vọng tiệu diệt xu hướng trung lập ở Nam Á. Ngày 25-9, thủ tướng Sri Lanka Bandaranaike bị ám sát tại Colombo. Và, dư luận đặt một dấu hỏi to tướng về sự a tòng của Trung Cộng trên lĩnh vực này - lĩnh vực chống trung lập: Quân đội Trung Cộng tràn qua biên giới Ấn…
Tình hình đối nội của Việt Nam Cộng hòa cũng không bằng phẳng. Nếu giáo chủ Phạm Công Tắc từ trần ở Nam Vang được Sài Gòn đón nhận như một người vô danh tắt thở thì cuộc bầu cử Quốc hội khóa II lại đưa những Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán ngoi lên và ngoi lên ngay tại đô thành. Đán giành được nhiều phiếu nhất và nói chung, phe “độc lập” đánh bại phần lớn ứng cử viên Phong trào Cách mạng Quốc gia, ở nơi mà sự gian lận của Chính phủ bắt buộc phải khéo léo.
Kể ra mươi dân biểu chống đối không thể lung lay nổi cơ chế của cái Quốc hội đã được đủ thứ luật lệ rào chắn bảo đảm ưu thế tuyệt đối của chính phủ, nhưng Diệm không bằng lòng. Nhu khác Diệm, anh ta muốn Quốc hội có đôi tiếng nói ngược - món trang sức rẻ tiền mà rất hào nhoáng. Diệm không thể hình dung những tay không tôn sùng ông là lãnh tụ cả chính trị lẫn tinh thần lại chiếm ghế ở Quốc hội, dùng diễn đàn của Quốc hội xỉ vả ông và gia đình ông. Về mặt này, Diệm chịu tác động của Trần Lệ Xuân.
Theo ý của Diệm, Ủy ban hợp thức hóa đại biểu Quốc hội không thừa nhận Phan Quang Đán và Nguyễn Trân. Quyết định được đưa ra trước mũi của thượng nghị sĩ Mansfield, lãnh tụ đảng Dân chủ đang cùng một đoàn quan chức thanh tra việc sử dụng viện trợ Mỹ ở miền Nam. Thái độ khiêu khích công khai đó khiến ngay cả Eisenhower cũng bực mình. Đại sứ Durbrow nhận chỉ thị phải trình bày với Diệm hậu quả xấu trước dư luận và Quốc hội Mỹ của những hành động kiểu “Hoàng đế phương Đông” như vậy, song Diệm thậm chí không tiếp Durbrow, viện cớ bận kinh lý nơi này nơi khác. Con người từng tuyên bố “biên giới Hoa Kỳ kéo dài tận vĩ tuyến 17” bất bình chính sách của Nhà Trắng, nhất là từ sau khi Foster Dulles chết, Diệm đôi lần thổ lộ với Luân:
- Chính phủ Eisenhower núng thế trước Nga Sô đồng thời bị Kroutchov mê hoặc trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ gần nửa tháng của ông này… Bao nhiêu điều tôi và Tổng thống Hoa Kỳ thoả thuận bỗng tan biến. Chúng tôi chẳng những đã nói tới mà còn đi sâu vào kế hoạch “Bắc tiến”. Người Mỹ không thích tôi, họ cũng không thích ông Lý Thừa Vãng. Họ muốn áp đặt ý riêng của họ và chính phủ do tôi lãnh đạo chỉ có nhiệm vụ thi hành. Đâu được! Tôi không phải là bù nhìn. Họ thích Phan Quang Đán. Nếu họ thích thì xin cứ rước Đán về Mỹ, làm tổng thống hay làm bồi, tuỳ họ, còn ở Việt Nam, Đán không phải type (1) mà tôi cần.
Ngô Đình Nhu đau khổ thật sự. Anh ta lắc đầu, trút lo lắng lên làn khói thuốc. Điều an ủi Nhu phần nào là Luân chia sẻ lo lắng với anh ta.
- Fishel bủa lưới quanh chúng ta! - Nhu kêu lên - Anh tổng thống, vợ tôi, cha Cẩn, chị Cả Lễ… đều không chịu hiểu. Anh thừa biết corruption (2) là cái cớ mà Mỹ thường dùng để xóa bỏ những kẻ họ không ưa, mặc dù họ khuyến khích coruption ở các chế độ đồng minh với họ. Lưới của Fishel cụ thể là ai, ta còn mù mờ, song tôi linh cảm cái lưới ấy đang thắt.
Nhờ lối nhìn tình hình chính trị như vậy của Nhu mà Luân cứu được Phúc, người xả mấy phát tiểu liên vào Diệm ở Ban Mê Thuột. Sau một thời gian điều tra không kết quả. Nhu quyết định bắn Phúc. Anh ta hỏi ý kiến Luân, Luân trầm ngâm khá lâu. Đợi Nhu giục mấy lần, Luân mới nói:
- Phúc không khai không có nghĩa là Phúc không biết gì cả. Muốn Phúc khai, cần bền bỉ, cảm hóa anh ta. Bắn Phúc tức là mặc nhiên cho phép cái lưới của Fishel thắt lại, Phúc còn, đối thủ của ta nghi hoặc: ta biết hay chưa, biết tới đâu… Có thể ta biết tất cả mà ta không bắt, ta muốn ban ân huệ cuối cùng hay ta “lót ổ” để nắm quả tang cả bọn… Phúc nghiễm nhiên đóng vai trò kềm chế, các đối thủ của ta rất muốn thủ tiêu Phúc, lưỡi gươm lơ lửng trên đầu họ. Tôi phải dặn khám Chí Hòa giữ gìn Phúc như giữ gìn sanh mạng của giám đốc khám. Tất nhiên, nếu anh có một lập luận khác vững chắc hơn thì anh hành động…
Nhu không bắn Phúc. Trái lại, giám đốc khám Chí Hòa được lệnh lấy cái đầu của mình ra đảm bảo an toàn cho Phúc - Phúc không chết với bất kỳ lý do nào, kể luôn bịnh tật đau yếu!
*
Luân sắp sửa vào dinh Độc Lập. Hôm nay, mồng một Tết, anh đến mừng tuổi Tổng thống. Từ vài ba năm trở lại đây, sáng mồng một Tết, tất cả quan viên văn võ của Sài Gòn đều phải chào Tổng thống, giống như ở Huế. Trước kia, ở Huế ngày mồng một Tết là buổi khai triều đầu năm của Đức Kim thượng. Khác chăng là Tổng thống sẽ mời mỗi người một ly sâm banh ngọt dịu thay cho ngự tửu gắt cổ. Bản thân Tổng thống khó lòng nhớ hết thuộc hạ nhưng Văn phòng Tổng thống ghi chú cẩn thận tên họ từng vị và chiếc máy quay phim không bỏ sót một ai. Người nào vắng mặt không lý do sẽ được lên danh sách - tội bất kính với Tổng thống ngang với tội phản loạn.
Chuông ngoài cổng reo. Thạch báo có khách - một phụ nữ.
Luân ngồi trước một phụ nữ rất trẻ và cũng rất đẹp. Cô mặt áo dài, quần lụa, trang điểm vừa phải.
- Thưa ông kỹ sư, em là Băng Trinh - Lưu Thị Băng Trinh - vợ của đại tá Phan Cao Tòng, sư trưởng sư đoàn 13 bộ binh… - Cô ta thỏ thẻ.
- Chào bà đại tá! - Luân nói. Nói xong, anh gọi vọng vào trong phòng: - Dung ơi, có khách!
- Em xin gặp riêng ông kỹ sư… - Cô ta ấp úng.
- Không sao, Dung là vợ tôi, không có gì bất tiện cùng tiếp khách với tôi.
Dung ra phòng khách, bắt tay Băng Trinh.
- Theo lệnh của Phủ tổng thống, hôm nay đại tá Tòng có mặt ở Sài Gòn… Tôi được giao làm việc với đại tá. Xin hẹn một giờ nữa, tức là 9 giờ, tại văn phòng Tham mưu biệt bộ, từng dưới dinh Độc Lập… - Luân nói
- Dạ! Nhà em biết… Vì vậy em xin gặp ông kỹ sư.
- Tốt nhất mời đại tá đến văn phòng… - Luân nhỏm dậy. - Xin lỗi bà!
Băng Trinh cắn môi. Dung thông cảm với bạn gái:
- Anh nghe một chút… - Dung ngăn Luân - Thế nào?… Bà nên nói ngắn. Anh Luân tôi sắp phải đi…
Luân ngồi xuống.
- Thưa ông, bà! - Băng Trinh nói bằng một giọng thiểu não - Em nghe tiếng ông kỹ sư, nhà em cũng nhắc. Bởi vậy, em mạnh dạn tới đây, mong ông kỹ sư thương dùm em…
Luân lạ gì viên sĩ quan cấp tá hay nhậu nhẹt, đầu óc trống rỗng này. Tuy vậy, Tòng không thuộc hạng mưu mô, ít nhiều còn liêm sỉ. Hai người chưa uống với nhau một cốc bia. Từ khi Tòng nắm sư 13, Luân theo dõi ông ta chặt hơn. Luân biết ông ta cầu an, né tránh các cuộc lùng sục và đụng độ, nói chung nặng nề làm ăn.
Về cô vợ, Luân đọc một số thông báo của mật vụ: nguyên là gái điếm, lấy Tòng lúc Tòng còn làm bồi, nay hoàn lương, lợi dụng địa vị của chồng mua bán bò ở biên giới - không phải là hạng chanh chua đanh đá.
- Chị nói đi - Dung thay đổi cách xưng hô, sau khi quan sát Băng Trinh. Trên gương mặt già dặn phong trần, Băng Trinh còn giữ những nét chất phác.
- Tụi em biết là giấu giếm ai chứ khó mà giấu giếm ông trung tá… - Băng Trinh nói đứt đoạn. - Cái vụ hậu cứ sư đoàn bị tấn công đó… Dạ! Trăm sự nhờ ông bà thương… Được lịnh trình diện ngày mồng một Tết, vợ chồng em thấy nguy. Em đã sửa soạn quần áo cho anh Tòng. Ảnh vô khám thì mẹ con em khó sống. Tội ảnh nặng lắm, em mong ông bà thương giùm…
Dung không rõ đầu đuôi sự việc nên chưng hửng, Luân không hơn, cũng chưng hửng. Lệnh gọi Tòng về Tham mưu biệt bộ đúng mồng một Tết chẳng qua là do lối làm việc máy móc của Văn phòng - trong khi ký điện, người ta căn cứ vào lịch Tây mà quên ngày 28-1 là Tết Nguyên Đán. Còn nội dung báo cáo, ngoài Luân, chưa ai ghi nhận một cái gì không bình thường.
- Tôi bận. - Luân xem đồng hồ - Xin hẹn đại tá vào 9 giờ hôm nay…
Băng Trinh biến sắc, bụm mặt khóc.
- Tôi chưa nói hết, - Luân tiếp - 9 giờ hôm nay, mời đại tá tới đây, nhà riêng tôi… Nếu bà không bận mời luôn bà…
Đến phiên Băng Trinh chưng hửng.
Luân đi rồi, hai phụ nữ nói chuyện tiếp, dần dần như đôi bạn tâm tình. Băng Trình thuật vắn tắt cho Dung nghe quãng đời gai góc của mình.
Là con một công chức Đức Hòa, Băng Trinh học đến năm thứ hai trung học thì cách mạng bùng nổ. Gia đình chạy giặc xuống tới Rạch Giá, không còn đường chạy nữa, cha mẹ đưa cô và đứa em trai quay về Đức Hoà. Cha Băng Trinh ra trình diện, nhưng Pháp tình nghi bác của Băng Trinh theo Việt Minh, nghe đâu là chỉ huy quân sự. Trong một trận bố ráp, lính lê dương bắt Băng Trinh và thay nhau làm nhục. Cô gái 15 tuổi, sau đó, bị sung vào cái gọi là “tổ chức tình nguyện” - chuyên sống ở các doanh trại để lính Tây mua vui. Một sĩ quan thích Băng Trinh, khi anh ta giải ngũ và làm chủ một khách sạn ở Hà Nội, đem Băng Trinh về hầu hạ. Tại đây, cô gặp Phan Cao Tòng. Tòng thuộc hạng “điếm vườn”, lù khù. Hai người lén lút với nhau. Băng Trinh yêu Tòng chân thật - đó là người Việt đầu tiên mà cô ăn nằm, không coi cô như món đồ chơi. Bị bắt tại trận, cô trở lại nhà số. Với tiền của dành dụm của cô, Tòng chuộc cô ra và hai người sống chung với nhau.
- Anh Nghĩa của em giận em. Cha mẹ từ em. Bác em thì từ năm 1945 tới giờ em không biết tin. Nhưng, khi em với anh Tòng về Tây Ninh, anh Nghĩa có lui tới.
Dung đã có thể nắm đầu đuôi: Tua Hai sở dĩ bị hạ dễ dàng là nhờ nội tuyến trong sư 13 - con số khá lớn. Tòng muốn che giấu việc đó. Và, rất có cơ sở để cho rằng chính Lê Khánh Nghĩa - nguyên quận trưởng Gò Dầu, nay là chỉ huy phó Bảo an, mà Luân đinh ninh là con trai của đồng chí Lưu Khánh - liên can đến vụ binh vận quy mô này.
Dung nhìn Băng Trinh với đối mắt phấn khởi. Dứt khoát không phải trò gài bẫy của Mai Hữu Xuân, Trần Kim Tuyến hay Fishel…
… Băng Trinh gọi Phan Cao Tòng tới khi Luân từ dinh Độc Lập trở về. Tòng mặc thường phục, mắt trũng sâu. Chắc là mất ngủ. Ông ta lúng túng mãi khi đối diện với Luân, mặc dù vẻ mặt rạng rỡ của vợ báo tình hình đã khả quan. Luân chìa tay bắt, ông ta chập gót chân. Luân phải đỡ ông vào ghế:
- Hôm nay, ngày Tết, anh chị đến nhà tôi. Trước hết, xin cám ơn! - Luân thân mật chào, không gọi theo cấp chức của Tòng.
- Ta nâng ly mừng tuổi nhau năm mới! - Luân khui một chai sâm banh…
- Thưa trung tá! - Tòng đứng lên. Ông ta đứng lên vì Băng Trinh giật áo ông mấy lần - Thưa ông, bà trung tá…
Tòng lúng túng mãi, ly sâm banh sánh ra ngoài.
- Mời cạn ly! - Luân cười.
- Nghe tin anh chị đã có cháu, xin cạn ly thứ hai - Luân tiếp tục xởi lởi.
Phan Cao Tòng được trấn an. Câu chuyện từ dè dặt ban đầu, cởi mở hơn về sau.
- Chúng ta là lính, - Luân nói - Đời lính khó suôn sẻ, nhất là vào thời buổi bây giờ. Tôi hứa giúp anh, giúp với tư cách bạn bè. Vả lại, sơ thất của anh không thể quy tội một mình anh. Nếu phải ra tòa án binh thì trung tá Hà Duy Cường ra đầu tiên vì trung đoàn Lam Sơn chịu trách nhiệm giữ trại Sùng. Kế đó, thiếu tá Lê Đạo, ông ta canh gác sư đoàn thiếu nghiêm ngặt, để địch trà trộn… - Luân vụt hỏi - Anh còn giữ bản báo cáo của thiếu tá Lê Đạo không?
Tòng ngó vợ, Băng Trinh gật đầu.
- Thưa, em còn giữ… Em có mang theo đây!
- Chị cho tôi xin.
Luân đọc lại bản báo cáo đó, cười mỉm:
- Vậy là ổn. Anh chị có thể về ăn Tết. Lúc nào cần, tôi sẽ điện mời anh… À, anh chơi thân với thiếu tá Lê Đạo không?
- Không! - Tòng trả lời quả quyết - Tôi với hắn mới liền lưng lần này thôi. Hắn thuộc An ninh quân đội, trung tá thừa biết. Khó chơi lắm!
Lúc chia tay, Tòng do dự mãi, rồi đánh bạo:
- Tôi có một da cọp dồi bông, muốn tặng trung tá làm kỷ niệm…
Nói xong, Tòng và vợ khắc khoải chờ đợi. Luân xua tay:
- Đừng! Người ta dị nghị chết…
Anh xua tay mà Tòng hiểu là anh không từ chối
*
- Phân tích sự việc này coi… - Luân bảo Dung, khi trong phòng còn hai người.
Từ lúc Luân bị thương, quan hệ giữa anh và Dung khăng khít. Họ không còn kiềm chế tình cảm song vẫn chưa dám phá vỡ giới hạn trước khi được tổ chức chính thức cho phép. Luân viết một điện báo với A.07, mãi chưa có trả lời, mặc dù liên lạc đã nối chặt khi Lục nhảy dù xuống miền Bắc. Cứ vài tuần, James Casey nhận được tin của Lục - có nghĩa là hoạt động chung trôi chảy. Không chỉ tin của Lục, mà một số toán biệt kích nhảy dù sau này gửi tin đều đặn, James Casey hí hửng, Luân và Dung mừng hơn. Chưa biết đến lúc nào cuộc đấu trí kiểu này chấm dứt, song trước mắt, địch bị dẫn sâu vào tròng.
- Phan Cao Tòng sẽ có ích cho ta! - Luân kết luận. Anh mân mê bàn tay Dung… Giữa lúc đó, từ chiếc rađiô đặt giữa nhà, đài phát thanh Quốc gia đang truyền đi bài nói của cố vấn Ngô Đình Nhu.
----------
(1) Loại, mẫu
(2) Tham nhũng, nạn hối mại quyền thế
Phần 5 - Chương 3
Ngọn núi lửa Nam Việt Nam
Thực tế và cường điệu
Bài của Helen Fanfani
(Financial Affairs)
Sài Gòn, tháng 2. Những người nước ngoài tại Sài Gòn am hiểu tình hình Nam Việt Nam đều phân vân về bài nói của Ngô Đình Nhu, em trai và cố vấn chính trị của Tổng thống, cũng là nhà lý luận quả quyết và hùng biện, người đề ra chính sách của chế độ. Ông dành một giờ trên đài phát thanh để thuyết phục dư luận Nam Việt Nam rằng Quốc gia chống Cộng non trẻ này đang đứng trước hai nguy cơ, một là tai họa Cộng sản lớn hơn điều mà người ta tưởng, hai là thái độ thiếu kiên định của Hoa Kỳ, cũng là một thứ nguy cơ. Có lẽ một chi tiết cần chú ý trước tiên: bản ký âm bài nói của ông Nhu không hoàn toàn khớp với bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh mà Việt Tấn xã phát hành trong bản tin buổi chiều và cũng không hoàn toàn khớp với bản tiếng Việt được công bố trên báo Việt ngữ, Ai cũng thấy bản công bố chính thức được giảm nhẹ giọng hằn học ở phần phê phán Hoa Kỳ. Tỉ như, ông Nhu khi nói, dùng danh từ “thiếu đạo lý”, khi công bố là “thiếu thông cảm”. Một tỉ dụ khác: khi nói, ông Nhu gọi những quan chức Mỹ thường chỉ trích Tổng thống Ngô Đình Diệm là “những quan thuộc địa với thói quen nhìn các dân tộc châu Á qua con số chi xuất đồng dollar” khi công bố, lại là: “những viên chức ích kỷ, chừng nào đó theo cách nhìn “nước Mỹ trước hết” của một vài Tổng thống Mỹ trước kia muốn giới hạn trách nhiệm nước Mỹ chỉ ở Tây bán cầu…”
Đây không phải là chuyện vặt vãnh. Phải chăng, anh em ông Diệm muốn dấy lên làn sóng chống Mỹ - dù hạn chế trên mặt trận báo chí - để chứng minh một cái gì đó hoặc để vòi vĩnh một cái gì đó. Và, khi mà đọc lại bài viết, họ giật mình và cố gắng điều chỉnh? Một nhân viên đại sứ quán Mỹ có vai vế, yêu cầu không nêu tên, nói với nhà báo: Người nghe đài phát thanh bao giờ cũng đông hơn người đọc báo. Đã có giả định được không, tình trạng bát nước đổ và người đang hốt nó - như cách nói dí dỏm của người Việt?
Cách đây vài tuần lễ, cũng trả lời phỏng vấn của tờ báo lớn của Pháp - tờ Le Figaro - cũng chính ông Nhu nói: Chúng tôi đang ngồi trên một ngọn núi lửa, chưa biết bao giờ nó sẽ phun.
Đã 3 năm kể từ một kẻ vô danh bắn vào Tổng thống trên miền đất hứa Cao nguyên. Bộ trưởng cải cách điền địa bị thương - chỉ một người thôi - nhưng cuộc thanh trừng như bất tận. Dẫu sao suốt 3 năm đó, không một biểu hiện nguy kịch nào khiến chế độ phải sợ hãi, về phía Cộng sản cũng như về phía những người Quốc gia khác chính kiến với ông Diệm, nếu những thông báo công khai có thể tin cậy được. Không ai không lạ lùng giữa khi guồng máy chạy bình thường - rất bình thường nữa - thì đột nhiên chính phủ Nam Việt Nam ban hành một sắc lệnh thời chiến: luật 10-59. Với đạo luật này - ngay nhà độc tài mụ mẫm ở một Quốc gia Nam Mỹ cũng chưa dám áp dụng - Cộng sản và đồng lõa phải bị xử chém.
Chiếc máy chém được lau chùi, sau khi nó biểu dương một lần cách nay 4 năm để thi hành bản án đối với tướng Ba Cụt của giáo phái Hòa Hảo. Chiếc máy chém bây giờ cần phát huy công suất, cho nên nó lưu động. Và, luật 10-59 có hiệu lực ngay - một chiếc đầu rơi, của một cán bộ Cộng sản cấp tỉnh tên là Hoàng Lệ Kha. Đồng thời, Nam Việt Nam áp dụng kinh nghiệm Mã Lai, thành lập các khu tập trung gọi là khu trù mật - dồn dân bấy lâu sống tản mạn vào đây, giữa bờ rào và tường đất, dưới tầm súng của các chòi gác, hoàn toàn không có một tiện nghi sinh hoạt nào, ngay nước uống.
Ở thành thị, chính phủ ông Diệm cho bầu cử Quốc hội, nhưng lại không cho ứng cử viên nhiều phiếu bước lên thềm Nhà hát lớn.
Sự trái ngược, lộn ẩu trong chính sách của Nam Việt nảy ra một loạt giả thuyết. Bài nói của ông Nhu phản ảnh rõ rệt sự trái ngược, lộn ẩu đó và nhân thêm các phỏng đoán. Ông Nhu nói: “Chế độ Cộng hòa đang ở vào giờ báo động. Chính phủ không muốn giấu giếm với quốc dân tình thế nguy hiểm hiện nay”. Tuy vậy, ông Nhu không hề chứng minh “tình thế nguy hiểm” một cách cụ thể mặc dù ông cố gắng chứng minh nguyên nhân của tình thế đó. Có hai điều, theo lời ông Nhu: Một, những kẻ tự nhận là Quốc gia, là chống Cộng nhưng nặng quyền lợi ích kỷ, vô tình hay cố ý tiếp tay cho Cộng sản. Hai, đồng minh của Nam Việt Nam bị những kẻ nói trên mê hoặc, có thái độ chập chờn trong sự lựa chọn giữa thời điểm nhạy cảm hiện nay - hoặc giữ đúng lời cam kết ủng hộ các nổ lực của chính phủ mà Tổng thống là đại biểu hiến định để đối phó hữu hiệu với Cộng sản, hoặc dung dưỡng bọn bất tài đang bất mãn, gây khó khăn cho quá trình củng cố chế độ tự do ở Nam Việt Nam và như vậy có nghĩa là sửa soạn dâng một phần đất còn lại này cho kẻ thù…
Không ai nghi ngờ ý chí chống Cộng của Tổng thống Diệm. Song, không ai không phát hiện qua bài nói của ông Nhu, những mục tiêu đấu tranh mà chế độ ông Diệm xem ngang, thậm chí nguy hiểm hơn Cộng sản: những người Nam Việt Nam không tán thành một số mặt chính sách nào đó của Tổng thống và bản thân chính giới Mỹ, ở những phần khác ý kiến với ông Diệm. Ít nhất, ông Diệm tự đặt cho mình ba đối thủ. Trên bình diện thực hành, chế độ Sài Gòn chưa dám làm cái gì phạm thượng đối với người Mỹ ngoại trừ sự nói xiên nói xéo. Còn đối với các nhóm theo chủ nghĩa Quốc gia thì chế độ chắc chắn không nương tay.
Nước Mỹ đang ở vào năm bầu cử. Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vừa bắt đầu. Đảng Dân chủ có vẻ chiếm lợi thế nhờ xu hướng của công chúng Mỹ đòi hỏi cải thiện quan hệ với khối Cộng và nhờ Kennedy - người mà các cuộc thăm dò nhất trí là sẽ được đảng Dân chủ đề cử trong cuộc so găng vào tháng 11 với đảng Cộng hoà. Đó chính là cơ sở - nếu không phải là cơ sở duy nhất - cưỡng ép ông Nhu có bài nói thách thức vừa rồi. Tổng thống Eisenhower có thể phiền lòng, song ông không còn mấy thì giờ để làm một errata (1) đằng sau tác phẩm sinh nở và lớn khôn dưới thời của ông. Nhưng, Kennedy thừa thì giờ để “lập lại trật tự” trong cái tôn ti mà nước Mỹ đang cố giữ gìn.
Trái với phong tục cổ truyền của nước ông, ông Nhu không chúc lành mà chúc dữ nhân ngày Tết. Quả núi lửa có thể phun - nó phải phun - bởi trong vòng chiến, không chỉ có Cộng sản và chế độ ông Diệm. Và, bởi chính ông Diệm và gia đình ông muốn nó phun, hơn thế nữa, đang cố hết sức mình để thúc đẩy cho nó phun.
Câu ngạn ngữ sau đây không chắc tới bạn đọc Finacial Affairs vì cây kéo kiểm duyệt Sài Gòn: Con ếch thích to bằng con bò… Cường điệu một khi biến thành hiện thực - lạy Chúa - không phải là điều mà chúng ta cầu nguyện…
*
Báo cáo của Sở nghiên cứu chính trị.
Nhóm “Caravelle” - tên gọi do chương trình hành động của nhóm được thông qua tại một bữa tiệc mở trên tầng sáu khách sạn Caravelle. Chỉ có tờ Thời Luận đăng chương trình này. Báo tiếng Pháp - Journal d’Extrême Orient - đưa tin vắn tắt. Nhưng, hãng UPI, AFP đánh đi tin chi tiết - giới thiệu tỉ mỉ tiểu sử những người đứng đầu, nhất là Trần Văn Hương.
Chương trình nhấn mạnh hai điểm:
1- Đòi chính phủ thực thi dân chủ, cụ thể là đòi để các xu hướng quốc gia được quyền tập họp thành tổ chức, có cơ quan ngôn luận, được sử dụng đài phát thanh và có quyền phát ngôn khác như in ấn, lưu hành ấn phẩm, diễn thuyết. Đòi chính phủ đối thoại với các chính đảng, nhóm. Đòi tổ chức bầu cử quốc hội và công nhận phe thiểu số đối lập trong nghị viện.
2- Tự do kinh doanh, hủy bỏ các hình thức độc quyền của chính phủ
Chương trình nhằm khai thác sự bất mãn trong một số trí thức và một số nhà doanh nghiệp. Chương trình cũng tỏ ra khéo léo mơn trớn dư luận Mỹ, đặc biệt là dư luận ủng hộ đảng Dân chủ Mỹ đồng thời bỏ ngỏ khả năng thiết lập lại quan hệ tốt hơn với Pháp.
Trong phiên họp chót, Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Trân phát biểu rất hăng. Đán khoe là “đã có những cuộc tiếp xúc bổ ích với người có thẩm quyền của đảng Dân chủ Mỹ”. Nguyễn Trân phân tích con đường cứu Việt Nam Cộng hòa khỏi rơi vào tay Việt Cộng: thay đổi chế độ, từ tổng thống chuyển sang chế độ nghị viện, từ độc đảng sang đa đảng. Hoàng Cơ Thụy nói về việc “phá thế cô lập của Việt Nam Cộng hòa trong thế giới tự do” mà hành động đầu tiên là “tỏ ra hiểu biết đầy đủ về vai trò của Pháp ở Đông Dương, một vai trò mang ý nghĩa lịch sử lẫn thực tiễn hiện tại, bởi Pháp là một cường quốc.
Trần Văn Hương kết luận cuộc họp. Ông nói ngắn và chung chung: Phải thực hiện đoàn kết quốc gia để chiến thắng Cộng sản. Chương trình hành động của nhóm được thông qua theo lối đưa tay.
Theo các nguồn tin, linh hồn thật sự của nhóm là Nguyễn Trân. Với các bằng chứng, chúng tôi thấy rõ hai thế lực sau đây đồng tình với Nhóm: một số sĩ quan và trí thức từng dính với Phòng nhì Pháp và đảng Đại Việt Hà Thúc Ký, Trương Tử Anh, kết liên với các nhóm Quốc dân đảng Nguyễn Hòa Hiệp. Cũng không loại trừ khả năng Nhóm thoả thuận ngầm với Thích Tâm Châu. Riêng nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn thì hình như đứng ngoài cuộc. Phần Trần Văn Hương, ông ta không thích Đán và các phe, song háo danh, tự coi như người đứng trên nên bị lợi dụng.
Sau đây, đính kèm:
1) Chương trình của Nhóm.
2) Băng ghi âm cuộc họp.
3) Danh sách 21 người dự họp.
*
Nhu rõ ràng thấm mệt sau những ngày căng thẳng liên tục. Anh ta gần như nằm hẳn trên ghế, chân gác lên bàn. Đôi mắt nặng nề nhìn người đối thoại với mình một cách lơ đãng. Luân thông cảm với hoàn cảnh và gánh nặng mà Nhu đang xốc đỡ. Chợt nhớ đến bài báo của Fanfani, Luân mỉm cười: Mỹ có trước mắt hai mục tiêu - cách mạng và phe phái; Nhu thêm một bận tâm nữa - Tổng thống Diệm. Như vậy, Nhu phải là người bận rộn nhứt.
- Anh cười cái gì? - Nhu hỏi, uể oải.
- Cười anh! Tôi vừa đọc một quyển sách, tựa là “Anh hùng thấm mệt”… - Luân trả lời, vẫn cười tiếp.
- Sách triết học hay văn học?
- Tiểu thuyết…
- Có chỗ nào giống tôi không?
- Giống… Giống chỗ “thấm mệt” nhưng con đường đi tới “thấm mệt” khác nhau xa.
- Anh còn thời giờ đọc tiểu thuyết, giỏi quá. Tôi chẳng những không còn thì giờ mà không còn đầu óc.
Nhu chống người dậy, châm thuốc.
- Mệt kinh khủng! - Nhu nói khi nhả ra làn khói - Trước kia, chính tôi đưa ra các đề thi, bây giờ chính tôi phải giải các đề thi. Toàn các đề thi hiểm hóc. Anh có thấy như vậy không?
- Thấy chớ! - Luân gật đầu - Tôi khâm phục sức làm việc của anh…
- Anh đọc báo cáo tuần của Bộ tham mưu chưa? - Nhu đùa sang Luân một xấp giấy - Tình hình xấu lắm. Rất xấu. Ta mất một phần lớn làng xã, Cộng sản đột ngột đẩy mạnh hoạt động, đặc biệt ở đồng bằng Nam phần. Tôi không hiểu họ lấy súng ở đâu, mà trong một thời gian kỷ lục, lập ra bao nhiêu tiểu đoàn, không có một dấu hiệu nào Bắc Việt tuôn người, tuôn súng vào Nam. Vậy mới lạ!
Luân lật qua xấp giấy. Những con số khô khan, những ghi nhận cụt ngủn mà anh quá quen. Với loại thông tin kiểu này, không trách Ngô Đình Nhu càng đọc càng mù tịt.
- Súng ngựa trời là cái gì, anh Luân? - Nhu hỏi - Súng bập dừa nữa?
Luân vừa đến Cục tác chiến, ở đó, anh thấy mấy khẩu “súng ngựa trời” tịch thu được trong các cuộc hành quân. Sĩ quan tác chiến không gọi chúng là “súng ngựa trời” mà là súng thô sơ, sứng tự tạo… chế theo kiểu súng săn, bắn đạn ghém, gồm một ống sắt làm nòng, một cơ bẩm mổ vào hột nổ đốt cháy khối thuốc và tống các thứ: miểng chai, đinh, mảnh sắt vụn, thậm chí dây kẽm cắt ngắn… thành một vòng sát thương rộng. Hồi kháng chiến chống Pháp, tiểu đoàn 420 chế được vài loại súng, nhưng không tiện bằng “súng ngựa trời”. Luân hiểu hoàn cảnh mới cho phép lực lượng vũ trang cách mạng tạo được vũ khí lợi hại. Người biết kỹ thuật quân khí đông hơn trước, vật liệu không khó kiếm. Tỉ như phosphore rouge (2) đâu mà chẳng có. Thuốc nổ còn lan tràn hơn.
“Súng ngựa trời” đi vào huyền thoại. Quân cách mạng muốn đặt “súng” ở đâu cũng được, trên ngọn cây, cạnh bờ đất, trong mái chòi. Chỉ chuyền một dây giật cơ bẩm, súng sẽ khai hoả. Người bắn an toàn. Súng không có cỡ nòng nhất định, nó tùy ống sắt - thậm chí, ống tre cũng tốt. Từ vài tháng nay, “súng ngựa trời” gây khủng khiếp trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Bộ tổng tham mưu và Cục tác chiến buộc phải mổ xẻ khẩu súng oái oăm đó. Các nhà chuyên môn về vũ khí đều lắc đầu: trò chơi này làm suy sụp tinh thần quân lính được sao? Tướng Williams, trưởng phái bộ quân sự Mỹ cũng bỏ công nghiên cứu khẩu súng.
- Anh chưa thấy “súng ngựa trời” sao? - Nhu thấy Luân im lặng, hỏi tiếp… - Tôi thấy rồi. Thấy súng… như cái ống thổi lửa ở nhà quê. Tại sao nó nguy hiểm?
Luân nghĩ rằng tốt nhất là không nên đi sâu vào khẩu súng ngựa trời. Nhu làm sao hiểu được sức mạnh của khẩu súng, không chỉ từ “cái ống thổi lửa ở nhà quê”
- Tôi đã xem qua một lần, nhưng chưa để ý tính năng, cấu trúc… Nếu anh cần, tôi sẽ trả lời sau.
- Được, hôm nào anh cho biết… Còn “súng bập dừa”? Súng “oảnh tầm sào”? Nước nào chế tạo? Quân độc chưa tịch thu được khẩu “bập dừa” mặc dù tôi ra lệnh phải kiếm cho được…
Tới đây, Luân bí như Nhu. Trong các sách nghiên cứu vũ khí bộ binh, kể cả vũ khí chế tạo tại các nước xã hộ chủ nghĩa, không đâu nói đến hai kiểu súng có cái tên rất lạ tai này. Còn lúc kháng chiến - quả chúng nó chưa ra đời.
- Tôi chịu thua! - Luân thú nhận.
- Không sao… Thế nào cũng có lần ta tóm được chúng… Bây giờ tôi muốn bàn với anh…
Nhu gọi thức giải khát và sau khi hớp mấy hớp bia, anh ta nói, giọng trầm trầm:
- Tôi tin là anh không khác tôi trong đánh giá tình hình. Bài nói của tôi trên làn sóng bị cô nhà báo Fanfani gọi là sự thổi phồng có dụng ý. Ngay Tổng thống cũng bảo tôi: Chú nói hơi quá. Nhưng không hại gì, tôi cần báo động trước để trị bọn thằng Đán, thằng Trân… Anh thấy không, Tổng thống đinh ninh tình hình không đáng ngại… Ta đành chưa vội tranh luận với Tổng thống. Còn cô nhà báo, cô ta rất thông minh, thậm chí, hơi dư thông minh. Cô ta là bạn của anh…
Luân nhún vai. Nhu cười:
- Tôi quả quyết về phần cô ta, chưa chắc cô chịu dừng mối quan hệ với anh ngang mức bạn, nếu không có cô Dung! Tất nhiên đó là chuyện riêng tư…
Nhu bỏ lửng câu nói. Luân hiểu rằng Nhu không đơn thuần cột anh với Fanfani theo kiểu tình cảm trai gái. Fanfani về Mỹ cuối năm 1958 và đã chính thức lấy chồng - phóng viên tờ Newsweeks chuyên săn tin ảnh khu vực Đông Nam Á, cách vài tuần từ Hồng Kông sang đây thăm vợ và Fanfani cũng làm ngược lại như vậy, rất đều đặn. Tuy nhiên, Luân vẫn cứ lặng thinh. Trong trường hợp anh để Nhu nghi nghi hoặc hoặc về quan hệ cá nhân giữa anh với một cô nhà báo Mỹ, có thể chưa phải là có hại. - Trên mọi cái - Nhu tiếp tục nói - an ninh nội địa đóng vai trò tiên quyết. Ta đủ mạnh làm chủ tình thế tại đất nước ta thì mới hòng trả giá với đồng minh. Nhóm Caravelle sở dĩ lăng nhăng vừa qua là vì an ninh nội địa mỗi ngày mỗi xấu. Cho nên, nhiệm vụ số một của chính phủ là vãn hồi an ninh. Vãn hồi an ninh hiện thời khác thời kỳ các giáo phái. Cộng sản khôn ngoan, có tổ chức, có kinh nghiệm hơn giáo phái. Tôi nghiền ngẫm nhiều đêm các bài viết của đại tá Thompson. Anh đã đọc rồi, phải không?
Luân gật đầu. Đó là tài liệu phân tích tình hình Mã Lai của Viên tư lệnh người Anh.
- Cộng sản Mã Lai không yếu, nhưng khi họ bị cô lập khỏi dân chúng thì chỉ còn còn đường rút vào rừng sâu. Chánh sách khu trù mật dựa vào kinh nghiệm Mã Lai: tôi có thể nói nó là một bước nâng cao sáng kiến vũ trang tự vệ của Anh ở Bình Dương. Khu trù mật toàn diện hơn: ta lập ra các pháo đài chống Cộng cả về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế. Tôi không cho chính sách khu trù mật đã trăm phần hoàn hảo, bởi vậy muốn anh đi một vòng kiểm tra, nơi đã lập xong, nơi sắp lập… Chúng ta sẽ trao đổi cách bổ khuyết, sau chuyến kiểm tra của anh.
Luân đồng ý ngay. Anh xin Nhu nửa tháng để làm việc đó. Khi từ giã nhau, Nhu hỏi:
- Sao ông bà lâu có tin mừng quá vậy?
- Cô ấy chưa muốn có con. - Luân trả lời, thản nhiên.
- Anh đã lớn tuổi rồi, chậm con là không tốt… Tôi cứ ngỡ ông bà khó có con, nếu muốn, nhờ các giáo sư giỏi giúp…
Trên xe về nhà, Luân nghĩ ngợi mãi về câu nói của Nhu: Anh ta nói có hậu ý gì không?
*
Chuyến kiểm tra khu trù mật giúp Luân hiểu đầy đủ hơn thực tế tình hình. Về phương diện này anh thầm phục Nhu: Nhu ước lượng đúng nguy cơ mà chế độ Sài Gòn đang bị đe dọa - bị đe dọa mạng sống.
Luân chọn Tuyên Nhơn làm nơi đến đầu tiên. Anh chỉ có thể dùng trực thăng từ Tân Sơn Nhứt đáp xuống bờ Kênh Xáng. Khu trù mật chưa có hình thù. Lính đóng giữa vòng thành đất và dây kẽm gai. Hàng nghìn dân chúng dưới nắng Đồng Tháp Mười đổ lửa, nai lưng đào các tuyến phòng thủ. Các làng quanh đó bị lùa ra Tuyên Nhơn - hồi kháng chiến, Luân từng qua lại đấy và bấy giờ gọi là vàm kênh Dương Văn Dương, con kênh đổ vào sông Vàm Cỏ Tây. Trung tá tỉnh trưởng Kiến Tường đích thân chỉ huy xây khu trù mật Tuyên Nhơn - một trong bốn khu trù mật trong tỉnh đã được Tổng thống duyệt; ba cái kia là Mộc Hóa, Thủy Đông và Nhơn Hòa Lập. Quốc sách khu trù mật được giới thiệu khá đầy đủ về ý nghĩa trong nhiều quyển sách, bài viết của những tác giả lớn, như cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng giám đốc thông tin… Nhưng trung tá tỉnh trưởng hiểu nó ở mức đơn giản hơn hết.
- Thưa trung tá! - Ông ta báo cáo với Luân - Công chuyện đuổi dân khỏi làng xóm cũ không phải dễ. Như tụi ở kinh Năm Ngàn, ở kinh Mười Hai, hầu hết gia đình Cộng sản, tôi cho lính đốt nhà. Đốt nhà mà tụi nói chưa chịu ra. Tôi cho thụt cối vô. Ra được một mớ. Sau Tết, đồng cạn nước, tôi cho xe bọc thép ủi láng tè! Ra thêm mớ nữa. Tới bữa nay, tôi quy về tỉnh lỵ Mộc Hóa phân nửa, còn phân nửa chia cho mấy khu… Trung tá có thể trình với ông cố vấn rằng Kiến Tường xây xong khu trù mật nội trong năm nay..
Luân hỏi han thêm các mặt tình hình trong tỉnh. Không phải viên tỉnh trưởng - nhiều nét hao hao viên quận trưởng Gò Đen mà Luân và Dung gặp khi Nhu mở màn đợt tố Cộng năm xưa, nghĩa là dư thừa máu lưu manh - mà thiếu tá quận trưởng Tuyên Nhơn nho nhã kể cho Luân nghe nhiều điều, với Luân, rất đặc sắc. Tay thiếu tá xuất thân sinh viên luật khoa, học trường võ bị, đầu tiên làm ở Cục quân huấn, do cãi vã với cấp trên, bị tống khứ về xứ trống lốc trống lơ này, hè mùa khô thì nắng cháy da, ngó mút con mắt chưa thấy chòm cây xanh, mùa mưa thì nước dâng tận mí chân trời, bốn bề y biển cả.
- Em chắc chắn là ông cố vấn, Tổng thống, đại tướng và ông, không ai được đọc báo cáo chỉ huy phó bảo an tỉnh… Bởi trung tá tỉnh trưởng đốt báo cáo đó rồi, đốt rồi còn vò cho tro nát bấy… Báo cáo về trận gò Măng Đa. Gò Măng Đa nằm về phía tây Mộc Hóa, cách Mộc Hóa 20 cây số đường chim bay. Sau Tết chừng bốn hay năm ngày, tỉnh trưởng ra lịnh cho thiếu tá chỉ huy phó bảo an hành quân vào gò Măng Đa, lùa số dân còn sót, - chừng mươi hộ - ra khu trù mật. Em với thiếu ta chơi thân, bạn học ở trường Pétrus Ký, nên anh ta rủ em cùng đi. Còn chờ làm việc với tỉnh trưởng, em theo anh ta. Nước vừa rút, đường hơi khó đi. Tụi này bắt đầu đi hồi 6 giờ sáng mà 11 giờ mới tới cái gò nhỏ, non một tiếng nữa mới tới Măng Đa. Thiếu tá Long - tên anh chỉ huy phó bảo an - bảo lính tạm nghỉ trên cái gò nhỏ đó. Tụi này đang vạch sậy leo lên gò thì bỗng nghe có tiếng hô: “Tất cả đứng im! Đưa tay lên… Các anh rơi vào ổ phục kích của quân cách mạng rồi… Ai kháng cự, ai chạy sẽ bị bắn…”
Người nói trong sậy, không biết mặt mũi ra sao và cũng không biết họ đông hay ít. Thế của tụi em thì rõ là bất lợi: họ ở trên gò cao, có cây cối che, tụi em ở dưới đồng, không có cái gì để núp. Nước lại sền sệt…
Thiếu tá Long không biết phải làm sao. Lính, sĩ quan đã đứng như trời trồng, đưa súng lên cao.
- Xếp súng chỗ đất khô đó rồi dang ra ngoài ra, ngồi xuống, đặt tay lên ót, nhớ quay lưng vô gò…
Lịnh lần này được chấp hành thiệt lẹ, luôn thiếu tá Long và em - tụi em nộp hai khẩu súng ngắn.
Tuy ngồi quay lưng lại, em vẫn cố gắng liếc xem họ sẽ làm gì. Trong lùm cây nhô ra hai người, mình mẩy lấm sình. Họ chuyển số súng lên gò. Số súng khá lớn - em quên nói: quân số của em gồm 380 người cho nên có lẽ thấy chuyển chậm, họ ùa xuống đông hơn. Trung tá biết ai không? Hai chú nhỏ chừng 13, 14 tuổi, ba người đàn bà, bốn ông già… Giữa lúc chuyển súng, hai người tiến về phía tụi em - một trung niên thủ khẩu Colt của thiếu tá Long, người thanh niên, ngoài khầu Vicker của em giắt ngang lưng, thủ khẩu Thompson. Người trung niên bắt đầu diễn thuyết. Đại khái ông ta chửi bới Tổng thống Diệm và đế quốc Mỹ, kêu gọi đấu tranh đánh đổ chế độ độc tài gia đình trị. Ông ta nói không hay, không lưu loát, lộn xộn nữa. Một người lính biết mặt ông ta và người thanh niên - hồi đó, người lính sợ run, cố không để bị hai người kia phát hiện - anh ta nói với em khi đã thoát nạn: ông trung niên là dân đặt trúm, cậu trẻ hơn là dân nhổ bàng, chẳng phải quân đội Việt Cộng gì ráo!
Sau đó, tụi em được tha vì, theo lời ông trung niên: tui em lầm lạc, chưa có nợ máu với nhân dân.
Thế là Kiến Tường mất trọn một tiểu đoàn súng. Thiếu tá Long tình thật khai ngay, trung tá mắng cho một trận: Anh muốn kéo tôi chết chìm hả? Báo cáo sửa đổi vụ gò Măng Đa thành một trận đụng độ ác liệt, Việt Cộng chết mấy chục, ta vô sự, thu được gần 200 súng… Nhưng, sau đây mới thật là chuyện khôi hài, vợ của tay lính mà em vừa nhắc, khi thăm chồng, thuật cho mọi người nghe: Hôm đó, dân gò Măng Đa đi tát đìa, “quân số” gồm tổ trưởng nông hội, một nam thanh niên, hai cô gái, một bà xồn xồn, bốn ông già, hai chú nhỏ, tổng cộng 11. Họ chỉ có một khẩu “oảnh tầm sào” và mươi viên đạn. Tát xong đìa, họ bắt cá thì thấy lính Quốc gia dàn hàng ngang tiến vào gò. Không thể chạy vì đồng trống trải. Tổ trưởng nông hội túng quá, hô hoán. Không dè lính Quốc gia ríu ríu đầu hàng. Súng chuyển tới chiều mới hết.
Nghe rồi, em tức quá, xin trung tá cho em truy kích. Trung tá can em: Đừng dại, chết uổng mạng… Cái ông trung tá này hùng hổ với dân, lại rất ngán Việt Cộng.
Viên thiếu tá cho Luân biết thêm: Cách vụ gò Măng Đa mấy hôm, tình huống cũng na ná và con số cũng lớn: gần ba trăm súng các loại. Và Luân đã có thể giải đáp thắc mắc của Nhu: Vì sao Việt Cộng đột ngột trang bị nhiều súng.
Cố giấu niềm vui, Luân hỏi với vẻ rất nghiêm chỉnh:
- Súng “oảnh tầm sào” là súng gì?
- Ồ! Trung tá không biết sao? Cây mousqueton indochinois (3), nòng dài như sào chống xuồng…
“Ra là vậy!” - Luân kêu thầm – “Trong một thời điểm nào, nằm trong tay ai, ống sắt “súng ngựa trời” mạnh như đại bác, khẩu súng trường cổ lỗ sĩ trở thành liên thanh. Từ giữa năm 1954 đến nay, quân lính của chính quyền Ngô Đình Diệm quen thói kiêu căng, bởi đồng bào ta không có vũ khí. Bây giờ trở đi…” - Luân mỉm cười. Và anh nhớ số súng của ông Hai Sặt ở Phụng Hiệp – “có thể chúng đang gieo kinh hoàng cho quân lính Diệm ở Cần Thơ”.
Viên thiếu tá hiểu cái cười của Luân theo nghĩa khác.
- Tồi tệ quá, phải không, thưa trung tá?
Luân thấy thương hại anh chàng sĩ quan khờ khạo này.
- Em không bi quan đâu! - Viên thiếu tá lại hiểu lầm cái nhìn của Luân - Nếu em có quyền, như chịu trách nhiệm tỉnh Kiến Tường, em sẽ giành ngay chủ động. Em đọc nhiều bài viết của trung ta, nghe bạn bè bàn tán về chủ trương của trung tá bình định tỉnh Bình Dương… Đúng lắm, chống Cộng theo kiểu các anh du côn không bao giờ thành công được. Chống Cộng là công việc của trí tuệ.
Viên thiếu tá càng nói càng sôi nổi. Anh ta tự nhận là đệ tử của Luân. Luân bỗng giật mình: Những tà thuyết mà anh bắt buộc phải tung ra như hỏa mù đã ô nhiễm mấy người? Dầu sao viên thiếu tá cũng dễ thương. Luân ghi nhớ tên anh ta: Trương Tấn Phụng.
Điểm thứ hai Luân đến nghiên cứu là Ba Chúc, vùng người Miên, thuộc quận Tri Tôn. Dân chúng bị cưỡng bức rời nơi sinh sống lâu đời, bỏ vườn bỏ nhà, dồn vào khu chợ chật hẹp. So với Tuyên Nhơn, Ba Chúc khá hơn: đã có những dãy phố lợp tôn xếp ngay hàng thẳng lối, có trường học, nhà thương, đường sá. Tuy vậy, người Miên ủ rũ trước căn nhà nóng như thiêu, con bò của họ không chuồng, rong khắp chợ, không có một cọng cỏ để nhơi…
Còn non tuần lễ nữa, khu trù mật Ba Chúc khánh thành. Luân biết là Tổng thống sẽ đích thân dự lễ khánh thành. Quan chức cấp tỉnh nườm nượp kéo về Ba Chúc sửa soạn màn kịch khánh thành sao cho đẹp lòng Tổng thống.
Đường trong khu trù mật sẽ mọc lên cây xanh - Luận lại gặp trò gian dối đó ở Ba Chúc như anh từng gặp ở Ban Mê Thuột: Người ta đang đào lỗ và sẽ cắm xuống các cây chặt trong vườn…
“Ngay trò lừa bịp, cũng không cải tiến!” - Luân nghĩ thầm – “Bởi người ta lừa bịp cũng không chịu cải tiến cách thưởng thức lừa bịp!”
Luân vào nhà thương, Trung tá tỉnh trưởng cùng đi với Luân. Mấy chục người mặc quần áo bệnh nhân nằm trên gường. Người ta sẽ mời Tổng thống lướt qua các gường bệnh để thấy khu trù mật ưu ái với dân chúng như thế nào. “Bệnh nhân” hầu hết là công chức cấp quận được lệnh phải tập đóng tuồng cho thuần thục, Luân buồn cười quá, bảo tỉnh trưởng:
- Trung tá không thấy cái khác nhau giữa người đau bịnh thật và giả sao? Bệnh nhân đều mập mạp… Hơn nữa, không có bịnh nhân người Miên…
Câu trả lời của trung tá tỉnh trưởng khiến Luân sững sờ:
- Tổng thống chỉ thích người bịnh mặc quần áo tốt còn Cụ đâu có để ý bịnh thật bịnh giả, người Việt hay Miên. Vả lại, nếu lấy người Miên thì quần áo dơ hết. Quần áo tôi mượn của nhà thương tỉnh, sau đó, phải trả đủ…
- Chuyện đời như vậy đó! - Tỉnh trưởng nói tiếp: - Tôi biết trung tá không ưa xoi mói, nên nói thật. Làm theo sở thích của Tổng thống thì yên ổn, lại dễ lên chức!
Sau khu trù mật Ba Chúc, Luân đến Bình Hưng, lãnh địa của cố đạo Nguyễn Lạc Hóa, một người Hoa. Tại đây, Luân nghe thông báo của Nhu: Khi Luân vừa rời khỏi Ba Chúc, Việt Cộng nã cối vào khu trù mật, gây một số tổn thất. Anh không rõ số phận của viên trung tá, sự khôn ngoan lõi đời liệu cứu nổi ông ta khỏi bị Nhu trừng phạt không?
Linh mục Nguyễn Lạc Hóa béo ị, với tất cả nét đặc trưng của người Hoa phương Nam - nhanh nhẹn, nói nhiều - ngay trong cái bắt tay đầu tiên đã tỏ rõ thái độ ngạo mạn của kẻ tự nhận là cha đẻ ra khu trù mật. Đặc khu Bình Hưng thiết lập từ 1956 sau đợt di cư. Lúc đầu, nó chỉ gồm những người Hoa theo đạo Thiên Chúa giáo trước đây sống ở Hải Phòng, ở đảo Cát Bà, Móng Cái. Lần lần Nguyễn Lạc Hóa lùa thêm dân các làng quanh đó, tạo một vòng đai bao quanh khu Bình Hưng. Hắn được phong hàm trung tá và Bình Hưng thực tế là một căn cứ biệt kích, với một số huấn luyện viên Mỹ, không phụ thuộc Sài Gòn về ngân sách.
Ngôi nhà gạch quét vôi nổi lên giữa màu xám xịt của cả một khu toàn mái tôn, áp đảo luôn ngôi nhà thờ đơn sơ cạnh đó. Nguyễn Lạc Hóa, tóc đốm bạc, trong bộ quân phục, súng ngắn bên lưng, tiếp Luân phảng phất nghi thức của một tiểu vương vịnh Ả Rập, trộn lẫn mùi vị một Tổng thống Trung Phi, như Amin: Các cô gái nõn nà dâng rượu - khay bày nhiều loại, có Cognac, Whisky, Ngũ Gia Bì - giữa gian phòng sáng điện, máy điều hòa mát lạnh.
- Tôi đã bảo ông Nhu đến chục lần: Muốn trị tận gốc bọn Cộng sản phải biết khủng bố - Nguyễn Lạc Hóa nói, giọng lơ lớ nhưng ý tứ rõ ràng - Tôi không cần máy chém. Đưa máy chém đi hao tốn. Người của tôi bịt miệng bọn Cộng sản giản dị hơn nhiều. Anh có thể nhìn tật mắt quanh đây, chẳng đứa nào dám thở hơi Cộng sản…
- Con nghe đồn lính của Cha moi gan người ăn sống… - Luân nghiêng nghiêng đầu.
- Không! - Nguyễn Lạc Hóa xua tay - Ăn gan sống thế nào được? Phải nướng chứ!
- Rồi lắc vú phụ nữ…
- Như thế, có gì đáng phàn nàn? - Nguyễn Lạc Hoa hỏi lại, khiêu khích.
- Con chỉ nghe, bây giờ được Cha xác nhận. Cám ơn Cha… - Luân mím môi dằn từng tiếng.
- Anh không biết hay giả bộ không biết? Các sĩ quan Mỹ dạy cho lính của tôi đó.
Nguyễn Lạc Hóa cười rộ:
- Họ có lý. Cộng sản là một thứ mọi da đỏ. Theo tôi, đáng giết hơn mọi da đỏ nữa…
Luân cố tự kiềm chế để không rút súng nã vào sọ tên bại hoại đội lớp thầy tu này.
- Dương Tái Hưng có đến Bình Hưng không?
Luân đổi hướng câu chuyện.
- Anh cũng biết ông ta? - Nguyễn Lạc Hóa không trả lời mà hỏi lại.
- Lâm Sử chắc đã đến đây rồi? - Luân hỏi rấn tới.
- Lâm Sử nào?… - Nguyễn Lạc Hóa nhíu mày - À gã đại diện cho Trung Cộng, phải không? Anh quen nhiều người Hoa quá… Tốt! Tốt!
Luân thấy không cần thiết ở lại lâu hơn tại Bình Hưng. Từ trên trực thăng anh quan sát lần nữa toàn bộ cấu trúc đồn lũy của Nguyễn Lạc Hoá; nếu anh chỉ huy thì cần vài tổ đặc công mở cửa đột phá ở hai hướng, tiêu diệt đặc khu Bình Hưng không phải là chuyện khó.
Luân đáp xuống Vị Thanh. Đây là chặng chót của chuyến công tác. Khi trực thăng sà thấp, Luân kinh ngạc trước quang cảnh tiêu điều của cả khu trù mật - trọng điểm số một của vùng sông Hậu, được long trọng khánh thành cách nay không lâu, được quay thành bộ phim tài liệu giới thiệu rộng rãi trong và ngoài nước.
Hèn chi, hôm qua, Luân nghe giọng nói trên bộ đàm của tỉnh trưởng không mấy nồng nhiệt - ông ta chưa muốn tiếp phái viên Phủ tổng thống. Mặt tiền khu trù mật ngó con kênh lớn, nhà cửa xiêu vẹo, hầu như không có người.
- Một nhóm Cộng sản trà trộn vào gây rối - Tỉnh trưởng giải thích - Chúng cưỡng bức đồng bào theo chúng ra ngoài… Chúng tôi đang lùng bắt.
Nhìn vết đạn ràng ràng khắp nơi, Luân nghĩ tới một trận tấn công của quân cách mạng. Nhưng qua báo cáo lúng ta lúng túng của tỉnh trưởng, Luân hiểu không hề có Việt Cộng nào trà trộn gây rối mà đây lại là cuộc đấu tranh của những người bị lùa vào khu trù mật. Cuộc dấu tranh rất lớn, gần mười nghìn người tham dự. Quần chúng đã bị lùa và sắp bị lùa mang khẩu hiệu, đơn từ đòi gặp tỉnh trưởng Chương Thiện. Tỉnh trưởng lánh mặt. Quần chúng bao vây dinh tỉnh trưởng. Lính được lệnh bắn dọa. Thế là xô xát. Những người bị lùa mang đồ đạc, gạo thóc xuống xuồng trở về quê cũ. Lính ngăn không nổi.
- May mà lính biết khôn không bắn vào dân! - Tỉnh trưởng chưa hết hãi hùng đã thú thật - Chứ dân mà say máu thì chúng tôi không còn ai sống sót… Bây giờ, trăm sự nhờ trung tá liệu lợi trình với Tổng thống và ông cố vấn. Chúng tôi sẽ khôi phục khu trù mật, có điều không mau. Cộng sản đã có súng, du kích lại bắt đầu hoạt động cách Vị Thanh vài cây số thôi…
Thế là một tỉnh lỵ bị quần chúng tràn ngập! Luân phấn khởi trong lòng, dặn dò chớ không rầy quở tỉnh trưởng, bay trở về Sài Gòn. Anh được Nhu cho miễn viết một báo cáo đầy đủ. Nhu nghe anh chừng mươi phút, ngăn anh:
- Lúc khác tụi mình sẽ bàn kỹ. Bây giờ, có một công vụ đặc biệt, Tổng thống muốn đích thân giao anh…
----------
(1) Cải chính, sửa sai.
(2) Phốt pho đỏ, một hóa chất để chế tạo thuốc súng
(3) Súng trường Đông Dương (sản xuất tại Việt Nam)
Phần 5 - Chương 4
- Nghiêm!
Khẩu lệnh của đại tá lữ đoàn trưởng ngân dài. Ông đứng trước hàng quân, đưa tay lên vành mũ. Chiếc xe mui trần chở Tổng thống lăn bánh chầm chậm rồi dừng hẵn. Tổng thống rạng rỡ trong bộ quần áo màu trắng mà ông ưa thích, tì tay lên thành vịn, thẳng người. Tiếng chập gót chân như một nốt nhạc uyển chuyển vang lên đều đặn suốt hàng quân và rừng mũ đỏ cùng màu loang lổ của bộ quần áo lính Dù khẽ động đậy - khẩu tiểu liên được xốc dưới vai trái, còn cánh tay phải thì đặt vào nịt. Ngực cả lữ đoàn ưỡn về phía trước. Cổ ngước cao. Công phu tạo hình chữ thành tựu mỹ mãn: một quần thể tượng đắp nổi sừng sững dưới tàn điệp chói chang hòa trong tia nắng vàng mùa xuân.
Không đợi các bài báo kèm ảnh phát hành sau đó giới thiệu, mà khí thế đặc biệt hùng tráng của buổi lễ gieo một ấn tượng sâu đậm vào những người trực tiếp chứng kiến trên lễ đài dựng sau nhà thờ Đức Bà và trong đám đông tụ tập quanh quảng trường.
Tổng thống tỏ ra có lý khi mời đoàn ngoại giao, các nhân sĩ - nên hiểu là nhóm chống ông, công khai hoặc ngấm ngầm - dến dự lễ duyệt binh này. Gọi lễ duyệt binh là theo giấy mời của Văn phòng Tổng thống, kỳ thật, nó là lễ ra mắt của một lực lượng thôi: lính Dù. Lính Dù ra mắt với quy mô lớn nhất từ khi binh chủng được chào đời ở Việt Nam Cộng hòa. Còn vì sao Tổng thống hết sức hân hoan thì phải nghe thông điệp của ông mới rõ.
Tổng thống không khệnh khạng trên lễ đài như bao nhiêu lần đọc thông điệp trước. Ông đứng trên xe, chắc chắn để tạo liên tưởng chính ông chỉ huy - chứ không chỉ là người lãnh đạo - ở tầng xa xôi với những lính, những sĩ quan được tuyển chọn chặt chẽ này, những người mà lòng trung thành với cá nhân Tổng thống nhất định phải tuyệt đối. Tổng thống trả lại bằng sự tin cậy cũng tuyệt đối, những người hội đủ bốn tiêu chuẩn do Tổng thống quy định: thiện chiến, gan dạ, quê miền Trung, theo đạo Thiên Chúa.
Máy quay phim, máy ảnh, máy thu thanh rình cái phút Tổng thống cất tiếng phá lệ trên chiếc xe mui trần, cạnh ngọn hiệu kỳ của lính Dù, trước hàng quân mà số sĩ quan xếp thành hình chóp, đỉnh chóp là đại tá Nguyễn Chánh Thi, các thiếu tá Phan Trọng Chinh, Trần Xuân Soạn gần như đối mặt với Tổng thống.
Tổng thống rút tờ giấy. Mắt ông vào tuổi 59 còn rất tinh tường để nhìn khắp lượt hàng quân. Trong một giây, Tổng thống cau mày và trong một giây, Tổng thống tìm được cái ý thay cho lời mở đầu khô khan của thông điệp viết sẵn. Lần nữa, Tổng thống phá lệ:
- Hỡi các thiên thần mũ đỏ! Hỡi những đứa con yêu của ta!
Nhiều bức ảnh sau này cho thấy cả những giọt nước mắt trên má không chỉ của vài người lính, sĩ quan Dù…
Luân đứng sau dãy ghế dành cho quan khách, trên lễ đài. Vị trí đó cho phép anh được nhìn toàn cảnh hàng quân, Tổng thống và những người chứng kiến. Hàng quân bỗng chốc đờ đẫn như bị thôi miên, Tổng thống tiếp tục thỏa mãn, dân chúng hẳn vì hiếu kỳ nên sự trầm trồ, Luân đoán, tựu trung ở cái dáng man rợ của hàng quân. Còn quan khách, cả một bí ẩn. Đại sứ Pháp Jean Payart khoanh tay ngang ngực, gần như không cử động. Phan Khắc Sửu vuốt mãi hàng ria mép, ông và bạn bè thừa hiểu lễ duyệt binh này nhằm uy hiếp ai. Các địa phú thương người Hoa khép nép - đáng lý họ có quyền thẳng lưng bởi chính họ nhận đỡ đầu lữ đoàn Dù. Tình cờ, Bá Thượng Đài lại ngồi ngay trước Luân - ông ta càng co ro hơn, không dám ngoảnh nhìn chung quanh; vụ đảng Rừng Xanh còn sờ sờ đó! Đại sứ Durbrow sóng đôi với tướng Williams, hai người duy nhất tỏ rõ thái độ: họ hồ hởi vẫy chào lính Dù. Thỉnh thoảng Durbrow ngoái cổ, nheo mắt với Luân, miệng cười thật hào phóng. Tất nhiên, Luân không thể nào đoán ra ý nghĩa của cái nheo mắt và nụ cười kia. Fanfani bước qua lễ đài. Cô ta gương máy, chỉnh cận cảnh và bấm - ảnh đại sứ Mỹ đùa với Luân đã được ghi nhận.
Mặt trời phía đông xô cái bóng đồ sộ của Vương cung thánh đường trùm lên khu lễ đài nơi Tổng thống Diệm đang nhấm nháp quyền uy của mình. Có lẽ ông ta không còn một mực tin ở chỗ dựa cố hữu nữa - đằng sau ông là nhà thờ và nước Mỹ - mà tìm kiếm môt đảm bảo mới. Luân nghĩ như vậy. Gần gũi Diệm, anh hiểu ra vị tổng thống thích được sùng bái ngang với thích quyền lực. Trên một danh nghĩa nào đó, ông ta ngây thơ. Chính Luân chứng kiến buổi lễ ông viếng Trịnh Minh Thế.
Ông ta hoàn toàn và thành thật nuối tiếc viên sĩ quan - ông gọi Thế là “hổ tướng” - bị Nhu sớm phát hiện khả năng phản bội… Bây giờ, ông có bao nhiêu là Trịnh Minh Thế. Nếu Nhu không ngăn, Nguyễn Chánh Thi hôm nay đã đứng trước hàng quân với hàm thiếu tướng rồi.
“Đôi khi người ta vui vẻ sửa soạn đào huyệt tự chôn mình”! - Luân chợt nghĩ khi lính Dù đều bước qua mặt Tổng thống… “Họ đang bị thôi miên. Và nếu họ tỉnh ra?”
*
Buổi chiều, trong trại Lê Văn Duyệt - trước kia, tên gọi là Camp Chanson, viên tướng viễn chinh Pháp bị du kích Sa Đéc giết chết ngay trong lễ duyệt binh năm 1951 - đại tá lữ trưởng mở tiệc rượu. Quan khách không đông lắm. Điều đó dễ hiểu thôi. Sự ưu ái quá mức của tổng thống đối với lữ đoàn đã buồn lòng nhiều sĩ quan cầm đầu các quân chủng khác. Người ta thấy hiện diện trong buổi tiếp tân các sĩ quan thuộc Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống dưới quyền của đại tá Lê Quang Tung - vừa lãnh nhiệm vụ thay đại tá Nguyễn Thế Như thất sủng, các sĩ quan chỉ huy quân biệt động. Có hai vị cấp tướng: trung tướng Thái Quang Hoàng và thiếu tướng Mai Hữu Xuân, ngoài trung tướng Trần Văn Đôn thay đại tướng Lê Văn Tỵ vắng mặt vì lý do sức khoẻ. Khách dân sự, ngoài các nhân vật ai cũng biết và lúc nào cũng muốn được quay phim, chụp ảnh như Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, một số nhà báo, một số nghệ sĩ - nghệ sĩ nữ, “em” của lữ đoàn - còn các thương phú trong Chợ Lớn - như Bá Thượng Đài, Tần Hoài… - muốn noi gương tổng thống bày tỏ tâm tình với các đứa con cưng của người…
Đại tá lữ trưởng tươi cười chạm cốc hết người này đến người khác. Vây quanh đại tá là đại tá Lê Quang Tung, các sĩ quan Liên binh phòng vệ, các sĩ quan biệt động quân - hai lực lượng cùng được tổng thống thương yêu như con đẻ. Các chánh khách ngồi gần nhau, hai sĩ quan tiếp họ.
Rượu vào lời ra, Lữ trưởng, môi tái mét, bô bô:
- Ông Cụ đích thân vào đây gặp binh sĩ lữ đoàn, ngồi quây quần như chúng mình hôm nay. Nhưng mà, mấy chữ mở đầu thông điệp của Cụ mới thật xúc động… Mời bạn hữu cạn ly chúc sức khỏe ông Cụ.
Đúng ra, hai sĩ quan thỉnh thoảng đứng lên chúc rượu, không thuộc lữ Dù: Trung tá Nguyễn Triệu Hồng và trung tá Vương, giảng viên Trường đại học quân sự.
Có một đại úy mà Luân để ý ngay khi ngồi vào bàn: Phan Lạc, chỉ huy phó biệt động quân khu thủ đô - người hơi thấp, da ngăm. Đại úy Phan Lạc biểu lộ rõ con người tự tin, năng động nhưng đầy tâm sự. Anh ta - cũng như Luân, quan sát khắp lượt chủ khách - giữ thái độ trầm ngâm.
Luân quen đại úy từ lúc anh học ở Đà Lạt mà đại úy là giảng viên. Theo những tài liệu Luân nắm được, đại úy Phan Lạc vốn sinh viên Luật, bị động viên năm 1951 - bấy giờ anh ta ở Hà Nội. Là học sinh khóa sĩ quan người Việt đầu tiên, khi Pháp “trao trả độc lập” cho Bảo Đại, Phan Lạc cùng khóa với Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Bảo Trị, Nguyễn Đức Thắng… Năm 1957, Phan Lạc được Diệm cho sang Mỹ học lớp báo chí ở New York và nghiên cứu về chỉ huy và tham mưu ở Fort Bragg, bang Bắc Carolina. Anh ta là thư ký tòa soạn tạp chí Đại học quân sự, tác giả một số bài luận văn đồng thời tác giả một số bài thơ. Chính trong tờ Bách khoa mà Luân cộng tác một thời gian cũng từng đăng bài của Phan Lạc. Luân nhớ đôi bài thơ khó hiểu, mà Phan Lạc gửi gấm tỷ như nhưng câu:
Cơn sốt rét
Không lên ở đầu,ngực, tim
Đang bốc lửa ngút tâm hồn
…
Cái đau truyền kiếp ngàn đời
Cái đau của tự do…
Cuối cùng, đại úy Phan Lạc ngó Luân. Anh ta nhún vai. Luân chưa thể hiểu ngay ý nghĩa của cái nhún vai đó.
Lữ trưởng nốc một hơi, lật úp ly. Tiếng hoan hô râm ran. Bây giờ, lữ trưởng cởi phanh áo, chống nạnh:
- Tướng sống chết vì tri ngộ. Được ông Cụ biết, một lời phủ dụ ân cần, dẫu bôi gan óc cũng chưa chắc đã xứng với ân đức của lãnh tụ…
Nếu đại tá lữ trưởng ồn ào thì hai trung ta ở Trường đại học quân sự và đại úy Phan Lạc hết sức tiết kiệm lời. Cả ba - rất kín đáo - theo dõi Luân. Luân hơi ngả người trên lưng ghế, nhấm nháp ly rượu và miệng luôn cười. Anh biết rằng mọi người đang nhìn anh với tất cả ác cảm: gã “bồi” của nhà Diệm.
Mai Hữu Xuân xem đồng hồ tay. Sau đó, ông ta ghé vào tai đại tá Thi. Có lẽ ông cáo lỗi. Đúng vậy, thiếu tướng nhanh nhẹn bước lại chỗ Luân:
- Xin chào trung tá! Tôi có chút việc…
Luân đứng lên lễ phép chào tiễn thiếu tướng trong khi đại tá lữ trưởng mải mê diễn thuyết, chỉ chìa tay hờ hững.
- Trung thành! Sẵn sàng chấp hành lệnh của Tổng thống… Tôi nhắc lại: Dẫu Tổng thống bảo lính Dù bước vào lửa, không một ai do dự! - Lữ trưởng càng nói càng hăng tiết.
Chính vào lúc đó, bắt gặp cái liếc mắt tinh tế của trung tá Vương và cái tiếp nhận cũng rất tinh tế của đại tá lữ trưởng, Luân đủ tư liệu để mọc nối các giả định rời rạc của mình về lữ đoàn Dù và vị chỉ huy của nó. Anh đọc được cái liếc mắt của Vương:
“Lố rồi! Tốp lại…”
Từ đó, đại tá ít nói hơn. Luân hết ngạc nhiên: một người nổi tiếng mạnh rượu như đại tá lữ trưởng không thể nào say dễ dàng như vừa rồi.
Luân thấy đã đến lúc nên từ giã chủ nhà. Đại tá lữ trưởng bắt tay Luân thật chặt:
- Nhờ trung ta trình bày với ông Cụ: chúng tôi hết sức phấn khởi!
Đại úy Phan Lạc đứng lên:
- Tôi rất muốn được gặp trung tá.
- Ồ! - Luân cười thật tươi - Xin đại úy cho một cái hẹn.
- Tôi sẽ điện thoại, chúng ta nói chuyện về binh pháp cổ! - Đại úy cũng cười.
- Hay! Tôi đã đọc các bài của đại úy.
Vương tiễn Luân. Hai người sánh vai ra khỏi phòng.
- Trong công tác, chúng tôi còn cần rất nhiều sự chăm sóc, giúp đỡ của trung tá - một sĩ quan mà chúng tôi kính trọng như đàn anh… - Vương nói, cái vẻ khôn khéo hoàn toàn khớp với con người ông ta, khác hẳn đại tá Thi.
- Bà trung tá và các cháu bao giờ thì sang Pháp? - Luân hỏi một câu không ăn nhập gì với cái đà của buổi tiếp tân và càng không tương xứng với mối quan hệ giữa anh và trung tá Vương - họ chỉ gặp nhau quanh bàn họp, tuyệt nhiên không dính một chút riêng tư.
- À! - Vương thoáng bối rối - Tôi định như vậy, song chưa tính ngày giờ cụ thể… Có lẽ nhà tôi đi Tây Đức, ở đó có bác sĩ chuyên môn trị bệnh nhức đầu. Các cháu theo mẹ, bởi nhà tôi không muốn xa con…
Vương không trả lời mà giải thích với những chi tiết không cần thiết.
Vợ Vương xin đi chữa bệnh ở nước ngoài theo đề nghị của bác sĩ. Trần Kim Tuyến bàng quan với việc này, song Luân chú ý. Dung quen vợ Vương và Dung chưa hề nghe bà ta mắc bệnh nhức đầu - một thứ bệnh mà người ngoài không tài nào nhận ra triệu chứng.
- Hôm nào chúng tôi mời trung tá đến trường đại học… - Vương giành chủ động trong câu chuyện khi hai người đến bãi đỗ xe - Tôi sắp giảng bài “Quân Dù trong đội hình lữ đoàn”, chủ yếu nói về triển khai nhảy xuống các vùng địa hình phức tạp và vào ban đêm… - Cám ơn trung tá! Song, trang bị của lính Dù e nhẹ quá chăng?
- Không! Cả súng, đạn, mỗi người mang trên mình đến hai mươi ký lô.
- Dầu sao, trang bị như vậy vẫn nhẹ… - Luân vừa nói vừa ngó mấy chiếc xe bọc thép đậu ngay cổng, cạnh các khẩu pháo nghếch nòng.
Vương sững sờ. Trán ông lấm tấm mồ hôi… Bây giờ, ông ta hiểu Luân nói chữ “nhẹ” theo nghĩa nào!
- Tôi chợt nhớ một ngạn ngữ phương Tây, của Gabriel Meurier: Les conseillers ne sont pas les payeurs(1) - Luân nói, khi đã mở cửa xe - Tôi chỉ là người quan sát!
Luân bắt tay Vương. Xe đã ra cổng, Vương còn đứng đó khá lâu
----------
(1) Người khuyên không phải là người phải trả (hậu quả của lời khuyên)
Phần 5 - Chương 5
- Em chuyển nhanh báo cáo này cho A.07 - Luân đưa cho Dung một mảnh giấy. - Có thể sẽ có một cái gì đó dữ dội hơn hai phát súng Tây Nguyên. Không phải hành động may rủi kiểu anh Phúc mà từ một cái nền, từ những điều kiện đã chín muồi.
Nhận mảnh giấy, Dung đọc nhanh.
- Em sẽ mã ngay! - Dung bảo, - Nhưng…
Đôi mắt đen láy của người yêu ánh một số tia hoài nghi. Luân ngồi xuống cạnh cô.
- Anh tổng hợp các dữ kiện và đi đến kết luận này. Người Mỹ bắt đầu nghĩ đến khả năng xếp đặt lại con bài khi mà họ cảm thấy công thức được đề ra 5 năm qua đi gần đến sự phá sản - công thức một chính quyền bản xứ mạnh cộng với viện trợ Mỹ. Nói cụ thể hơn, công thức đó là Diệm - Williams - Gardiner. Thực tế, Nam Việt đứng trước nguy cơ khó tồn tại với tư cách một thực dân địa kiểm mới của Mỹ, ở đó Mỹ chỉ làm cái việc đơn giản là trả tiền và dạy bảo. Chính quyền đã mất một bộ phận nông thông quan trọng, đặc biệt ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Lực lượng cách mạng phát triển nhảy vọt. Diệm chẳng những không đáp ứng đòi hỏi ổn định tình hình mà Mỹ hết sức thiết tha, lại làm cho tình hình thêm phức tạp, tất nhiên, theo nhận định chủ quan của Mỹ, đảng Cộng hòa chắc chắn là phải rời chính quyền trong cuộc bầu cử tới, không còn đủ lý do bảo vệ Diệm. Đảng Dân chủ, ngay từ bây giờ, đang tính sổ. Họ không muốn, bốn năm sau, lại là nạn nhân như đảng Cộng hòa, thất cử vì thất bại ở Việt Nam.
Diệm, về phần ông, giải thích tình hình từ điểm xuất phát ngược hẳn: những khó khăn hiện thời do người Mỹ chao đảo trước phe Cộng sản, không dồn sức viện trợ cho Việt Nam, đặc biệt, không dám cam kết ủng hộ Nam Việt thay đổi lằn ranh chia đôi đất nước. Ông Diệm trách người Mỹ theo bánh xe của thực dân Pháp - kiềm hãm sự phát triển tại đây. Ông Diệm lần lần khẳng định ông ta phải đủ mạnh - chính sách của ông ta là xây dựng sức mạnh đó về chính trị, quân sự, ý thức hệ, mặc kệ người Mỹ thích hay không thích? - Nói như anh, Mỹ sắp thay công thức? - Dung hỏi.
Luân cười, cầm tay cô.
- Em đừng nghĩ thay công thức đồng nghĩa với xóa ông Diệm… Điều đó chưa cần thiết. Diệm vẫn còn - anh tin vậy - nhưng ông ta sẽ không chỉ làm việc với “hình thức Williams”…
- Nghĩa là Mỹ tăng thêm lực lượng?
- Em tôi thông minh thật! - Luân áp bàn tay Dung vào má mình - Mỹ tăng thêm lực lượng nghĩa là mở rộng vai trò ở Nam Việt. Vai trò Mỹ mở rộng, công thức biến chất - ông Diệm không còn là ông Diệm như trước đây.
- Và như điện của anh gởi A.07, có thể có một hành động cảnh cáo nào đó của Mỹ?
- Anh nghiêng về khả năng đó… Một ngọn roi của ông chủ nẹt vào mông con ngựa bất kham… Tuy nhiên…
Luân nhìn chăm chú mắt Dung.
- Tuy nhiên Diệm không đến nỗi khờ khạo không thấy cái gì đang chờ đợi ông. Ông hành động. Lữ đoàn Dù là một trong những hành động tự vệ đó. Vả lại, cả Mỹ và ông Diệm đều hiểu họ mất quyền chủ động trong tình hình Nam Việt, cho nên, khi đấu đá, họ vẫn tự kiềm chế, anh muốn nói yếu tố Pháp. Có thể cái bất ngờ đối với họ là Pháp.
Chuông điện thoại reo. Luân cầm máy:
- Tôi đây! Chào trung tá… Tôi nghe… Không có gì đặc biệt. Đó là nhận xét đơn thuần của một người quan sát về một vấn đề cũng đơn thuần kỹ thuật… Cám ơn, tôi sẽ có mặt!
Dung không hiểu nội dung Luân vừa trao đổi bằng điện thoại.
- Ai vậy, anh?
- Trung tá Vương… Ông ta băn khoăn nhận xét của anh ta về trang bị lữ đoàn Dù. Anh nhận xét rằng lữ đoàn Dù trang bị “nhẹ”. Ông ta muốn rõ ý anh… Vì ông ta hốt hoảng mà anh càng tin mình phân tích đúng… Em mã ngay bức điện nhé.
Dung giật đầu, đứng lên. Nhưng Luân giữ tay cô:
- Em cho anh hôn!
Dung đỏ bừng má, nhắm nghiềm mắt, chờ đón…
*
Luân đoán trước anh được gọi và dinh Độc Lập để làm gì. Gần một tuần nay Nhu giao cho anh đọc tất cả các báo cáo mới nhất của tỉnh trưởng Kiến Hòa, các thông báo liên quan đến Kiến Hòa của tình báo quân khu. Ở châu thổ sông Cửu Long, hiện nay, Kiến Hòa là tỉnh rơi vào điểm xấu nhất, đứng về an ninh nội địa. Tuy tỉnh trưởng Kiến Hòa cố chống chế và giảm nhẹ thực trạng, song bức tranh chung hết sức đen tối. Việt Cộng làm chủ gần như toàn tỉnh, chỉ trừ tỉnh lỵ và một số thị trấn. Cơ quan tình báo Mỹ coi Kiến Hòa là “vườn ươm các giống cây phiến loạn”, nếu không ngăn chận, toàn bộ lưu vực sống Cửu Long - còn có thể rộng hơn - sẽ bị Cộng sản tràn ngập.
Khi giao cho Luân tài liệu, Nhu bảo:
- Tôi định tung một lực lượng quân đội lớn bình định Kiến Hoà, tỷ như sư 7 và sư 21. Biệt động quân, nếu cần, cả lữ đoàn Dù. Anh nghiên cứu kỹ, rồi ta sẽ trao đổi. Nhưng gấp lắm…
Các tài liệu đều nêu lên nhận định - nói đúng hơn, giả định, bởi bì tình trạng Kiến Hòa không giống bất kỳ tình trạng nào mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn từng biết trước đây. Suốt 5 năm, cái tỉnh rợp bóng dừa và mênh mang sông nước này ngoan ngoãn - đến nỗi chưa bao giờ cần đến các cuộc hành quân - ngay đồn bót và dân vệ cơ hồ không có việc để làm, ngoài uống rượu, cờ bạc và trêu chọc gái, trừ vụ náo động sau ngày đình chiến ở Mỏ Cày - quân đội đàn áp đẫm máu một cuộc biểu tình mừng hòa bình của dân chúng. Sĩ quan ở Bộ tổng tham mưu không ít người mơ ước chân cai trị ở Kiến Hòa - nhàn hạ, yên thân, “đồng ra đồng vào” vừa phải. Cù lao lớn, cù lao nhỏ xanh mướt, dạo chơi bằng thuyền máy, bằng tàu trên sông là thú tiêu khiển lôi cuốn dân có tiền ở Sài Gòn mỗi cuối tuần. Mọi sự phẳng lặng. Đùng một cái, Kiến Hòa báo động khẩn. Qua vài ngày, hầu hết thị trấn và cả thị xã Trúc Giang bị cô lập. Hệ thống cai trị hạ tầng giống sáp kê gần lửa, đồn bót sụp đổ; hàng trăm nhân viên công an mất tích. Cù lao Bảo, cù lao Minh, Bình Đại hay Mỏ Cày, Ba Tri hay Thạnh Phú… chìm trong ánh đuốc rực trời, trong tiếng mõ lấn áp mọi tiếng súng.
Ban đầu, người ta đưa lên hàng chủ yếu nguyên nhân: Việt Cộng “từ nơi nào đó kéo về Bến Tre”. Vì chỉ có như vậy mới tạo nổi một đảo lộn quá sức lạ lùng. Nhưng lập luận đó không đứng vững: Việt Cộng từ nơi nào? từ Đồng Tháp Mười? từ rừng U Minh? Vô lý! Vài báo cáo đẩy nguyên nhân ra tận Hà Nội - Bắc Việt cho quân đổ bộ lên bờ biển Bến Tre.
Vài tháng qua, thêm chứng cớ, người ta biết là không có lấy một cán binh Việt Cộng nào từ nới khác đến Bến Tre. Tất cả là do dân Bến Tre! Và, người chỉ huy “Cộng sản dậy” ở Bến Tre - một người phụ nữ nổi tiếng lâu, thứ Ba, tên Định: Nguyễn Thị Định. Bài toán, với những phát hiện này, chỉ càng bí hiểm hơn. Bộ tổng tham mưu dốc xuống Kiến Hòa toàn bộ liên đoàn thủy quân lục chiến thuộc lực lượng tổng trù bị, mở một cuộc tấn công quy mô vào ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của quận Mỏ Cày, nơi mà tin tình báo cho biết đầu não Tỉnh ủy Việt Cộng đang đóng sở chỉ huy. Cái gì mà quân lực Việt Nam Cộng hòa có - bom, pháo, giang thuyền, máy bay, xe lội nước - đều được sử dụng tối đa trên một diện tích chưa tới 4.000 hecta, địa hình nói chung không quá phức tạp. Suốt nửa tháng quần thảo, quân lực Việt Nam Cộng hòa không chạm trán một trận nào lớn với Việt Cộng, song giờ nào, phút nào cũng vấp tổn thất: bị bắn tỉa với kiểu súng cổ, bị vướng lựu đạn, đạp chông, bị “súng ngựa trời”, thậm chí, bị ong đánh! Dồn các tổn thất lại, con số thương vong đáng sợ: hàng nghìn - chết ít thôi, song mất khả năng chiến đấu là phổ biến. Vấn đề chưa phải hết. Một hôm, chợ Mỏ Cày náo động. Hàng vạn người - đa số là bà già, ông già, người tu hành, trẻ con - bồng bế, gồng gánh chạy vào thị trấn, nói là tránh “quân đội Quốc gia đốt nhà, phá làng, giết người”. Dọa họ, họ không nao núng. Bắn chỉ thiên, họ càng xông lên hăng hơn. Rốt cuộc, dinh quận bị vây. Quận trưởng báo cáo về tỉnh, tỉnh xin ý kiến Sài Gòn. Chỉ thị của Sài Gòn: xoa dịu. Thế là quận trưởng phải hứa thu quân. Cuộc càn quét ba xã chẳng những không hề hấn Việt Cộng mà còn đẻ ra một lực lượng chống đối mới - những người biểu tình, đặc biệt trong đó ngày càng nhiều hơn thân nhân binh sĩ đang tại ngũ.
Có thể nói là tình thế rối tinh.
*
- Anh thấy thế nào? - Nhu hỏi Luân.
- Khó hiểu! Bởi vậy, tôi không dám đưa ra một nhận xét. - Luân trao trả cặp hồ sơ dày cộm cho Nhu.
- Tôi sẽ giúp cho anh tìm hiểu! - Nhu mỉm cười, đưa cặp hồ sơ lại cho Luân - Tổng thống đã ký quyết định giao anh là tỉnh trưởng Kiến Hòa. Quyết định có hiệu lực từ chiều hôm qua.
Luân làm như bị bất ngờ. Thái độ của anh khiến Nhu cười ồ:
- Anh đừng rủa tôi ùn cho anh chuyện khó… Thiệt tình, từ gợi ý của Tổng thống. Tôi tán thành vì chưa thấy cách nào hay hơn…Sẵn sàng chứ?
Luân không trả lời ngay. Anh gõ mấy ngón tay lên mặt bàn, ngó đăm đăm bức tranh trên tường.
- Rubens gợi ý gì hay cho anh không? - Nhu hỏi, cười cười. Anh ta nói về bức tranh sơn dầu “Kermess” của danh họa Rubens - phiên bản có lẽ treo từ thời Toàn quyền Đông Duơng.
- Anh cho tôi suy nghĩ vài ngày, được không? - Luân đắn đo.
- Tôi tưởng là anh đã suy nghĩ cả tuần nay rồi… Anh thấy chỗ nào khó khăn hoặc bất tiện đối với chức vụ của anh? - Nhu bắt đầu sốt ruột.
- Tôi ngại không đảm đương nổi…
- Nếu anh nói như vậy, tôi yêu cầu anh xuống Kiến Hòa nội hôm nay! Kiến Hòa thiếu đầu đàn, anh hiểu chứ?
- Anh quên câu danh ngôn của Ani: Le chef du troupeau est un animal comme les autres (1) - Luân bớt căng thẳng.
- Không quên! Tôi còn nhớ một danh ngôn khác: C’est aux miracles que I’on connait les Saints; (2) Anh ta lấy tên thánh Robert (3) mà! Và, hôm nay, gần ngày lễ bổn mạng của của… Vả lại, Rubens đã tiên tri công việc của anh! Kermess (4)
- Tôi muốn biết quyền hạn của tôi… - Luân nói sang việc khác và Nhu biết là anh không từ chối nhiệm vụ.
- Anh khỏi lo! - Nhu cười như anh ta đúng là tri kỷ của Luân - Quyết định của Tổng thống nói rõ: Anh toàn quyền hành động… Anh đọc đi. - Nhu chìa cho Luân tờ giấy đánh máy…
Đọc xong, Luân vẫn im lặng.
- Còn gì nữa? - Nhu hỏi.
- Tới đây, có thể không phải giữa tôi và một số người khác nhau về cách lặp lại trị an ở Kiến Hòa mà giữa tôi và anh…
- Được! Đâu phải đây là lần đầu chúng mình khác ý nhau… Mà khác ý về cái gì?
- Anh định đưa một lực lượng lớn xuống Kiến Hòa… Tôi chưa tin lối ra tìm được từ các sư đoàn. Sư đoàn nào dám bắn các bà mẹ, nhất là trong các bà mẹ đó có cả mẹ ruột của mình?
Luân đã chiếu tướng Nhu. Anh ta ngắc ngứ một hồi lâu:
- Thôi, sau khi nắm đầy đủ tình hình tại chổ, tụi mình trao đổi lại. Có thể anh có lý. Nhưng, Kiến Hòa không phải là Bình Dương…
- Và năm 1960 không phải là năm 1958, chắc anh muốn nói như vậy. - Luân ngắt lời Nhu - Tôi không sẵn trong mình một cái khuôn…
- Tôi hiểu…
- Tôi chưa nói hết ý, anh hãy nghe: Nếu anh tin cậy vào những sư đoàn dám bắn mẹ chúng thì ta thực sự ngồi trên ngọn núi lửa!
Giọng Luân khô khốc. Anh giống kẻ đi săn quyết truy con thú tới cùng.
- Anh từng nói: Ami ou enemi, puisqu’on me craigne (5). Nếu cái khiến người ta sợ không còn hiệu lực nữa, sẽ thế nào? Y người dạy thú gãy cây roi điện.
Nhu chới với. Lần đầu tiên, anh nghe Luân phê phán kịch liệt như vậy. Tất nhiên, nếu vài năm trở về trước, lời lẽ kiểu đó của Luân chắc chắn đưa Nhu đến một hành động trừng phạt khủng khiếp, không nương tay.
- Tôi cám ơn anh. Thành thật cám ơn. - Nhu nói trong giọng trầm trầm - Mà tôi cũng tự cám ơn tôi! Tôi đã đủ khôn ngoan tạo ra sự hợp tác giữa chúng ta… Nếu không… Bây giờ thì tôi không muốn che giấu anh: Nhiều lúc tôi nghĩ đến biện pháp cụ thể lại trừ anh, và tôi tin anh đoán ra - nếu tôi cư xử với anh như vậy thì vĩnh viễn tôi không còn được nghe những lời khuyên chí tình, những lời khuyên xét cho cùng, vì chúng tôi…
- Vì cả tôi nữa! - Luân nói chen.
- Nếu anh thích diễn đạt theo ý riêng… Tôi định hôm nào rảnh nói chuyện với anh. Nói hết! Tại sao chúng ta không làm như vậy, phải không?… Sự hợp tác giữa chúng ta đi đến chỗ chúng mình tìm thấy tiếng nói chung. Đã đến lúc chúng ta không nên thủ thế… Điều quan trọng là mỗi người chúng ta đều có khía cạnh lợi cho nhau. Năm năm! Một alliance (6) khá bền bỉ… Vài hôm, khi anh về Sài Gòn. Còn bây giờ, tôi phải uống mừng tân tỉnh trưởng Kiến Hòa!
Nhu bấm chuông gọi người phục vụ.
*
Chỉ thị A.07 đến, nhưng không đủ. Bức điện dài khác thường chỉ thu được non một nửa. Điện đài bị bom.
“Được báo cáo của Kỵ sĩ và Mimosa. Hoan nghênh về việc riêng của hai đồng chí, tổ chức không thấy gì trở ngại. Xin được chúc mừng. Bản Tango đắc lực. Song, đến lúc chấm dứt. Bản Tango trên đường về. Sau đây là tóm tắt phân tích tình hình chung (không biết chúng nó lấy được nghị quyết 15 của Trung ương ở đâu ra?) a) Trong thời kỳ tạm thời ổn định của Mỹ - ngụy ở miền Nam đã qua, chúng đang bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc. Tình thế đó hé mở cho nhân dân miền Nam khả năng nâng cao hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhanh chóng xây dựng lực lượng, giành địa bàn nông thôn và rừng núi rộng lớn, thúc đẩy thêm mẫu thuẫn nội bộ địch phát triển gay gắt… b) Có thể Mỹ buộc phải thay đổi tay sai bằng một hành động nào đó để cứu vãn tình hình, hoặc phải thay đổi chính sách ở miền Nam, đưa cố vấn Mỹ từ nhiệm vụ huấn luyện quân ngụy lên thành lực lượng tham gia hoạt động, với số lượng động hơn. Biến động gắn liền với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. c)…
Chỉ có bấy nhiêu. Luân và Dung chưa từng nghe đến nghị quyết 15. Hay là Nhu giấu… Nếu thế, sự bộc bạch vừa rồi của anh ta là một làn khói, thăm dò. Nhưng, Luân tin là cảm giác của mình không phản bội. Hơn nữa, Nhu muốn đặt quan hệ giữa Luân và anh ta trên cơ sở mới. Luân dự kiến từ lâu xu thế này và đã sẵn sàng. Như vậy, nghị quyết 15 lọt vào tay ai? “Chúng nó” là Tổng ủy tình báo hay Đại sứ quán Mỹ? Rất có thể Nhu chưa biết gì về nghị quyết này.
Bức điện chưa hết, nhưng cũng đã nói những điều thật cốt yếu. Nó củng cố Luân. Hai chi tiết đáng mừng: Lục sắp vào và…
Đêm ấy, cửa phòng đóng kín. Luân và Dung ăn mặc đẹp. Họ đứng cạnh lọ hoa to.
Đám cưới lặng lẽ như thế đó… Đám cưới thật.
----------
(1) Người đầu đàn cũng là một động vật như các động vật khác.
(2) Chính trong mầu nhiệm mà người ta tìm ra các ông Thánh
(3) Thánh Robert, thế kỷ 11, lễ vào tháng 4
(4) Ngày hội
(5) Bạn hay thù, miễn họ sợ tôi
(6) Liên minh