View Single Post
  #18  
Old 12-08-2012, 07:30 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 6 - Chương 5 - 8

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 6 - Chương 5


Với tư cách là sĩ quan tham mưu biệt bộ, Luân tháp tùng đại sứ Nolting trong chuyến thị sát đồng bằng sông Cửu Long đầu tiên của ông ta. Nolting sẽ đến và sẽ nghỉ đêm ở Cà Mau, tỉnh lỵ An Xuyên. Sự chọn lựa một tỉnh tận cùng đất nước Việt Nam, nơi mà Việt Cộng hầu như kiểm soát toàn bộ xóm làng có một ý nghĩa phô trương rõ rệt vai trò cá nhân của đại sứ - Nolting muốn bản báo cáo của mình gởi về Tòa Bạch Ốc phải sinh động. Ngoài Luân, tháp tùng đại sứ còn có đại tá Lâm, ở Bộ tổng tham mưu. Lâm không thân với Luân mặc dù hai người giống nhau ít nhiều về điểm liên hệ với “phía bên kia”. Cha Lâm, một nhà giáo, từng là chủ tịch ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ trong kháng chiến và nay tập kết ra Bắc, làm một việc gì đó ở Hà Nội. Chị ruột Lâm cùng tập kết với cha và chồng là một sĩ quan Bắc Việt.
Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần Văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao.
Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, 7 năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu.
Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa.
Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe.
Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để “chào vĩnh biệt các bãi lầy” - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt.
Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa.
Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi “Skyraider” - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích.
Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có.
Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm:
- Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt!
Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp.
Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng… cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước.
Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng:
- Đi chỗ khác chơi!
Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ.
Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn!
- Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi… Mặt dày hơn da trâu!
Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting.
Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên.
Các tuỳ tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6.
Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy.
- Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không?
Tony Forting lắc đầu:
- Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm!
Nolting nheo mắt:
- Ông quên là chúng ta bay trên trời?
- Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn.
- Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này… Bay thấp một tí, được không?
Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu.
Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này.
Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường.
Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học.
- Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than “khó chơi lắm” với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. “Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu…” Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! “Ái chà!”, Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại.
- Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à?
Mac Garr vẫn không đổi tư thế:
- Đại tướng (1)? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá… Với bọn Vixi, khó nhá…
- Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng?
- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng… - Mac Garr nhắc những chữ “chúng tôi” vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta… - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…
Mac Gar sửng cồ hẳn:
- Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương… Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả…
- Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick(2) cũng nể…
- Giá Mac Arthur ra tranh cử tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower!
- Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17?
- Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn…
Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe:
- Quê tôi đây rồi!
Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng.
- Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát.
- Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa… Tôi nhận ra rồi.
Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua.
- Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi.
- Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười.
- Tiếc quá… Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4.
Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược.
- Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh.
- Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày…
- Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt.
Mac Garr cười khẩy:
- Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng.
Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước:
- Sắp đáp xuống Trà Nóc.
*
Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.
Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng.
Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo.
Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này.
Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi.
- Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy… Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi:
- Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh.
- Chiến tranh vẫn phải cày cấy… Nhịn đói đánh giặc được sao?
- Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa… Mac Garr cười hô hố, rất võ biền.
- Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên… Thế mà! - Nolting không chịu thua.
Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn… Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ.
Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua…
Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống.
Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao?
- Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá tỉnh trưởng An Xuyên có mặt.
Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm.
Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng.
Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay:
- Chào quý vị ạ!
Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng.
Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp:
- Bonjour, madame (3)
Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh:
- Bienvenue, Mon Excellence Nolting!(4)
Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió!
Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá tỉnh trưởng.
Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé:
- Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết… Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi… Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt… Lựa thứ thật tươi… Đồ ăn hại!
Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: “Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi”.
Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì…
Dinh tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích.
- Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi.
- Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh.
- Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc… Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp!
Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc…
- Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông… - Nolting bảo.
Vũ Liệu đứng lên:
- Xin mời!
Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh:
- Mời trung tá… Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát… Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ!
Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo!
Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng.
- Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi…
- Sách gì đây? - Nolting hỏi.
Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì.
- Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi.
Vũ Liệu gật đầu bừa.
- Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa?
Vũ Liệu lại gật đầu.
Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo:
- Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học…
Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân:
- Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm!
Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting.
Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn.
- Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh tỉnh trưởng.
- Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh.
- Ta đến đó! - Nolting bảo.
Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân:
- Anh chưa đọc “chưởng” bao giờ?
Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu:
- Thiếu tá luyện môn nào? Hàm mô công hay Nhất dương chỉ hay Giáng long thập bát chưởng?
Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo.
- Té ra trung tá Luân cũng thạo Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ.
- Tôi còn biết bộ “chưởng” đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang!
Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần.
- Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ.
- Cái gì?
- Điều lệ của đảng Đại Việt… Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt.
- Sao anh biết?
- Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu…
- Đại Việt nào?
Lâm nhún vai:
- Tới mấy Đại Việt?
- Ít ra, ba!
- Tôi chào thua… Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy…
Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở…
Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc… cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh.
Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm.
Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do.
*
Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.
Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn.
Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những “làng rừng”, bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những “làng rừng” vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về “làng rừng”, du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào… Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn.
Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa.
- Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia?
Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng:
- Vâng, tôi sẽ xóa chúng…
Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia:
- Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17.
- Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi.
- Vâng… Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng.
- Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời…
Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung:
- Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn… Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng…
- Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người.
Luân cũng cười mỉm.
Nolting gương mắt ngó Luân:
- Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự… Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy?
Luân gật đầu.
- Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy… Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng?
- Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân.
Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông… Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king (5) thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t’aidera (6)… Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!… Hừ… - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào… Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do “đồng bào” của trng tá thực hiện… Không có “đồng bào”. Chỉ có các ông và Cộng sản…
Nolting vụt hỏi Vũ Liệu:
- Tôi nói đúng không, ông tỉnh trưởng?
Vũ Liệu hấp tấp:
- Yes, yes… All right (7)
Nolting quay sang đại tá Lâm:
- Tôi nói đúng không, đại tá?
Đại tá Lâm nhếch mép:
- Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được!
Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên.
Bỗng, ông ta kêu to:
- Cái gì kia? Các ông xem…
Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay.
- Người ta đang làm mùa… - Vũ Liệu trả lời.
Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước.
Nolting chỉnh ống dòm:
- Không phải làm mùa… Một cuộc tập trận. Đúng… Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào!
Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay.
- Nó tập trận, đúng không?
Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu.
- Một cuộc tập trận của Việt Cộng!
Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn.
- Gọi máy bay oanh tạc!
Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc.
Luân bình thản, bảo:
- Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ…
Nolting lại cầm ống dòm:
- Có lẽ trung tá nói đúng… Thiếu tá tỉnh trưởng thấy thế nào?
Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn:
- Thưa, đúng là nông dân làm mùa!
- Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy:
- Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa…
Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng.
- Có nên ra lệnh cho máy bay… - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting.
Nolting ngần ngừ một lúc:
- Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui…
*
Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết “bữa ăn gia đình” này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.
Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì.
Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta.
Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã.
- Tôi muốn ngủ với bà tỉnh trưởng, được không?
- Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi.
- Sao bậy? - Tony nheo mắt.
- Chị tôi đấy!
- Chị thì chị… Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô… - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô… Bằng lòng chứ?
Tony đặt tay lên cổ cô gái.
- Năm dollar. Được không?
Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng.
Thomas, ngồi đối diện, la ầm:
- Sao đắt thế? Ba dollar… Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp!
Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc.
Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái “phần riêng” của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu.
Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm.
- Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không?
Dĩ nhiên, Luân không biết.
- Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọ Việt chúa ăn cắp, kể cả tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó… Bọn chó đẻ!
Luân không bình luận gì thêm.
- Tôi đi nghỉ! - Luân bảo.
- Tôi cũng vậy…
Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn…
Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa.
Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao…
---
(1) Nolting chơi chữ. “General” vừa có nghĩa là “đại tướng” vừa có nghĩa là “tướng quân”. Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao.
(2) Gọi thân mật Eisenhower.
(3) Chào bà
(4) Chào mừng Ngài Nolting.
(5) Chúa phù hộ đức vua.
(6) Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh.
(7) Vâng, vâng, chí lý!



Phần 6 - Chương 6


“Tên Thái thú thời nay đây rồi!” Chuyến thị sát vùng Cà Mau đã cho Luân cái ấn tượng khá sâu đậm về Nolting và bọn cùng đi. Giờ thì chúng trút bỏ cái vỏ đại đức khoác kỹ 6, 7 năm nay. Mục đích xa, mục đích gần, mục đích của chính phủ Mỹ và mục đích riêng của từng tên Mỹ đến Việt Nam phơi bày không cần cả một tế nhị nhỏ. Tất nhiên không mấy ai chứng kiến tận mắt, song qua cái mặt thỏa mãn của Nolting vào trưa hôm sau - gã dậy rất trễ - mọi người dễ dàng đoán cái gì xảy ra đêm hôm qua giữa gã và mụ vợ Vũ Liệu. Không chỉ có Nolting. Cả nhóm Mỹ tùy tùng, trong các ngôi nhà lắp ghép…
- Thấy thằng Liệu, tôi muốn “phơ” vô bản mặt nó một băng!
Đại tá Lâm hầm hừ. Anh ta thậm chí không thèm bắt tay Trúc Đào: Con đĩ ngựa này thế nào cũng bị con mẹ Lệ Xuân lấy thẹo!
*
Sự thể biến đổi khá nhanh từ sau thông báo Johnson - Diệm và khi Staley bắt đầu nhẩm tính các con số với Vũ Quốc Thúc: con số của Staley quy thành dollar, còn con số của Thúc quy thành nhân mạng… Vũ Liệu, lù khù về hình thức, lại rất nhạy về hướng gió. Chính cái phát hiện của Lâm giúp Luân hoàn chỉnh thêm bảng phân tích tình hình: Vũ Liệu thuộc đảng Đại Việt, tuy chưa rõ Đại Việt nào. Cái pha phục thù rùng rợn bắt đầu rồi đó. Sáu năm trước, Diệm thanh toán đẫm máu Đại Việt ở Ba Lòng, những tên nuôi mộng là vương làm tướng này tạm thời chịu lép bề ngoài, ngầm bành trướng thế lực - Luân hiểu “bành trướng thế lực” bao gồm luôn tạo mối quan quan hệ với CIA. Hình như các nhóm Đại Việt Trương Tử Anh, Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn đã thoả thuận thống nhất hành động qua tổ chức “Phòng trào quốc gia cấp tiến” do Nguyễn Ngọc Huy đứng tên - Huy là nhân viên CIA, học hành đúng “bài bản”. Chúng lôi kéo thêm cánh Quốc dân đảng miền Nam của Nguyễn Hòa Hiệp - một phần tử lưu manh từng chỉ huy đệ tam sư đoàn đầy tội ác trong năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau lưng Đại Việt là nhà sư di cư Thích Tâm Châu nhiều tham vọng trần thế. Trận đồ coi như lần lần hình thành. Nguyễn Chánh Thi, lãnh tụ Đại Việt, nổ súng cuối năm ngoái. Mỹ chưa muốn đi quá xa trong thái độ đối với Diệm song vẫn hết lòng che chở cho đảng này trước các cuộc truy tầm gắt gao của Diệm.
Vậy thì, chuyến thị sát Cà Mau không thể hiểu như chuyến công cán bình thường của Nolting và Vũ Liệu dâng vợ cho Nolting cũng không thể hiểu như chỉ vì y ta muốn thăng quan tiến chức.
Điều mà Luân đang chắp nối từ nhiều hiện tượng riêng lẻ, được Nolting làm sáng tỏ tại Cần Thơ. Trước các sĩ quan và viên chức Mỹ - Việt vùng sông Bassac tập trung đón tiễn Nolting - đại sứ dạo thăm thành phố một vòng - Nolting nói, rất trân trọng: “Chính phủ Mỹ, thiết tha với sứ mệnh bảo toàn độc lập và tự do của Việt Nam Cộng hòa, ngày càng xác tín rằng đất nước này đủ khả năng phối hợp hơn với chúng tôi trong sự nghiệp cao cả đó. Nhân tài Việt Nam Cộng hòa đấy dãy. Tỉ như qua chuyến công tác ở mũi Cà Mau, tôi làm quen với ông thiếu tá tỉnh trưởng Vũ Liệu, một con người xuất sắc trong nghề cai trị cũng như nghề chỉ huy quân sự. Vấn đề là, thưa các ông, cách sử dụng các nhân tài đó. Mọi thiên kiến về tôn giáo, về sự khác biệt chính trị sẽ gây tổn thất cho cuộc kháng chiến chống Cộng”
Đại tá Trần Thiện Khiêm - đứng đầu hàng - chập gót chân khi Nolting dứt lời. Thật ra, vị chỉ huy khu vực có một động tác không đúng lúc - chẳng sĩ quan nào làm như đại tá - song có thể lời hứa hẹn bóng gió kia của Nolting kích thích anh ta đến nỗi không còn tự chủ được.
Luân chợt nhớ viên sĩ quan cấp úy Nguyễn Cao Kỳ cố ngoi lên trước Nolting, ngay chân cầu thang trực thăng tại Tân Sơn Nhứt, mà cái gạt khinh miệt của Tony Forting không thể kéo hắn ta trở về thực tại…
Chẳng rõ Vũ Liệu có thông báo cho Trần Thiện Khiêm hay không mà phòng khách sân bay Trà Nóc chìm trong mà da thịt các cô gái, dù Nolting chỉ dừng chân ngắn ngủi.
Thế là đã rõ!
Luân báo cáo khá tỉ mỉ các hiện tượng trong chuyến đi của Nolting cho Nhu, tất nhiên không nói gì đến đại tá Lâm và cũng tất nhiên không bình luận. Lệ Xuân chăm chú nghe.
- An Nam đô hộ phủ? - Nhu làu bàu, đẩy về phía Luân tờ trình của Bộ tổng tham mưu. Theo tờ trình, người Mỹ yêu cầu thăng Vũ Liệu từ thiếu tá lên trung tá và giao ông ta chỉ huy thiết giáp.
- Được! Tôi đồng ý… - Nhu bảo - Tôi muốn thằng Đại Việt nhóc con này ở cạnh tôi…
Luân không thể bắt gặp cặp môi chợt cong của Lệ Xuân, kèm theo cái nhếch mép khó hiểu.
*
Luân về nhà, chưa thay quần áo thì James Casey đến. Gã được thăng trung tá sau các vụ biệt kích ở Bến Tre. Với vẻ mặt rầu rầu, James Casey thông báo một tin nghẹt thở: huấn luyện viên biệt kích Vũ Huy Lục đào ngũ.
James Casey đưa cho Luân tờ trình của thiếu tá trại trưởng, một Anthony Lambroisky nào đó. Cố nén xúc động, Luân đọc. Theo tờ trình, huấn luyện viên chuẩn úy Vũ Huy Lục phục trách môn nhảy dù và đổ bộ đường không thám báo thường ngày vẫn đến lớp - trường biệt kích đặt ở gần Hải học viện Nha Trang - sáng ngày kia, 3-7, bỗng không đến lớp. Ngưòi ta đi tìm, không gặp Vũ Huy Lục ở các nơi anh ta lui tới. Lục sống độc thân trong ngôi nhà dành cho huấn luyện viên. Phòng Lục còn nguyên đồ đạc. Nhiều giả thuyết được nêu lên: Lục chết đuối - giả thuyết này không vững vì Lục bơi rất giỏi, lại ít khi bơi xa và biển trong những ngày này êm. Lục bị Việt Cộng bắt cóc - cũng không có cơ sở vì Lục chỉ quanh quẩn trong thành phố. Lục đi chơi - cũng thế, Lục là một quân nhân rất kỷ luật. Thế là đến giả thuyết sau cùng: Lục đào ngũ. Thiếu tá trại trưởng lưu ý thêm một chi tiết: Ngày 1-7, đội người nhái đầu tiên của Hải quân Việt Nam trình diện tại Nha Trang, liệu rằng hai sự việc này có quan hệ với nhau không?
Tuy đầu óc rối bời, Luân vẫn theo dõi James Casey. Cái gì đây? Tình báo Mỹ đã phát hiện Lục? Và như thế có nghĩa là “bản tango số 3” lộ tẩy.
James Casey không thay đổi sắc mặt mà hắn mang đến lúc đầu - rầu rầu. Có t thể là một màn kịch… Luân mau chóng rút ra giả định: James Casey và tình báo Mỹ nghi ngờ Vũ Huy Lục, bắt anh, sau một lúc điều tra, thủ tiêu anh. Cũng còn giả định khác: Chúng đang giam giữ Lục và trọng tâm mà chúng quyết cạy răng Lục là thân phận Luân… Bất kể như thế nào, sự thể rất nguy hiểm.
Luân trả tờ trình cho James Casey, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu… Anh rơm rớm nước mắt. Luân vốn rất thương Lục. Trong trường hợp này, anh chọn phương pháp không giấu giếm tình cảm đó.
- Như vậy nghĩa là thế nào? - Luân hỏi, nghẹn ngào.
- Mất tích… - James Casey đổi nội dung của tờ trình - Tôi thích dùng chữ mất tích hơn đào ngũ. Không có một chứng cớ nào để buộc chuẩn úy Lục vào cái tội xấu xa như vậy. Tại sao không là mất tích? Mất tích rộng nghĩa lắm. Một tai nạn, một sự cố mà chuẩn úy là người phải gánh chịu… Kể cả bị bắt cóc. Ai bắt cóc? Chắc không ít kẻ thèm biết về bên trong trại biệt kích. Nha Trang không còn chỉ là bãi biển danh cho du khách. Cộng sản xuất hiện vùng trung du khá thường… Trước khi có chứng cớ, không ai có quyền tuyên án chuẩn úy Lục. Tôi biết trung tá xúc động. Tôi cũng xúc động. Ta hãy cầu Chúa cho chuẩn úy…
James Casey đẩy các quân của hắn trên bàn cờ về phía trận địa Luân? Luân suy tính. Anh từ từ ngước mắt lên và James Casey thấy trong mắt Luân loé một tia vụt sáng.
- Trong tờ trình, trại trưởng có nhắc đến lễ trình diện người nhái… - Luân rắn rỏi trở lại.
- Tôi không tin… Trại trưởng giàu tưởng tượng thế thôi - James Casey xua tay.
- Biết đâu. Cả trung tá và tôi, chúng ta không gần Lục. Hơn nữa, thời gian Lục hoạt động ở Bắc Việt cũng khá lâu… Biết đâu… - Luân rấn tới.
- Tôi không tin chừng nào người ta chưa chìa cho tôi bằng chứng… Còn thời gian Lục ở Bắc Việt, tôi đảm bảo với trung tá. Nhiều “vọng gác” kiểm tra anh ta, các “vọng gác” đều nhận xét ăn khớp: một con người hoàn hảo…
- Tại sao các ông gọi anh ta về Nam?
- Theo một “vọng gác”, Lục ở lâu không lợi, dù anh an toàn tuyệt đối khi chạm đất. Không bị phát hiện, anh vào khu nhà thờ và được che chở. Song, người cha cố nhà thờ sau này có vẻ dao động. Vả lại, những điều ta cần, Lục đã cung cấp đủ… - James Casey trình bày gần như thanh minh.
- Dù sao, tôi nghĩ cũng nên đề nghị trại trưởng lý giải nghi vấn của ông ta. Có thể ông ta có tài liệu…
- Tôi đã làm việc đó. Tôi điện thoại mật cho ông ta. Như tôi đoán, ông ta thích tưởng tượng, thích làm ra vẻ ta đây là con người biết xâu các dữ kiện. Tôi hỏi: Nếu cho rằng Vũ Huy Lục đào ngũ thì anh ta đào ngũ bằng cách nào, theo hướng nào? Trại trưởng im lặng mà tôi biết ở đầu máy kia, ông ta so vai nữa. Đám người nhái là cái gì buộc Lục phải đào ngũ, giả dụ Lục là tình báo của Việt Cộng? Trường biệt kích không đủ cái cần phải báo với Việt Cộng hay sao? Và, đã thế, tội gì Lục phải đào ngũ? Vừa làm huấn luyện viên vừa gửi tin tức cho Việt Cộng, không tốt hơn sao?
James Casey hùng biện, y như hắn tự bào chữa.
- Tôi sẽ đứng về quan điểm của trung tá chừng nào trung tá chứng minh được Lục vắng mặt vì một lý do không phải là đào ngũ… - Luân nói từng tiếng.
- Tất nhiên tôi sẽ chứng minh… Tôi nghĩ đến một thế lực nào đó hoặc nhắm vào tôi, hoặc nhắm vào trung tá mà bắt cóc hoặc ám hại chuẩn úy Lục.
James Casey đứng lên.
- Tôi khác hẳn trung tá. - Luân cũng đứng lên - Tôi thấy rất ít khả năng theo hướng đó… Lục tách chúng ta quá lâu, chẳng giúp gì cho các người không thích chúng ta - tôi cứ cho quả có ai đó không thích tôi đến mức bắt cóc hay ám hại người liên quan với tôi.
James Casey lắc đầu:
- Ông quên bà kỹ sư từng bị bắt cóc ở Bình Dương. Tiện thể, tôi đề nghị trung tá dặn người thân lưu ý…
Luân tiễn James Casey ra cổng. Mấy phút sau, Dung về. Nghe tiếng đóng cửa xe và bước vội của Dung, Luân đoán có việc gì khẩn cấp đây.
Đúng, Dung mất bình tĩnh, kéo Luân xuống ghế, thì thào:
- Cô, chú em bị bắt rồi!
- Ai bắt?
- Không rõ… Em đi làm về ghé tạt qua nhà cô, chú như thường lệ. Bà giúp việc thấy em, khóc oà. Theo bà, trước đó độ mười lăm phút, một xe đỗ trước nhà. Chú vừa từ phòng mạch về, đón khách. Tất cả bốn người. Họ bảo gọi cô. Bà giúp việc nép phía sau nhà thấy họ đọc một tờ giấy - đọc cái gì, bà giúp việc không nghe được - xong thì cô dặn bà coi chừng nhà, rồi theo bốn người ra xe. Mặt cô tái xanh. Chú có vẻ tỉnh táo hơn… Xe sắp chạy, một trong bốn người trở vào dọa bà giúp việc: Đừng gọi điện thoại cho anh hay cho cho em.
“Một cuộc tổng nổ súng?”, Luân trầm ngâm.
Chuông ngoài cổng réo. Thạch mở cổng.
Thằng cháu kêu Luân bằng chú ruột như cơn gió, ùa vào phòng:
- Ba bị bắt rồi, chú Bảy ơi!
- Ai bắt?
Sự việc giống hệt nhà cô, chú Dung.
- Đúng là tổng nổ súng… - Luân lập lại ý nghĩ bằng lời.
- Ai nổ súng? - Dung hỏi.
- Cháu về nhà… Không sao đâu. Chú sẽ lo vụ này. - Luân không trả lời Dung, dặn đứa cháu…
- Ta dùng phương pháp éliminatoire (1). Theo anh, James Casey không nhúng tay vào. Cuộc nói chuyện vừa rồi với hắn cho phép anh tạm kết luận như vậy.
- Anh vừa nói chuyện với James Casey?
- À, anh quên là em chưa biết tin Vũ Huy Lục mất tích.
- Sao? - Dung hốt hoảng.
- Em hãy nghe… - Luân thuật vắn tắt tờ trình của trại trưởng biệt kích và cách lập luận của James Casey.
- Em thấy James Casey có lý…
- Cứ hẳn cho như vậy. Trần Kim Tuyến? Không có cơ sở… Nha Tổng giám đốc công an? Càng ít cơ sở hơn. Đại Việt? Có thể… Song để làm gì? Công dân vụ? Trần Vĩnh Đắt, Hoàng Đình Duyệt “hưu chiến” với chúng ta từ lâu… Các đội biệt động thành? Không hành động kiểu đó.
- Đến đây, thủ phạm đã lộ mặt: Mai Hữu Xuân! - Dung nói to và hỏi luôn: - Nhưng để làm gì?
- Rồi ta sẽ hiểu…
- Liệu tính mạng của những người bị bắt… - Dung hỏi dồn.
- Theo anh, không nguy hiểm lắm. Mục đích rõ ràng là nhắm vào chúng ta…
- Phải làm gì?
- Anh còn chờ tin Lê Ngân. Đã thế này, họ đụng đến tất cả. Cả vợ Thạch ở chợ Gạo, cả Thạch… Gọi Thạch cho anh.
Thạch không cung cấp cho Luân một hiện tượng gì đặc biệt. Cậu ta lại không biết tin của vợ con… Chị Sáu nấu bếp cũng vậy. Có thể vì những người này ở cạnh vợ chồng Luân mà họ chưa ra tay…
- Chú thử nhớ xem… Giả tỷ như người nào hỏi thăm nhà vợ chú… - Luân gợi ý Thạch.
- Cũng có! - Thạch trả lời - Mà em thấy chuyện thường… Ông Ly Kai, hôm trung tá đi Cà Mau về, gặp em ở sân ngoài dinh Độc Lập, mời em đi uống rượu. Em từ chối. Ổng mới lân la hỏi về vợ con em…
Mắt Luân rạng rỡ. Anh bắt được đường dây và do đó, hiểu thêm ý nghĩa của vụ “tổng nổ súng” này. Theo Thạch, Ly Kai hỏi khá kỹ tên xóm ấp quê Thạch. Thạch vui miệng nói hết.
- Có sao không? - Thạch lo lắng.
- Về phần vợ con chú thì chắc chắn là vô sự, bởi chú đã khoe nhà chú ở sâu trong ruộng, Việt Cộng hay tới tui… Công an, mật vụ hay an ninh quân đội đâu dám mò xuống… Cái bậy là chú không hẹn đi nhậu với Ly Kai. - Luân tiếc rẻ.
- Em đẩy đưa, nói là để coi bữa nào trung tá không đi đâu, em sẽ báo cho ông ta. Nếu trung tá cần, em hẹn liền… Ông ta có cho em số điện thoại.
- Vậy, chú gọi Ly Kai liền bây giờ… Chú nói là tôi và cô Dung từ chiều ở trong dinh, sẽ ăn cơm với ông cố vấn, nên chú rảnh vài giờ. Chú gọi ông ta từ trạm gác của dinh.
Luân theo dõi lom lom cuộc điện đàm giữa Thạch và Ly Kai. Ly Kai sẽ lái xe đón Thạch, độ hai mươi phút nữa, hẹn Thạch cổng đường Gia Long.
- Chú mang vũ khí theo. Sẽ có người của tôi bám sát. Nhớ đừng uống nhiều bia. Chú đi ngay đi.
Thạch vừa khuất, Luân gọi điện cho Bộ chỉ huy Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống. Đại tá chỉ huy trưởng vắng, một thiếu tá trực ban nhận điện.
*
Thạch ngỡ Ly Kai chở anh vào Chợ Lớn, nhưng không, Ly Kai đưa Thạch lại khách sạn Vị Lai, đường Lê Lợi. Họ theo thang máy lên tầng bốn ở đó, có một phòng riêng dành sẵn. Chỉ có Ly Kai, Thạch và chiếc bàn tròn cũng chỉ có hai ghế. Thạch phán đoán liền: ghế mà Ly Kai mời Thạch ngồi kê sát tấm vách ngăn đánh verni bóng. Có thể tấm vách chính là cánh cửa. Mọi sự sẽ từ tấm vách này mà ra! Ai biết được cái gì đằng sau tấm vách?
Ly Kai mời Thạch gọi món ăn. Anh cười:
- Tùy xếnh xáng, món nào xếnh xáng ưa thì tôi ưa.
Món ăn bày một lúc, cùng nhiều loại rượu. Ly Kai cho người hầu bàn ra ngoài và dặn chỉ được vào khi hắn bấm chuông.
Qua tuần khai vị, cửa phòng xịch mở. Ly Kai sa sầm mặt, toan quát. Nhưng người mở cửa phòng không phải là hầu bàn - hai hoặc ba ông khách lầm phòng, xin lỗi Ly Kai. Thạch hiểu ngay người của an ninh Phủ tổng thống, anh vững bụng.
Ly Kai chạm cốc liên tiếp. Gì chớ món rượu mạnh thì Thạch không chạy - đế vùng Chợ Gạo khá nổi tiếng. Chưa được một giờ, chai Martell đã cạn. Ly Kai khui tiếp chai Remy Martin. Thấy cần kết thúc, uống thêm vài ly. Thạch giả bộ say. Anh bắt đầu nói nhừa nhựa, líu lưỡi, mắt nhắm mắt mở.
- Làm một cái nữa! - Ly Kai rót đầy ly. Ý chừng hắn muốn đánh đòn quyết định cho Thạch gục.
Thạch run rẩy nhận ly, rượu sánh ra ngoài một ít. Anh uống cạn và sau đó, úp sấp cả người lên bàn - anh cố ý né cái lưng chếch với tấm vách - ôm đầu. Ky Kai khóa trái cửa, xong vỗ nhẹ vào tấm vách. Tấm vách đỏ au màu verni bỗng tách làm hai. Thạch hé mắt nhìn: bên trong là một phòng, lỗ nhố bóng mấy người.
- Lôi nó vô, giã rượu cho nó, rồi “tẩm quất” nó một trận. Nhớ, nó có súng…
Theo lịnh của Ly Kai, hai người bước ra toan xốc nách Thạch, đồng thời mò súng trong lưng Thạch. Một cú đánh cùi chỏ, hai tiếng “hự” nổi lên cùng lúc, Thạch hất đổ chiếc bàn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn, Ly Kai chưa kịp phản ứng thì cửa phòng bị đá tung, nhóm an ninh Phủ tổng thống ùa vào. Tấm vách chưa kịp khép lại.
- Tất cả đưa tay lên… Ai kháng cự sẽ bị bắn. - Thạch hô dõng dạc.
Anh định bụng Ly Kai sẽ hoặc bỏ chạy hoặc sợ hãi. Trái lại, mặt hắn lạnh như tiền. Hắn khoanh tay, ngó nhóm an ninh Phủ tổng thống:
- Ai cho phép mấy người lộn xộn? Muốn chết hả?
Thạch và nhóm an ninh ngơ ngác.
- Coi cái này thì biết! - Ly Kai đưa một tờ giấy đánh máy cho viên trưởng nhóm.
Liếc qua, viên trưởng nhóm trả tờ giấy cho Ly Kai - trả bằng hai tay rất mực kính cẩn.
Thạch biết tình thế xấu rồi. Anh quyết định sẽ bắn Ly Kai trước tiên.
Ly Kai quay lại Thạch:
- Tụi nó làm hư công chuyện của tao… Thôi, không cần bắt mày nữa. Về đi! Tiểu na má…
Thật lạ lùng, Thạch bước ra cửa, vẫn đề phòng bị bắn hay đánh lén. Không có gì cả. Anh đã kịp nhìn căn phòng sau tấm vách - hình như là một phòng tra tấn còn lưu cả dấu máu trên tường…
*
Thạch đi một lúc, Luân vào dinh Độc Lập, xin nói chuyển khẩn với Nhu. Luân đinh ninh Nhu không hay biết việc này. Trái lại, Nhu biết tất cả.
- Thiếu tướng Mai Hữu Xuân xin phép tôi! - Nhu trả lời Luân, thản nhiên.
- Tôi không hiểu… Tại sao? - Luân hơi lúng túng trước tình huống quá bất ngờ.
- Anh đợi tôi vài phút. - Nhu quay máy điện thoại.
Luân đặt tay lên bụng - khẩu Walter lúc nào đạn cũng trên nòng. Hạ một Ngô Đình Nhu thì uổng quá!
- Tôi, Nhu đây, muốn nói chuyện với thiếu tướng Mai Hữu Xuân. - Nhu nói vào máy.
Tiếng trả lời vọng rõ.
- Xin nghe ông Cố vấn.
- Vụ F1 kết quả ra sao?
- Négatef (2).
- Vậy đó…
- Họ chẳng biết tí gì… Chúng tôi reflar (3) sai…
- Ông thiếu tướng còn có thể nói một cách bàng quan được thì lạ thật. - Nhu bỗng đổi giọng.
- Ở Đà Lạt, tên Lê Ngân kháng cự… Một lô sĩ quan hùa theo nó. Có đổ máu…
- Lỗi của ai? Chẳng lẽ là lỗi ở học sinh sĩ quan… Tôi đoán trước ông thất bại. Nếu học sinh sĩ quan mà có người chết thì ông phải ra tòa án binh!
- Không ai chết… Hai an ninh quân đội bị thương…
- Bây giờ, việc của ông là: một, trả các người của ông bắt về nhà. Trả an toàn. Hai, ông xin lỗi trung tá và bà trung tá Nguyễn Thành Luân. Ông xin lỗi, còn tha lỗi hay không thuộc quyền trung tá. Ông Cụ với Đức giám mục biết được thì nguy cho ông.
- Xin cho tôi điều tra số người đó hết đêm nay…
- Điều tra gì mà điều tra? Thả ngay! Người cần phải điều tra là ông, ông thiếu tướng.
Luân nói chen vào:
- Họ đang bắt cận vệ của tôi.
- Hình như trung tá Luân đang có mặt chỗ ông Cố vấn? - Mai Hữu Xuân hỏi.
- Đúng… Trung tá hỏi về người cận vệ của trung tá Luân? Ai cho phép ông…
Luân thấy không cần đặt tay lên khẩu Walter nữa. Nếu như cuộc đối thoại giữa Nhu và Xuân là màn kịch thì họ còn ở giai đoạn đối chứng bằng cớ.
Đầu dây bên kia, Mai Hữu Xuân ấp úng mãi.
- Ly Kai mời người cận vệ của tôi đi uống rượu…
Luân thấy rằng anh có thể qua cuộc đối thoại mà nắm thực chất của vấn đề.
- Tại sao có Ly Kai vào đây? - Nhu rít - Ông không hề báo với tôi ông sử dụng Ly Kai…
- Người lái xe cũ của tôi, Vũ Huy Lục, đang làm huấn luyện viên trường biệt kích Nha Trang cũng bị bắt cóc…
- Hả? Anh nói cái gì? - Nhu quay sang Luân, rõ ràng anh ta không ngờ chuyện đó.
Luân lặp lại.
- Quá lắm… - Nhu gằn giọng.
Đầu dây kia, Mai Hữu Xuân cũng thảng thốt:
- Không! Tôi không hề ra lệnh bắt cóc ở Nha Trang… Còn người cận vệ thì…
- Tôi không có thì giờ! - Nhu cắt ngang - Ông thả ngay người cận vệ của trung tá, ông phải tìm cho ra Vũ Huy Lục. Ông nghe rõ chưa?
Nhu gác máy, mặt hằm hằm.
- Anh ngồi xuống. Tôi phải nói rõ, kẻo bản hợp đồng giữa tôi và anh rách mất…
Luân bình tĩnh ngồi xuống, mặt hết sức lạnh lùng.
- Thế này nhé. Mai Hữu Xuân báo với tôi rằng ông ta nắm đủ tài liệu về anh - về hoạt động của anh ở Kiến Hòa. Theo ông ta, anh thi hành chỉ thị của Trung ương Cục nhằm gây rối nội bộ Quốc gia, yểm trợ cho Cộng sản. Tất nhiên, tôi không tin vì các tài liệu ông ta trưng ra toàn dựa theo suy luận, chấp nối các sự kiện mà hầu hết các sự kiện đó tôi đều biết. Ông ta quả quyết rằng các người sau đây được anh tổ chức hoặc tí nhiều biết công việc của anh. À, ông ta gán luôn cô Thùy Dung vào nhóm tình báo Việt Cộng. Các người đó là bà Sáu nấu bếp, vợ chồng bác sĩ gì tôi quên tên, ở đường Trần Bình Trọng, là cô và dượng cô Dung, vợ Thạch, thiếu úy Lê Ngân, người anh ruột của anh… Có thể tôi còn sót, song đại khái là như vậy. Ông ta đề nghị cho ông ta thẩm vấn và hứa rằng vài tiếng đồng hồ là xong. Ông ta kỳ kèo tôi ký lệnh vì về nguyên tắc ông ta không có quyền. Tôi đồng ý.
Nhu mỉm cười, mời thuốc Luân.
- Anh đừng nổi nóng. Tôi đồng ý bởi vì tôi tin rằng ông Xuân chẳng chứng minh được cái gì cả. Với lão này, không để lão lọt xuống hố thì khó kềm chế lắm… Anh thấy rồi, lão lọt xuống hố…
Điện thoại reo, Nhu nhấc máy và sau đó, trao cho Luân:
- Cô Dung gọi anh.
Dung báo với Luân nội vụ của Thạch, sau khi Thạch về nhà.
- Hóa ra anh cũng muốn xô lão Xuân xuống hố! - Nhu cười thoải mái, khi nghe Luân thuật cảnh ngộ của Thạch ở khách sạn Vị Lai.
- Lão này táo tợn thật, dám thiết lập cả một cơ quan điều tra trong quán ăn! - Nhu hầm hừ - Tôi sẽ ra lệnh hủy bỏ chỗ đó ngay lập tức!
- Bây giờ thì tôi hiểu anh, - Luân dịu giọng - Song, những quyết định của anh tựa dao hai lưỡi. Với tôi, không có gì đáng ngại, chỉ hơi phiền một chút thôi. Còn với người khác? Mai Hữu Xuân rất dễ lợi dụng danh nghĩa anh. Trong việc này, có một cái gì rất nghiêm trọng mà tôi tha thiết mong anh lưu ý: sự cấu kết giữa Xuân và Ly Kai. Hoặc, tôi có thể nói chính xác hơn cảm nghĩ của tôi: Ly Kai giật dây Mai Hữu Xuân.
Nhu bật cười:
- Anh quá lo xa. Thằng Ba Tàu chủ sòng bạc Đại Thế Giới mà giật dây nổi tay mật thám đầu có sạn là Mai Hữu Xuân? Không đời nào…
Luân vẫn một mực nghiêm túc:
- Anh đừng cười! Ly Kai - nếu cá nhân hắn ta - chẳng có gì phải nói. Nhưng, ai dám cam đoan là Ly Kai đơn độc? Hắn làm mật vụ cho anh, phải đâu vì lý tưởng? Hắn mà có lý tưởng! Vì tiền, liệu anh trả cho hắn cao hơn mọi tổ chức tình báo khác không? Đài Loan. Tại sao Đài Loan không dùng hắn? CIA. Điều này thì quá rõ rồi. Vụ Bình Dương năm kia, hắn bao che cho Bá Thượng Đài bề ngoài mua sắt phế thải, bề trong tiếp tế cho bọn Phạm Văn Bời, Trung Cộng… Đây mới là tai họa. Tôi biết đại diện của Trung Cộng tại Chợ Lớn, tên Lâm Sử. Phức tạp lắm. Nhưng phức tạp hơn mọi phức tạp là - tôi suy luận thôi - các đầu mối ấy thống nhất qua một gã tên Dương Tái Hưng. Dương Tái Hưng là gì, tôi chưa nắm chắc, song có vẻ một tên điều phối các hoạt động tình báo quốc tế ở đây… Mai Hữu Xuân mà dính với Ly Kai thì có nghĩa Phòng nhì Pháp cũng dự vào trò chơi quy mô này… Anh còn nhớ Ymơ Eban, Kossem…
Nhu thừ người.
- Ta khử quách Ly Kai! - Nhu mím môi.
- Chớ… - Luân hấp tấp - Ta dùng Ly Kai làm kẻ dẫn đường, tốt hơn… Tôi nhắc anh lần nữa: Mai Hữu Xuân. Đó mới là kẻ mà anh cần để mắt. Tiếc là bác sĩ Trần Kim Tuyến thua Mai Hữu Xuân đến mấy cái đầu!
Luân ra về. Chỉ là một cú của Mai Hữu Xuân? Sự thật như Nhu nói hay từ sáng kiến của Nhu? Nhu thực hiện một bước làm lành với Pháp qua Mai Hữu Xuân? Nhu ngại Luân quá gần gũi với Mỹ? Khả năng sáng kiến của Mai Hữu Xuân có vẻ hợp lý hơn. Nhu từng muốn mình làm đầu cầu quan hệ với “phía bên kia” mà! Cũng không hẳn. Biết đâu chính vì muốn kiểm tra xem mình còn giữ quan hệ với “phía bên kia” hay không mà Nhu bày trò này… Do Mai Hữu Xuân khởi xướng - như Nhu cho biết - thì là chuyện hiểu được, nhưng hắn hành động ăn khớp với cái gì, cái gì trực tiếp nhất thúc giục hắn phải hấp tấp…
Luân nhớ lại thái độ của Nhu. Anh ta dường như chờ mình tới và có sẵn cách lý giải…
Vũ Huy Lục? Còn hay mất? Có đúng là Nhu và Xuân không dính vụ Lục không? Một vụ riêng lẻ, ngẫu nhiên mà trùng hợp của vụ kia thôi? Hay là một “con tin” mà kẻ thù coi như chủ bài bắt anh phải quy hàng? Trong tất cả các người được Mai Hữu Xuân chú ý, chỉ có Quyến, Lục là hiểu biết công việc thật của anh. Quyến thì anh không ngại. Một đảng viên. Lục dù sao cũng còn mới… Nhưng Luân gạt liền ý nghĩ chưa trọn tin Lục! Không, Lục chết thì chết, không đời nào…
Xe về đến nhà, Luân quyết định mời tất cả những người bị bắt cóc đến.
Anh điện thoại báo cho Nhu biết quyết định của anh và đề nghị Nhu cho bác sĩ Tuyến cùng dự cuộc gặp gỡ đó với anh.
Nhu đồng ý ngay.
---
(1) Phương pháp loại trừ.
(2) Tiêu cực.
(3) Bố ráp, bắt gom.



Phần 6 - Chương 7


Nhưng, Luân chưa bắt đầu cuộc họp mặt các nạn nhân thì Nhu đã gọi Luân vào dinh Độc Lập.
- Anh cứ để việc đó cho bác sĩ Tuyến lo, có cô Dung thay anh. Tôi cần gặp anh gấp…
Luân lại lên xe. Chuyện gì? Hay là Nhu không muốn các vụ bắt cóc phơi bày trần trụi mọi khía cạnh mà chính anh ta không còn chổ núp? Một cú đánh lén và bây giờ, anh ta sợ dấu vết? Luân tư lự mãi. Thạch thỉnh thoảng liếc Luân qua kính chiếu hậu - vụ khách sạn Vị Lai thật kinh khủng với Thạch. Tại sao những người Quốc gia cư xử với nhau đến mức ấy? Tại sao ông Nhu ký giấy phép cho Ly Kai bắt anh? Nếu anh lọt vào tay chúng, chí ít cũng một trận đòn mềm xương. Tất nhiên, chúng bắt anh vì trung tá. Mà trung tá với ông Nhu rất thân kia mà! Tại sao? Trung tá vừa thoát chết ở Kiến Hòa - do Việt Cộng chủ mưu - bây giờ lại bị Quốc gia rình rập. Kỳ cục thấy bà…
Nhu đón Luân, không được vui. Anh ta đẩy cặp hồ sơ dày cộm cho Luân.
- Anh đọc đi…
“Bằng chứng…” - Luân nghĩ về mình và như một phản xạ, đặt tay lên bụng. Anh lật cặp hồ sơ. Và anh thở phào - cố nén không để Nhu nghe.
Té ra Lê Thiệu và Hoàng Trọng, hai trí thức, gửi đơn cho Tổng nha thông tin xin xuất bản tờ nhật báo Anh ngữ, lấy tên Saigon Daily News (1). Đơn xin chỉ có một tờ giấy đánh máy, nhưng hồ sơ thì đủ thứ: ý kiến của Tổng nha thông tin, Tổng nha cảnh sát, Phòng nghiên cứu chính trị, Tổng ủy tình báo… kèm lý lịch của người đứng đơn - do các cơ quan an ninh sưu tra - cùng bản chụp các bài báo của hai người viết đăng rải rác trên báo Mỹ, phần lớn xoay quanh vấn đề chính trị và kinh tế quốc tế. Luân lật các bài báo - khá nhiều - thấy Nhu gạch bằng bút chì đỏ với các dấu hỏi đậm.
Lý lịch của Lê Thiệu và Hoàng Trọng cũng bị Nhu gạch đậm những đoạn liên quan đến cấp bằng của hai người - Michigan và Princeton.
- Tôi bảo ông Ngô Trọng Hiếu dứt khoát bác đơn này. Ta đã có tờ Sài Gòn Post, ở Sài Gòn mấy người đọc được tiếng Anh mà có tới hai tờ báo Anh ngữ? Một Sài Gòn Post, một Journal D’Extrême (2) là đủ. Không khéo, các tay thân Pháp so bì, đòi ra thêm tờ Pháp ngữ nữa.
Luân hiểu rằng Nhu chưa nói điều chủ yếu khiến anh ta nổi nóng. Và, nó đây:
- Tôi không chịu nổi lối xấc xược của mấy tên trí thức vừa về nước. Đơn xin ra báo mà phó bản gửi khắp thiên hạ: Đại sứ quán Mỹ, Phòng thông tin Mỹ! Chúng nó khong xin ra báo, chúng nó yêu sách… Tôi không cho, để xem chúng nó làm gì… Đồ… đồ cặn bã!
Câu chót, Nhu rít qua kẽ răng.
Bây giờ, Luân lấy lại bình tĩnh. Có thể các vụ bắt cóc xảy ra đúng như Nhu giải thích. Điều mà Nhu quan tâm lại là thêm một tờ báo tiếng Anh - với sự nhạy cảm, Nhu nhìn tờ báo như một quân cờ nữa Mỹ gí vào anh em Tổng thống. Thiệu và Trọng là ai. Luân chưa rõ song chắc tờ báo sẽ quấy rối chế độ ở mức nào đó.
- Anh nói hết chưa?… Anh nghe tôi…
Giọng Luân thong thả, chứng tỏ anh đã suy nghĩ kỹ, rất kỹ. Nhu hiểu như vậy.
- Anh nói đi…
- Có lẽ các sự kiện không êm ả tác động thần kinh anh. Theo tôi, sự khôn khéo hiện nay có giá trị hơn bao giờ hết. Tôi nhớ một lần đã nói với anh: tòa đại sứ Mỹ cao thêm một tầng, dinh Độc Lập thấp đi một tầng. Ta đang làm việc với nước Mỹ của Kennedy, giữa thời buổi kế hoạch Staley - chưa được Nhà Trắng ký, song đó chỉ là thủ tục - và nhất là sau sự cố 11-11, với không phải vài trăm cố vấn Mỹ mà cả vạn, với không phải một MAAG (3) mà là một MAC (4). Ngân sách Việt Nam Cộng hòa, anh nắm vững hơn tôi, tính bằng Mỹ kim. Khái niệm chủ khách bắt đầu phá với cách định nghĩa thông thường. Và, kéo vào nước ta cả ngạn ngữ: People give nothing for nothing! (5). Quân lực Việt Nam Cộng hòa vị tất giữ nguyên mãi lời thề trung thành khi mà các phần Việt Nam Cộng hòa trên họ thu hẹp đến mức chỉ còn cái thể xác. Áo, giày, thắt lưng, súng, mũ, bữa ăn, cách bò toài, điếu thuốc lá… Ngay ngôn ngữ vị tất còn thuần khiết. Ngay thể xác, người Mỹ trả lương… Anh thấy các bảng hiệu la liệt khắp Sài Gòn không? Trường dạy tiếng Anh mọc, chưa chắc nấm đã nhanh bằng!
- Tức là, theo anh, ta nên thuận cho ra một tờ báo Anh ngữ nữa, dù biết rằng tờ báo đó chẳng dành cho ta lấy một gramme cảm tình? - Nhu hỏi, giọng pha chế giễu…
- Đôi khi, chúng ta buộc phải gật đầu nhiều yêu sách tệ hại hơn gấp trăm, nghìn lần… - Luân kiên trì thuyết phục.
- Anh nói hơi nhiều về tài chính… Đúng, Mỹ nắm ngân sách của ta. Song, nếu chỉ riêng về tiền - tôi nói đô-la - tôi không ngại lắm…
- Anh không ngại? - Luân hơi lạ, mang máng về một quan điểm chính trị nào đó của Nhu, một đường lối “thắt lưng buộc bụng” chẳng hạn. Anh định cười.
Song Nhu đã bảo:
- Tôi có cách… Đến một lúc nào đó, anh sẽ hiểu. Còn bây giờ…
Nhu thở dài. Anh ta rút tờ báo hằng ngày, liếc qua tựa chạy dài tám cột: Đại đức Thích Nhật Thịnh, tiến sĩ thần học, thuyết trình ở Hội Việt Mỹ về vấn đề bình đẳng tôn giáo trong xã hội dân chủ.
Luân vừa theo dõi Nhu vừa nói tiếp:
- Khi Tổng thống Kennedy nhấn mạnh rằng quân nhân Mỹ ở Việt Nam có quyền nổ súng, tôi không cho đó là câu tuyên bố đơn thuần quân sự, đơn thuần xác lập thế đứng mới của quân nhân Mỹ trước đối phương. Và, điều này mới thật đáng lưu ý: hơn mười nghìn quân Mỹ chỉ vừa vặn một đội tiền trạm, nếu người Mỹ không định đùa với chiến tranh.
Nhu gạt cặp hồ sơ sang bên - dấu hiệu cho biết tờ Sài Gòn Daily News sẽ được phép xuất bản. Như tiện tay, Nhu mở tờ Sài Gòn Post, liếc qua.
- Công báo! Nhu chán nản - Khi có Sàigòn Daily News, tờ này phát không chưa chắc có người đọc…
Luân hiểu rõ nỗi lo lắng của Nhu. Công giáo sẽ mất dần vị trí độc tôn mà chế độ xây đắp từ bảy năm nay, cũng như Diệm nằm trong hàng tá nhân vật - Mỹ rộng đường chọn lựa…
- Anh Luân nè! - Nhu chồm sát Luân, hạ thấp giọng - Tôi có cảm giác là đã đến lúc chúng ta chọn interlocuteur (6).
- Với Nguyễn Tôn Hoàn, hay Thích Tâm Châu, hay Mai Hữu Xuân, hay Phan Huy Quát? Cựu hoàng Bảo Đại chăng? Trần Văn Tuyên chăng?
Luân bày hàng xén. Nhu nhăn mặt:
- Tôi nói nghiêm chỉnh… Với đối thủ khó chơi nhất!
- Maitre (7) Nguyễn Hữu Thọ?
- Anh đừng cho tôi tung hoả mù. Tôi đã suy tính kỹ. Đối thoại trong lúc chúng ta còn đủ yên cương… Đúng, Mặt trận giải phóng, hoặc, trực tiếp với Hà Nội.
Nhu nói, ngả người, mắt ngó lên trần. Cái logic khắc nghiệt của cuộc sống đun đẩy tay đệ nhất mưu sĩ triều Ngô vào bước phiêu lưu này.
- Tôi không phản đối sáng kiến lớn của anh và tôi cũng tin là anh đã suy tính kỹ. Nhưng, theo tôi, tình như quyết định của anh đến trễ. Trễ trên hai nghĩa: người mà anh muốn đối thoại e rằng họ không công nhận tư cách đối thoại của chúng ta, hai là đệ tam nhân có chịu cho anh chơi cây đàn thứ nhất không… Sự thể lần lần nghiêng về hướng người Mỹ và Việt Cộng giành hết mặt bằng của sân khấu!
Đôi vai của Nhu rủ xuống. Chẳng qua Luân nói bằng lời những cái Nhu nhẩm trong óc…
- Không! Tôi sẽ chẳng bao giờ chịu số phận của kẻ lấp ló bên cánh gà! - Nhu chợt rống lên, đôi mắt ửng nhiều đường gân máu.
- Hơn nữa, thương lượng là việc hệ trọng… - Luân làm vẻ không quan tâm đến tình trạng gần như động kinh của Nhu, tiếp tục nói - Nếu chỉ vì bị ép mà ta nảy ra ý thương lượng, nghĩa là thương lượng chỉ nằm trong mục đích đe dọa… Đe doạ hay giận dỗi, cũng thế thôi… Nếu thương lượng theo chiều hướng đó thì rốt cuộc rất nguy hiểm. Việt Cộng không tin ta. Người Mỹ thêm cớ để xa ta. Có bao giờ anh tính rằng giữa anh và Việt Cộng có một chỗ gần gũi nào đó không? Không có thì đừng nói đến thương lượng… Tôi nhắc lại: hậu quả sẽ rất nguy hiểm…
Có thể có một lúc nào Nhu tự ví mình cỡ Napoléon. Nhưng, bây giờ trước mặt Luân, Nhu là một Napoléon sau trận đại bại ở Mátxcơva - bao nhiêu hào khí tan biến, còn lại màu da mặt tai tái và đôi môi thâm.
- Tôi chưa hoàn toàn thống nhất với anh. - Nhu nói, uể oải - Ta còn trở lại đề tài này…
Rồi Nhu đưa ngón tay lên miệng:
- Between! (8)
Luân cười thông cảm, đứng lên:
- Vụ Mai Hữu Xuân…
- Thằng cha phá rối… - Nhu cau mày - Tôi đã sạt nó một trận. Nó thề đó là hành động cuối cùng của đời nó va chạm với anh. Nó xin phép được gặp anh…
- Tôi gặp ông ta để làm gì? - Luân gằn giọng - Nói thật, nếu cần chứng minh mối quan hệ hiện nay giữa ông ta với Savani, trùm Phòng nhì Pháp, tôi chẳng có một chút khó khăn nào… Tôi không cần làm vì thừa biết anh nắm mọi ngóc ngách. Nhưng…
Luân ngó thẳng Nhu - và Nhu lẩn cái nhìn tựa phóng hai tia lửa đó.
- Nhưng, tôi mong anh đừng dùng Mai Hữu Xuân để balancer (9) với tôi. Mai Hữu Xuân là cái gì? Tôi không phản đối anh dùng ông ta, mặc dù tôi luôn nhắc anh: một con dao có thể đâm vào lưng anh bất cứ lúc nào. Nhưng ông ta là hạng không hề biết sỉ nhục…
- Sao anh lại nghĩ như vậy? - Nhu cười gượng - Tôi không bao giờ dùng gã để đối chọi với anh. Tôi biết gã là ai và… - Nhu cười lớn - đem gã chọi với anh thì tôi cầm chắc cái thua trong tay…
Luân toan nói thêm, điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe và kêu thảng thốt:
- Vậy sao… Đại sứ an toàn không?… Đang lùng hung thủ?… Được, tôi sẽ cho người của An ninh Phủ tổng thống đến ngay…
Nhu gác máy, tay hơi run, gác mãi máy mới chịu nằm trong ổ.
- Đại sứ Nolting vừa bị ám sát.
- Sao? - Đến lượt Luân thảng thốt.
- Hai tên Việt Cộng đi môtô ném lựu đạn vào xe đại sứ Nolting tại góc đường Pasteur và Trần Quý Cáp. Lựu đạn lọt vào xe nhưng không nổ. Hung thủ chạy thoát.
Nhu không thể nghe tiếng thở dài nuối tiếc của Luân.
- Đúng là Việt Cộng không? - Luân hỏi.
- Tôi cũng ngờ ngợ. Sao lựu đạn lại không nổ? Tôi phải gọi các nơi…
Luân chào Nhu, ra về. “Thêm một “pha” ngoạn mục nữa trong vở diễn sắp đến hồi gay cấn nhất”. Luân nghĩ thầm dù anh không thể xác định ý nghĩa chính xác của vụ ném lựu đạn.
Vũ Huy Lục. Luân trở lại số phận của Lục. Phải làm cho ra lẽ. Tất nhiên, “làm cho ra lẽ” không có nghĩa đút đầu vào tròng của chúng. Khó khăn hơn cả: vẫn chưa rõ “chúng” là ai, Lục ra sao rồi? Nước mắt chực trào - Lục có bề gì, lỗi ở Luân. Giá anh ta cứ làm việc cho Trần Kim Tuyến và lái xe, chắc yên ổn.
Báo cáo của Luân về Lục, mãi không thấy anh Sáu Đăng hay A.07 cho nhận xét - cũng như nhiều báo cáo khác.
*
Lúc mà Luân băn khoăn trăm thứ thì tại chợ Bến Thành xảy ra một sự việc thu hút các nhà báo.
Buổi sáng, một thiếu phụ - rất đẹp và lộng lẫy - rời chiếc xe Chrysler đen đậu bên đường Phạm Ngũ Lão cùng một ngưòi đi theo, vào chợ. Người đi theo đeo súng, do đó, người ta đoán bà là một mệnh phụ.
Bà mặc kiểu áo “nâng cao”, kiểu áo hở cổ nổi tiếng của đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân: áo để trần hẳn vai và cho phép bộ ngực ngoi ra đến gần nửa.
Bà bước vào chợ - mọi ngưòi đàn ông dán mắt vào bà, còn bà, kiêu kỳ bước từng bước núng nính.
Bỗng, một người nào đó - một phụ nữ đứng tuổi - từ trong đám đông khách mua bán, nhảy xổ tới trước bà. Từ tay người phụ nữ, một lon sữa bò vụt bắt tới. Bà ôm mặt thét to: “Trời đất ơi!”
Người cận vệ không tài nào phản ứng kịp - người chen nhau đông nghịt.
Bà ngã xuống, oằn oại. Mãi sau, xe cấp cứu mới đến.
Báo chí tường thuật: Bà Trúc Đào, vợ trung tá Vũ Liệu, chỉ huy thiết giáp, bị tạt ác-xít… Báo chí đăng ảnh một bộ mặt lở loét khủng khiếp…
Nhà báo Fanfani săn tin đâu đó, viết một bài ngắn: Dư luận cho rằng bà Trúc Đào bị đánh ghen. Bà có quan hệ với một quan chức cao cấp Mỹ và đó là hậu quả. Ai chủ mưu? Dư luận cho rằng một bà khác - trong cuộc chạy đua quanh “mốt” áo dài…
Một tờ báo tiếng Việt làm một phóng sự giật gân - Trúc Đào chiếm nửa trang báo. Nhưng, Tổng nha thông tin ra lệnh chấm dứt…
Trong khi đó, đại sứ Mỹ Nolting quyết định Cơ quan tình báo Mỹ phải điều tra, bởi lẽ ông có mối quan hệ bạn bè với trung tá Vũ Liệu. Cơ quan tình báo Mỹ chưa kịp chấp hành lệnh của Nolting thì nhận được lệnh hủy bỏ cuộc điều tra cũng của Nolting: nói không cần thiết.
Người nắm được tất cả mọi việc là Tony Forting, cận vệ của Nolting. Tony đón Trần Lệ Xuân vào nhà riêng đại sứ - bà đến chia mừng đại sứ vừa thoát nạn - và sau gần hai giờ đồng hồ, tiễn bà, Foriting phát hiện mớ tóc bới rất kiểu cọ của bà Nhu không như cũ và cũng phát hiện trên sơ mi đại sứ vài dấu son môi…
Nolting, tần ngần vào phòng. Hẳn ông đang so sánh giữa Trúc Đào và Trần Lệ Xuân - lần đầu tiên ông khám phá người đàn bà danh tiếng như cồn ở Việt Nam Cộng hòa…
- Chỉ một lần thôi, như cô ta nói? Đâu được! - Nolting lẩm bẩm.
*
- A… lô!
Luân vừa nhấc máy thì nghe tiếng James Casey.
- Alô! Trại biệt kích Nha Trang vừa báo: một xác người tấp vào bãi biển. Mặt mũi đã rữa, quần áo không có… Nhưng vóc dáng thì rất giống chuẩn úy Lục. Nạn nhân chết vì hai phát đạn súng ngắn xuyên ngực và bụng. Cuộc khám nghiệm để xác nhận đang tiến hành. Sẽ có kết quả ngay…
Luân gác máy, rụng rời… Thế là hết Vũ Huy Lục. Dung bật khóc…
Điện thoại reo. Bây giờ thì Mai Hữu Xuân nói chuyện với Luân:
- Đã tìm được xác Vũ Huy Lục. Tuy cuộc khám nghiệm cần thêm một ít thời gian nữa mới hoàn tất, sóng chắc chắn là Vũ Huy Lục. Ông Lục bị giết. Tôi cam đoan với trung tá: tôi không hề hay biết việc này và cam đoan thêm, tôi sẽ lôi hung thủ ra ánh sáng. Khả năng nhiều nhất là Việt Cộng… Tôi phải làm bởi trung tá, tôi dám chắc, vẫn nghi ngờ tôi. Tôi có lỗi, song mong trung tá hiểu, tôi thực hiện chức vụ và bây giờ tôi sẵn sàng được kề vai với trung tá nếu trung tá đồng ý…
Luân không ừ hử, lão quỷ quyệt như chồn cáo này giăng thêm cái bẫy gì nữa đây.
Điện thoại reo. Luân bực mình, không thèm nhấc máy. Dung phải làm thay. Hóa ra, Nhu gọi:
- Đại Hàn lại đảo chính nữa, anh biết chưa? Chưa biết? Park Chung Hee (10) lật Chang Do Yung.
Cả Pak lẫn Chang, Luân đều mù tịt. Nhưng Nhu đặc biệt quan tâm đến sự cố tận Nam Cao Ly. Cái bóng ma đang ám ảnh Nhu là quân đội mà nạn đảo chính do họ chủ xướng giống cơn dịch lan tràn khắp thế giới.
Nhu chỉ thông báo bấy nhiêu rồi cúp máy. Luân gieo phịch người trên ghế, ôm đầu. Ai giết Lục? Vì sao?
Điện thoại reo. Vẫn Dung nhấc máy.
- Alô, xin lỗi, ai ở đầu dây… Dạ! Tôi là Thùy Dung… Ủa! - Dung che máy, gọi Luân, rất khẽ.
- Hả? - Luân vụt nhảy lên, giành máy.
- Alô…
---
(1) Sài Gòn Nhật báo.
(2) Nhật báo Viễn Đông
(3) Military Assistance and Advisory Group: Phái bộ viện trợ quân sự.
(4) Military Assistance Command: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự.
(5) Không ai cho không cái gì cả.
(6) Người đối thoại.
(7) Luật sư.
(8) Giữa hai ta.
(9) Cân bằng.
(10) Park Chung Hee (1917-1979), nhà độc tài, tổng thống Hàn Quốc (1963-1979), người thực hiện của đảo chính quân sự năm 1961.



Phần 6 - Chương 8


Mùa mưa năm nay ảm đạm hơn mọi năm. Thông báo chiến sự hằng ngày dày đặc tin tức chẳng lành đối với Việt Nam Cộng hòa; ngay dù trên báo chí mà Việt tấn xã đã hạ đến mức thấp nhất tổn thất của phía chính phủ và thổi lên đến mức phi lý thiệt hại của Việt Cộng, từ sự kiện đụng độ thường xuyên đã gieo trong dân chúng ấn tượng xấu về tình hình an ninh khắp lãnh thổ.
Ngày 16-7, tiểu đoàn nhảy dù giao chiến từ giữa trưa kéo dài 6 giờ liền với một tiểu đoàn Việt Cộng mang số hiệu 502 tại vùng trống trải Cao Lãnh. Đại tá Cao Văn Viên, thôi nhiệm vụ tham mưu biệt bộ, đảm trách tư lệnh Dù, trực tiếp chỉ huy trận đánh ác liệt này. Tất nhiên, quân Dù mất có ba, còn tiểu đoàn chủ lực thuộc quân khu II của Việt Cộng, tức Trung Nam Bộ, thì coi như bị loại đến một phần ba quân số - đó là bản tin của Việt tấn xã. Báo cáo tuyệt mật của đại tá tư lệnh Dù gửi đại tướng Tổng tham mưu truởng lật ngược con số. Trận đánh được đại tá mô tả như “quân ta rơi vào trận địa phục kích giăng sẵn của Việt Cộng, theo chiến thuật “công đồn đả viện”. Căn cứ Mỹ Quí, tiền tiêu của Bảo an Kiến Phong đóng sâu nhất vào vùng Cộng sản ở Đồng Tháp Mười báo động khẩn: giữa đêm, Việt Cộng dùng kích bích pháo và đại bác không giật đánh hư nặng vòng phòng thủ rìa căn cứ lấn chiếm từng chiến hào; quân trú phòng gồm một đại đội tăng cường và một cố vấn Mỹ đề kháng anh dũng, nhưng không thể chặn cái “biển người” mỗi lúc một thít vòng vây. Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ nhận bằng đường liên lạc vô tuyến điện riêng, lời cầu cứu SOS của viên cố vấn Mỹ. Họ chưa thể tùy tiện tung quân – chưa đủ quân số chiến đấu, nhất là quân đổ bộ đường không; vả lại, Kennedy chưa bật đèn xanh – nên trao đổi với Bộ tổng tham mưu Nam Việt. Đại tướng tổng tham mưu trưởng điều tiểu đoàn Dù xuất trận và lệnh cho đại tá lữ trưởng phải đích thân chỉ huy.
Tin thì khẩn cấp – coi như căn cứ Mỹ Quí thất thủ đến nơi – song suốt đêm, Việt Cộng chỉ đến vòng rào cuối mà không tấn công thêm một bước nào. Pháo sáng soi rõ còn hơn ban ngày cả vùng. Đại bác Cao Lãnh rót tới tấm quanh đồn, nhất là tập trung dọn bãi trên một cánh đồng rộng. Tờ mờ sáng, khu vực AD6 ném bom ngót một giờ. Tám giờ, trời quang, gió nhẹ, hơn chục Dakota nhả trên không Đồng Tháp trọn tiểu đoàn Dù tinh nhuệ nhất – một trong ba tiểu đoàn của lữ đoàn Dù. Tiểu đoàn chạm đất an toàn tuyệt đối. Đại tá Viên đáp trực thăng đến giữa đội hình tiểu đoàn vào 9 giờ. Liên lạc với đồn Mỹ Quí nối được ngay. Vẫn lời kêu cứu như kẻ sắp chết.
Quân Dù thận trong tiến về căn cứ, chia làm hai mũi. Họ lội trên đồng, nước cao độ hai tấc, khoảng cách chừng 5 cây số, họ mất gần hai tiếng. Hai máy bay trinh sát bay thật cao – của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ - thúc hối họ. Còn vài trăm mét nữa. Căn cứ Mỹ Quí phơi mình dưới ánh nắng. Có vẻ như Việt Cộng đã rút. Đài liên lạc lên tiếng đều đều…
Và, rõ ràng căn cứ vẫn chờ đón quân tiếp viện. Vào cái phút mà tiểu đoàn Dù thở phào, đặt chân lên còn đường lớn đến vào đồn thì súng nổ. Và súng rộ bốn phía, kể cả phía đồn. Hai khẩu trọng liên bố trí trên tầng cao – ngọn cờ ba sọc vẫn phấp phới – dường nín thở khạc những tràn đạn khủng khiếp.
Tiểu đoàn Dù bị giã như người ta giã giò lụa. Buồn cười nhất là đài trong căn cứ không ngừng phát lời kêu cứu của quân dân Mỹ và hai máy bay trinh sát nhất mực thúc giục… Đại tá Viên – nhờ Trời Phật thôi – chỉ bị thương nhẹ vào tay, chạy thục mạng.
Khi tỉnh hồn, đại tá biết bị mắc lừa. Đồn Mỹ Quí chắc rơi vào tay Việt Cộng trong đêm. Bây giờ, nóc đồn đã cắm cờ sao vàng nền đỏ xanh. Máy bay khu trục hủy diệt đồn – hẳn hủy diệt số xác lính trú phòng…
Báo cáo tuyệt mất đó không tới tay tổng thống và cố vấn Ngô Đình Nhu. Tổng tham mưu trưởng và các cộng sự bàn sửa chữa báo cáo với ý kiến đồng lõa của đại tá lữ trưởng. Nó không quá thô bỉ như tin của Việt tấn xã song màu sắc nói chung cũng rực rỡ. Cái rầy rà là viên thượng sĩ Mỹ mất tích. Cũng may, đó là một thượng sĩ da đen, Bộ chỉ huy của tướng Harkins dễ quên anh ta…
Một tuần sau vụ Mỹ Quí, cũng giữa ban ngày, đoàn công xa chạy trên đường 14, ngoại ô xã Ban Mê Thuột – lâu nay an toàn – bị phục kích. Quận trưởng sở tại, hai dân biểu quốc hội và phó tỉnh trưởng Darlac chết.
Tháng 8, thông báo chiến sự giới thiệu thêm phiên hiệu nhiều nhiều tiểu đoàn của Việt Cộng: 502, 506, 514, tiểu đoàn Tây Đô, Đồng Tháp…
Tháng 9, mở đầu bằng trận đánh lớn ở Toumơrông, đông bắc Kontum. Đồn Poko và Đakka bị tràn ngập. Quân số Việt Cộng, như báo cáo lên tới một nghìn.
Giữa tháng, tỉnh lỵ Phước Thành mất. Lần đầu tiên, Việt Cộng đánh chiếm một tỉnh lỵ. Và, cũng lần đầu tiên báo chí Sài Gòn đăng cáo phó: Thiếu tá tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, đại úy tỉnh phó Nguyễn Thành Tiết đã “anh dũng đền nợ nước” tại Phước Vĩnh.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa vất vả tái chiếm Phước Vĩnh – thật ra, chẳng giao chiến nhưng phải băng rừng suốt mấy ngày: tỉnh lỵ trống trơn, xác quân lính chính phủ được Việt Cộng chôn cất trước khi rút lui, mấy nghìn di cư bỏ Phước Thành, tìm nơi khác làm ăn. Mũi dùi mà chính phủ toan thọc vào giữa chiến khu Đ đã gãy: tỉnh Phước Thành bị quên lãng, không có một lời giải thích.
Đầu tháng 10, sự cố còn phức tạp hơn. Đại tá Hoàng Thụy Năm mất tích. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa bên cạnh Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam – thành lập theo hiệp nghị Genève 1954, gồm Ấn Độ, Canada và Ba Lan mà hoạt động bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa vô hiệu hóa ngay vào những ngày đầu. Điều tra của công an cho biết: Đại tá Năm có trại chăn nuôi riêng ở xã Linh Chiểu, sát tỉnh lỵ Thủ Đức, hôm đó, 1-11-1961, như thường lệ, ông và một cận vệ lên trại vào xế chiều. Xe vào cổng trại, đổ ngay thềm ngôi nhà nghỉ. Người trại trưởng đón ông. Ông vào phòng rửa mặt. Cận vệ và tái xế yên trí ông làm việc với trại trưởng, rủ nhau ra ngoài cổng uống bia.
Mãi mặt trời sắp lặn, cận vệ vào tìm ông theo lời ông dặn, để về Sài Gòn trước trời tối. Ông bến mất, cùng với trại trưởng. Nơi ông ngồi, đồ đạc vẫn nguyên vị trí, nghĩa là không có xô xát. Không ai trong trại thấy ông – mỗi khi lên trại, ông thường mặc áo sơ mi ngắn tay, đầu trần.
Gặn hỏi mãi, sau cùng, một nhân viên cho biết, lối 4 giờ, ba quân nhân từ phòng trại trưởng đủng đỉnh đi ra phía sau trại, một trong ba người khá to con; một trong ba người hình như bị thương nên quấn băng kín mặt. Họ mang ba lô dã chiến… Người nhân viên không thể xác định có phải đó là đại tá Năm và trại trưởng không vì anh bận cho heo ăn. Cạnh trại là căn cứ của đại đội địa phương quân – quân nhân ra vào trại hằng ngày…
Đại tá Năm tự nguyện theo Việt Cộng hay bị bắt cóc? Và, nhất thiết chỉ Việt Cộng tọc tay vào không? Số phận của ông ra sao rồi?
Phủ tổng thống quan tâm đặc biệt đến vụ này, mặc dù trên danh nghĩa, đại tá Hoàng Thụy Năm chỉ là một sĩ quan liên lạc “đang ngồi chơi xơi nước”, dành hầu như hết thì giờ chăm sóc khu trang trại với vài nghìn heo giống Yorkshire.
Nhu trao đổi với Luân. Anh ta muốn biết, theo Luân, nếu Việt Cộng bắt cóc đại tá Năm thì để làm gì? Thật ra, Luân chỉ gặp Hoàng Thụy Năm trong vài lần ông đến Phủ tổng thống báo cáo tình hình của ủy hội quốc tế. Diệm ít khi nghe. Nhu lại nghe chăm chú. Luân không được dự các cuộc họp mặt như vậy.
Anh bảo thật với Nhu là anh chưa rõ nguyên nhân và cũng không có điều kiện để phán đoán. Nhu cắn môi mãi. Rõ ràng anh ta băn khoăn.
- Còn nếu không phải Việt Cộng? – Nhu hỏi.
- Có khả năng đó sao? – Luân hỏi lại.
- Có… tôi cho là có…
Rồi Nhu gọi điện sang chỗ bác sĩ Tuyến, dặn phải canh đài Giải phóng và đài Hà Nội xem có tin tức gì của đại tá Năm hay không…
Chưa bao giờ Sài Gòn huy động một lực lượng công an, cảnh sát lớn đến như vậy. Cuộc lần dấu đại tá Hoàng Thụy Năm phóng ra nhiều hướng, mà Củ Chi và Bến Cát là hướng chính.
Trong ngày, Tổng giám đốc cảnh sát Quốc gia nhận hàng chục cú điện thoại của Phủ tổng thống, hầu hết do Nhu đích thân hỏi han tình hình. Thùy Dung, vì vậy, rất bận rộn. Đêm, cô phải trực đến 11 giờ. Đôi lần, Dung tiếp điện của Phủ tổng thống. Dù quen tiếng nói của Dung, Nhu vẫn không một câu xã giao nào, toàn hạch về cuộc truy lùng. Dung trả lời – chưa kết quả - thì giọng Nhu đanh hẳn, thậm chí quát tháo nữa.
Nhu càng bồn chồn, Luân càng thêm cơ sở đánh giá vụ Hoàng Thụy Năm. Năm lãnh một trách nhiệm tối mật nào đó của Nhu. Trách nhiệm gì? Dễ đoán thôi. Trong tư cách trưởng phái đoàn liên lạc với Ủy hội quốc tế. Hoàng Thụy Năm rất có thể thăm dò phái đoàn Ba Lan hoặc Ấn Độ nhờ họ làm môi giới để Diệm tiếp xúc với “phía bên kia”. Có vẻ lần này Nhu quyết rấn một nước cờ chứng tỏ với Mỹ rằng chế độ họ Ngô còn đủ tư cách đối thoại và quyết chọn con đường đối thoại nếu chính sách Mỹ chập chờn đối với “nền đệ nhất cộng hòa”. Rồi đây, kín kín hở hở, Nhu sẽ “khoe” cái nhịp cầu mà anh ta đã lao và đã tìm được mối, một “cây đinh” trong vở tuồng làm nũng. Ở bước khởi sự, Nhu muốn không một ai biết, nhất là người Mỹ.
Nước cờ liều lĩnh của Nhu phạm hai sơ hở nghiêm trọng. Một là, nó đơn thuần hù dọa Mỹ; thâm tâm Nhu, cho đến cuối năm 1961 này, không hề nghĩ đến việc tìm một giải pháp chấm dứt xung đột qua thương lượng. Với anh ta và cả gia tộc Ngô Đình, chẳng có một điểm nào gọi là gần gũi giữa phe của họ với Việt Cộng. Cái sơ hở đầu dẫn đến cái sơ hở thứ hai: Mỹ không sợ. Mỹ không sợ vì biết chắc không đời nào Diệm – Nhu thương lượng thật sự với Việt Cộng.
Đột nhiên, Hoàng Thụy Năm mất tích. Có dư luận đánh dấu hỏi: Phải chăng Việt Cộng “cấy” Năm vào chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bây giờ gọi ông ta ra khu? Lối đoán mò kiểu đó đang thịnh hành ở Sài Gòn. Song, ít người tin, bởi họ Hoàng Thụy cũng là một vọng tộc ở Huế, bản thân Năm cũng chịu ân sủng nhà Ngô rất nặng, đồng thời, là một “cậu ấm” – chẳng thể đủ bản lĩnh luồn sâu, leo cao đến như vậy.
Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc – dứt khoát rồi. Ai bắt cóc? Ai bắt cóc cũng gây nguy hiểm cho Diệm, Nhu cả.
Luân viết báo cáo gửi anh Sáu Đăng. Báo cáo đề xuất: nếu ta bắt Năm thì đề nghị khi tách thật nhanh và tạo một cớ hợp lý để thả Năm ngay.
*
Công cuộc truy tần đại tá Hoàng Thụy Năm bị cơn bão đột ngột gây khó khăn. Phát xuất từ biển Đông, cơn bão đổ bộ vào bờ biển Tây Nam phần – thật hiếm có. Trong mấy ngày liền, mưa lớn, kéo dài. Mực nước sông Cửu Long lên nhanh cấp kỳ. An Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An ngập sâu. Gần một triệu người bị cơn bão – tên quốc tế của nó là Wilda – cuốn sạch nhà cửa. Lối một triệu mẫu ruộng, giữa lúc lúa trổ đòng đòng, chìm dưới nước. bão Wilda quay lại hướng tàn phá ra các tỉnh Trung phần, Quảng Ngãi đến Huế.
Trong hoàn cảnh rối ren như vậy, tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của tổng thống Kennedy được cử sang thị sát tình hình Nam Việt. Bức thư tay của Kennedy gửi cho Ngô Đình Diệm do Taylor chuyển, nhấn mạnh đến “tình hình Nam Việt biến chuyển ngày mỗi xấu hơn và hiện giờ thì rõ ràng là nghiêm trọng”. Diệm, Nhu tiếp nhận nhận xét của Kennedy như một thứ cảnh cáo.
Đưa cho Luân đọc toàn văn bức thư tay – văn chương bóng bẩy song ý tứ thì không thể nhầm lẫn – Nhu lại đi lại trong phòng, lo âu và tức giận đè nặng từng bước của anh ta dù anh ta đi trên thảm len.
- Người Mỹ thúc bách chúng ta! – Nhu hằn học. Đúng là Mỹ bổ vây các hướng khép anh em Diệm vào chân tường. Nhưng, câu nói của Nhu còn hàm ý khác: Mỹ bắt buộc anh em họ phải trả đũa ngay. Điều bí ẩn của mọi bí ẩn là Nhu sẽ trả đũa như thế nào, bằng cái gì… Phong trào Thanh niên Cộng hòa mà Nhu là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Phụ nữ Cộng hòa mà Trần Lệ Xuân là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Cách mạng Quốc gia mà Trần Chánh Thành là Chủ tịch? Hay Quân lực Việt Nam Cộng hòa? Hay là cái gì khác?
Nhu là một chính khách sắc sảo. Luân thừa nhận bộ óc của Nhu khác thường: linh hoạt, nhạy bén. Tuy nhiên, thời kỳ mà một ý kiến chỉ đạo đưa ra tạo liền tác động chính trị, thời kỳ đó đã trở nên xưa cũ. Ngay thế lực Thiên Chúa giáo di cư từng là chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Ngô triều cũng đang phân hóa. Nói chung, người ta ngao ngán chiến tranh. Những câu phù chú “Cần lao nhân vị”, “thế giới tự do”… mất đến chín phần mười linh nghiệm. Bộ phận còn hăng máu không tìm được lối ra ở cung cách và sức mạnh làm chiến tranh của Diệm – Nhu.
Bỗng dưng, sự chọn lựa đặt lên đòn cân: hoặc chế độ tự do của Nam Việt hoặc gia đình tổng thống Diệm. Thực chất trên đòn cân là, Mỹ một đầu, Diệm một đầu. Đối trọng này, vào những tháng cuối năm 1961 thật bất tiện đối với Diệm.
- Anh tham gia phái đoàn Việt Nam! – Nhu ngồi xuống ghế, cũng nặng nề như anh ta bước… - Lần này, ngoài Staley, có Taylor… Tôi hy vọng tài ứng phó của anh.
Nhu nói, mệt mỏi. Thế là cái mà Nhu phản giáo lại Mỹ trong cơn bị bức bách chỉ có bấy nhiêu. Cả một ý đồ lớn lao còn trông cậy mỗi một tài miệng lưỡi trong một cuộc hội đàm – đúng ra, một cuộc họp mà người Mỹ giành quyền đọc dictée (1), còn người Việt thì ghi chép, ghi chép sao cho khỏi phạm lỗi chính tả.
- Tôi vốn kém môn écriture (2) – Luân đùa.
Nhu bật cười:
- Anh quỷ quái thật. – Rồi Nhu nghiêm trở lại: - Ta cố tranh thủ thời gian, khi lực lượng quân sự ta khá lớn, thế trên chiến trường cân bằng hơn, bấy giờ anh không cần môn écriture nữa, thậm chí không cần môn éloquence (3)… Bấy giờ, anh chỉ gật hoặc lắc đầu…
Giấc mơ của Nhu viễn vông thật. Nếu quả đạt tới một thế cân bằng trên chiến trường thì nó phản ảnh thế không cân bằng đến mức anh em Diệm – Nhu không còn là cái gì trên đòn cân cả.
Luân hiểu – và, trong thâm tâm, có phần ái ngại cho cách tự làm êm dịu thần kinh của Nhu.
- Anh nên nghỉ ngơi… - Luân bắt tay Nhu với lời khuyên bè bạn.
- Cám ơn anh!
Hình như đây là lần đầu Nhu siết tay Luân chân thành.
*
Maxwell Taylor – một đại tướng đẹp lão, nhã nhặn – những thứ bề ngoài cần thiết cho một sĩ quan cao cấp mà lý lịch dày đặc những chi tiết. Con đường hoạn lộ của Taylor khá thong dong: 22 tuổi, từ chân tú tài môn khoa học xã hội, tốt nghiệp Viện hàn lâm quân sự; 32 tuổi, giảng viên đại học quân sự và chuyên nghề giảng dạy các đại học quân sự trong và ngoài nước, kể cả ở Seoul, ở Manila. Thông thạo nhiều ngoại ngữ, từng học ở Tokyo, tùy viên quân sự ở Bắc Kinh. Năm 1939, công tác tại ban chỉ huy sư đoàn không quân 82 tham chiến ở Sicile và Ý, năm 1943–1944, chỉ huy sư đoàn không quân 101 ở chiến trường Viễn Tây. Tham mưu trưởng không quân Mỹ ở châu Âu, tư lệnh vùng chiếm đóng Berlin sau Thế chiến, chỉ huy sư đoàn số 8 trong chiến tranh Triều Tiên, tổng chỉ huy quân lực Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương… Tóm lại, một viên tướng Mỹ sừng sỏ, trí thức. Cuộc họp không nghi thức, tiến hành tại một phòng rộng của Đại sứ quán Mỹ, đường Hàm Nghi.
Cuộc họp kéo dài ba tuần, nhưng không liên tục. Tướng Taylor thường thị sát các nơi, làm việc với các cơ quan quân sự Mỹ - Việt. Mỗi phiên họp, Taylor nói và gần như chỉ có ông nói. Gọi là cuộc họp – vì hai phái đoàn ngồi đối diện, trên chiếc bàn dài ngăn đôi đính hai lá quốc kỳ - còn thì phái đoàn Việt Nam cắm cổ ghi các ý kiến của Taylor, mặc nhiên như là chỉ thị cần thực hiện. Tức là cuộc họp đi vào khía cạnh kỹ thuật. Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần – có một dọc chức vụ: Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm bộ trưởng phụ tá quốc phòng, xử lý bộ trưởng đặc nhiệm phối hợp an ninh – cần mẫn hơn ai hết trong việc ghi chép. Người xum xoe thứ hai là Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng công dân vụ. Cả Thuần lẫn Hiếu đều muốn nhân cơ hội này tự giới thiệu với Mỹ. Vũ Quốc Thúc lộ rõ thái độ kiêu ngạo bởi vì dù sao ông ta cũng đi trước Thuần và Hiếu một bước. Kế hoạch mang tên Staley và ông ta, bây giờ được tướng Taylor bổ sung, gồm ba tác giả: Thúc cực kỳ hãnh diện vì tên ông được xếp cạnh tên Taylor. Tướng Lê Văn Tỵ bàng quang. Với ông, hàm đại tướng và chức tổng tham mưu trưởng trước đây vốn là trò trưng kiểng của Tổng thống Diệm, bây giờ lên giá một chút – ông là trái độn của Mỹ. Thỉnh thoảng, Tỵ vẫn nhớ cuộc đời “binh nghiệp” của ông. Xuất thân đội “chân xanh mắt ếch”, tức là tiểu đội trưởng lính Garde civile locale (4) sau 1945 theo kháng chiến vài tháng, sợ Tây quá, trốn về thành. Tây cho ông ta học lớp pháo binh và phong lon “ách” (5) rồi quan một (6). Khi Tây về nước, ông đeo lon quan ba (7). Tưởng đó là lon tột cùng, ai dè Diệm lại phong ông vượt cấp, lên trung tá. Diệm và Hinh chỏi nhau. Hinh thua trí mụ Trần Lệ Xuân phải sang Pháp, Tỵ được chỉ định thay Hinh làm tổng tham mưu trưởng, quân hàm thiếu tướng. Sau vụ Bình Xuyên, Tỵ lên trung tướng và chẳng bao lâu, đại tướng. Từ chú lính “đơdèm cùi bắp” – chữ gọi đùa hạng binh nhì thời Pháp – bò đến đại úy, Tỵ tốn 30 năm. Từ đại úy đến đại tướng – ông khỏi bò, thiên hạ “ẩy” ông lên – ông cần có 7 năm. Đã quá đủ rồi, sanh sự làm chi cho mệt. Người không hề hé răng suốt cuộc hội đàm là ông.
Tướng Taylor, hẳn đã nghe mật báo, thỉnh thoảng liếc trung tá Nguyễn Thành Luân, nhưng không tỏ ra vồn vã. Taylor bắt tay Luân như với mọi người. Cho đến một hôm, lúc mà cuộc hội đàm coi như không còn vấn đề gì để bàn, chỉ chờ tổng thống Diệm thông qua và tổng thống Kennedy duyệt thì Taylor buộc phải tranh luận với viên trung tá Việt ngồi hàng ghế thứ hai sau lưng tướng Tỵ.
- Thưa tướng quân, tôi xin phép nêu một băn khoăn. Tất cả chúng ta, ai cũng mong sớm chấm dứt những tháng ngày căng thẳng như chúng ta thấy ở Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, liệu rằng ý định đánh bại Việt Cộng trong vòng 18 tháng – nghĩa là đến giữa 1963 – có quá lạc quan không?
- Trung tá cho là kế hoạch bình định thiếu cơ sở? – Taylor hỏi lại, giọng điềm đạm, nhưng rõ ràng ông ta cố hết sức kiềm chế.
- Tất nhiên! – Luân trả lời, dứt khoát.
Tướng Tỵ hơi ngoảnh lại phía sau, nhìn anh. Nguyễn Đình Thuần gõ cây bút trên giấy ra vẻ không ưng ý. Ngô Trọng Hiếu bỉu môi – chỉ bĩu môi cho phía Mỹ thấy. Vũ Quốc Thúc cười lạt và muốn Luân biết ông ta cười lạt. Phía Mỹ, Nolting khoanh tay trước ngực, lặng lẽ.
- Tôi chờ lý giải của trung tá. – Taylor nhún vai.
- Tôi nêu một chi tiết thôi: trong vòng 18 tháng, chúng tôi không sao huấn luyện đến nơi đến chốn 170.000 tân binh Việt Nam, đó mới tính số bộ binh và chưa nói đến Bảo an. Đối với các binh quân chủng khác, thời gian huấn luyện đòi hỏi lâu hơn… - Luân làm như không để ý chung quanh, nói đều đều.
- Có lý! – Taylor kêu lên, song đôi mắt nheo của ông không chứng minh ông đồng ý với Luân.
- Có lý, tôi nói về lý thuyết. – Taylor tựa người vào ghế - Nhưng, chúng ta có quyền sáng tạo lý thuyết giải đáp được yêu cầu của chúng ta. Một, mở thêm trường huấn luyện bộ binh; chúng tôi đảm bảo cho các ông huấn luyện viên. Hai, rút ngắn thời gian huấn luyện; bỏ phần chính trị. Nói thật, các ông diễn thuyết dài bao nhiêu chẳng ai để ý đến các khẩu hiệu của các ông. Lính cần biết sử dụng vũ khí. Một tháng là quá đủ, súng trường Garant lợi hại nhưng sử dụng đơn giản. Sáu tháng, với ba hay bốn trung tâm huấn luyện, các ông thừa sức cho ra trường 25.000 quân. Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu cam kết động viên dưới cờ, trong trường hợp cần thiết, nửa triệu lính, đúng không, ông Hiếu?
- Đúng! – Hiếu trả lời hấp tấp.
- Như vậy, chẳng những quân số 170.000 sẽ được huấn luyện mà quân lực các ông còn có dự trữ lớn… Tôi đảm bảo quân lực Việt Nam sẽ được trang bị tốt. Các ông tin, vũ khí bộ binh Mỹ không tồi lắm đâu và nhất là không thiếu lắm đâu. Riêng về các binh quân chủng, đúng là khó. Song, trong khi quân lực Việt Nam chưa cáng đáng hết các yêu cầu yểm trợ chiến đấu, tướng Harkins sẽ giúp. Pháo, giang thuyền, không quân, thiết giáp… lần lượt các ông sẽ có đủ người sử dụng thành thạo vũ khí Mỹ.
- Tôi được biết, qua bà Ngô Đình Nhu, thanh nữ Việt Nam đang được động viên và huấn luyện! – Nolting bổ sung.
- Tuyệt! – Taylor tặc lưỡi – Chúng tôi sẽ trang bị cho lực lượng nữ binh đó vũ khí thích hợp, cả quân phục nữa… Trung tá Luân thấy thế nào?
Luân ngó thẳng Taylor, trước câu hỏi khiêu khích của ông ta.
- Thưa tướng quân, tôi càng thấy kế hoạch 18 tháng không thể đạt nổi. Rất đơn giản, những người gọi là lính của Việt Nam Cộng hòa chỉ “lính” ở bộ quân phục và khẩu súng. Dù các nhà báo gán cho hiện tượng đánh nhau ở Nam Việt là gì – chiến tranh đặc biệt, chiến tranh chống lật đổ, nội chiến, chiến tranh đơn phương, chiến tranh chống khủng bố… - chiến tranh vẫn là chiến tranh. Chúng ta – nước Mỹ và Việt Nam Cộng hòa – cần những chiến binh chứ không cần những người máy cầm súng.
- Thế, trung tá tin rằng kéo dài thời gian có lợi cho chúng ta? Trung tá tin rằng chính phủ Nam Việt đủ sức thắng Việt Cộng nhờ tiêm nhiễm vào con người Việt Nam một thứ lý tưởng nào đó? Tôi không cho rằng Bắc Việt không thâm nhập vào Nam Việt. Có đấy. Song, tôi cũng không cho rằng sự thâm nhập ấy đạt đến một số lượng đủ thành lực lượng. Không, lực lượng chống các ông là người Nam Việt, chủ yếu là người Nam Việt, thậm chí, có cả người di cư nữa. Bảy năm, các ông không tiêm nhiễm nổi con người, các ông cần bao nhiêu nữa? Tôi cần 18 tháng. Ấp chiến lược, xương sống của kế hoạch. Ấp chiến lược kết hợp với tạo vùng trắng các mật khu và khu tiếp giáp, ngăn đường thâm nhập từ rừng núi. Mười tám tháng vừa vặn cho chừng đó việc làm…
Taylor càng nói, càng hăng.
- Xin lỗi tướng quân, nếu Việt Cộng lại từ các ấp chiến lược đánh chúng ta, hoặc tôi diễn đạt rõ hơn – Việt Cộng đánh chúng ta bằng các ấp chiến lược – thì chúng ta sẽ làm gì? Tướng quân vừa có một nhận xét chí lý: 7 năm, chúng tôi sản sinh người chống chúng tôi nhiều hơn là đào tạo người ủng hộ chúng tôi. Con số đó, trong 18 tháng, sẽ có thể vượt hơn 7 năm…
Cuộc họp bị bất ngờ. Số đông không dè Luân “dám” cãi và cãi găng. Riêng Taylor, ông ta có thể không đoán trước câu hỏi ngược của Luân.
- Tôi cho rằng, ở Việt Nam Cộng hòa, yếu tố quyết định là lãnh đạo… Người Nam Việt không được lãnh đạo tốt!
Rõ ràng Taylor tránh né giải đáp thắc mắc của Luân. Ông ta đặt ra một vấn đề mới, bao quất hơn và cũng nghiêm trọng hơn.
- Thưa tướng quân!– Luân nghiêm giọng – Chúng ta dự một cuộc họp bàn về cách thức vãn hồi an ninh. Cuộc họp không thể là tòa án. Không thể vì không ai cho phép chúng ta và chúng ta cũng không đủ điều kiện phán xét.
Phiên họp đến đó chấm dứt. Taylor ngượng ngùng bắt tay Luân. Nolting bước theo Luân đến tận xe của anh, tỏ thái độ dàn hoà.
Về nhà, Luân nghe điện của Nhu:
- Hoan hô anh! – Nhu nói to trong máy.
Thì ra, Nguyễn Đình Thuần và Ngô Trọng Hiếu vào dinh Độc Lập báo cáo ngay sau phiên họp. Hai tay chứng minh họ bất bình cách nhận xét của Taylor và ngỏ lời khen Luân. Bởi vì, sớm muộn gì Nhu cũng biết và sự thật nguy hiểm cho họ khi họ bị Nhu nhìn như hai tên rấp ranh trở cờ.
*
Tối hôm đó, Staley điện xin gặp Luân. Giáo sư báo là sẽ đến chơi với một người bạn nữa.
Và người bạn đó là Dương Tái Hưng.
Thật, Luân không thể nào tưởng tượng mối quan hệ quái gở như thế này. Thế mà, tại phòng khách nhà anh, Staley và Dương Tái Hưng sánh đôi như hai tri kỷ.
Câu chuyện không chủ đích – họ bảo là đến chơi thôi – kéo dài gần một giờ. Mãi, trước khi họ từ giã, Dương Tái Hưng mới nói:
- Chúng tôi thấy khinh binh Việt Nam Cộng hoà nên trang bị súng tiểu liên AR15 hoặc M16 hơn là súng trường bán tự động M1 còn gọi là Garant. Trung tá là một quân nhân, hẳn rõ tác dụng của mỗi loại. Dẫu sao, Garant cũng lỗi thời. AR15 hoặc M16 bắn cực nhanh, tầm sát thương không thua Garant, song là tiểu liên. Về trung liên, tốt nhất là AR10, đại liên thì nên dùng Browning kiểu 30M.1919 A4 hoặc M60 – hợp với vóc người châu Á. Chúng tôi cũng mách trung tá súng phóng lựu M79…
Lạ lùng thật. Tên tình báo cỡ quốc tế như Dương Tái Hưng lại đi với Staley và nói chuyện y như tên lái súng. Taylor chủ trương trang bị súng Garant cho quân Nam Việt, còn Staley và Dương Tái Hưng lại khuyên nên trang bị súng của hãng Colt. Nghĩa là thế nào?
Dung gỡ bí: Anh đi tìm Fanfani.
Cô nhà báo ngụ ở khách sạn Majestic, đón Luân thân tình ngay phòng khách riêng của cô.
- Bà kỹ sư cho phép ông kỹ sư đến với tôi? – Fanfani hỏi, nghịch ngợm.
- Victor sang Hồng Kông, cuối tuần mới về. – Fanfani tiếp tục đùa. Cô chỉ nghiêm chỉnh khi Luân hỏi:
- Tại sao giáo sư Staley không nêu ý kiến về trang bị quân lực Việt Nam Cộng hòa ngay trong văn bản mà phải vòng qua tôi? Và, tại sao gã Dương Tái Hưng ở đây?
- Tôi biết có lúc kỹ sư cần đến tôi… - Fafani nói, giọng hơi buồn – Tôi giúp được kỹ sư câu hỏi đầu: Tướng Taylor có cổ đông trong Công ty thu mua vật liệu chiến tranh phế thải Keytesville – quê ông ta. Công ty thừa hàng triệu tấn vũ khí kiểu hơi cổ. Nội chiến Trung Quốc tiêu thụ một số, chiến tranh Triều Tiên tiêu thụ một số nữa, chiến tranh Congo quá hẹp, Cuba thì nhóm lưu vong chẳng ra gì… Cần thị trường. Nam Việt là thị trường tốt. Staley không thể ghi việc đó vì Taylor sẽ phản đối. Lý do phản đối: hàng của hãng Colt giá cao và thật ra quân lực Việt Nam Cộng hoà chưa cần đến loại vũ khí tối tân hơn. Staley là cố vấn kinh tế và pháp luật của hãng Colt.
- Thì ra vậy đó! – Luân gật đầu.
- Câu hỏi thứ hai của ông kỹ sư, tôi chưa thể trả lời. Dương Tái Hưng là con người bí ẩn. Tôi cố gắng làm vừa lòng ông trong vài ngày tới.
Luân cám ơn Fanfani. Cô cầm tay Luân khá lâu, chờ đợi. Luân ngó vào mắt Fanfani. Anh có thể hôn cô nhưng anh không làm, dù biết chắc rằng chỉ cần một cái hôn đắm đuối anh sẽ có nhiều thứ – kể cả sự an toàn cá nhân. Nhưng Luân không làm bởi vì Fanfani yêu anh. Không thể đùa với tình yêu. Trong một thoáng, anh nhớ Tiểu Phụng. Luân rời Fanfani, thở dài và khi ra đến cửa, anh cũng nghe tiếng thở dài của Fanfani.
- Bọn lái súng! – Luân lẩm bẩm. Kế hoạch Staley – Taylor tự bộc lộ một trong những thực chất của nó.
*
Bảo an gác cầu Bình Lợi phát hiện ngày 17-10 một tử thi nổi vướng chân cầu. Chẳng bao lâu, người ta xác nhận đó là đại tá Hoàng Thuỵ Năm, không bị thương tích gì cả. Rất có khả năng đại tá Năm chết đuối…
Nhu lặng yên khá lâu khi nhận được báo cáo.
- Ông ta mới chết thôi. Ngày 14 hay 15, trong khi ông ta bị bắt cóc ngày 1. Nghĩa là nửa tháng ông ta nằm trong tay ai đó…
Nhu bảo Luân, giọng thật buồn…
---
(1) Bài văn mà thầy giáo đọc và học sinh viết để kiểm tra trình độ mẹo luật và chính tả của học sinh.
(2) Môn viết chữ đẹp.
(3) Hùng biện.
(4) Như Bảo an, tổ chức lính Việt Nam thời Pháp (trước 1945)
(5) Adjudant: tương đương thượng sĩ
(6) Thiếu úy
(7) Đại úy
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn