View Single Post
  #17  
Old 12-08-2012, 07:25 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 6 - Chương 1 - 4

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 6 - Chương 1

Lời cảnh cáo sau cùng


Ngô Đình Diệm không thích thú bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Mỹ Kennedy. Chẳng phải vì bài diễn văn ấy thả quả bóng thăm dò hòa hoãn với Nga Xô quanh vụ chiếc máy bay do thám U2 bị bắn rơi và phi công Power bị bắt sống mà vì lời lẽ mơ hồ của Kennedy đối với ông. Kennedy nhắc rằng ông ta giữ nguyên các cam kết của các tổng thống tiền nhiệm trong chính sách đối ngoại và, ở Nam Việt, Kennedy “tiếp tục ủng hộ một thể chế tự do”. Quả những từ “thể chế tự do” khá úp mở. Người ta có thể hiểu, như thói quen, nền đệ nhất Cộng hòa Nam Việt do ông lãnh đạo đang là quán quân của thể chế đó. Song, người ta vẫn có thể hiểu cách khác: “thể chế tự do” ngược với thể chế độc tài, phát- xít, gia đình trị mà các nhóm chống ông gán cho ông. Không chỉ đài Giải phóng hay đài Hà Nội gọi xách mé ông như vậy mà có vẻ nhiều giới, cả bạn hữu ngoài nước, chọn góc độ và dùng lăng kính tệ hại ấy nhìn ông.
Tại sao tân tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lý đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng tổng thống của đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hy vọng của Mỹ ở Đông Nam Á?
Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra.
Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn.
“Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hy vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng 5 tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở Châu Phi hay Trung Đông…”
Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông.
Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu (1) chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông?
Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở Trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông.
Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà:
- Anh làm em hết hồn!
Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kỳ sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng:
- Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa!
Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn.
- Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho.
Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này.
- Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ hai, ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của tổng thống càng vẻ vang.
Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lý khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu… Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy… Nhu có quan điểm của chú ấy… Chẳng lẽ người ta hô “muôn năm” mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề.
- Tình thế khác xưa, anh chịu nhúng nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi… Suốt đời anh hy sinh cho dân, cho nước, bây giờ hy sinh thêm, càng sáng danh… Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần Văn Soái làm quốc vụ khanh kia…
Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. “Ừ, thím nói có lý… Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ”. Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. “Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?”
- Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ.
- Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt.
Diệm trố mắt:
- Răng mà nhiều… Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao?
- Dạ, tùy anh… nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được… - Lệ Xuân một mực dịu dàng.
- Ba thôi! - Diệm quả quyết.
- Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy… Ba cũng được. Đỡ hao tốn.
- Mà thằng mô?
- Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng…
- Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao?
- Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân.
- Biết! Nhân sĩ có tiếng.
- Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền…
- Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ.
- Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương…
- Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn… - Diệm sừng sộ.
- Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau… Thế mới… bien orchestré (2). Vả lại… - Lệ Xuân cười thật có duyên.
- Vả lại, sao?
- Vả lại ông Phương nhận tiền rồi.
- Nhận tiền? Tôi không hiểu.
- Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy… Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân.
Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm
*
Nhân Tết nguyên đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên “trả tự do”. Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi… Thả Phan Quang Đán, Trần Văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!
Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Ban Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê Văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người “nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối” ấy - như họ ghi trong đơn xin tha - vào mặt trận đại đoàn kết chống Cộng. Người Mỹ hẳn phải suy nghĩ, khi tổng thống Diệm cảm hóađược những kẻ toan xóa ông bằng súng. Nhưng Diệm không thèm nghe. Với Diệm, một chuỗi sự việc xảy ra trong hơn 7 năm ông cầm quyền, từ tướng Hinh, tướng Vỹ, các giáo phái và Bình Xuyên, qua vụ Ban Mê Thuột đến cuộc binh biến 11-11-1960, chẳng qua là những phản ứng của một thiểu số bất nãm do Thực - Phong - Cộng giật dây - bình thường thôi. Chúa giao cho ông cầm đầu Nam Việt, chỉ có Chúa mới thay đổi sứ mệnh tông đồ đó. Dân chúng đứng sau lưng ông, quân đội phục tùng ông, đồng minh xa gần kính nể ông.
Trong không ít lần, ông vỗ bàn với Nhu - đứa en trai mà ông vị nể về sự uyên bác. “Nó lú lẩn”. Ông hạ giá Nhu và bắt đầu thành kiến với các quyển sách dầy cộm bày khắp phòng làm việc của Nhu. Cố vấn được Tổng thống nghe, lại là vợ Nhu. “Thím Nhu giỏi hơn chú Nhu”. Ông tìm thấy ở đứa em dâu sự thâm trầm hơn cả em trai.
Cuộc vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai khá rùm beng. Ứng cử viên Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ trong liên danh “Cây trúc” ra mắt cử tri tại Tòa đô chính. Từ ngôi vị tổng thống nay phải ăn nói theo kiểu một người cần lá phiếu, Diệm rất lúng túng. Ông cứ lầm lẫn mãi vị trí của mình. Nhưng ông không lúng túng lâu. “Tôi muốn nói thằng với quốc dân”. Ông trở lại phong độ cũ. Và ông nói thẳng. Đề tài của ông - không phải là xấp giấy được văn phòng sửa soạn kỹ và được Nhu xem lại lần cuối - xoay quanh cách sống của bậc quân tử. Ông ứng khẩu: “Bậc quân tử không phản bội, không đâm sau lưng kẻ khác”. Ông xỉ vả nhóm đảo chính, số chính khách xôi thịt, và, như mũi tên rời cây cung, ông đả kích thái độ của chính phủ Mỹ. Lần đầu ông dùng danh từ “thực dân” để chỉ đất nước mà ông từng giao phó cả thể xác lẫn linh hồn. Có lẽ, ông không thấy đại sứ Durbrow lặng lẽ rời phòng họp - mà dù có thấy, ông vẫn nói, nói như người say.
Báo chí buổi chiều tường thuật cuộc ra mắt của liên danh Diệm - Thơ. Ngô Đình Diệm vứt các tờ báo xuống nền gạch, gọi bí thư báo chí đến:
- Mần răng mà chúng nó thuật như rứa? Chẳng tờ báo nào phản ánh đúng lời tôi. Thậm chí, báo phịa ra những điều tôi không hề nói. Tầm bậy! Tôi có cám ơn Hoa Kỳ đâu.
Bí thư báo chí, trán rịn mồ hôi, mặc dù năm nay Sài Gòn rét nặng, trình cho ông bản tin của Việt tấn xã - nguồn tin chính mà các báo dựa vào.
- Tổng giám đốc Việt tấn xã đến ngay! - Ông ra lệnh.
Tổng giám đốc không trình diện, người trình diện là Nhu.
- Em sửa đó!
Diệm nhìn Nhu trừng trừng. Nhu chìa cho Diệm xem bài báo của Helen Fanfani, tựa cụt lũn: Lồng lộn. Tựa phụ: Ông Diệm tuyên chiến với Kennedy.
Diệm vứt bài báo, thét:
- Tống cổ con mụ đó ra khỏi Việt Nam Cộng hòa.
Nhu lắc đầu:
- Em không thể làm như anh muốn… Em điều đình để cô ta không gửi bài báo đi. Anh tuyên chiến nhưng bằng cái gì? Người Mỹ sẽ tuyên chiến và chúng ta phải thua, trong vòng mươi phút thôi. Họ bloque (3) ngoại tệ, quân đội không được phát lương, sẽ bắn vào dinh Độc Lập. Em mong anh bình tĩnh…
Nhu nói có bấy nhiêu, cúi lượm bài báo, bước ra khỏi phòng.
Ít khi nào Nhu căng thẳng với Diệm, nhưng hôm nay, anh ta buộc phải kéo Diệm trở lại cuộc sống thật.
Nhu đi khá lâu mà Diệm vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế banh, tượng trưng quyền uy của nguyên thủ quốc gia. Ông vừa nghe một câu dễ sợ nhất - không phải ông không nghĩ đến “cú rờ ve” đó mà Mỹ vốn có ưu thế và là sở trường của họ, song mỗi lần thoáng nghĩ đến, ông xua nó ngay: Dễ gì! Bây giờ Nhu nói thẳng. Lời của Nhu, nhất là đôi mắt buồn rầu của Nhu đập mạnh ông. Mỹ có thể làm như vậy và họ chẳng khó khăn gì. Hồi năm một 1954, 1955 mỗi mình ông xốc vác gánh nặng ở miền Nam. Hiện thời, hằng tá kẻ sẵn sàng thay ông. Thảm cỏ trước dinh vẫn mượt mà, nhưng ông cảm thấy như thảm cỏ bồng bềnh và dinh Độc Lập lắc lư. Ngoài cổng, lính đổi phiên gác. Y hệt người máy, bước chân ngỗng đơn điệu. Tại sao không phải lũ người máy này sẽ quay súng chĩa về phía ông?
Diệm đến bên cửa sổ. Ngay bậc thềm dinh Độc Lập, hai sĩ quan đứng nghiêm, súng ngắn bên lưng.
- Phải dặn bác sĩ Tuyến đừng để bọn này có đạn trong súng…
Ông bỗng thấy vẻ mặt của hai sĩ quan kia gian giảo quá chừng.
Diệm lượm tờ báo lên. Ông dừng lại ở bài tường thuật liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương ra mắt cử tri: “Nếu chúng tôi đắc cử thì việc đầu tiên là chúng tôi thu xếp ngừng bắn…”. Chà, thằng chủ sở cao su quèn, thằng lính Cao Đài mạt hạng dám bán rao cả hòa bình! Không phải bọn mi mà ta, nếu cần… Liên danh Quát - Phương lấy con trâu làm biểu tượng. Diệm bĩu môi: Bọn hắn đần độn như trâu!
… Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra bình thường. Kết quả được công bố. Trong hơn 9 triệu cử tri, liên danh Diệm - Thơ được hầu như tuyệt đối phiếu. Diệm không hí hửng như bao lần trước. Muốn ghi bao nhiêu mà chẳng được. Báo cáo của các tỉnh đều lạc quan, nhưng Nhu có trong tay con số thật. Chừng hơn phân nửa cử tri đến thùng phiếu - chính phủ mất quyền kiểm soát trên phạm vi khá rộng ở nông thôn. Liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền cũng như Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương thu được một số phiếu không nhiều. Cái đáng ngại là tỷ lệ phiếu bất hợp lệ - bấm nát phiếu - hết sức cao. Cử tri không chọn giữa các liên danh mà biểu thị thái độ thù địch với chế độ. Nhu nhớ lần bầu cử trước. Rất ít trường hợp như vậy.
Diệm đón thông báo đó trong tâm trạng cay đắng. Dân chúng bỏ ông rồi sao?
Nhu an ủi ông với một kế hoạc mới: thành lập ấp chiến lược ở thôn xã thay cho khu trù mật quá kềnh càng, xây dựng thanh niên và phụ nữ Cộng hòa mạnh, chấn chỉnh quân đội. Diệm bị cuốn hút vào cái sau cùng: giải thể các quân khu có từ 1952 thay bằng ba vùng chiến thuật và biệt khu Thủ đô. Phải nắm chắc quân đội cái đã, ngăn tai họa từ trong cổng ngõ.
Ngày 1-4, tại lễ khởi công đắp đập Đa Nhim, Durborow nâng cốc chúc mừng Diệm. Diệm chạm cốc mà không vui. Cử chỉ ưu ái của Durbrow bao hàm ý nghĩa ban phúc, - Durbrow không là linh mục. Năm ngày sau, tại lễ phát phần thưởng văn chương. Durbrow lại chạm cốc với Nhu.
- Tôi sung sướng được chia vui với ông Cố vấn và qua ông Cố vấn, với Tổng thống. Bảy năm chấp chính Tổng thống Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc tốt. Dư luận Mỹ hài lòng trước các thành tựu toàn diện của Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã đọc Đò dọc của Bình Nguyên Lộc, Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Thần tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, các công trình biên khảo của Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Mạnh Bảo… những tác phẩm được giải. Tôi khâm phục đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc của người Việt…
Nhu tươi cười, cám ơn. Mãi tới lúc đó, nhờ Durbrow, Nhu mới biết tên các tác phẩm trúng giải… “Thằng cha Vũ Hoàng Chương viết cái gì đây?”, Nhu chợt nhớ bài thơ tâng bốc Diệm của Vũ Hoàng Cương năm 1955. “Các tác phẩm này bợ đỡ lố bịch chính phủ, nên Durbrow khen? Hoặc nó chẳng nghĩa lý quái gì” - Nhu nghĩ thầm.
Quá bận, Nhu không nghe Bộ thông tin trình bày tình hình thế giới gần đây. Bởi vậy, khi Durbrow hỏi ý kiến về “vụ vịnh Con Heo”, anh ta nhún vai. Durbrow hiểu cái nhún vai của anh theo nghĩa khác, nên dành đến 15 phút thuyết giảng rằng đó là số kiều dân Cuba lưu vong tự động đổ bộ, không phải chủ trương của chính phủ Mỹ.
Về nhà Nhu gọi Tổng giám đốc Việt tấn xã tới và vỡ lẽ: CIA chiêu mộ đám người bạt mạng ở châu Mỹ Latin, cử tên José Mirose Cardona nào đó làm chỉ huy, đổ bộ lên Cuba và bị đánh tan tại một địa điểm, tục danh là vịnh Con Heo, còn tiếng Tây Ban Nha là Girón. Thảo nào Durbrow lải nhải mãi.
Gần đây, Nhu chớm trong đầu một so sánh: Mỹ không mạnh tuyệt đối trên thế giới. Còn Nga Xô. Những tên đánh thuê cho Mỹ chạy tán loạn trên bờ biển Cuba dưới vòng bay của một phi thuyền Nga lần đầu tiên chở người dọc ngang trong vũ trụ. Nhu lật tới lật lui tấm ảnh của phi hành gia Gagarine và phi thuyền Phương Đông, với Nhu là một ẩn số mới.
---
(1) Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, tổng thống Zaïre 1965-1997.
(2) Phối nhạc tốt.
(3) Phong tỏa.



Phần 6 - Chương 2


Ngày 8-5-1961, Frederick Ernest Jr. Nolting đến Sài Gòn, thay Dlbridge Durbrow.
Có thể tìm thấy vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow: Nolting sinh 1911, trẻ hơn Durbrow 7 tuổi; nếu Durbrow là một chuyên gia các vấn đề Đông Âu và Nam Á - ông từng làm lãnh sự ở liên Xô, Ba Lan, Rumani, Mã Lai… - thì Nolting lại là một chuyên gia về các vấn đề bao quát hơn: phụ trách Vụ Âu châu Bộ ngoại giao, có chân trong đoàn đại biểu Mỹ ở khối Bắc Đại Tây Dương.
Sự thay đổi đại sứ được chính phủ Mỹ giải thích như là điều bình thường. Vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow không nói rõ hơn những gì mà dư luận muốn biết. Chính phủ Sài Gòn lặng lẽ chấp nhận Nolting. Thật ra, cả Diệm lẫn Nhu chẳng thích thú mấy Durbrow: ít năng nổ, vai trò lu mờ, chưa công khai, không tán thành một việc cụ thể nào của Việt Nam Cộng hòa và cũng chưa hề tỏ ra nồng nhiệt đối với sự nghiệp của họ Ngô. Mặt khác, Durbrow nhất định dính dáng đến vụ đảo chính cuối năm 1960, ông ta rời Sài Gòn là phải.
Nolting đến Sài Gòn không mang theo vợ, bà Olivia Lindsay sẽ sang khi đại sứ xong bước tiếp xúc với thực tế và thấy rằng bà Olivia Lindsay có thể sang. Gần đây, dư luận Mỹ đồn đãi về những hiểm nguy đối với người Mỹ ở Nam Việt do du kích Cộng sản nhan nhản khắp nơi, cả tại Sài Gòn và giữa ban ngày. Danh sách người Mỹ “thiệt mạng vì công vụ” ở Nam Việt dài ra một cách đột ngột… Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ Trần Văn Chương và đại sứ quan sát viên Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc, bà Trần Văn Chương, cung cấp tài liệu quá ít ỏi về Nolting. Phải chăng vì Nolting liên hệ với khối quân sự Bắc Đại Tây Dương nên chính phủ Mỹ cử ông sang Việt Nam - nơi mà công thức “vũ khí Mỹ, lính Nam Việt” trong cuộc chiến tranh không tuyên bố đang bị thử thách? Hay là, với tư cách một nhà thương lượng mềm mỏng, Nolting cần thiết cho sự hàn gắn những vết nứt đáng lo ngại giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm?
Ngô Đình Nhu tìm quyển: Who’s who in American” (1), tập mới nhất và chỉ thấy những dòng tiểu sử quá ngắn gọn của Nolting. Tổng nha cảnh sát, Trung tâm tình báo, Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến và Nha an ninh quân đội đều mù tịt về Nolting. Buổi trình ủy nhiệm thư không giúp cho Nhu thêm tư liệu, trừ ngoại hình của đại sứ Mỹ: dong dỏng cao, mắt hơi sâu, có nụ cười tình tứ…
Sau Nolting ba hôm, Phó tổng thống Mỹ Lyndon Baines Johnson đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trên dường từ Mỹ sang thẳng, chỉ dừng chân ở Honolulu. Dĩ nhiên, Phó tổng thống Mỹ Richard Nixon đã từng đến Nam Việt, nhưng người ta chờ đợi chuyến đi của Johnson bởi đã có nhiều báo hiệu về sự bất đồng trên nhiều phương diện giữa Kennedy - bây giờ là kẻ nắm quyền sinh sát trong Nhà Trắng - với cá nhân tổng thống Diệm. Chuyến thăm Nam Việt của Johnson, do đó, có thể đóng góp vào quyết định một kết thúc - kết thúc sự bất đồng, kết thúc nguyên nhân đẻ ra bất đồng…
Tuyên bố báo chí được chuẩn bị sẵn của Phó tổng thống Mỹ phát tại sân bay khá dài dòng. Vị thầy cãi Texas 53 tuổi dùng lối văn nghề nghiệp để minh định lập trường Mỹ ở Nam Việt và Đông Nam Á. “Hợp chủng quốc Mỹ ra đời do nhu cầu tự do. Chính phủ Mỹ dành tất cả nổ lực để bảo vệ nền tự do của bản thân và của các quốc gia bạn hữu. Tổng thống Mỹ cử người trợ lý thân cận của mình sang Sài Gòn bởi mối quan tâm và lòng mong muốn chia xẻ với đất nước nhiều bất hạnh của các bạn và tin ràng sự khát khao tự do là sức đẩy giúp các bạn chiến thắng tất cả trở lực, kiến tạo cuộc sống phồn vinh”. Nguyễn Ngọc Thơ đưa Johnson từ sân bay về thẳng dinh Độc Lập gặp Diệm, theo yêu cầu của Johnson. Diệm và Johnson từng quen nhau khi Diệm sang Mỹ, năm 1956. Bấy giờ, đảng Cộng hòa cầm quyền, thái độ của Johnson rất nhũn nhặn. Chính Johnson đọc một bài chào Diệm, lời lẽ nồng nhiệt. Bây giờ họ vẫn bắt tay nhau nồng nhiệt trước khi bước lên chiếc thảm đỏ trên thềm; song Diệm linh cảm Phó tổng thống Mỹ không mang đến cho ông tin mừng - không chỉ vì Johnsong theo đạo Tin Lành, khác với ông. Bức thư riêng của Kennedy mà Johnson trịnh trọng trao cho Diệm có giá trị như một giấy giới thiệu, và cái câu hàm xúc nhất lại là “tôi thẳng thắn mong Ngài và đại diện của nước Mỹ tìm được tiếng nói chung vì tương lai của Nam Việt, trong đó, mọi tầm nhìn thiển cận đều phải gạt bỏ, nếu chúng ta muốn chiến thắng…”
Cuộc hội đàm bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Johnson đề nghị Nhu không nên dự họp.
“Dư luận Mỹ quá thành kiến với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Chính phủ Mỹ không muốn khiêu khích dư luận”. Johnson nói toạc như vậy. Dự hội đàm, do đó, về phía Nam Việt, chỉ có Diệm, Thơ, Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và về phía Mỹ, có Johnson, Nolting và Mac Garr. Hai bên đi một vòng chân trời chính trị thế giới và châu Á, tình hình toàn bán đảo Đông Dương và tình hình Nam Việt. Về tình hình thế giới, Diệm tránh cho Johnson khó chịu nên lờ hẳn vụ Macsaysay chết trên đảo Cébu, vụ Lý Thừa Vãn phải đi đày, cả vụ “vịnh Con Heo” và vụ chiếc máy bay U2. Diệm cũng không bài bác quan điểm của Mỹ về sự rối loạn ở Algérie - theo Mỹ, tướng Salan thấy được nguy cơ Cộng sản qua chính sách thiếu cứng rắn của De Gaulle nên đã ly khai… Nhưng, tình hình Đông Dương, nhất là tình hình Nam Việt, không được hội đàm đánh giá thống nhất. Johnson cho rằng các chính thể tự do ở ba quốc gia thiếu khả năng chận đứng sự bành trướng của Cộng sản. Diệm cho rằng “Không thể thắng Cộng sản nếu các đồng minh hùng mạnh của ba quốc gia Đông Dương không gột óc vụ lợi”. Johnson cho rằng Nam Việt nguy kịch. Diệm giảm nhẹ thế lực của Cộng sản đến mức thấp nhất. Càng đi sâu vào tình hình Nam Việt, họ càng xa cách nhau.
Diệm - cố kềm chế song không được kín đáo lắm - phàn nàn về một nhúm giả danh Quốc gia “nấp dưới cái ô của người bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa gây rối hàng ngũ chống Cộng”, “Lực lượng biệt kích Mỹ xây dựng gần như độc lập với quân đội Cộng hòa”, “Báo chí Mỹ đưa tin về Việt Nam Cộng hòa đầy ác ý, phản ánh sai lạc cả tình hình lẫn chủ tâm của chính phủ”… Diệm nói tiếng Anh - âm sắc còn cứng, song đúng văn phạm. Vũ Văn Mẫu phiên dịch cho Thơ và Tỵ, Johnson tỏ ý không hài lòng về “sự thiếu khéo léo của chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối với các nhân tài giàu thiện chí, sự thiếu khéo léo đã dẫn đến “một mức ly tán nào đó trong nỗ lực chống Cộng ở Việt Nam và giúp cho Việt Cộng giành được thắng lợi ở thôn xã”… Diệm giải thích, Johnson cáo buộc. Cuộc hội đàm bế tắc. Buổi dạ tiệc tưng bừng vẫn không xua được nét đăm chiêu trên mặt Diệm. Mọi người đều thấy Johnson thoải mái giả tạo.
*
Nguyễn Thành Luân vừa rời bệnh viện, người còn xanh lả. Chính Nhu ghi tên Luân vào danh sách những thượng khách trong buổi dạ tiệc. Nhu không muốn chường mặt, dù trong buổi dạ tiệc nên chọn Luân thay anh ta. Thật ra, Luân không có bất cứ danh nghĩa gì đến đây, nơi anh là người có cấp và chức thấp nhất.
Luân chọn lối đi kín đáo đi vào phòng tiếp tân. Nhưng tướng Mac Garr đã nhận ra anh. Ông ta vồn vã đến chào:
- Xin chúc mừng trung tá bình phục.
- Cám ơn tướng quân!
- Đây, một nhân vật huyền thoại mà đại sứ cần làm quen. - Mac Garr giới thiệu Luân với Nolting.
- Ồ! Hân hạnh! - Nolting nắm tay Luân chặt và lâu - Tôi nghe nhiều về trung tá và nôn nóng muốn gặp. Rất tiếc, tôi sang Việt Nam vào lúc trung tá bị thương. Sở dĩ tôi chưa vào bệnh viện là vì, mong trung tá thông cảm, các việc bàn giao ở tòa đại sứ quá kéo dài…
- Không có chi. Tôi xem việc bàn giao ở tòa đại sứ phải kéo dài giữa Ngài Durbrow và Ngài Nolting là một sự trách cứ chúng tôi. Chúng tôi đã để tình hình bề bộn… - Luân nói nghiêm túc.
Anh tranh thủ quan sát Nolting: một nhà ngoại giao có vẻ một nhà ngoại giao hơi tài tử - nụ cười, bộ quần áo may ở hiệu Dior, mùi nước hoa… Chắc chắn Nolting cũng quan sát anh.
- Không… Hoặc, nếu quả như vậy đi nữa thì tỉnh Kiến Hòa vẫn không gây bận tâm cho bất kỳ ai. Trước kia thì khác. Bây giờ, trung tá đã làm chủ được tình hình. - Nolting kéo Luân lại bàn.
- Tôi chưa làm chủ được tình hình. Phát đạn xuyên người tôi đã làm chứng. - Luân thở dài như người có lỗi.
- Không phải. Ai lường nổi một tên phản bội bắn lén? Ta nghĩ đến cái gì cao rộng hơn một viên đạn… Nolting kéo ghế mời Luân.
Mac Garr rỉ tai với Johnson. Phó tổng thống Mỹ đi thẳng đến chỗ Luân.
- Xin chào vị anh hùng! - Johnson chìa tay.
Luân, đứng thẳng người, bắt tay Johnson.
- Cám ơn Phó tổng thống. Tôi không đủ tư cách làm một anh hùng.
Johnson giữa tay Luân trong tay mình, nói vừa đủ cho Diệm nghe - Diệm đang sắp ngồi vào bàn:
- Khiêm tốn là đức tính cần thiết của người anh hùng.
Luân làm như vừa trông thấy Diệm, nghiêng người chào.
- Cháu đã khá chưa? - Diệm hỏi, không bắt tay Luân.
- Cám ơn Tổng thống, cháu đã khỏe.
Một lóe kiêu hãnh trong mắt Diệm. Hẳn ông đã so sánh cử chỉ của Luân đối với Johnson và đối với ông.
Diễn từ của Diệm ngắn. Đáp từ của Johnson dài hơn. Dù ngắn hay dài, toàn lời phù phiếm.
Sau tuần khai vị, không khí lần lần tự nhiên hơn.
- Tôi chưa nắm được hết các mặt tình hình Nam Việt. Những báo cáo mà tôi đọc ở Washington dù sao cũng không thay được cho thực tế. Theo trung tá, vấn đề gì là then chốt nhất trong sự kiện Nam Việt hiện nay? - Nolting hỏi Luân.
Luân không trả lời ngay. Anh dự đoán những nước cờ mới trên bàn cờ mà một số quân đang xếp lại hay dự định xếp lại.
*
… Viên đạn xuyên bụng, trổ ra dưới mạn sường đã đưa Luân vào cơn hôn mê. Cuộc giải phẫu, dù ngay tại phòng khách dinh tỉnh trưởng, vẫn hoàn hảo. Giáo sư Đệ là bậc thầy về khoa này. Người ta đưa Luân lên trực thăng. Một cái lắc nhẹ ở máy bay, anh đau toát mồ hôi và anh hôn mê trở lại.
Anh mở mắt và nhận ra ngay nơi quen thuộc - Bệnh viện Grall. Bây giờ, Dung đang ngồi cạnh anh. Một cái gì xót xa cồn cào trong Luân. Dung tiều tụy quá. So vớí lần anh chết hụt ở Bình Dương, Dung tiều tụy hơn nhiều. Anh cảm thấy mình thật đáng trách. Tại sao Dung phải chịu đựng những khinh xuất của chính anh? Liệu hạnh phúc mà anh mang lại bù đắp nổi những đau đớn dằn vặt Dung - mà làm sao đoán trước đây có phải là lần cuối cùng hay không?
Đôi mắt bồ câu vụt long lanh - cùng với cái mở mắt của Luân. Nếu không có vị giáo sư người Pháp và giáo sư Đệ, cả nhóm bác sĩ ngồi cách gường Luân vài bước thì cả hai chắc đã khóc òa.
Dung nhoẻn cười, tay đặt lên môi Luân, tay kia vuốt mấy sợi tóc lòa xòa phủ trán Luân. Một Dung biến hóa, khác hẳn mấy giây trước đó. Luân nén cái thở dài. Cái sống và cái chết của mình đã là của Dung.
- Anh xin lỗi em! - Luân thều thào…
Dung đáp lại bằng cái lắc đầu nhè nhẹ. Nước mắt đầm đìa trên má cô: Anh có lỗi gì?
Kẻ bắn Luân lần này không phải tên trung sĩ lái xe ở Bình Dương mà là một nội tuyến - một người yêu nước, trà trộn đến cấp trung úy truyền tin. Thật cay đắng. Và cũng thật đáng mừng: Nhất định sự việc xảy ra vào cái đêm kinh hoàng ấy góp phần xóa dấu vết mà Luân để rơi rớt không ít trong thời gian ngắn làm tỉnh trưởng Kiến Hòa. Chỉ cần cộng các biện pháp mà Luân thực hiện với Thường, ông giáo Tâm, chuẩn úy Tập, với dân Cồn Ốc, bà Hai Sặc và với bọn công an, biệt kích… những tay tình báo gà mờ nhất cũng phải đặt một dấu hỏi to tướng. May quá, viên đạn trúng Luân vào chỗ trí mạng và không ai nghi ngờ về dụng ý của kẻ bấm cò.
Tổng giám đốc công an, sau khi Luân bị bắn, đã thổ lộ với Dung:
- Tổng nha nhận được nhiều báo cáo về trung tá tỉnh trưởng. Bác sĩ Tuyến và ông Cố vấn cũng thấy lạ lùng. Tại sao trung tá lặp lại cách làm việc mà người ta bắt buộc phải suy luận rằng trung tá tung đòn phản gián để bảo vệ cán bộ đầu sỏ Việt Cộng? Nhưng, chính trung tá lại là mục tiêu số một của Việt Cộng ở Kiến Hòa. Viên đạn xua tan mọi hoài nghi. Cái cần trao đổi - tôi thành thật mong trung tá sẽ hồi phục - là trung tá có nên tiếp tục vai trò phiêu lưu cũ hay không? Trung tá định lấy lòng dân, nhưng dân lại nghe Việt Cộng. Người của Việt Cộng đeo bám trung tá… Tốt hơn hết, trung tá vớ được tên nào bắn tên nấy…
Thiếu tướng Tổng giám đốc cho Dung xem một tài liệu của Việt Cộng mà công an vừa tịch thu: Thông báo của T.2 - mật danh của Khu ủy Trung Nam bộ, về những thủ đoạn xoa dịu quần chúng của Nguyễn Thành Luân. Thông báo gọi Nguyễn Thành Luân là một tên phản bội kháng chiến, liếm gót gia đình Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, một phần tử bại hoại cần phải loại bỏ với bất cứ giá nào.
Hôm Luân về nhà, Nhu đến thăm. Anh ta phàn nàn:
- Vậy là “bên kia” kết án anh rồi…
Luân hiểu Nhu nuối tiếc một chiếc cầu. Có lần, Nhu đã hỏi thẳng Luân khả năng móc nối với “bên kia”. Bây giờ, theo Nhu, đổ vỡ hết…
Luân cười mỉm:
- Làm thế nào khác được… Khoảng cách lớn quá.
… Cùng đề tài Luân bị ám sát, Ly Kai, Lâm Sử và Dương Tái Hưng có ba cách nhìn khác nhau. Ly Kai tường thuật nội vụ cho hai người kia nghe và kết luận: Việt Cộng đoạn tuyệt với Nguyễn Thành Luân. Lâm Sử, ngần ngừ khá lâu, mới nói:
- Chưa chắc! Bằng cớ là Luân còn sống. Tại sao không phải là một “khổ nhục kế”? Chuyện cổ Trung Quốc có trường hợp Vương Tá, tướng của Nhạc Phi tự chặt tay để lừa quân giặc…
Dương Tái Hưng cười theo lối kẻ cả:
- Không thể có chuyện “khổ nhục kế”. Thằng đó bắn Nguyễn Thành Luân thật. Nó quyết giết y ta. Chỉ có sự may mắn đã cứu Nguyễn Thành Luân.
Ly Kai hí hửng:
- Đúng rồi, Việt Cộng đoạn tuyệt…
Dương Tái Hưng nheo mắt:
- Ông Ly Kai ngây thơ quá! Không có chuyện đoạn tuyệt…
Giữa sự ngơ ngác của Lâm Sử và Ly Kai, Dương Tái Hưng nhấn mạnh từng tiếng:
- Việt Cộng Bến Tre không được cấp trên cho biết Luân của ai. Nguyên tắc bí mật…
Thấy hai người gật đầu công nhận hắn cao kiến, Dương Tái Hưng nói tiếp:
- Nghĩa là việc theo dõi tên Luân vẫn phải tiếp tục, hơn nữa, tiếp tục thật nghiêm ngặt… Có dịp thì… - Gã ra dấu: bấm cò.
*
… Luân vẫn phải trả lời Nolting:
- Câu hỏi của đại sứ quá rộng. Tôi chưa tìm được cách diễn đạt gọn mà không rơi vào một thứ sáo rỗng. Tuy nhiên, trước sau tôi vẫn cho rằng, muốn chiến thắng ở Nam Việt, phải nắm được quần chúng…
Nolting nhún vai:
- Nếu tôi không lầm, trung tá là một quân nhân - gọi là quân nhân chuyên nghiệp cũng được. Quân nhân nên diễn đạt theo lối riêng của mình.
Nolting liếc về phía Diệm:
- Người ta nói với tôi, ông Diệm và em trai, em dâu của ông ấy là vấn đề then chốt nhất…
Luân ngồi thẳng lưng. Cử chỉ có tính toán của Luân được Nolting đánh giá như một phản xạ. Ông ta cười gượng.
- Thế nào là “vấn đề then chốt nhất”? - Luân hỏi, giọng khô khan.
Nolting xua tay:
- Chẳng lẽ Tổng thống một nước không là nhân tố quyết định hàng đầu tình hình của nước đó? Việt Nam Cộng hòa, như Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, theo chế độ tổng thống… Tạo điều kiện để cho Tổng thống Diệm làm hết vai trò của ông ấy, tại sao không phải là “vấn đề then chốt nhất”?
Rõ ràng, Nolting lấp liếm.
Luân bắt mạch quan điểm của ông ta - hẳn cũng là quan điểm của Kennedy: tìm cách xoay Diệm sau khi gạt tay chân thân tính của ông. Anh thăm dò thêm một bước:
- Trong ý nghĩa như vậy, tôi không có điều gì khác Ngài đại sứ. Tuy nhiên, để giúp Tổng thống nước chúng tôi làm hết vai trò, điều kiện không giản đơn…
- Trung tá có thể nói rõ hơn không?
- Tổng thống chúng tôi phải đối phó với rất nhiều khó khăn…
- Tôi hiểu! - Nolting ngắt lời Luân - Việt Cộng mạnh…
- Không chỉ Việt Cộng - đến lượt Luân ngắt lời Nolting - Khó khăn đôi khi, và bây giờ là thường khi, lại từ phía đồng minh của chúng tôi…
- Ông là người của gia đình Tổng thống Diệm, - Nolting nói như thất vọng - người ta gán cho ông là lãnh tụ quan trọng của đảng Cần Lao, thật không sai.
- Ngài đại sứ hãy nghe, - Luân vẫn từ tốn - tôi chưa hề chối, và việc gì phải chối, về mối quan hệ cá nhân của tôi với Tổng thống và vị trí của tôi trong đảng Cần Lao. Nhưng những cái đó không phải là việc cần trao đổi. Chúng tôi phạm một số thiếu sót, đúng như vậy… Cái thiếu sót đó gọi chung là vội vàng. Quá vội vàng… Phải đâu người Mỹ không chịu trách nhiệm gì cả trong các thiếu sót của chúng tôi? Trước kia, nước Mỹ muốn xóa Bắc Việt Cộng sản qua chúng tôi. Hiện nay, nước Mỹ muốn thanh toán Việt Cộng đôi ba tháng. Làm sao được?
Nolting lắng nghe và không rõ chịu hay không chịu lập luận của Luân, ông ta chạm ly với Luân.
*
Nhu mời Luân đi chơi ngay buổi sáng mà báo chí công bố thông cáo chung Việt - Mỹ: Hoa Kỳ sẽ tăng việc trợ quân sự, đảm đang luôn phần trang bị cho lực lượng Bảo an, sẽ cử sang Việt Nam một phái đoàn cao cấp cùng Nam Việt nghiên cứu kế hoạch quân sự, kinh tế và kế hoạch chống du kích Việt Cộng.
Hai người ngồi chung một xe, có cảnh sát hộ tống, chạy theo xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa vừa khánh thành cuối tháng trước, do hãng thầu RMK - BRJ thực hiện. Lễ khánh thành đồng thời với lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ hai của Diệm.
Xe vượt cầu Phan Thanh Giản, qua vùng mới xây dựng: những dãy nhà lợp tôn lụp xụp nối tiếp đến ngã tư Hàng Xanh. Xe lại vượt chiếc cầu rộng bắt qua sông Sài Gòn với tốc độ 100km/h. Luân chìm trong suy nghĩ: con đường chiến lược nối cảng Vũng Tàu được xây dựng không phải là một thứ trang sức và cũng không phải chỉ do nhu cầu kinh tế. Người Mỹ sửa soạn khá chu đáo cho mọi tình huống.
- Anh biết đêm hôm qua Di Linh bị tấn công không? - Nhu lại chìm trong hướng suy nghĩ khác, hỏi Luân.
Luân lắc đầu:
- Sao, thiệt hại lớn không?
- Cũng kha khá… Mất ba tiền đồn. Đồng thời, công trường Đa Nhim cũng bị tấn công, một số xe cộ, máy móc bị phá, một số chuyên viên Nhật bị thương, tệ hơn hết là quận trưởng Đơn Dương bị bắt và bị sát hại…
Xe tăng tốc độ. Kim chỉ 120km/h.
- Sẽ xây dựng khu đại học ở đây. - Nhu trỏ một khu đồi phía trái - Và một huấn khu quân sự tại đây. - Nhu trỏ phía Chợ Nhỏ.
- Phải đưa sinh viên ra ngoại thành. Dễ kiểm soát và kềm chế… - Nhu bỏ lửng câu nói, hỏi đột ngột: - Anh biết tin đảo chính ở Đại Hàn chưa?
Luân biết, qua đài BBC. Thủy quân lục chiến đóng ở Kimpo, cách Seoul 15 cây số, kéo về thủ đô, tuyên bố lật đổ chính phủ, thành lập Hội đồng cách mạng do tướng Chang Do Yung (2) cầm đầu…
- Kết quả rất hiển nhiên của việc người Mỹ thọc sâu vào nội trị một nước! - Nhu bình luận.
Luân hiểu Nhu lo lắng về bản thông cáo chung Việt - Mỹ.
- Bảo an sắp nhận viện trợ - Luân tặc lưỡi - Giới hạn của viện trợ đó tới đâu?
- Chưa định rõ, đợi phái đoàn Mỹ sang. Johnson báo trước: Phái đoàn do giáo sư Staley cầm đầu. Anh Tổng thống không yêu cầu song Johnson mặc nhiên cho rằng Bảo an cần có cố vấn chống du kích… Johnson còn gợi ý ta cử giáo sư Vũ Quốc Thúc tham gia soạn thảo kế hoạch kinh tế.
- Tại sao là Vũ Quốc Thúc? - Luân hỏi.
Nhu nhún vai:
- Có lẽ vì ông ta tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế học, hiện đang là cố vấn kinh tế của Tổng thống.
- Ông Thúc từng đứng đầu tổ chức chính trị Phong trào tranh thủ tự do…
- Cái đó thì chỉ có cái nhãn… - Nhu cười khinh miệt.
- Cái nhãn, đúng rồi. Song, ai cho ông ta dán nhãn?
Nhu lại nhún vai.
Xe vượt cầu sông Đồng Nai. Đến ngã rẽ ra Vũng Tàu. Nhu bảo dừng xe. Hai người đi bộ theo con đường còn bốc mùi nhựa hăng hắc.
- Johnson bảo riêng anh Diệm: cho tôi và nhà tôi nghỉ. Anh Diệm nổi nóng… Theo anh, tôi và nhà tôi nên như thế nào?
- Còn như thế nào nữa? - Luân trả lời không do dự. Anh thừa biết Nhu không phải là hạng suy nghĩ bằng cái đầu của người khác, nhưng dầu sao vấn đề cũng gay gắt, Nhu mong Luân gợi được vài cảm hứng để anh ta chọn phương án.
- Tôi nghe anh. - Nhu đứng lại. Hai người đối mặt nhau.
- Bài toán chỉ có hai đáp số: theo ý người Mỹ và không theo. Đi đến mỗi đáp số có phép giải khác nhau…
- Chính vì bài toán chỉ có hai đáp số mà tôi phải hỏi anh. Càng ít đáp số, bài toán càng phức tạp… - Nhu cười mà mắt vẫn ưu tư.
- Có phải việc anh chị không tham gia chính quyền mang một ý nghĩa quan trọng thật sự đối với người Mỹ? Tôi không tin như vậy…
- Ta không mất công phân tích các toan tính thầm kín của người Mỹ. Bây giờ, họ quả quyết rằng việc tôi và nhà tôi thôi dính líu đến chính trị là sự đáp ứng tích cực của ta đối với việc Mỹ mở rộng viện trợ.
- Đằng sau yêu sách vô lý đó, là cái gì?
- Là Mỹ hóa tình hình ở Nam Việt… Sẽ chỉ có một chính phủ bù nhìn. Thậm chí, sẽ có những con người máy Việt Nam, những kẻ đánh thuê.
- Nhưng, Tổng thống sẽ bác bỏ…
- Tất nhiên… Song, tôi muốn Tổng thống không bị động.
- Tổng thống sẽ bị động gấp đôi nếu anh chị rời chính quyền. Nhượng bộ này kéo theo nhượng bộ khác. Và vân vân.
- Cám ơn anh! - Nhu xởi lởi - Ta sẽ bàn kỹ về chiến thuật… Anh chưa cần trở lại Kiến Hòa sớm.
Xe quay về Sài Gòn. Nhu nói huyên thuyên so với bận đi, đủ thứ chuyện, kể cả quyển tiểu thuyết “Dịch hạch” của Camus - anh ta không có thì giờ đọc, con gái anh ta tóm lược cho anh ta…
*
Giám mục Ngô Đình Thục ăn cơm với Luân. Suốt bữa ăn, ông ít quan tâm đến thực đơn - do Dung trực tiếp nấu - mà hỏi han Luân về thời cuộc. Người chủ chăn giáo phận rất có khiếu về kinh tài. Nhiều lúc, Dung phải vờ lấy khăn lau miệng để khỏi cười vô lễ.
- Mần răng mà sắt, xi măng giá cao rứa… Cha tính cho đứa nào sang Bến Tre mua dừa. Một hãng Nhật bằng lòng đổi sắt, xi măng lấy dừa. Khi nó sang Bến Tre, con bảo bọn dưới giúp nó… Cha cho phép họ đạo Cái Mơn xây thêm nhà thờ, chủng viện. Bổn đạo tự thu xếp tiền nong. Chỉ cần cha sẵn sắt, xi măng… Còn gạch, họ mua dễ, vả lại giá không cao…
Nhưng giám mục lại ngờ nghệch về chính trị:
- Hôm bầu cử Tổng thống, cha hạ lệnh cho các linh mục trong giáo phận rao giảng các nhà thờ: không bầu bán gì cả, chỉ có việc suy tôn Tổng thống thôi… Cha cũng ra lệnh cho công an cấm tuyệt bọn Hồ Nhật Tân, Nguyễn Đình Quát xuống các tỉnh. Bầu cử làm chi cho hao tốn. Cha nghe có người nói chính phủ Mỹ bất hòa với chính phủ ta. Họ nói sai. Tuy Tổng thống Mỹ theo đạo Tin Lành song họ cũng thờ Chúa. Cùng thờ Chúa với nhau, sao lại bất hòa?
Giám mục hỏi Luân, đột ngột:
- Ở Kiến Hòa, Phật giáo ra răng?
- Có chùa, có sư và các ngày lễ, tín đồ vấn đến cúng vái… - Luân trả lời lửng lơ.
- Hừ! - Giám mục bực bội - Bọn nó chẳng hiền đâu… Con phải coi chừng.
Tiễn giám mục ra về, vợ chồng Luân ngồi lại, định soát xét các mặt của công việc thì Thạch vào:
- Thưa ông, nhà tôi với mấy đứa nhỏ lên, xin phép chào ông và cô…
Thạch chưa bao giờ gọi Dung là bà. Đơn giản thôi, Dung quá trẻ.
Vợ Thạch cùng hai con thập thò mãi ở hàng hiên, Dung phải dìu cả mẹ con vào, ấn ngồi lên ghế.
- Con nghe ông bị tai nạn ở Bến Tre… Mắc mùa màng, không thăm ông được, nay mới tới… Thiệt Trời Phật có mắt nên phù hộ người ngay… - Vợ Thạch vừa nói vừa rưng rưng nước mắt.
Luân cố phân tích tâm trạng của người phụ nữ nông thông này - đâu là tình cảm mà chị dành cho Luân, “ông chủ biết điều của chồng” và đâu là khói mù của một bàn tay nào đó…
- Quê cô yên tĩnh không? - Luân hỏi.
- Thưa, năm ngoái, tề lính bỏ chạy hết, “mấy ổng” chiếm nhà làng. Năm nay, quân đi càn mấy lần vướng lựu đạn, nên chỉ đi theo lộ lớn. Nhà con khuất vô trong, chưa bị mất con gà con vịt. Mà, đồn hay thụt mọt-chê… Yên thì cũng yên mà lộn xộn thì cũng lộn xộn. Vái trời…
Nói bấy nhiêu, vợ Thạch im bặt. Hai đứa nhỏ nép vào mẹ, ngó Luân và Dung trân trối. Chị vái trời cái gì?
- Mấy anh giải phóng có kéo về chỗ cô không?
- Thưa có. Nhờ mép biền, họ đóng dọc theo rạch, “Quốc gia” không hay…
- Anh Thạch làm việc với “Quốc gia”, dưới đó không làm khó dễ cô sao?
- Thưa, chú bác trong làng biết nhà em chỉ vì chén cơm. Với lại, đi theo ông thì đâu làm bậy được…
- Ai nói với chị là đi theo tôi thì không làm bậy?
- Dạ, tự em tính ra, chớ đâu có ai nói… - Vợ Thạch trả lời khá lanh, song Luân bắt gặp một thoáng bối rối ở người phụ nữ chắc ít quen nói dối.
Luân dặn Thạch giữ vợ con ở Sài Gòn chơi vài ngày.
“Ai?” - Luân tự đặt câu hỏi. Ai bày biểu cho vợ Thạch, bạn hay thù? Nếu là thù, không khó đối phó lắm. Nếu là bạn, rất phức tạp - một đồng chí nào đó phát hiện hành tung của Luân.
Luân và Dung thì thầm với nhau suốt buổi sáng. Chị Sáu dọn cơm, mời hai ba lần, vợ chồng Dung mới ngồi vào bàn.
---
(1) Từ điển nhân vật Hoa Kỳ
(2) Chang Do Yung (1923–?), thủ tướng Hàn Quốc (tháng 5 đến tháng 7 năm 1961)



Phần 6 - Chương 3


Bài của Helen Fanfani trên Financial Affairs:
LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ MỚI Ở NAM VIỆT - CÁC NHÀ SƯ.
Ngày 21-5-1961, Giáo hội tăng già kỷ niệm lễ Phật Thích Ca ra đời đặc biệt rầm rộ tại một địa điểm ít ai có thể ngờ: sân vận động quân đội. Giáo hội gồm các nhà sư quê Bắc Việt di cư vào Nam. Họ có trong người chiếc hộ chiếu chống Cộng và kể từ 1954, họ vẫn bị mai một dưới một chính thể được mô tả như là trấn áp các tôn giáo để đạo Thiên Chúa La Mã độc tôn.
Cờ Phật rợp sân vận động và vài nghìn tín đồ - nữ nhiều hơn nam và trong nam, tuy khó kiểm kê song quân nhân mặc thường phục phải chiếm một tỉ lệ nào đó - kính cẩn nghe các nhà sư thuyết pháp. Chưa chắc tín đồ đã hiểu những câu triết học Phật giáo hàm súc quá tầm đối với trình độ văn hóa trung bình, nhưng một cuộc tập hợp công khai khá quy mô của những người di cư theo đạo Phật trên lãnh địa của quân đội hẳn có nhiều ẩn ý. Chỉ nửa năm trước đây thôi, cũng quân độ đã làm cho chế độ ông Ngô Đình Diệm choáng váng. Tập tục của các thể chế độc tài mà người ta quen thuộc ở Nam Mỹ sau Đệ nhị thế chiến - liên quan chặt chẽ với bước tiến của đồng dollar Mỹ - quảng bá khá nhanh ở Đông Á. Nước Thái Lan hiền lành thế kia mà vẫn có đảo chính và dĩ nhiên quân đội dùng súng do Mỹ trang bị “xếp đặt lại trật tự nội bộ” theo ý các tướng tá. Quân đội nhà nghề trở thành một lực lượng chính trị - điều bị cấm tuyệt đối ở Mỹ lại được khuyến khích rộng rãi bên ngoài. Dẫu sao, chuyển một đạo quân trong doanh trại, trong đội hình, chịu kỷ luật nghiêm ra một chính đảng vẫn ít tốn tiền và thời gian hơn xây dựng một chính đảng. Vấn đề là ở Nam Việt, không phải chỉ có ông Diệm hiểu điều đó. Những người theo đạo Phật di cư, chống Cộng quyết liệt, hiểu điều đó có vẻ trước ông Diệm.
Việt Nam là một đất nước Phật giáo - chúng ta có thể khái quát như vậy nếu không quá câu nệ. Đạo Phật đến xứ này ngắn nhất cũng trên 15 thế kỷ, dưới triều đại các vua Trung Quốc đời Đường nổi tiếng sùng Phật. Đạo Phật lại là tôn giáo châu Á, rất gần gũi với tình cảm người Việt. Còn đạo Thiên Chúa, mãi thế kỷ XV mới có mặt trên một số vùng của Việt Nam. Và, có mặt với những nhà truyền giáo dị tộc.
Người viết bài này dự buổi lễ tại sân vận động và các bức ảnh có thể giúp bạn đọc hình dung cuộc chạy đua giành quyền binh khó tránh ở Nam Việt mà các nhà sư nghiễm nhiên thành đối thủ của tổng thống tín đồ đạo Thiên Chúa Ngô Đình Diệm. Một nhà sư nổi tiếng vừa - nhưng qua buổi giảng đạo này, ông sẽ nổi tiếng hơn - tên là Thích Tâm Châu, giống hệt các linh mục: minh họa một câu kinh Phật bằng khái niệm chính trị mà ai cũng có thể hiểu. Ông nói: Phật dạy chúng ta vị tha, còn một số người cầm quyền thì chỉ lo ăn ngon mặc đẹp. Ông cố gắng phơi bày cái mà ông gọi là “sự ngược đãi đạo Phật”, với lời lẽ khéo léo và rất hấp dẫn. Tôi đã trông tận mắt một số nữ tín đồ khóc nức nở.
Cách đây ba tuần lễ, tôi dự một cuộc tập hợp đông hơn ở trụ sở một tổ chức nghiệp đoàn Thiên Chúa giáo với vị lãnh đạo di cư hách dịch - người ta nói ông Trần Quốc Bửu, tên của vị lãnh đạo ấy, hành nghệ quản lý nghiệp đoàn như nghề cai thầu. Diễn văn soạn sẵn, ông Bửu nhai lại câu phù chú: “Thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”. Có vẻ câu phù chú của ông Bửu bí hiểm hơn cả câu kinh Phật. Ông Bửu thích nghi không khí sôi động của Sài Gòn chậm hơn nhà sư. Tôi biết còn một nghiệp đoàn nữa, thuộc hệ thống quốc tế các đảng xã hội, gọi là Lực lượng thợ thuyền mà ông Vân, người cầm đầu, chuyên lo điều đình để ông Diệm trả lương hưu trí cho công chức thuộc guồng máy cai trị Pháp trước kia; nghiệp đoàn đó quá già nua. Một nghiệp đoàn khác, gọi là Tổng liên đoàn lao động, na ná CGT của Pháp, do ông Thốt cầm đầu, bị khủng bố liên miên và chỉ được tổ chức lễ 1-5 trong khuôn viên trụ sở chật hẹp. Liệu rằng nếu những người công đoàn viên này liên mình với những người Phật giáo bất mãn kia thì ông Diệm có thể tránh khỏi nguy cơ không? Không chỉ các trí thức, mà đã đến lượt các nhà sư, các tín đồ đạo Phật - hầu hết là người nghèo - tỏ thái độ bực dọc. Hiện nay, các nhà sư chưa đủ lực lượng - họ là di cư, cô lập trong dân chúng tại chỗ, nhưng mọi việc không đứng yên mãi. Nhất là khi họ khám phá ra cái kho của cải đầy ắp - quân đội - đang muốn ngoi lên thành thực thể chính trị. Tính cách tôn nghiêm của triều đình ông Diệm bị trần tục hóa qua vụ 11-11. Và một khi ông Diệm hiện thân như một tổng thống bằng xương bằng thịt thì quyền lực thuộc về ai có súng trong tay.
Nhà thờ đã là lực lượng chính trị. Tại sao nhà chùa không làm như thế? Các nhà sư đặt câu hỏi như vậy. Câu hỏi của các nhà sư đặt ra tại một doanh trại quân đội - bao quát luôn câu hỏi kèm: Tại sao không phải là quân đội? Bảng tổng kết 7 năm ông Diệm chấp chánh cung cấp nhiều tư liệu để nhà chùa tố cáo ông. Nhà chùa sẽ được dư luận hậu thuẫn tình cảm không thích đạo Thiên Chúa vốn ăn sâu ở đây hàng trăm năm, ông Diệm kích động thêm tình cảm đó và chính nhà cung cấp cho tình cảm đó những cơ sở và cơ hội rất hào phóng.
*
Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công bố danh sách thành viên, tuyên ngôn, chương trình hành động và bài hát chính thức.
Ngô Đình Diệm không quan tâm lắm đến nhân sự của Mặt trận. Hầu hết xa lạ với ông, trừ luật sư Nguyễn Hữu Thọ và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát mà ông nghe tiếng. Chính ông đã bắt giam luật sư Nguyễn Hữu Thọ ngay khi ông vừa chấp chánh.
Ngô Đình Nhu khác Diệm. Anh ta để hằng buổi nghe các chuyên viên báo cáo về từng nhân vật của Mặt trận. Anh hỏi thêm Luân những chi tiết. Và, ngay Luân cũng không biết hết lai lịch các ủy viên Mặt trận: Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Huỳnh Đàng, Nguyễn Thạch v.v… là ai?
Khi được tin luật sư Nguyễn Hữu Thọ thoát khỏi nơi quản thúc ông - một làng trung du - Nhu khiển trách tỉnh trưởng Phú Yên thậm tệ, song chủ yếu là vì Nhu nhìn việc đó như báo hiệu tình hình an ninh Phú Yên trở nên quá xấu. Bây giờ, Nhu thấm đau: anh ta đã để sẩy một nhân vật có tầm cỡ.
Cộng sản công bố danh sách Mặt trận - chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối đầu từ nay không phải với một bóng ma mà với một tổ chức có con người cụ thể.
Nhu vỗ bàn giận dữ khi thiếu tướng Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia không trả lời được vì sao, lúc nào, bằng cách gì mà nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, bác sĩ Phùng Văn Cung vô mật khu. Sẽ còn ai nữa? Nhu ra giá cái đầu của thiếu tướng nếu Cộng sản lại công bố thêm một nhân vật Sài Gòn tham gia Mặt trận.
Nhu đã nghe tin tức về lễ thống nhất các lực lượng vũ trang chống chính phủ - bây giờ gọi là Quân giải phóng - và anh ta hiểu đối thủ xuất hiện theo một kế hoạc dự tính.
Trần Kim Tuyến cho là Nhu đánh giá Mặt trận hơi cao. Tuyến so sánh danh sách Mặt trận với chính phủ vừa cải tổ. Nhu cười thương hại Tuyến:
- Ông bác sĩ nghèo kiến thức quá. Ông cứ ngỡ các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu… là có giá lắm sao? Ta thừa, quá thừa các gương mặt mập ú, cách biệt với dân, ngoài bằng cấp, tiểu sử, không có gì để ghi. Nếu có, lại là thứ không thể ghi. Cộng sản đưa người nào thì người đó có ảnh hưởng trong dân chúng. Ông kiếm cho tôi một người từng vào tù ra khám thời Pháp về tội chính trị và lương thiện để tôi bổ sung vào chính phủ ta. Không có!… Ông thử mời giáo sư Dương Minh Thới, bác sĩ Nguyễn Xuân Bái tham gia nội các xem? Họ không thèm. Mà không chừng họ đã là thành viên của Mặt trận. Hòa thượng Thích Thiện Hào là ai? Ông không biết! Joseph-Marie Hồ Huệ Bá là ai? Ông không biết! Đại đức Sơn Vọng là ai? Ông không biết! Trung tá Võ Văn Môn? Ông không biết! Tôi mách giúp ông: Bảy Môn đó. Bảy Môn từng làm tham mưu trưởng cho Bảy Viễn đó. Việt Cộng lôi kéo được cả một lãnh tụ người Rhađê, tên là Ibih Aléo. Chớ có coi thường!
Gần đây, Nhu hay bực dọc. Chuyện không đáng gì cũng khiến anh ta rống lên, quát tháo, mất dần cái điềm đạm, thâm trầm cũ. Một trong những cơn tính khí thất thường ấy trút lên đầu vị linh mục xứ đạo Bình An.
Sau vụ gánh hát Kim Thoa bị ném lựu đạn, cách nay ngót 5 năm, linh mục Hoàng gần như không nói chuyện với Nhu lần nào, mặc dù linh mục vẫn luôn chạm mặt Nhu ở các cuộc họp. Linh mục đinh ninh có lúc Nhu phải phủ phục trước ông cầu sự giúp đỡ. Ông nắm trong tay khối Thiên Chúa giáo di cư đồ sộ, gồm các linh mục và con chiên từ Xóm Mới, Bắc Hà lên đến Hố Nai, Gia Kiệm. Các nhà thờ lớn trong thành phố đều do các linh mục thân tín của ông cai quản. Thế lực của ông không chỉ có ngần đó. Quốc hội, các bộ, các tướng, các ngân hàng, công ty… Nhu phải biết ông là hạng người nào. Ngày xưa, Nhu dọa cắt viện trợ cho quỹ di cư, ông sợ mất mật. Bây giờ, ông thách Nhu - mấy trăm triệu dollar đã hóa thân vào guồng vận động của bao nhiêu ngân hàng, công ty, bao nhiêu xứ đạo. Con số viện trợ vẫn còn song thật chẳng thấm vào đâu so với cơ ngơi mà ông chi phối hiện nay. Tổng đoàn Bùi Chu - Phát Diệm xưa kia không ra cái mẽ gì - mấy con gà, con lợn thu vét, mấy bộ quần áo, mấy thùng thịt hộp của quân nhu Pháp, mấy trăm nghìn đồng bạc Đông Dương… sao mà nhỏ bé đến thế. Ông không ngờ cung cách làm ăn mới mang tiền về cho ông như nước.
Tóm lại, ông bỗng thấy mình cao lớn hẳn khi bước vào phòng làm việc của Nhu. Đợi mãi, không thấy Nhu mời, ông phải gửi danh thiếp báo là ông muốn gặp Nhu. Riêng cái danh thiếp cũng có lịch sử của nó. Lúc đầu, danh thiếp rẻ tiền, in ba dòng: Linh mục Hoàng - Cha sở Bình An - Sài Gòn. Nửa chừng, danh thiếp được in tốt hơn, chữ phủ kín: Linh mục Hoàng - Cựu Tổng chỉ huy lực lượng phòng vệ Bùi Chu - Phát Diệm - Cố vấn ủy ban Trung ương công dân Công giáo - Chủ tịch Hội cựu chiến binh Công giáo Bắc Việt - Hội trưởng Hội ái hữu Công giáo Bắc Việt.
Gần đây, ông bỏ hết các danh thiếp đó, bảo nhà in Kim Lai in cho loại mới, trên giấy quý, chữ nổi. Và danh thiếp chỉ ghi vỏn vẹn: Linh mục Phaolồ Hoàng, không đề tên, địa chỉ và số điện thoại.
Chưa chắc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, nếu tước bỏ cái tên và chức, còn trơ trọi có mỗi cái họ trong danh thiếp, thiên hạ biết họ là ai!
Ông ghi nguệch ngoạc đằng sau danh thiếp: Cha có việc muốn bàn với con. Gấp.
Thế là Nhu hẹn gặp ông. Nhu chờ ông ngay phòng làm việc và bắt tay ông niềm nở.
- Cha muốn bàn việc chi? Con sẵn sàng nghe.
Nhu mời ông ngồi.
- Nhiều việc lắm… Này…
Ông mở đầu bằng lối trịch thượng quen thuộc.
- Này, tại sao con để cho bọn thầy chùa làm lộng thế?
- Thưa cha, thế nào là làm lộng? - Nhu một mực ôn tồn.
Như được khuyến khích - đúng là Nhu cần ông - ông lên giọng:
- Chứ còn gì mà không lộng… Lễ Phật ngay vận động trường quân đội, cờ quạt rợp trời, dùng cả loa phóng thanh thuyết pháp… Thiếu cái gì nữa, nào?
Ông nghiêng người, duỗi chân, tựa đầu vào tay, ngó Nhu, môi bĩu, mái tóc bạc cắt bằng phẳng khẽ lắc lư.
- Chết mất, con ạ! Khốn thật; con cầm giềng mối cả chế độ mà khinh xuất đến thế…
Có tiếng gõ cửa. Nhu nói vọng ra: “Vào!” Người bước vào là trung tá Nguyễn Thành Luân.
Linh mục Hoàng vẫn không đổi bộ nửa ngồi nửa nằm trên chiếc ghế bành, không chìa tay cho Luân. Mắt ông hấp háy với Nhu, ngầm bảo: Đuổi thằng này ra khỏi phòng, để cha con ta nói chuyện.
Nhu lại mời Luân ngồi:
- Anh Luân nghe, cha Hoàng muốn góp ý kiến với chúng ta… Cha vừa nói đến nguy cơ Phật giáo do ta cho phép họ làm lễ Phật tại sân vận động quân đội, có cờ, có loa… Mời cha nói tiếp!
Luân chào linh mục, ngồi xuống cạnh Nhu.
Linh mục Hoàng không bằng lòng. “Nguy thật! Thằng cu Nhu bị quỷ ám đến mực tin cậy thằng Cộng sản này như người nhà. Hơn nữa, nó còn xếp thằng Cộng sản này vào hàng ngũ “chúng ta” và dĩ nhiên, mình là người ngoài. Bố tiên sư chúng nó! Được, đã thế, ông đập luôn một lần!”
Giữa linh mục và Luân thật sự không có quan hệ gì đặc biệt. Ông biết Luân ngay từ ngày ông vừa di cư vào Nam. Lúc đầu, ông ngại, sau ông yên tâm bởi Luân là con nuôi của đức giám mục. Lần hồi, ông không thích Luân: chủ trương của Luân trái ngược với chủ trương của ông - Luân nhúng tay trong vụ gánh hát Kim Thoa và theo như các tài liệu phối kiểm, người của Luân đã bắn chết người của ông. Vậy, quết “lật tẩy” Luân - thằng Cộng sản này thì sùng đạo thế nào được. Nhưng, cha sở nhà thờ Tân Định báo với ông là kỹ sư Nguyễn Thành Luân, trừ bận việc xa Sài Gòn, không sáng chủ nhật nào không đến nhà thờ đọc kinh. Cha sở Phú Cường, cha sở Trúc Giang đều cho tin như vậy, khi Luân thực hiện công vụ ở hai nơi.
Chưa chịu, ông xoay sang hướng phát hiện Luân làm ăn, mèo mỡ. Một sĩ quan thân cận với tổng thống, lẽ nào không dính một trong hai món đó? Nhưng, ông tốn công vô ích. Ông nguyền rủa Luân thậm tệ và vẫn chưa buông tha anh.
Bây giờ, cái thằng Cộng sản đáng ghét nhất trong mọi thằng Cộng sản ấy đang ngồi trước mặt ông, ngồi đàng hoàng, lại còn cười tủm tỉm nữa chứ!
- Này, - Ông lại cao giọng - không cấm đạo Phật đã là may cho chúng nó. Tại sao cho chúng chường mặt trước thiên hạ? Không chỉ có việc Phật giáo. Còn việc bình định? Cộng sản mọc lên như rươi, mà chính phủ thì chùn bước. Hồi cha ở Phát Diệm, hễ bắt được một tờ Cộng sản thì lập tức triệt hạ cái thôn đó, lựa trong số dân vài đứa khả nghi chặt đầu liền. Không diệt tận trứng thì chớ hòng chống Cộng. Con thấy đấy, suốt một dải Kim Sơn, Tiền Hải sang Hải Hậu, chớ có một hoạt động Cộng sản nào trong lúc cha còn cầm quân. Còn anh này - anh tên là gì nhỉ… - Ông trỏ Luân - anh tập tễnh học lối Cộng sản, anh sẽ chết!
Rồi ông xoay qua Nhu:
- Con và cả ông Cụ nữa, đức giám mục nữa, nhẹ dạ quá. Xài bọn sớm đầu tối đánh!
Luân chưa biết phải ứng phó làm sao thì Nhu đã rít liên hồi điếu thuốc.
- Thưa cha, cha hoạt động đắc lực ở Ninh Bình - Nam Định…
- Chứ sao! - Linh mục Hoàng ưỡn ngực - Cha chặt đầu tất bọn Cộng sản… - Ông ngó Luân trừng trừng.
- Thảo nào! - Nhu giụi thuốc - Thảo nào mà Pháp và Quốc gia cuốn cờ khỏi Bắc Việt!
Linh mục Hoàng đưa tay ngăn Nhu. Nhu không để ông mở mồm:
- Con khó hiểu là tại sao Cộng sản không tặng huân chương cao nhất cho cha? Cha lập công to với Cộng sản, góp sức vào thất bại của Pháp và Quốc gia. Và, vào Nam, cha vẫn chưa gột bỏ đầu óc đặc cứng ấy. Cha muốn chế độ Cộng hòa sụp đổ hả? Hình như cha không thấy tình cảnh khó khăn của đất nước hiện nay có dính đến sự kém thông minh của cha. Cha thích cha Nguyễn Lạc Hóa chứ gì…
- Anh đừng hỗn! - Linh mục Hoàng gầm lên.
- Con chưa bỏ tù cha là con còn tử tế chán. Cha cứ tưởng các hoạt động kinh tài của cha qua mắt được con. Cha cứ tưởng các sổ ma trong các khu di cư chỉ có cha biết. Cha cứ tưởng các trương mục ngân hàng do cha đứng với đủ thứ tên là hợp pháp? Con biết rõ cha tụ tập các phần tử lưu manh ra sao, họp ở đâu, nói cái gì, làm trò gì. Con nói “làm trò gì” tức là trò tồi bại. Cha cần xem ảnh không? Cha biết ca sĩ Minh Thùy, vợ thiếu tá Lạc ở Bình An chứ? Viên thiếu tá, linh mục phụ tá của cha, một Tổng giám đốc và một thiếu tướng quanh thân thể cô Thùy, trong nhà riêng của cha. Đủ chưa? Tất nhiên là chưa đủ. Con nhắc một phần trăm vụ thôi… Sao, đưa cha ra tòa được không? - Nhu nói qua kẽ răng và rõ ràng, Nhu có thể tuôn ra hàng lô vụ nữa.
Linh mục Hoàng tựa hẫng giò. Ông ta chỗi dậy từ hồi nào ông không biết. Té ra Nhu rành ông quá. Té ra chính ông đút đầu vào tròng của Nhu khi đến đây.
- Cha định làm gì tôi? Muốn vòi vĩnh cái gì đó, phải không? Tôi sẽ để cha yên, với điều kiện cha không được tụ tập bọn lưu manh nói bậy. Hồ sơ về cha dày lắm rồi.
Quên phứt sự có mặt của Luân, linh mục Hoàng đứng lên, mồ hôi đầm đìa, lủi thủi ra cửa… Nhu ngao ngán trông theo, thở dài não nuột. Luân lặng lẽ châm thuốc…
*
Trần Lệ Xuân, với danh nghĩa chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới, mở tiệc tiếp đại sứ Mỹ Nolting, tại trụ sở của hội - ngôi nhà nhiều tầng rất khang trang vừa xây dựng xong trên đại lộ Trần Quốc Toản.
Không rõ Nolting được thông báo về Trần Lệ Xuân như thế nào mà diện bộ demie saison - áo tropical xanh nhẹ và quần tergal xám tro - rất trẻ và cũng rất lẳng.
Lệ Xuân đón Nolting ngay cổng. Đại sứ xuống xe đi sóng đôi với Lệ Xuân sau khi hôn lên bàn tay nõn nà của mụ và ve vuốt nó khá lâu. Trong chiếc áo dài rộng cổ bằng loại lụa mỏng màu sậm, đầu bới cao, quần satanh trắng, Lệ Xuân trang điểm vừa phải nhưng bằng kỹ thuật già dặn, biết khoe những cái cần khoe. Ngay trong cái giao tiếp đầu tiên, mụ đã biết ai là kẻ chiến thắng: đại sứ Mỹ - kín đáo, tất nhiên - gắn chặt đôi mắt vào bờ vai mịn của mụ, nổi bật nhờ màu áo tương phản.
Lệ Xuân đọc lời chào đại sứ bằng tiếng Anh. Ánh đèn trình bày trọn thân hình mụ, cách Nolting không quá hai bước. Vừa đọc, Lệ Xuân vừa quan sát và mụ thấy rõ Nolting háo hức nhắm nháp mụ.
Nolting ứng khẩu, cám ơn buổi đón tiếp, hứa sẽ cố gắng trong mức tối đa, giúp đỡ phong trào…
Nolting tìm mọi cơ hội chạm vào da thịt Lệ Xuân. Duyên dáng và lịch sự, Lệ Xuân tránh các tiếp xúc đó mặc dù mụ vẫn tỏ vẻ như mời mọc.
Cuộc vui kéo dài vừa phải. Nolting thòm thèm song đành phải ra về.
Lệ Xuân tiễn đại sứ ra xe và khi Nolting muốn accolade (1), mụ khéo léo tháo vòng tay Nolting.
Chiều hôm sau, đại sứ mời bà chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới đến sứ quán để “bàn cụ thể việc Tòa đại sứ Mỹ tài trợ cho phong trào” như thư ghi rõ. Lệ Xuân cáo từ với lý do không khỏe và cử người phó - một bà lớn tuổi - đi thay.
Một tuần lễ trôi qua, Lệ Xuân lại nhận được thư mời khẩn thiết. Lần này, mụ đến. Nolting sa sầm mặt khi thấy Lệ Xuân cùng đến với hai nhân viên của phong trào. Họ trao đổi qua loa và Lệ Xuân ra về.
Lần thứ ba, Nolting lấy cớ là để trao cho bà chủ tịch ngân phiếu 5.000 dollar của một tổ chức phụ nữ Mỹ, mời Lệ Xuân đến nhà riêng của đại sứ.
Trong phòng khách, chỉ có hai người. Nolting đắm đuối nhìn Lệ Xuân, vẫn chiếc áo dài đen và chiếc cổ lồ lộ.
- Thưa bà, tôi nghĩ là bà trên 20 tuổi một ít…
Lệ Xuân cười thật tươi, cám ơn lời khen của Nolting và cho biết mình sắp 40.
Làm như kinh ngạc, Nolting cầm tay mụ:
- Bà là một phụ nữ châu Á đầu tiên mà tôi say mê. Tôi không giấu giếm: bà thật hấp dẫn.
Nolting nói hổn hển.
Lệ Xuân khấp khởi: cá cắn câu. Lão Mỹ này rơi vào thế trận kín kín hở hở của mụ. Mụ ra vẻ e lệ, mắt đục mờ, như sẵn sàng hiến dâng. Nolting hôn thật lâu lên tay mụ. Rồi ông ta xốc mụ dậy, ghì chặt. Lệ Xuân nửa như ưng, nửa như chống. Sau cùng, Nolting không đạt được cái mà y thèm khát đến điên người và hôn lên đôi môi tô hồng khêu gợi của mụ. Lệ Xuân đẩy Nolting ra, sửa lại tóc, mở cửa. Nolting hốt hoảng chạy theo, miệng lắp bắp: “Xin lỗi… Bà đẹp quá… Tôi tha thiết yêu bà…” Trong khoảnh khắc Nolting sợ - cuộc đời chính trị của ông ta có thể không suôn sẻ vì cái phút vừa rồi. Nhưng, lên xe, Lệ Xuân ném lại cho Nolting nụ cười và cái liếc hết sức âu yếm.
Bài bản mà Lệ Xuân sử dụng kéo dài nhiều ngày. Nolting giống như kẻ mất hồn. Những lần gặp gỡ đã giúp Lệ Xuân nắm được khá nhiều tài liệu về ý đồ của Mỹ đối với Nam Việt nói chung và đối với gia đình Tổng thống Diệm nói riêng. Lệ Xuân chỉ bằng lòng cho Nolting hôn khi viên đại sứ chìa cho mụ xem một bản sao điện mật, trong đó, ngoại trưởng Mỹ căn cứ vào phân tích của Nolting, đồng ý không nên gạt vợ chồng Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyền Nam Việt, bởi “sẽ làm suy yếu thế lực chống Cộng” tại đây.
Và, các lần gặp gỡ chớp nhoáng, Lệ Xuân chỉ cho phép Nolting trong giới hạn đó.
---
(1) Ôm hôn


Phần 6 - Chương 4


Tổng thống Diệm ký quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Hoằng Thao quyền tỉnh trưởng khi Luân bị nạn và bây giờ thì bổ nhiệm chính thức thiếu tá Trần Ngọc. Luân trở về Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, dưới quyền đại tá Cao Văn Viên đồng thời phụ tá cho cố vấn Ngô Đình Nhu. Việc thuyên chuyển này được giải thích như vì nhu cầu công vụ cộng với sức khỏe của trung tá Luân. Trước khi Tổng thống ký quyết định, Nhu gặp Luân. Với Luân, anh rời Kiến Hòa không có điều gì phải băn khoăn. Trên cương vị tỉnh trưởng, trong một thời gian, Luân đã cố gắng tạo điều kiện hỗ trợ cho phong trào Bến Tre nhiều mặt, cả vụ thanh toán nội gián - bây giờ, qua tài liệu và các nguồn thông tin, anh biết Bến Tre là cái nôi và mũi xung kích của “đồng khởi”, tức là vũ trang khởi nghĩa của quần chúng. Tuy nhiên, quyết định dù sao cũng hơi đột ngột. Luân nghĩ rằng Nhu còn để anh ở Kiến Hòa một thời gian nữa.
- Phái đoàn chuyên viên Mỹ sắp sang Sài Gòn. Tổng thống muốn anh tham dự vào phái đoàn Việt Nam. Bởi chúng ta và Mỹ sẽ bàn kỹ các vấn đề viện trợ. Ông Vũ Quốc Thúc là một nhà kinh tế, nhưng viện trợ lại bao gồm cả quân sự, trong đó, có phần bình định và yểm trợ cho quốc sách ấp chiến lược. Tôi biết anh còn tiếc Kiến Hòa, bao nhiêu dự kiến bỏ dở. Không sao. Anh chưa hết dịp giúp Kiến Hòa đâu. Vả lại các tỉnh đều cần kinh nghiệm của anh…
Nhu thuyết một hồi. Luân vừa nghe vừa phán đoán. Có thể Nhu ngửi ra một sơ hở nào đó của anh chăng?
- Anh đừng cho là Tổng thống không tin tưởng ở các biện pháp bình định Kiến Hòa của anh… Hoàn toàn chỉ vì anh cần có mặt ở Sài Gòn. Không thể nào anh phân thân cùng lúc đảm trách hai chức vụ…
Nhu suy luận, qua nét mặt của Luân, nói luôn. Luân cười:
- Anh đoán hơi quá… Tôi băn khoăn thật, song là vị tôi chưa yên tâm tình hình Kiến Hòa.
- Người thay anh có khả năng. Anh cứ “truyền nghề” cho anh ta. Anh được sống với kỷ niệm cũ một tuần lễ. Kỷ niệm chẳng lấy gì làm vui!
Nhu đùa, cởi mở.
Cuộc bàn giao không cần đến một tuần lễ, nhưng Luân vẫn dùng hết thời gian đó: Anh đề cử đại úy Nguyễn Thành Động là chỉ huy trưởng thay cho đại úy Chung Văn Hoa - được thăng thiếu tá và được bổ làm tỉnh trưởng Định Tường, phần nào đáp ứng tham vọng của Hoa. Giá mà Động làm tỉnh trưởng Định Tường thì hay quá! Anh nghĩ như vậy nhưng không sao thực hiện nổi.
- Trung tá đi rồi, chưa biết Kiến Hòa sẽ ra sao?
Nguyễn Thành Động than thở.
Luân rất cảm tình với Động - theo ý Luân, một con người thẳng thắn, có đầu óc dân tộc, thông minh. Chắc chắn là Động ít nhiều đặt nghi vấn về hành vi của Luân. Tuy nhiên, Luân biết Động một mực ủng hộ anh.
- Sẽ ra sao theo nghĩa nào? - Luân hỏi lại.
- Hành quân lu bù, giết nhau vô lối… Động não nuột.
- Đâu rồi sẽ vô đó hết thôi! - Luân an ủi Động - Thiếu tá Ngọc không phải là người không tháo vát…
- Tôi rành thằng Ngọc quá! Tôi với nó cùng học một lớp suốt trung học, thi tú tài một lượt, cùng theo đại học Luật, cùng bị đưa vào trường sĩ quan một lượt, cùng đeo lon thiếu úy một lượt… Nó làm sao bì nổi trung tá.
Bỗng Động cười hóm hỉnh:
- Trừ cái món đó!
- Món gì?
Động hấp háy mắt:
- Nó nhiều bạn gái!
Rồi Động nói luôn:
- Nó không hăng máu, nhưng người ta sẽ cách chức nó, thay bằng một thằng tỉnh trưởng ngu ngốc nào đó suốt ngày hò hét! Bắn! Bắn…
Luân bắt tay Động thật chặt, dặn khi về Sài Gòn tìm gặp anh.
“Anh ta khủng hoảng tinh thần. Phải giúp anh ta.” - Luân nghĩ thầm.
Ngọc khá đẹp trai. Quần áo dù cho là quân phục, lúc nào cũng bảnh bao, người luôn thoảng mùi nước hoa đắt tiền.
- Tôi ghét cay ghét đắng nghề đánh đấm. - Trần Ngọc nói với Luân - Tôi thích làm chính trị, làm dân biểu, viết báo. Nhưng, trời không chìu tôi. Cũng hên cho tôi, người ta cử tôi đến Kiến Hòa, nơi mà trung tá đã tạo ra chỗ đứng khá vững bằng máu của trung tá. Tôi chỉ còn tiếp tục quét các ổ Cộng sản rơi rớt. Kể cũng nhàn hạ.
Luân thầm thương hại anh chàng tân tỉnh trưởng “tài tử”, Kiến Hòa không hiền như anh ta tưởng đâu. Chẳng bao lâu nữa, anh ta sẽ thấm đòn.
- Tôi phục trung tá chịu đựng thằng Lưu Kỳ Vọng. May mà Việt Cộng “xơi tái” nó. Trung tá chắc không biết nó mật báo với bác sĩ Tuyến nhiều chuyện về trung tá, trong đó có một chuyện động trời: trung tá tiếp đại úy Phan Lạc… - Trần Ngọc nói lan man và Luân biết thêm anh ta mang tật ba hoa.
- Tôi không rõ ông Vọng báo về tôi chuyện gì, còn riêng chuyện tiếp đại úy Phan Lạc sau ngày 11-11 thì quả ông Vọng đã báo đúng sự thật.
Trần Ngọc giật nảy người:
- Sao? Trung tá tiếp Phan Lạc?
- Phải! Tôi tiếp tại đây, ngồi ngay chổ chúng ta đang ngồi…
- Trời! - Trần Ngọc kêu thảng thốt.
- Có gì đáng sợ đâu? Anh ta thua trận, đến cầu cứu tôi. Tôi giúp anh ta khỏi bị bắt, vượt biên giới sang Cam Bốt…
Trần Ngọc nhìn Luân trân trối.
- Mà, tất cả các việc đó, ông Nhu đều biết và đều đồng ý!
Trần Ngọc thở phào:
- Trung tá làm tôi đứng tim… Mấy cha nội chơi trò buôn bán chính trị, ghê thấy bà!
- Ủa! Thiếu tá mê làm “dân biểu” mà sợ buôn bán chính trị sao? - Luân trêu Trần Ngọc.
- Tôi làm chính trị “sa lông” còn mấy cha nội làm chính trị thiệt… Chào thua!
Ngọc nhìn khắp phòng khách.
- Bộ sa lông cổ lỗ sĩ này nên cho vô musée (1). Tôi sẽ bố trí tại đây một sàn nhảy. Một tuần không có một bal (2), tôi chịu không nổi. Trung tá là nhà mô phạm, vả lại, trung tá khoái leo cao, có bà trung tá kè kè… Tôi thề xin kiếu nghề công chức. Ráng một lúc, tôi đâm đơn xin thôi. Về Sài Gòn, làm “chánh khứa”, vui với em út, sướng hơn…
Luân đã thấy trước Trần Ngọc rất có ích cho Luân - tình hình mất an ninh từ nay chỉ theo một cách giải thích thôi: sự bất lực của tân tỉnh trưởng. Nhưng, dầu sao, chơi như vậy là không sòng phẳng. Cho nên, Luân khuyên Trần Ngọc:
- Thiếu tá cẩn thận, ai mà lường trước hết mọi tình hình…
- Trung tá muốn nói Cộng sản ở Kiến Hòa?
- Đúng vậy… tôi chết hụt nên muốn thiếu tá đừng theo gót tôi.
Trần Ngọc cười hì hì:
- Một là tôi không phải trung tá Luân, nghĩa là tôi không có chủ trương, chủ đích gì ráo. Việt Cộng nếu không thương thì ít ra cũng thấy tôi “hiền”, hiền hơn trung tá. Công đâu gài một nội tuyến tới cỡ trung úy để hạ thủ tôi. Chắc trung tá không biết tôi là nhà thơ. Thơ tình đàng hoàng. Đã in mấy tập. Sướt mướt kinh khủng. Không chừng Vixi lại bảo vệ tôi, bởi lính mà đọc thơ tôi thì hết bình định, hết khu trù mật, hết ấp chiến lược… Hai là, tôi chẳng bà con họ hàng gì với “tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm”. Tôi bị động viên, phải đeo hoa mai. Vậy thôi. Ba là tôi không rời khỏi dinh tỉnh trưởng, không hành quân, không thị sát cần quay phim chụp ảnh thì làm ngay đây. Ngày mai, tôi cho thêm bao cát quanh tường… ổn trăm, phải không?
Trần Ngọc thấy Luân vẫn không vui trước lời lẽ bông đùa của mình, nên phải nói thêm:
- Cám ơn trung tá. Về kinh nghiệm, trung tá như đàn anh. Nói thiệt, kể họ là dữ, tôi “tùy nghi di tản”… Dại gì tử thủ. Chỉ mong trung tá Tham mưu biệt bộ chiếu cố cho khi đọc phúc trình…
Luân bật cười. Té ra, Trần Ngọc rồi cũng sẽ thực tế “chi viện” cho phong trào cách mạng Kiến Hòa - bằng lối riêng của anh ta.
Giữa tháng 6, Luân rời Kiến Hòa, cuối tháng 6, quân giải phóng tấn công Phú Túc, đầu tháng bảy, An Khánh - hai thị tứ quan trọng.
Đọc báo cáo của Kiến Hòa, Luân cười thầm: Nguyễn Thành Động ghi con số tổn thất của đôi bên thật chênh lệch: chính phủ từ thiệt hại không đáng kể đến thiệt hại nhẹ, giải phóng bị sát thương rất nặng. Hẳn, tỉnh trưởng và chỉ huy trưởng rất ăn ý với nhau.
Cuối tháng 6, Luân tham dự cuộc hội đàm với phái đoàn Mỹ do Staley cầm đầu. Eugene Alvah Staley mà bảng lý lịch tóm tắt ghi ở bìa quyển The future of underdeveloped countries (3) do ông viết đã cho thấy thẩm quyền của vị giáo sư kinh tế 55 tuổi này: dạy ở đại học Chicago và Viện nghiên cứu Thái Bình Dương, công tác ở Trung Quốc năm 1944, chuyên gia vấn đề kinh tế Ấn Độ, nhân viên UNRRA (4)
Ngay trong phiên làm việc đầu, Luân đã rút ra mấy kết luận: Staley và phái đoàn Mỹ nắm tình hình Nam Việt khá cụ thể, xu hướng của Kennedy là cố duy trì công thức “Vũ khí Mỹ + lính Nam Việt” đến khi nào không còn thể duy trì được nữa; thêm viện trợ kinh tế, trước hết, chi một món tiền lớn cho chương trình “Ấp chiến lược”. Staley có một nhược điểm: ông ta tuyệt đối hóa sức mạnh của súng và dollar. Trùm lên tất cả, Staley bộc lộ một toan tính: bằng dollar, nắm các sĩ quan Nam Việt. Trong phiên làm việc này, Staley nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu tăng quân số lính chính quy Nam Việt lên 17 vạn và Hoa Kỳ tự nguyện lo trang bị cho 6 vạn Bảo an. Ông ta phàn nàn về mức sống quá thiếu của sĩ quan và hứa ngân sách viện trợ sẽ dành một phần thoả đáng để cải thiện mức sống đó. Có thể nói về số quân và trang bị, Staley gặp Ngô Đình Nhu. Và chỉ gặp ở chỗ đó.
Vũ Quốc Thúc, một con người ham nói dài dòng, ham phô trương vốn liếng tiếng Anh, tiếng Pháp, còn thì chẳng có một chút gì là có thể đại diện cho Việt Nam Cộng hòa. Thúc không nói một lời nào về dự định của Staley và mặc dù mọi thứ đều soạn thảo ở Washington, Thúc vẫn trâng tráo đặt cho cái kế hoạch còn chưa ra hình dạng ấy là “Công trình Staley - Vũ Quốc Thúc”.
Sau buổi họp - mà mọi người chỉ có việc nghe Staley và Vũ Quốc Thúc - Luân xin gặp Nhu. Anh đến dinh Độc Lập và Nhu tiếp anh tại phòng khách lớn, có mặt Ngô Đình Diệm.
- Tôi không rõ ý định của Tổng thống và anh Nhu đối với kế hoạc Staley. Theo tôi, ta nên cân nhắc kỹ…
- Họ có nêu việc thêm cố vấn quân sự Mỹ không? - Diệm hỏi.
- Chính thức thì không. Song, qua lối nhận xét của Staley, họ xem việc thêm cố vấn quân sự gần như là hiển nhiên. Về bộ binh, họ chê cán bộ cấp tiểu đoàn của chúng ta. Họ chê cán bộ cấp trung đoàn các binh chủng quân thiết giáp, pháo, dù, hải quân, không quân. Họ chê công tác tham mưu, đồ bản, huấn luyện, trinh sát. Về bảo an, họ chê các cấp chỉ huy tỉnh. Staley cũng nói khá đậm về hệ thống hành chính, quản lý viện trợ và an ninh của ta. Tổng hợp các nhận xét của Staley, tôi kết luận là họ chú trọng nhiều nhất khâu cố vấn… Nếu với số lượng cố vấn cỡ đó, cần cả một bộ chỉ huy Mỹ … Rắc rối!
Diệm tuy ngó Luân nhưng mắt ông như ngó một nơi nào đó xa xôi.
- Chấp nhận hay không chấp nhận… - Nhu nói, trầm trầm - Không chấp nhận thì chúng ta lấy gì nuôi quân lính, lấy gì đánh Cộng sản? Chấp nhận thì người Mỹ chứ không phải chúng ta giữ tiếng nói quyết định… Tất nhiên, vẫn còn một lối ra: Chấp nhận mức nào. Đồng thời, phải nắm chặt sĩ quan, viên chức… Tôi mơ ước quân số này từ lâu. Nhưng phải là quân số của ta! Xe tăng, pháo, máy bay, tàu - tất cả phải là của ta.
Nói đoạn chót, Nhu cắn chặt răng.
- Tôi vẫn lo Mỹ không dừng ý định ngang những cái cái hiện nay. Mỹ không bận bịu với các chính khách đối lập mà xoay hướng về sĩ quan, viên chức của ta. - Luân nói.
- Anh Luân có nhiều ý kiến xác đáng. Song, ta cũng có cách của ta. Hội đàm kéo dài đến ba tuần lễ. Anh tùy cơ ứng biến. Ta cần tiền, vũ khí, tài trợ. Cố gắng tranh thủ cao nhất các yêu cầu đó. Các thứ khác, anh trao đổi với ông Thúc. Ông Thúc “Mỹ hơn Mỹ” cho nên anh phải ứng phó vất vả. Ta chậm hơn Mỹ một bước rồi đó…
- Các lực lượng yểm trơ, tôi hơi ngại không quân - Luân nói - Tiếp nhận hàng loạt máy bay AD6 có nghĩa đồng thời tiếp nhận hằng loạt phi công do Mỹ huấn luyện. Ta chưa có người phi công nào cả…
Nhu thừ người khá lâu:
- Tôi sẽ làm việc với bác sĩ Tuyến về số phi công này…
Luân biết bác sĩ Tuyến chẳng giúp gì cho Nhu. Cái thế của anh em nhà Diệm là thế cỡi cọp - Luân nhận xét như vậy.
*
- Giáo sư Staley cho tôi cảm giác là giáo sư muốn so sánh kế hoạch do giáo sư thảo với kế hoạch của tướng Marshall. Tôi sẵn sàng tin là kế hoạch có chỗ giống nhau, bởi vì, ít nhất, cả hai đều cùng một mục đích. Tuy nhiên ta hãy tìm xem hoàn cảnh của mỗi kế hoạch. Kế hoạch Marshall nhằm vực một Tây Âu bị chiến tranh tàn phá gượng dậy - là những quốc gia đạt trình độ kinh tế phát triển trước khi nổ ra thế chiến. Tuy vậy, cái đó chưa phải là quan trọng, cái quan trọng lại là ở các nước Pháp, Ý, Hà Lan, Anh… không có du kích Cộng sản. Ý nghĩa quân sự của kế hoạch Marshall thể hiện ở chỗ các quốc gia kiệt quệ ấy khôi phục đời sống kinh tế và trên cơ sở của tiến bộ kinh tế mà đối đầu với thế giới Cộng sản. Dù từng nước vẫn phải giải quyết vấn đề đảng Cộng sản ngay trong nhà nhưng nhiệm vụ chính không phải như vậy, có lẽ trừ một vài trường hợp, tỉ như Hy Lạp - nơi mà tổ chức EAM (5), na ná như Mặt trận giải phóng ở Nam Việt hiện nay, nắm Elas (6), lực lượng vũ trang khá mạnh.
Luân phát biểu ở phiên họp thứ hai. Staley và đoàn Mỹ lặng lẽ theo dõi. Vũ Quốc Thúc không được thoải mái lắm khi Luân xin phép nói. Với ông, quyền nói chỉ nên của trưởng đoàn. Tuy vậy, Thúc tỏ ra tế nhị - ông hiểu Luân là người của Nhu.
- Ở Hy Lạp, chính kế hoạch của Marshall đánh bại Cộng sản vũ trang đấy! - Staley cắt ngang lời Luân.
- Thưa giáo sư, không phải như giáo sư nói - Luân cười mỉm - Cộng sản Hy Lạp thất bại trước khi kế hoạch Marshall triển khai. Không phải kế hoạch Marshall mà 10.000 quân của tướng Anh Scobie đánh Elas… Nếu giáo sư đồng ý, chúng ta có thể lấy trường hợp Hy Lạp làm điểm phân tích. Nghĩa là, người Mỹ phải đổi quân lên Nam Việt. Ở Hy Lạp, nước Anh cần 10.000 quân là đủ, con số cần thiết ở Nam Việt là bao nhiêu, chưa ai dám đoán. Tôi nhấn mạnh một yếu tố: Ở Hy Lạp, chính người Cộng sản tự làm suy yếu mình. Lúc bấy giờ, khi chiến tranh kết thúc, họ là lực lượng mạnh nhất nước về chính trị và quân sự - chỉ có họ bám trên đất nước Hy Lạp mà đánh quân phe Trục, các thế lực khác, kể cả vua Georges đệ nhị, đều lưu vong. Họ kiểm soát 16 trong 18 tỉnh toàn nước Hy Lạp. Thế mà, họ tan rã thật nhanh sau đó. Lễ nộp vũ khí cho chính phủ của nhà vua Georges đệ nhị tiến hành tại Athenes, quân Elas phục viên, Scobie và vua Georges chỉ chờ có bấy nhiêu… Giáo sư có thể tin là ở Nam Việt, một tình thế như vậy được lập lại?
Staley nhún vai:
- Biết đâu đấy!
Luân cười độ lượng:
- Nếu chúng ta bàn một kế hoạch kinh tế - quân sự nghiêm chỉnh mà trông cậy vào điều may rủi thì thật nguy hiểm. Cộng sản Nam Việt không phải là Cộng sản Hy Lạp - không có gì rõ hơn, phải không?
Staley lắc đầu:
- Chưa rõ lắm! Họ cũng đã tập kết ra Bắc…
Luân làm như cố nén cười:
- Nhưng, bây giờ họ có hàng mấy chục tiểu đoàn, hàng trăm đại đội - họ mạnh hơn lúc đình chiến… Và ít nhất họ cũng rút được hai kinh nghiệm: của Hy Lạp và của chính họ… Tôi xin phép trở lại kế hoạch của giáo sư. Kế hoạch chưa tự giới thiệu giá trị ứng dụng. Hai mục tiêu mà kế hoạch dự kiến quả không đủ, nếu tôi không nói là rất thiếu thiết thực. Tăng quân và xây đồn không thể ngăn chặn Việt Cộng hoạt động. Thêm cố vấn Mỹ ở các đơn vị và ở các cơ quan cai trị càng giúp cho Việt Cộng thêm cớ ly gián chính phủ với dân chúng… Ở Nam Việt, cuộc chiến tranh - chúng ta phải dùng từ “chiến tranh” để diễn đạt thực trạng hiện nay và hiện nay, chiến tranh hết còn đơn phương, cả chính phủ và Việt Cộng cùng làm chiến tranh - bất kể dưới dạng và mức nào, trọng tâm của nó vẫn là thu phục nhân tâm. Khía cạnh kỹ thuật nhất thiết phải tùy thuộc vào khía cạnh chính trị. Tôi cho kế hoạch của giáo sư cần bổ khuyết phần đó.
Staley không hài lòng. Lập luận của viên trung tá Việt Nam này đã đảo lộn toàn bộ ý định của kế hoạch. Rõ ràng, viên trung tá này ám chỉ sự thiếu vững chắc của kế hoạch, hơn nữa, gã còn cho kế hoạch được soạn thảo bởi các kỹ thuật viên - nghĩa là bởi các nhà chuyên môn đơn thuần.
Không hài lòng song Staley không nói. Phiên họp kết thúc trong không khí hơi nặng.
Tối hôm đó Vũ Quốc Thúc xin gặp Tổng thống. Ông ta chuyển đề nghị của Staley: nên rút trung tá Nguyễn Thành Luân ra khỏi phái đoàn Việt Nam Cộng hòa để cho cuộc hội đàm có thể tiến triển nhanh. Diệm hứa sẽ cứu xét. Nhu, sau khi nghe tin, kiên quyết phản đối. Anh ta đưa cho Diệm đọc biên bản tốc ký của phiên họp. Tới phiên Diệm nổi nóng, ông gọi dây nói cho Thúc: Không thay đổi gì cả!
Thúc lại nhắc Diệm ý kiến của Staley, vào ngày thứ ba, khi mà phiên họp rơi vào điểm chết. Luân khăng khăng cần phân bố ngân sách viện trợ một cách cân đối cho các hoạt động giáo dục, y tế, xã hội. Staley nhất quyết tập trung cho tăng quân và xây đồn lũy.
- Giáo sư Staley đề nghị hay ra tối hậu thư? - Diệm hỏi gay gắt.
- Thưa… - Thúc lúng túng - Thưa, giáo sư đề nghị thôi. Song, đề nghị đó liên quan đến viện trợ…
- Giáo sư Staley nếu cho là thành phần của đoàn Việt Nam phải do đoàn Mỹ chỉ định thì mời ông ấy đến gặp tôi! - Diệm dằn mạnh ống nói, vừa lúc Luân đến báo cáo về tình hình phiên họp.
- Làm sao? - Nhu hỏi - Chẳng lẽ để hội đàm giẫm chân mãi một chổ?
- Tùy Tổng thống và anh, - Luân nói - Tuy nhiên, có một điểm tôi thấy cần lưu ý Tổng thống và anh cố vấn: Hiện thời, không phải chỉ mỗi chúng ta lo cuộc chiến đấu chống Cộng thất bại, nước Mỹ cũng lo và nước Mỹ lo hơn chúng ta. Chống Cộng ở Nam Việt Nam cần thiết đối với họ hơn đối với chúng ta. Cho nên, họ sẽ không nhắc lại đề nghị đó nữa, Hoa Thịnh Đốn nóng ruột lắm rồi…
Đúng như Luân dự đoán, phiên học thứ năm, Staley đi thẳng vào đề nghị của Luân. Ông ta nhượng bộ.
Vào lúc đó, Taylor được cử là cố vấn quân sự cho Tổng thống Kennedy. Maxwell Davenport Taylor, 60 tuổi, viên đại tướng sừng sỏ của Mỹ - nhà lý luận, nhà chiến lược, chuyên gia các vấn đề Viễn Đông, từng chỉ huy ở Triều Tiên - là một Taylor nổi tiếng trong dòng họ gồm quá nhiều Taylor nổi tiếng. Không ai không thấy, Kennedy chọn Maxwell Taylor làm cố vấn là vì cuộc chiến tranh Việt Nam…
---
(1) Viện bảo tàng
(2) Khiêu vũ.
(3) Tương lai của các quốc gia kém phát triển
(4) United Nations Relief and Rehabilitation Administration (Cơ quan quản trị của Liên hợp quốc về cứu trợ và tái thiết)
(5) Ethnikón Apeleftherotikón Métopon: Mặt trận giải phóng dân tộc
(6) Ethnikós Laïkós Apeleftherotikós Strátos: Quân quốc gia giải phóng dân tộc
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn