View Single Post
  #19  
Old 12-08-2012, 07:36 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 6 - Chương 9, 10

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 6 - Chương 9


“L. về căn cứ an toàn. Có triệu chứng đường dây bị theo dõi, yêu cầu tạm đình mọi liên lạc. Khi cần, sẽ có người gặp. Chúc thành công. Sáu Đ”.
Thư trên đây của anh Sáu Đăng, câu đầu liên quan đến Lục:
… “Em bình yên. Ông vẫn đi nhà thờ đều chứ?”. Lục nói có bấy nhiêu, không xưng tên. Gác máy nói, Luân cùng Dung phán đoán. Hai người tin Lục như tin chính họ. Không thể nào có trò Lục làm con mồi nhử Luân. Nhưng, Lục không phải là người già dặn trong nghề, nếu địch cao tay ấn hơn, thả lỏng Lục để theo dấu thì sao? Tại sao cả James Casey và Mai Hữu Xuân đều báo rằng Lục đã chết?
Rõ ràng, Lục hẹn gặp Luân ở nhà thờ, nơi mà trước đây Lục vẫn chở Luân mỗi tuần đến đọc kinh sáng chủ nhật, Luân tiếp tục như vậy mấy năm nay. Cứ đến nhà thờ như thường lệ. Luân quyết định và Dung cũng đồng ý.
Hai vợ chồng cùng đi – Dung lấy cớ đi chợ - khi xe ngừng, Luân thoáng thấy một tài xế tắc xi ngồi sau tay lái, rất giống Lục, kết sụp tận chân mày, cằm tua tủa râu, kính đen. Dung tinh mắt hơn, khẽ huých vào vai Luân. Luân xuống xe, bảo Thạch đưa Dung đi chợ và đón anh sau. Nhà thờ đông bổn đạo, Luân trà trộn theo dòng người ra vào và sau đó, đến chiếc xe tắc xi đã mở cửa sẵn. Đúng là Lục, Lục cho xe về đường Hiền Vương và rẽ vào hướng Chợ Lớn.
Qua kiếng chiếu hậu, Lục nhìn Luân với tất cả tình cảm, Luân mỉm cười đáp lại.
- Nói đi! Vừa thoát chết hả? – Luân bảo, trìu mến.
- Vâng, suýt chút nữa em không còn gặp ông kỹ sư với cô Dung… Hồi nãy, em có thấy cô Dung… Ông với cô khỏe, em mừng.
- Ông, cô! – Luân đùa – Đồng chí chớ!
- Vâng… em quen miệng…
Lục làm nhiệm vụ theo dõi các toán biệt kích đường không ở trường Nha Trang, báo cáo với trung tâm mỗi khi có chuyến đổ bộ. Báo cáo của Lục, đã mã hóa và viết “bạch” lên rìa báo, rìa trang sách hoặc toa thuốc, hằng tuần mang đến một hốc đá nằm giữa Hải học viện và lầu ông Hoàng – biệt điện xưa kia của Bảo Đại - trên bờ biển. Du khách đến ngắm cảnh ở đây rất đông, nhất là chiều thứ bảy và ngày chủ nhật. Lục chỉ cần đặt báo cáo vào hốc đá – giống một tờ giấy bị gió thổi tạt vào chỗ sâu kín này – rồi ai đó, vào lúc nào đó, đến nhận. Mỗi báo cáo mang số riêng, Lục biết báo cáo về đến trung tâm qua buổi nhắn tin vào Nam phát gần giữa khuya của Đài tiếng nói Vệt Nam. “Ông Hà Hậu, gia đình đã nhận được bưu thiếp đề ngày…”. Hoặc “Ông Xuân Huy”. Hoặc “Chị Lục Văn” v. v… Báo cáo của Lục gửi đều đều và anh cũng nhận được tin đều đều.
Chiều ngày 2-7, Lục mang một báo cáo đặc biệt ra hốc đá. Đặc biệt vì báo cáo không phản ánh tin tức của biệt kích đường không mà liên quan đến toán người nhái. Trường huấn luyện người nhái thành lập vài năm nay, thuộc Bộ tư lệnh hải quân, do một trung tá người Việt phụ trách với nhóm huấn luyện viên Mỹ. Trường người nhái và trường biệt kích của Lục đóng không xa nhau mấy, song nội quy cấm ngặt quan hệ giữa hai trường.
Chỉ có huấn luyện viên thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở quán rượu. Qua điều tra, Lục biết nhân kết thúc khóa học đầu tiên, sẽ có cuộc ra quân.
Nhiều toán người nhái, mỗi toán ba đến năm tên, sẽ thực tập đổ bộ thăm dò dọc bờ biển bắc vĩ tuyến 17, mục đích đánh giá tình hình phòng vệ bờ biển của miền Bắc, móc nối với bọn gián điệp tại chỗ, mở đầu cho hoạt động biệt kích bằng hình thức người nhái. Năm điểm được dự kiến đổ bộ trong đợt này – những nơi địa hình cho phép người nhái che dấu hành tung và có bọn gián điệp tại chỗ đón. Năm điểm đó mang mật danh Sea từ 1 đến 5. Ngoài ra, một điểm đặc biệt mang mật danh Explorer, mà toán người nhái không đổ bộ nhưng phải thu thập tất cả tình hình của tàu hải quân và lực lượng trú phòng miền Bắc: thu thập bằng quan sát, thậm chí, bằng bắt cóc, khai thác nhân chứng sống và thủ tiêu sau đó. Phối hợp các nguồn tin lại, Lục đoán các “Sea” trải từ cửa sông Gianh trở vào. Còn Explorer chính là đảo Cồn Cỏ.
Mặt trời khuất sau núi. Bờ biển vắng dần. Lục bước trên từng hòn cuội, như người dạo chơi, đến hốc đá. Quanh hốc đá không có người. Ngoài sóng biển, tất cả yên lặng. Quan sát chung quanh, không có gì khả nghi, Lục nhìn vào hốc đá. Hốc đá trống trơn. Lục toan đặt báo cáo vào hốc – viết trên nhãn hộp sữa – thì đột nhiên nghe tiếng quát:
- Giơ tay lên!
Từ các gộp đá, ba người chĩa súng ngắn vào Lục, cả ba nấp ở các gộp đá cách Lục mươi thước. “Mình bị phục kích” Lục than thầm.
- Đừng giỡn các bạn! Các bạn là ai?
Lục trì hoãn thời gian. Chắc chắn hộp thơ đã lộ, có thể giao liên đã bị bắt. Có nên để lọt vào tay chúng không?
- Ai mà giỡn với mày? Đưa tay lên!
Một tên hùng hổ. Nó bảo luôn đồng bọn:
- Coi chừng nó hủy tài liệu…
Thế là rõ. Thế là không thể để lọt vào tay chúng. Nó có ba tên… Lục chọn phương án hành động.
- Đưa tay lên!
Tên – dáng chừng chỉ huy – nhắc lại.
Lục từ từ đưa tay lên.
- Tước súng nó!
Tên chỉ huy ra lệnh. Một tên, theo các hòn cuội, tiến đến, tay lăm lăm súng. Hắn cách Lục chừng vài bước, lợi dụng hắn đang bước rất khó khăn trên các hòn đá lông chông, đồng thời hắn lại là tấm lá chắn che Lục khỏi bị hai tên kia bắn. Lục rút súng, nổ liền mấy phát, vừa nhảy núp sau gộp đá. Tên đi tước súng của Lục ngã gục, rơi luôn xuống biển. Hai tên kia, bàng hoàng một lúc, bắt đầu bắn. Song, bây giờ thì chúng không thể nào dám xáp gần Lục. Lục dè xẻn đạn, chỉ bấm cò khi phát hiện chúng di động. Nếu tiếp tục chọi nhau như thế này, chắc chắn sẽ “hòa”, trời tối, mạnh ai nấy rút. Nhưng, trên đường, đã vang tiếng tiểu liên cùng tiếng xe. Bọn chúng có tiếp viện; Lục đột ngột bắn thật căn về phía hai tên – anh bắn hết băng đạn vừa thay, rồi lặng lẽ tụt xuống nước, men theo bờ đá, vòng qua mõm đất nhỏ, bò sát mặt cát, lẫn vào các thuyền đánh cá kéo lên cạn, vượt qua con đường mòn, vượt tường một ngôi biệt thự không rõ của ai, chạy về hướng núi. Anh vẫn nghe súng nổ ở vùng gộp đá.
Khi trời tối, Lục đã cách thành phố vài cây số. Bây giờ thì không còn sợ bọn chúng truy đuổi nhưng lại rất dễ lọt vào bọn tuần tiểu. Lục quyết định chọn một bụi rậm để ẩn mình. Không thể trở lại trường biệt kích nữa. Còn đi làm du kích thì quá phiêu lưu. Cho nên, trời hừng sáng. Lục chôn súng, băng đồng ra lộ, đón xe xuôi Ba Ngòi. Từ Ba Ngòi, Lục chuyển sang xe lửa. Cứ thế, anh vô Sài Gòn. Đôi lần, anh bị hỏi giấy. Cảnh sát nghi anh đào ngũ từ các lực lượng tiền đồn Quảng Trị hoặc Tây Nguyên. Anh trình giấy – ký hiệu của trường huấn luyện biệt kích làm các tay cảnh sát phải xin lỗi anh…
- Chỉ vậy thôi sao? – Nghe Lục thuật xong, Luân vụt hỏi, Lục không hiểu ý nghĩa câu hỏi, liếc Luân mãi.
“Chỉ vậy thôi sao?” – tức là Luân không ngờ sự việc từ một nguyên nhân khác, giản đơn hơn nhiều: hộp thư bị lộ, hoặc giao liên mang tài liệu bị lộ rồi khai báo, địch phục kích… Trong trường hợp đó, nếu Lục thủ tiêu kịp báo cáo thì vẫn cứ để chúng bắt, không đủ yếu tố buộc tội Lục. Chắc là một nhóm công an đã hành động như nghiệp vụ của chúng. Thật tiếc cho Lục!
Luân thở dài. Lục, lần này hiểu:
- Em có lỗi.
- Thôi đã lỡ rồi… Chú nên về khu, tùy trung tâm quyết định…
Luân thuật cho Lục nghe các tin tức về cái chết của anh.
– Có lẽ họ phát hiện xác cái thằng bị em… Em thưa với ông, em muốn tiếp tục làm việc với ông kỹ sư!
Luân phì cười:
- Bậy! Cứ về khu. Không thiếu cơ hội làm việc đâu. Vả lai, đồng chí, hiểu chưa, không có ông kỹ sư nào ở đây!
Lục cười theo.
- Tôi sẽ bố trí cho anh về khu… Đến nơi, anh báo cáo ngay kế hoạch Sea và Explorer, chắc chưa muộn… Nhớ, đừng nói gì về tôi với bất cứ kỳ ai…
Luân xuống xe trước Chợ Lớn mới. Hai người từ giã nhau bằng mắt. Luân đi loanh quanh một lúc, lên một tắc xi khác quay lại nhà thờ Tân Định.
Luân chưa kịp lên xe của Thạch và Dung – họ đến nhà thờ sau Luân vài phút – thì một cô gái gọi anh:
- Ông kỹ sư!
Luân nhớ ra ngay cô gái – cô Mai, nhân viên tòa đô chính, người đã đưa Luân vào chào Trần Văn Hương khi anh về thành năm 1955 và sau đó, gặp anh ở trường Vương Gia Cần. So với 7 năm trước, Mai già hơn nhiều. Càng lớn tuổi, Mai càng giống một người nào đó quen quen với Luân mà khi gặp Mai lần đầu Luân cố đoán song đoán không ra
- Ông kỹ sư nhớ tôi không? – Mai đến cạnh Luân.
Luân chia tay bắt.
- Nhớ! Cô Mai khỏe không?
- Cám ơn… Tôi bình thường.
- Ai đây, xin hỏi, phải bà kỹ sư không?
Dung ra khỏi xe, bắt tay Mai. Luân giới thiệu:
- Cô Mai, nhân viên tòa đô chính, tôi nói cách đây 7 năm, còn bây giờ làm gì, tôi chưa biết.
- Tôi sang Hàng không dân dụng đã 5 năm nay!
- Thế à…? Còn đây, Dung, nhà tôi.
Mai nhìn Dung hơi lâu.
- Ông bà đi chơi sáng chủ nhật?
Dung gật đầu.
- Tôi có một việc muốn thưa với ông kỹ sư để nhờ giúp ý kiến. Tôi có thể gặp ông kỹ sư ở nhà riêng không?
- Được! Xin mời cô Mai. Cô biết nhà tôi chưa?
Mai lắc đầu. Luân đưa Mai tấm danh thiếp.
- Tôi sẽ gọi điện cho ông trước.
Luân về đến nhà, vừa kịp thuật cho Dung nghe trường hợp của Lục, dặn Dung bố trí cho Lục lên Củ Chi thì điện thoại reo: Mai xin gặp Luân ngay.
- Cô ấy đến vì việc gì? – Dung hỏi. Luân không đoán nổi. Anh nhắc những nhận xét của anh về Mai trước đây – một người có thể có mối quan hệ nào đó với kháng chiến.
Mai vào nhà. Một mình Luân đón tiếp cô.
- Tôi muốn hỏi ông một việc. Tôi mạo hiểm và tin rằng không linh cảm sai. Tùy ông, hoặc giúp tôi ý kiến, hoặc gọi công an bắt tôi.
*
Ngọn đèn điện soi lù mù gian nhà xây đá tảng. Chiếc cửa sắt nặng nề ngăn gian hầm với bậc thang, cũng xây đá, hẳn là lối lên mặt đất. Một con đường hẹp hun hút không rõ chạy về đâu ở đầu hầm bên kia.
Một người trần truồng đang co quắp trên nền xi măng lạnh, thân thể bê bết máu. Người đó – tuổi có lẽ trên dưới 60 – vụt nhỏm dậy. Cùng với tiếng động nặng nề, hai chấm xanh lè theo con đường hẹp mỗi lúc một tiến sát gian hầm. bây giờ thì thấy rõ rồi: con cọp to gần bằng con bê. Người đó lao đến cửa sắt, lay mạnh: “Cứu tôi! Cọp!…”
Con cọp dừng lại vài giây, nhe hàm răng chơm chởm. Nó rống còn to hơn cả tiếng kêu cứu. Chỉ một cái nhún, cọp vồ gọn người đó. Ngọn đèn khẽ lắc lư. Nửa giờ sau, con cọp ung dung theo con đường hẹp, vừa bước vừa liếm mép thỏa mãn. Gian hầm còn lại chiếc đầu lâu, các bộ phận bầy nhầy và bộ xương. Nền xi măng lầy máu.

- Tại sao cô biết việc đó?
Luân ôm đầu hỏi.
- Chú ruột tôi là lao công vệ sinh chuồng cọp ở Sở thú. Ông chứng kiến không phải một lần… Gian hầm đó nằm trong hệ thống mấy gian hầm, gọi là P.42. Sợ quá, ông ngỏ ý xin thôi, ông Thái Đen – ông kỹ sư nghe tiếng Thái Trắng, Thái Đen không? Vâng, hai ông đều tên Thái, mật vụ - ông Thái Đen cười lạt: Được, tôi cho ông nghỉ, nhưng không về nhà mà vô hầm đá… Chú tôi đành tiếp tục công việc thu dọn xương thịt, lau chùi máu mỗi ngày. “Ở ngoài, ai biết được chuyện này, ông phải chết!”, Thái Đen bảo như vậy, chú tôi biết ông ta không nói đùa.
- Những ai bị hại theo kiểu đó? – Luân hỏi, thái dương anh giật giật.
Mai không trả lời câu hỏi của Luân, nói tiếp:
- Cách đây vài hôm, tôi đưa một người bạn trai về nhà. Anh là phi công lái máy bay ném bom AD6, vừa tốt nghiệp ở Mỹ. Vì sao tôi quen với anh phi công này, xin phép khỏi kể với ông kỹ sư, nhưng cũng cần nói thẳng: anh ta nhỏ tuổi hơn tôi và không phải chuyện tình cảm. Chúng tôi đang ăn cơm thì chú tôi ghé thăm. Ông mệt mỏi lắm. Chúng tôi mời ông dùng cơm, ông cầm đũa, vừa ăn một miếng, bỗng nôn oẹ. Tôi hiểu lý do, người bạn của tôi thì trố mắt nhìn. Tôi đỡ ông nằm tạm trên đi văng.
Trong khi ăn, người bạn phi công kể lể về việc nhà: anh ở Thừa Thiên, cha và hai người chú đều bị bắt vì dính líu với đảng Đại Việt – Hà Thúc Ký, Phan Quang Đông giam giữ họ cùng một số người khác, sau đó giải tất cả vào Sài Gòn, nghe nhốt ở khám tên P.42. Anh phi công sợ liên lụy, nhờ người khác hỏi tin tức giúp, chẳng đâu có tin tức.
Chú tôi nghe hết, lồm cồm ngồi dậy, rút trong túi ra một chiếc nhẫn bằng ngà voi, đặt lên bàn. Vừa trông thấy chiếc nhẫn, anh phi công chụp lấy, run rẩy:
- Nhẫn của cha tôi!
… Người chú của Mai, trong cơn xúc động, kể những điều trông thấy ở P.42. Viên phi công, sau khi khóc ngất, đã đứng lên, từ giã Mai. Anh quyết định hành động và anh ta sẽ hành động như thế nào, không khó khăn gì mà không đoán ra.
- Cô muốn tôi có ý kiến, ý kiến về việc gì? – Luân ngó thẳng vào mắt Mai.
- Một là, theo ông, anh bạn phi công của tôi trả thù như vậy là nên hay không nên…
- Cô nói tiếp đi…
- Hai là, nếu không nên, thì anh ta phải làm gì. Còn nếu nên, thì lúc nào tiện nhất, tức là có kết quả nhất…
- Trước khi trả lời cô – trả lời là tôi sẽ góp ý với cô hay gọi công an bắt cô – tôi muốn cô cho biết vì sao cô lại đem một việc tày trời như vậy hỏi tôi, một người mà cô thừa biết có mối liên hệ như thế nào với chế độ.
Mai bình thản, điều đó cho thấy cô đã suy tính rất kỹ trước khi gặp Luân.
- Không chỉ tôi mà cả Nam Việt, không ai không biết ông là người của ông Diệm. Song, người nhà của ông Diệm vẫn không ngăn trở ông nói lên điều của riêng ông. Ông từng thực hiện nhiều vệc không giống, hơn nữa, trái ngược với ông Diệm…
- Cô theo dõi tôi kỹ quá! – Luân cười.
- Không chỉ riêng tôi theo dõi ông…
- Tại sao cô theo dõi tôi, cô có thể cho biết không?
- Xin lỗi ông, tôi không thể làm vừa lòng ông… Tôi bịa ra một cớ, chắc được, song không nên nói dối tại đây, lúc này… Ông cứ cho tôi giải thích theo dõi ông vì tò mò chẳng hạn…
- Bảy năm trước, cô bảo tôi cái gì, tôi còn nhớ: ông tiếp tục sự nghiệp kháng chiến bằng cách vứt súng…
- Ông có một trí nhớ tốt đặc biệt. Đúng, tôi đã nói như vậy. Sau đó, tôi thất vọng hơn một mức nữa khi ông cộng tác với Ngô Đình Nhu. Nếu tôi tiếp tục khư khư với định kiến thì, ông đừng phiền, tôi đã gợi ý cho anh bạn phi công của tôi, trong một dịp nào thuận tiện, xả vào ông một băng tiểu liên!
Mai nói rạch ròi. Cơ thể mong manh của cô gái chứa một nghị lực lớn; Luân thấy vui vui: Bảy năm Mai không còn non nớt.
- Cô có thể cho tôi biết cô là ai không? Cô biết tôi nhiều hơn tôi biết cô, thật không công bằng!
Mắt Mai chớp, nụ cười ranh mãnh:
- Tôi không thuộc về một phía nào có thể làm hại ông.
Luân bỗng hạ giọng:
- Mai đứt liên lạc từ bao giờ? Công tác binh vận thương đơn tuyến, dễ đứt liên lạc.
Mai lại chớp mắt, nụ cười vẫn ranh mãnh:
- Ông dẫn tôi đi quá xa rồi! Tôi trở lại câu hỏi chính.
- Tôi không thể trả lời cho cô. – Luân nghiêm giọng – Như cô cho biết, anh chàng phi công bạn của cô thuộc một gia đình Đại Việt. Với một phi công Đại Việt, anh ta đã định làm, muốn ngăn cũng không ngăn nổi, anh ta đã định không làm, muốn xúi cũng không xúi nổi. Chính họ hiểu hơn ai hết phải làm như thế nào và làm lúc nào, nếu họ quyết tâm. Cô nên nhớ, tai mắt của Đại Việt đâu đâu cũng có. Vả lại, tôi không thích những vụ trả thù tư riêng…
- Ông vừa nói một câu không thật. Ông không thích những vụ trả thù tư riêng, nhưng chẳng lẽ ông không tìm thấy trong những vụ trả thù đến mức nào đó sẽ mang đến hậu quả không còn tư riêng nữa…
Mai nói đều đều. Luân biết mình đang tiếp một tay có bản lĩnh. Anh chợt nhớ Mạch Điền. Không! Mai không thể nào là Mạch Điền được.
- Tôi xin hỏi một câu bè bạn: Anh ở nhà khỏe không?
Mắt Mai vụt tối sầm.
- Nếu câu hỏi vô duyên của tôi phiền cô…
- Không! Cám ơn ông… Ông quan tâm đến chúng tôi càng chứng tỏ tôi đã không lầm khi trao đổi với ông về chuyện vừa rồi… Nhà tôi bị bắt và biệt tích hai năm nay. Chắc ông muốn biết nhà tôi làm gì mà bị bắt. Bây giờ, tôi không cần giấu, nhà tôi là một cán bộ hoạt động nội thành, anh ấy dạy học và phụ trách tổ chức các nhà giáo…
- Anh bị bắt lúc nào?
- Giữa năm 1959, lúc anh đang dạy…
- Ai bắt?
- Lúc đầu, công an bót Hàng Keo, sau đó chuyển lên Nha cảnh sát Đô thành và mất tích…
- Có vào P.42 không?
- Chú tôi không gặp anh ấy, nhưng tôi nghĩ anh ấy chết tại P.42… Không phải lúc nào chú tôi cũng có mặt ở đó.
- Tôi có thể hỏi thăm tin của anh, nếu chị cho biết tên. – Luân đổi cách xưng hô – Anh còn sống thì tôi cũng có thể xoay xở cho anh được tự do…
- Cám ơn ông nhiều… Tuy nhiên, tôi không còn một chút hy vọng. Các bạn tù của anh ấy đều cho biết từ Nha cảnh sát Đô thành, anh ấy bị lôi đến một nơi giam giữ nào đó rất bí mật và không còn ai gặp anh ấy nữa. Trong giấy căn cước của nhà tôi là Lê Văn Hòa, giáo sư…
- Anh chị được mấy cháu? – Luân hỏi, sau khi ghi chú tên của chồng Mai.
- Một cháu, lên bốn… Cháu gái.
- Tôi xin hỏi ông thêm một vài chi tiết kỹ thuật, - Mai chuyển nội dung nói chuyện sang hướng khác – tôi muốn biết mỗi chiếc Skyraider chở được bao nhiêu bom?
Luân ngó Mai một lúc. Người ta đã nói với cô những gì về loại máy bay sản phẩm của Thế chiến thứ hai này?
- Đó là loại máy bay ném bom duy nhất chở nổi một trong lượng bằng chính trọng lượng của nó, mà nó rất to, có thể mang ba tấn rưỡi bom các cỡ từ 350 đến 500 ký, bom miểng hay bom cháy hay napalm. Nó có bốn khẩu tiểu pháo 20 ly… Tốc độ bay tối đa 500km/g, bay cao được 8 cây số, tầm hoạt động 400 trăm cây số… Tất cả những gì thuộc số liệu cơ bản của Skyraider, có bấy nhiêu.
- Cám ơn ông nhiều… Ba tấn rưỡi bom! Không phải ít…
- Nhưng, trọng tải thực tế thường thấp hơn… Nhất là nếu phải đi ném bom xa… Hiệu quả của nó cũng không phải ghê gớm lắm đâu…
- Chỉ cần ném trúng đích! – Mai nhấn mạnh. Luân thừa hiểu cái “đích” đó…
Câu chuyện càng lúc càng buồn đồng thời càng lúc càng giống như hai đồng chí trao đổi và chia xẻ với nhau.
- Chị cẩn thận với tay phi công Đại Việt. Đại Việt hung dữ, gian giảo chẳng thua ai… - Luân dặn dò trước khi Mai ra về.
*
Giữa những gọng kềm.
(Bài của Hellen Fanfani gửi báo Financial Affairs bằng telex)
Sài Gòn, November. Trong khi cuộc hội đàm giữa đại diện của Tổng thống Mỹ với phái đoàn Nam Việt đang đi vào những chi tiết của một chương trình hành động chung và hiệu quả nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt – nay thì xấu đến tồi tệ - Quốc hội Sài Gòn, dĩ nhiên dưới sức ép của Phủ tổng thống, thông qua đạo luật số 13 trao cho ông Ngô Đình Diệm quyền hành đặc biệt được ban bố các sắt luật trong tình trạng khẩn cấp, sau khi ông Diệm tự mình ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp 5 ngày trước đó. Diễn đạt cách khác, nhà cầm quyền Nam Việt của ông Diệm xem Nam Việt ở vào thời điểm báo động có tính cách toàn quốc. Một chính khách Nam Việt rất thông thạo các vấn đề chính trị - và yêu cầu không tiết lộ tên – cười với vẻ hài hước: “Tổng thống Diệm và em trai, em dâu của ông ta chưa bỏ lối thủ đoạn vặt. Chính khách ấy bảo: “Chế độ Sài Gòn lợi dụng kẻ thù của mình – sau khi đã lợi dụng Đức Chúa Trời, người di cư, phe phái Quốc gia và đồng minh. Bây giờ, nếu Việt Cộng giảm cường độ chiến tranh thì chính anh em ông Diệm nổi đóa. ”
Chế độ Sài Gòn có đứng sát bờ vựt sụp đổ - do Việt Cộng – thì ông Diệm mới chuyển được cái thế từ đang bị người Mỹ hạch sách lên cái thế hạch sách lại người Mỹ. Ông Diệm ngoan cố với lập luận: Nam Việt suy yếu vì người Mỹ phân tán sức ủng hộ, chập chờn giữa ông Diệm – mà thành công của những năm cuối thập kỷ 1950 là sáng chói – với các nhóm, đeo đuổi trò chơi dân chủ nguy hiểm. Tướng Taylor chứng kiến, trong dịp này, thái độ kiên quyết chống Cộng, kiên quyết chiến tranh của ông Diệm và sự đoàn kết quốc gia vững chắc – quốc hội đứng sau lưng Tổng thống. Vậy thì, con đường duy nhất đi đến bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, tức giảm áp lực của Cộng sản, nếu không chiến thắng giòn giã, ít ra cũng đẩy lùi Cộng sản về vị trí và thế lực trước 1960, là phải dồn sự ủng hộ cho chế độ hợp hiến, hợp pháp do ông Diệm đứng đầu, bạn đồng minh duy nhất ở Nam Việt mà Mỹ tin cậy được.
Người ta nói với nhà báo nước ngoài: Còn phải xem quyền đặc biệt của ông Diệm tác động đến Cộng sản như thế nào, trong khi cái quyền không giới hạn ấy lại như lưỡi gươm lơ lửng trên đầu Damocles (1) đối với các đòi hỏi “dân chủ hóa” Nam Việt, thực chất là đòi chia quyền với ông Diệm. Ngày 26-10, nhân Quốc khánh Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Mỹ hồi đáp: Mỹ tăng viện vì tình hình Nam Việt khẩn trương.
Đến đây, sự thể không còn đơn giản nữa. Tổng thống Mỹ vồ lấy cái cớ do chính ông Diệm bù lu bù loa để mang cả vũ khí lẫn thực binh sang Viễn Đông, điều mà Eisenhower không làm nổi. Có thể ông Diệm và người em trai khôn ranh của ông đang hối hận. Kennedy thống nhất với ông Diệm về tình hình nguy kịch ở Nam Việt nhưng lại chọn giải pháp xử lý khác – nếu không nói là ngược – với ông Diệm.
Ngày 4-11 tướng Taylor về Mỹ, hoàn tất kế hoạch bình định Nam Việt trong vòng 18 tháng. Viên tướng thích bắt mọi thực tế phụ thuộc vào các nét bút chì của ông ghi trên giấy trấn an Tổng thống Mỹ: “Người Mỹ chi một số nhân lực tối thiểu không thể gây xôn xao trong dư luận và quốc hội Mỹ mà đạt hai mục tiêu chiến lược: đánh bại Việt Cộng trong thời hạn lý tưởng nhất và khống chế chính quyền Sài Gòn trong khuôn phép chặt chẽ nhất.
Trên chiến trường – mà chiến trường bây giờ lan hầu như khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa: vùng bờ biển Trung phần yên tĩnh suốt năm 1960: nay theo gót Nam phần. Chỉ kể thời gian từ lúc tướng Taylor có mặt ở Sài Gòn – 25 ngày – Việt Cộng mở 30 trận tấn công cấp tiểu đoàn hoặc nhiều tiểu đoàn nhắm vào các thị trấn xung yếu, kể luôn tỉnh lỵ. Ngoại giao đoàn và các nhà báo được cảnh cáo chớ đi quá xa nội ô Sài Gòn mà không có hộ tống. Một đại tá Việt Nam Cộng hòa bị bắt cóc và người ta nhặt xác ông ở dưới dạ một chiếc cầu sát Sài Gòn.
Tướng Taylor, người hùng Triều Tiên quên tiền lệ của tướng Leclerc, viên tổng chỉ huy Pháp, người hùng thế chiến, cam kết bình định Nam Việt mấy tuần lễ - cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam kéo dài 9 năm và người Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ và Genève.
Ông Diệm, nhà độc tài kiên định, quên rằng nếu ông biết sử dụng kẻ thù như đồng minh để trả giá với Mỹ thì Mỹ còn đủ điều kiện hơn ông làm việc tương tự. Mỹ đang mô tả tình trạng khẩn cấp ở Nam Việt một trăm lần khẩn cấp hơn sự mô tả của ông Diệm.
Những gọng kềm đang siết… Ông Diệm có vẻ hiểu thân phận – ông ký lệnh bổ đại tá Nguyễn Văn Y làm Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia. Ông quyết đối phó, không phải với những gọng kềm, mà đối phó với những kẻ cùng lọt giữa gọng kềm như ông”.
Bài báo không được chuyển về Mỹ. Luân nhận bản sao bài báo dưới dấu để confidential (2) của Tổng nha thông tin.
---
(1) Vua Denys (gọi là Denys Già để phân biệt với Denys Trẻ) ở xứ Syracuse (đảo Sicile) thế kỷ 4 trước công nguyên cho treo một thanh gươm thật nặng trên đầu Damocles, một viên triều thần để thử thách.
(2) Tuyệt mật.



Phần 6 - Chương 10


“Trong hằng loạt biện pháp ấy đáng chú ý hơn cả là “quốc sách” ấp chiến lược và chiến thuật trực thăng vận. Với kế hoạch Staley – Taylor dự kiến bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, Mỹ và ngụy lấy việc gom dân vào ấp chiến lược làm “chương trình xương sống”. Ngô Đình Nhu gọi ấp chiến lược là “kế cuối cùng” và ra lệnh cho bộ hạ không được quyền nghĩ đến thất bại khi thực hiện kế hoạch này”…
Luân và Dung ngồi quanh chiếc radio bán dẫn, theo dõi buổi tin tức của đài phát thanh Hà Nội. Ngoài yêu cầu qua đài mà hiểu tình hình chung – họ đứt liên lạc sau khi Lục vào lọt trong khu – các buổi phát của đài còn mang đến cho họ tình cảm gắn bó với chiến trường, với cả miền Nam, với cả nước. Riêng Dung, cô thông thạo các bài hát giải phóng – thỉnh thoảng, cô vẫn hát khẽ cho Luân nghe “Chiếc khăn tay”, “Xuân chiến khu”, “Qua sông”…
Nghe xong bản tin, Luân gọi Thạch đưa anh ra bờ sông. Gần đây hễ rảnh rang, Luân thường ngồi băng đá trên bến Bạch Đằng ngắm dòng sông vào buổi tối. Có khi Dung cùng đi với anh, nhưng thường anh đi một mình – Dung tôn trọng những lúc anh suy tư.
Thạch ngồi trong xe nghe ca nhạc. Luân thững lững đến chiếc băng đá quen thuộc, khuất bóng đèn, gần một khóm cây. Từ radio trong xe, Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết song ca bài “Trăng rụng xuống cầu”. Dòng sông màu sẫm đục, bên Thủ Thiêm, vài ánh sáng vàng bắt trên sóng lăn tăn.
“Thế nào đây?” Luân bắt đầu soát lại các diễn biến của tình hình. Ấp chiến lược quả gây khó khăn cho ta – qua báo cáo của các nơi, Luân thấy rõ ngụy phần nào hồi phục sức lực sau cú bị choáng váng năm 1960 kéo dài đến giữa năm 1961. Về đất, chúng chưa lấn rộng được bao nhiêu song về dân, mức kiểm soát của chúng cao hơn trước. Cũng qua thông báo chiến sự, Luân hiểu là quân giải phóng chưa đối phó chủ động với chiến thuật trực thăng vận – khá mới mẻ. Taylor hy vọng chiến thuật này sẽ giúp quân ngụy cơ động hơn, nhất là tận dụng được các đơn vị tinh nhuệ và phát huy được ưu thế ở những địa hình bằng phẳng. Taylor – khác Mac Garr – coi trọng châu thổ sông Cửu Long, lấy bình định khu vực đông dân, nhiều tài nguyên này làm mục tiêu số một, trong khi tạm thời sử dụng bom pháo và xây dựng các tuyến phòng ngự ngăn giải phóng phía rừng núi. Hễ bình định xong đồng bằng, chúng sẽ mở các chiến dịch đánh vào hệ thống căn cứ đầu não của Mặt trận giải phóng nằm phía tây bắc Sài Gòn.
Hợp đồng tốt nhất với quân dân ta, theo trách nhiệm của bản thân, Luân nghĩ nhiều đến những khả năng gây rối loạn nội bộ Sài Gòn. Sau cú của Nguyễn Chánh Thi, tình hình bề ngoài có vẻ tạm ổn, song Luân thừa hiểu các các mối mâu thuẫn không tài nào dàn xếp nổi vẫn ngấm ngầm phát tirển, thậm chí rộng và sâu sắc hơn trước chính biến 11-11-1960, Mỹ đã hoãn mọi dự định thay đổi Diệm – một phần chờ đợi kế hoạch Staley – Taylor triển khai, phần khác do thái độ ủng hộ Diệm rất tích cực của Nolting. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Mỹ sẽ ủng hộ Diệm với bất cứ giá nào. Kế hoạch Staley – Taylor mà sụp thì Diệm khó lòng đứng vững. Vấn đề là đánh bại kế hoạch đó… Theo dõi nhiều bài bình luận liên tục của đài Hà Nội cộng bản điểm tin, báo chí Hà Nội mà hằng ngày Sở nghiên cứu chính trị cung cấp cho, Luân nhận thức rằng cơ quan lãnh đạo của ta lấy đánh bại kế hoạch đó – qua phá vỡ ấp chiến lược – làm công tác trọng tâm.
Thế lực chống Diệm thì nhiều song rời rạc. Thế lực đó trong quân đội lại lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ. Cái còn bí ẩn là Đại Việt, Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Mỹ. Hoàn sốt ruột, muốn hành động sớm bởi gã ngại kế hoạch Staley – Taylor mà thành công thì Mỹ sẽ giữ Diệm – gã dù tham chính, cũng chỉ là nhân vật số hai, số ba. Còn đợi đến khi kế hoạch Staley – Taylor sụp thì không phải phe cánh của gã được giao nhiệm vụ thay thế Diệm mà là người khác. Nhưng Hoàn sẽ làm gì? “Người bạn phi công” của Mai có thể làm tới đâu?
Luân chìm trong các loại logic mà anh lật tới lật lui nên không để ý hai người đứng sát anh – cả hai đều lực lưỡng, đội kết kéo sụp. Khi Luân bừng tỉnh thì hai khẩu súng ngắn đã gí vào đầu và hông anh:
- Ngồi yên! – Một giọng ồm ồm ra lệnh.
Luân bị tước súng.
- Đứng yên! - Vẫn giọng ồm ồm – Đừng hô hoán, nếu muốn sống. Chúng tôi là biệt động thành, hiểu chưa? Đi!
Một tên thúc súng vào lưng Luân, đẩy anh men theo bóng cây, ra đường. Một chiếc Citroen sơn đen đang nổ máy chờ. Từ xe Thạch, tiếng cao vút bây giờ là của một nữ ca sĩ…
Luân bắt buộc phải chui vào băng sau xe, hai tên kẹp anh. Ghế trước, một tên ngồi sẵn, tay lăm lăm súng.
- Chạy! – Tên ngồi trước bảo tài xế, rồi bảo Luân: - Nếu anh còn một chút lương tâm thì không được chống cự. Theo chúng tôi về căn cứ. Ở đó, cấp trên sẽ nói chuyện với anh.
Xe chạy ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm ra cầu Phan Thanh Giản lên xa lộ.
“Họ là ai?” Luân cố đoán. Hai tên kế Luân nồng nực mùi rượu. Ánh đèn đường từng lúc soi vào xe: cả bốn tên mặt mũi bình thường. Khó có thể là biệt động thành. Nhưng, biết đâu…
- Các ông cất súng, kẻo cảnh sát thấy, nguy hiểm các ông…
Luân tìm hiểu bọn này bằng cách của anh. Anh thành công ngay: cả ba cho súng vào túi. “Không phải Mai Hữu Xuân hay Trần Kim Tuyến. Còn khả năng: CIA, Đại Việt, cũng không loại trừ biệt động thật”.
- Anh đừng hòng kêu cứu, chúng tôi đủ thời giờ kết liễu mạng anh… - Người ngồi ghế trước doạ
Đến ngã tư Hàng Xanh, đèn đỏ. Xe ngừng.
- Các anh bật đèn trong xe lên. Xe tối om, cảnh sát dễ nghi, sẽ xét hỏi, lôi thôi…
Luân lại góp ý. Tài xế hiểu giống Luân, với tay mở công tắc. Hai cảnh sát ngó vào xe. Bốn người trên xe cố giữ bình tĩnh. Luân có thể nhân cơ hội này kêu cứu với cảnh sát, song anh không làm. Trong một thoáng, Luân đi đến lập luận: Nếu là biệt động thành, anh sẽ nhờ nối liên lạc; nếu không phải, có thể anh tìm ra một cái gí cần cho công việc của anh. Giả sử đây là một nhóm muốn khử anh, họ bắn anh ở bờ sông rồi tẩu thoát, đâu cần áp giải anh cho nguy hiểm. Do đó, Luân chỉ cười cười với hai cảnh sát. Nhờ thái độ tự nhiên của Luân, hai cảnh sát cười đáp lễ.
Xe ngoặt về hướng Bà Chiểu, rẽ sang bán đảo Bình Quới tây. Khi xe vượt cầu Kinh, cả bốn người thở phào – Luân biết xe đã lọt vào vùng an toàn của họ.
Con đường xuyên bán đảo tối om. Đèn pha xe quét hai bên lề đầy cây rậm rạp.
Xe dừng trước một cổng lớn. Cổng mở, xe chạy luôn vào bên trong một khu vườn có tường cao bao bọc. Xe đỗ sát thềm một biệt thự hai tầng, cạnh sông. Trong biệt thự, đèn sáng choang. Luân kịp nhìn thoáng một chiếc Jeep quân sự đậu nép – như cố giấu mình – đằng sau gốc xoài um tùm.
- Mời anh xuống, vào nhà… - Người ngồi ghế trước bước ra khỏi xe bảo Luân
Họ đưa anh vào phòng khách – bày biện trang nhã. Hẳn là ngôi nhà nghỉ cuối tuần của một tên giàu sộp nào đó.
- Chào đồng chí Bảy Luân! – Một người béo lùn, đầu hói, trạc tuổi 50, đón Luân ngay cửa phòng khách. Ông ta nói giọng Thừa Thiên.
- Đồng chí mạnh chứ? Ngồi, ngồi…Rồi ta nói chuyện… - Ông ta bắt tay Luân, kéo ngồi xuống ghế.
- Tụi em phải uy hiếp đồng chí Bảy đó! – Người giọng ồm ồm nói – Xin giới thiệu đồng chí Bảy, đây là đồng chí Hai Thuận, chỉ huy trưởng biệt động thành.
- Trước hết, tụi này xin lỗi đồng chí. Cấp trên lệnh cho chúng tôi mời đồng chí vào khu, nhưng không có điều kiện liên lạc với đồng chí, theo dõi một thời gian phát hiện ra qui luật của đồng chí chiều tối thường ngồi trên băng đá bến Bạch Đằng… Đành phải vô lễ vậy… Trong công tác, đôi khi chúng ta phải ngụy trang. Tôi bảo các đồng chí: đồng chí Bảy Luân tính Đảng cao, cứ nói là biệt động thành cần nói chuyện với đồng chí, đồng chí sẽ không phản ứng… Quả đúng như dự đoán. Bây giờ, tôi báo cáo với anh Bảy, khu ủy muốn gặp anh, gặp ở Hố Bò. Sáng mai, chúng tôi sẽ bố trí đưa anh Bảy đi, theo đường du kích.
Hai Thuận giảng giải thao thao, khi gọi Luân là đồng chí, khi là anh. Luân ngó lên trần nhà tỉnh bơ.
- Đi theo đường du kích mất mấy hôm? – Luân hỏi.
Mặt Hai Thuận rạng rỡ - cái rạng rỡ không ăn nhập gì với nội dung câu hỏi của Luân.
- Dạ ba hôm…
- Sao lâu quá vậy?
- Đường khó lắm… Hố Bò ở xa…
- Hố Bò thuộc về đâu?
- Ủa, anh Bảy chưa biết Hố Bò sao? Hố Bò thuộc căn cứ Cục R…
- Anh Hai đã lên đó rồi?
- Nhiều lần… Mới tuần trước tôi về họp với anh Chín Dũng… Anh Bảy quen anh Chín không? Anh Chín là bí thư Khu ủy.
- Hố Bò ra sao? – Luân không trả lời, hỏi tiếp.
- Ối, quán xá đen nghẹt, buôn bán sầm uất lắm.
- Có phải bò qua hố không?
Hai Thuận chớp mắt, hơi hoang mang:
- Hết rồi! Có cầu, cầu lớn…
“Thằng cha này chưa chắc là Hai Thuận” - Luân nghĩ bụng.
- Ở đây có điện thoại, anh Bảy cần dặn chị Bảy việc nhà, xin gọi… Hoặc anh Bảy cần lấy tài liệu để báo cáo với Khu ủy…
- Cám ơn. Khỏi gọi. Thế nào nhà tôi cũng biết tôi đi đâu… - Luân nói ung dung.
- Vậy, anh Bảy không phải mới ra khu một lần? – Mặt của “Hai Thuận” lại rạng rỡ.
“Tụi này chắc đặt máy ghi âm…”. Luân cười nhẹ:
- Đúng, tôi ra vô mật khu nhiều lần rồi. Kể cả Hố Bò…
- Ủa, sao lúc nãy anh Bảy hỏi Hố Bò thuộc về đâu?
- Ờ, tôi chưa rõ Hố Bò nào… Hố Bò mà tôi biết thuộc làng Phú Mỹ Hưng. Ở đó, thuở xưa là chợ bán bò, bò dồn trong một cái hố… Còn Hố Bò mà anh nói lại là cây cầu bắc ngang hố, người qua phải bò…
- Anh Bảy rành vùng của mình hơn tụi tôi… Xin báo cáo với anh Bảy, đội biệt động tụi tôi gồm hơn mười đội viên, tất cả là đảng viên. Tôi là chỉ huy trưởng kiêm bí thư Đảng bộ. Nhân anh Bảy ghé đây, chi bộ họp bất thường, đề nghị anh Bảy nói chuyện về tình hình nhiệm vụ. Hoạt động nội thành, tụi tôi ít được bồi dưỡng, còn anh Bảy là cán bộ cấp cao, nhận chỉ thị, nhận quyết định của Khu ủy hoặc của Trung ương thường xuyên. Anh Bảy nói chuyện, anh em phấn khởi… Hỏi thiệt anh Bảy, hỏi cho biết để thêm tin tưởng thôi: anh Bảy gặp anh nào ở ngoài Hà Nội vô chưa? Gặp tướng Trần Nam Trung chưa? Trần Nam Trung là ai vậy anh Bảy? Phải Đồng Văn Cống không?
- Biệt động các anh không ngăn cắt với nhau? – Luân châm thuốc, hỏi sang chuyện khác.
- Không… Ngăn cắt hả… cái đó. – Ông ta ngập ngừng.
- Họp ở đây, lỡ công an ụp vào thì làm sao né kịp?
- Anh Bảy yên tâm, ngôi nhà được canh gác cẩn thận.
Luân vươn vai, đứng lên… Góc phòng, trên búp-phê, có một khung ảnh. Luân làm như cần suy nghĩ, đi đi lại lại dọc theo phòng. Trong khung, ảnh một cô gái đẹp. Và, Luân cười thầm: ảnh Trúc Đào, có lẽ chụp hồi chưa lấy Vũ Liệu.
- Tụi này được Bộ chỉ huy quân khu nhắc nhở phải yểm trợ cho anh Bảy hoạt động thắng lợi. Dễ gì có một cán bộ cỡ anh Bảy “mai phục” lọt cạnh Tổng thống ngụy… - “Hai Thuận” tán riết.
- Đủ chưa? Luân ngồi xuống ghế, hỏi đột ngột.
- Đủ rồi. Anh em tập trung từ chiều, đang ngồi ở phòng trên lầu. Mời anh Bảy. – “Hai Thuận” hí hửng.
- Anh hiểu sai câu hỏi của tôi. Tôi hỏi anh vở tuồng đến đây đủ chưa… Các anh thu băng cuộc nói chuyện của tôi đủ chưa?
“Hai Thuận” sững sờ. Cái trán hói của ông ta lấm tấm mồi hôi.
- Anh Bảy nói gì, tôi nghe không rõ.
- Thôi, ta đi vào cốt lõi của cuộc gặp gỡ. Tốt nhất, hãy tắt máy ghi âm đi… Bởi vì, dầu có ghi, các anh cũng khó sử dụng được. Từ đoạn này trở đi, băng ghi âm không giúp cho các ông tài liệu để làm áp lực trả giá với tôi… Ông học lóm vài ngôn ngữ của Việt Cộng, nhưng buồn cho ông, hiểu biết của ông cạn, quá cạn… Một đội biệt động chỉ có đội trưởng, không có chỉ huy trưởng, không bao giờ có một đội biệt động lại biết mặt nhau tất cả… lại còn “Cục R” – chỉ có phía Quốc gia gọi như vậy. Còn Hố Bò… Muốn làm giả, cũng phải công phu, làm giả Việt Cộng càng công phu hơn…
“Hai Thuận” từ sững sờ chuyển sang nổi cáu:
- Đã vậy… đã vậy tụi tôi không coi anh là đồng chí nữa… Đồ phản quốc, phản động! Đồ tay sai cho nhà Ngô!
- Rất khó làm “đồng chí” với các ông… Tôi chỉ nói về sự thông minh. Phàm người khôn, việc nhỏ cũng cho thấy chỗ khôn, còn người ngu, việc to bằng cái đình vẫn ngu.
Luân khoanh tay trước ngực, thách thức.
- Im mồm… Tao bắn mày chết tươi bây giờ! – “Hai Thuận” gầm như con thú bị thương.
- Chớ giở thói lưu manh… Cấp trên của ông không nương tay với ông nếu cuộc nói chuyện hôm nay thất bại. Ông đóng quá lố vai được phân rồi…
Luân xem đồng hồ tay:
- Vào đề ngay thôi, nếu ông được ủy quyền. Tôi nghi ngờ. Ông không đủ tư cách. Dầu sao, cũng không nên phí thì giờ. Chậm độ nữa giờ, một dọc lãnh tụ của các ông bị bắt, tôi cam đoan như vậy.
- Mày nói cái gì, thằng kia? – “Hai Thuận” vẫn một mực hùng hổ.
- Ông mời người có đủ tư cách của đảng ông ra gặp tôi! Bằng không, chính ông là kẻ phản đảng, đảng của ông. Hoàng Xuân Tửu, Hoàng Xuân Lâm, Vũ Liệu, Hà Thúc Ký… Không ai thoát!
- Hả? – Mặt của “Hai Thuận” đực hẳn.
- Ông ngu lắm. Tôi mất tích, Phủ tổng thống đặt câu hỏi: ai bắt cóc. Đảng Đại Việt lòi lưng ngay. Một cú điện thoại của Ngô Đình Nhu, các ông từ vùng I tới Sài Gòn, có cánh cũng không thoát. Ông Nhu chờ cái cớ để lùa các ông xuống P.42. Cái cớ đó là tôi. Tốt vô cùng… hiểu chưa?
Luân lại xem đồng hồ tay.
- Ông còn già 20 phút một tí để tránh tai họa.
- Còn mày, mày chỉ được một phút thôi. Nghe tao hỏi: Vì sao mày biết đây là căn cứ của Đại Việt. Đứa nào mách với mày… Tao đếm ba tiếng… Một!
- Ông quẫn trí rồi… - Luân vẫn điềm nhiên …- Nói thật chính xác, ông phá vỡ kịch bản… Luôn Nguyễn Tôn Hoàn cũng không yên thân bên Mỹ. Mỹ hỏi tội lãnh tụ tối cao của các ông: tại sao xuẩn ngốc đến thế để cả một chính đảng bị tiêu diệt. Tiêu diệt còn đau đớn hơn biến cố đau lòng nữa…
- Hai! – “Hai Thuận” lầm lì đếm, tay đã lăm le khẩu súng ngắn – Mày xưng tội đi thì vừa, thằng chó săn nhà Ngô… Tao phải trả món nợ P.42 này… Mày nhất định dính vào đó…
- Ngu xuẩn! – Chợt tiếng ai đó vang lên. Từ cửa ngách một người bước ra. Để râu mép, mặc sơ mi ngắn tay, đeo kính trắng, tuổi khó đoán – đã có nép nhăn ở khoé mắt song xét chung còn rất trẻ.
- Dẹp khẩu súng của anh lại. – Người đó, giọng Quảng Trị ngó “Hai Thuận”, lạnh lùng – Định đấu súng với trung tá Nguyễn Thành Luân à?
- Xin lỗi… - Ông ta nghiêng người – Để cấp dưới lỗ mãng với người như trung tá, chúng tôi rất xấu hổ. Đảng quy của chúng tôi nghiệm mật, trung tá tin đi, hắn sẽ được sửa trị ngang với lỗi lầm của hắn… Cút! – Ông lại quắc mắt. lần này, “Hai Thuận” ríu ríu đứng lên, thất thểu bước vào trong…
- Có lẽ ông Hai Thuận bị xúc động! – Luân trông theo cái vẻ chán chường của “Hai Thuận”, ái ngại.
- Cám ơn trung tá quan tâm. Đúng, hắn mất người anh ở P.42. Hắn không phải là Hai Thuận.
- Tên gì, không quan trọng. Hình như ông ta có một người cháu là phi công lái AD6.
- Đúng! Mà sao trung tá biết? – Người mới xuất hiện tỏ rõ kinh ngạc pha ít nhiều lo lắng.
- Xin phép ông. Tôi nói chuyện với ai đây?
- Tôi là Hoàng. Xin lỗi trung tá về những gì vừa gây khó chịu cho trung tá. Mọi việc khi nằm trên kế hoạch thì có vẻ hoàn hảo nhưng đi vào thực hiện lại lộ không biết bao nhiêu khuyết điểm…
Ông ta ngồi vào chỗ “Hai Thuận”, nói vừa như thanh minh vừa như dạy đời
- Tôi biết ông Hai Thuận có người cháu lái AD6 và biết luôn thảm cảnh của gia đình ông. Do đó, tôi xin các ông chớ trừng phạt ông Thuận. Còn tại sao tôi biết, thì – Luân cười thoải mái – nếu tôi không biết tình hình trong đảng các ông mới là điều đáng kinh ngạc… Tuy nhiên, hình như các ông để những ân oán kiểu ông Hai Thuận và kiểu vụ Ba Lòng cũ chen hơi nhiều vào chủ trương của các ông…
Hoàng thỉnh thoảng gật đầu đáp lại nhận xét của Luân.
- Chắc chúng ta cần nói chuyện hơi dài. Ít khi có dịp như hôm nay, nhất là chúng ta nói chuyện thật cởi mở, tư cách mỗi bên đều không có gì phải che dấu… Tôi nghĩ là trung tá nên gọi điện cho bà trung tá để việc vắng mặt đột ngột của trung tá không gây ồn ào.
Thấy Luân mỉm cười, Hoàng nói tiếp:
- Tất nhiên, cũng để cán bộ Đại Việt chúng tôi không bị làm khó dễ.
Luân đến máy. Chỉ cần trễ vài phút nữa. Dung đánh động khắp nơi.
- Anh đang chơi ở nhà người bạn… Người bạn nào à? Người bạn mà cô Mai nhắc đến hôm nọ. Những người bạn như vậy… Anh sẽ về nhà trước giờ giới nghiêm.
Mặt đối mặt, Luân và Hoàng đi vào “cuộc thương lượng” trên thế cần bằng. Trước họ, một mâm đồ nhắm và rượu. Bên ngoài, sông Sài Gòn nhấp nháy ánh sao trời.
- Chúng tôi trọng trung tá, một người Quốc gia chân chính. Vận nước đang nghiêng ngửa, mọi người Quốc gia chân chính đều phải thấy trách nhiệm. Đôi lần, ủy ban lãnh đạo tối cao của đảng chúng tôi đặt vấn đề mời trung tá tham gia đảng. Song, chúng tôi chưa biết phải mở lời như thế nào để trung tá thông cảm. Xin lỗi, dù trung tá giữ cương vị tinh thần rất cao trong Trung ương đảng Cần Lao, chúng tôi vẫn xem đó là một thích nghi hoàn toàn ứng phó… - Hoàng mở đầu và đi ngay vào một trong những điều quan trọng nhất: rủ Luân vào đảng Đại Việt.
- Có lẽ chúng ta không nên phí thì giờ… Xin lỗi ông. Tại sao chúng ta phải “khai vị” bằng việc tuyên truyền cho đảng Đại Việt? Cũng như các ông vừa phí thì giờ thử xem tôi có phải là Cộng sản không… Chúng ta là những người quan tâm đến thời cuộc, tôi đồng ý lấy đó làm cơ sở và chỉ dựa mỗi cơ sở đó thôi. Giả tỷ tôi lại rủ ông vào đảng Cần Lao, thì ông thấy thế nào? Buồn cười quá phải không?
Hoàng đỏ mặt.
- Nếu vậy, ta đi ngay vào điều hai bên đều quan tâm… Ông Diệm và cả chế độ của ông từ lâu rồi là công cụ giúp Cộng sản rất đắc lực. Phải nói chính ông ta, em trai, em dâu, anh, chị, toàn gia tộc ông ta mở đường cho Cộng sản chiến thắng. Không phải chúng tôi mà nhiều người Mỹ cũng nhận định như vậy… Không có gì bức bách hơn là phải thay thế ông Diệm…
- Cứ cho lập luận của đảng các ông là đúng, tại các ông không trao đổi với người Mỹ? Người Mỹ đủ sức làm một cuộc thay đổi nếu họ muốn…
- Đó là chỗ còn đôi phần khó khăn. Với đại sứ Nolting, thay đổi nguy hiểm hơn vẫn giữ ông Diệm. Nhưng, với một số giới chức Mỹ khác, thay đổi là tất yếu. Rất tiếc, hiện nay quyền lực trong tay Nolting.
- Fishel không kém quyền lực lắm đâu! – Luân hóm hỉnh.
- Trung tá hiểu nội tình người Mỹ rất thấu đáo. Song, Fishel do dự về thời gian. Mà chúng tôi nghĩ kéo dài thêm một ngày, nguy cơ chủ nghĩa quốc gia bị đánh bại ở Nam Việt lớn ra thêm một mức, đến độ vô phương cứu vãng.
- Đã vậy, các ông làm sao được?
- Chúng tôi cho rằng phải chứng minh với người Mỹ nguy cơ đó bằng cách chứng minh cho họ thấy ở Nam Việt vẫn có những thế lực mạnh chống ông Diệm – ngoài Cộng sản. Chúng tôi đủ sức làm một chứng minh như vậy…
- Hành động để chứng minh dĩ nhiên không khó khăn, song nếu cần một tiếng vang thôi thì các ông đã đo lường hết mọi hậu quả chưa?
- Không phải hành động để chứng minh một cách đơn độc, mà kèm cả một cuộc vận động lớn trong và ngoài nước, kể luôn bên Mỹ.
Tới bây giờ, sau nhiều câu nói, Hoàng vẫn chưa làm sáng tỏ lý do mà đảng Đại Việt phải dùng vũ lực đưa Luân tới đây.
- Tôi chưa thích thú lắm với nước cờ của các ông. Tuy nhiên, đó là quyền của các ông. Về phần tôi, các ông muốn gì?
- Đơn giản thôi. Với trung tá, chúng tôi chỉ mong một lời hứa…
- Hứa tham dự với các ông?
- Không, không cần. Trước khi gặp trung tá, chúng tôi, có ý ấy, thậm chí có ý, nếu trung tá nhận sẽ là một trong những lãnh đạo nội địa chủ chốt của đảng… Bây giờ, chúng tôi thấy không cần.
- Hứa không tiết lộ ý định của các ông?
- Không phải là vấn đề. Chúng tôi mời trung tá đến nói ý định rồi đề nghị trung tá đừng tiết lộ - chi vậy? Với trung tá, chúng tôi không bao giờ dám bất kính.
- Hứa không gây cản trở?
- Một phần nào… Cái lớn là mời trung tá giữ một chức vụ trong nội các sẽ thành lập… Chưa phải lúc nói rõ chức vụ ấy là gì, dĩ nhiên, chức vụ quan trọng, rất quan trọng nữa… Và, chỉ nhận khi chúng tôi giải quyết xong họ Ngô. Nghĩa là tránh cho trung tá mọi phiền toái…
- Cám ơn các ông rất chu đáo đối với tôi… - Luân dừng câu nói một lúc; Hoàng háo hức chờ mà Luân thấy giống con chồn chực mồi, đôi ria mép của ông ta động đậy luôn – Có phải Fishel cần tên tôi trong bảng danh sách mà các ông thông báo với ông ta? – Luân đặt thẳng một câu hỏi, bây giờ anh đã rõ thực chất của cuộc “thương lượng”.
- Không chỉ có tên trung tá… - Hoàng đính chính, không giấu nổi lúng túng.
- Tôi không nghĩ rằng giá chứng khoán của tôi cao đến thế… - Luân cười cợt – Song, người Mỹ nổi tiếng thực dụng. Họ nắm mọi yếu tố ở Nam Việt còn chặt hơn cả chúng ta… Tại sao họ không trực tiếp với tôi?
- Có thể họ chưa đánh giá chính xác xu hướng chính trị của trung tá…
- Các ông lại đánh giá chính xác?
- Dạ… phần nào… Tuy nhiên, chúng tôi với trung tá vẫn là người Việt Nam với nhau…
- Người Việt Nam? – Luân cười mỉm.
Hoàng không phải là hạng kém:
- Ông có biết một người tên là John Hing không? – Hoàng đưa Luân vào một ngõ khác.
“John Hing là Dương Tái Hưng. Sao lão này dính vào đây?”
Thấy Luân trầm ngâm, Hoàng nói luôn:
- Không phải Fishel mà chính John Hing, một người rất thế lực – nếu không nói là “siêu thế lực” – đòi hỏi danh sách. Ông ta có mọi thứ trong tay nhưng vấn đề Nam Việt phải chính do người Việt Nam cáng đáng; ông ta bảo như thế. Tôi tiết lộ một nguồn tin tối mật: Tình báo Trung Cộng tán thành khử ông Diệm… Trước đây, họ chủ trương bảo vệ ông Diệm tới cùng; bây giờ họ thống nhất với chúng tôi. Họ sợ Việt Cộng thắng nhờ những sai lầm của ông Diệm. Tôi cũng cho rằng Việt Cộng nôn nóng theo hướng đó không khác chúng ta. Nghĩa là, cái điều kiện khách quan chín muồi.
- Ông cho tôi biết quá nhiều. Phải chăng, ông theo ngạn ngữ: người biết nhiều chóng già? – Luân hỏi, hơi cười…
- Vì chúng tôi coi trung tá như người nhà! – Hoàng trả lời, mắt loé một tia ranh mãnh.
- Mọi việc cần phải đi đến kết thúc hôm nay? - Luân hỏi, xem đồng hồ tay.
- Không… Chúng ta còn gặp nhau…
- Ông cho xe đưa tôi về… Tuy nhiên, tôi phải nói trước, nếu ngôi nhà này bị công an khám nội đêm nay hoặc ngày mai thì không phải lỗi ở tôi…
- Tôi hiểu và đã dự kiến. Đảng chúng tôi có nhiều chiến khu…
“Chiến khu”, Hoàng nhắc Luân nhớ “chiến khu ma” Bình Quới Tây mà có lần Luân thuật cho đại sứ Mỹ Rheinardt nghe…
“Chúng nó cài mình vào bẫy. Cuộc trao đổi được ghi băng. Khi cần, chúng sẽ bán băng đó cho bất kỳ ai kể cả Nhu… Nhưng, chúng đơn giản quá, nặng về mưu mô vặt quá… Dẫu sao…”, Luân suy nghĩ trên xe.
*
Luân gặp Nhu. Thoạt nghe Luân bị “bắt cóc”, Nhu sững sờ.
- Không sao… Anh thấy tôi chẳng sứt mẻ một chút nào cả, thậm chí, không trầy da. – Luân xởi lởi.
- Nó dám lộng như vậy! Đó là chuyện không thể chấp nhận.
Luân biết Nhu nghĩ liền đến P.42 – với Nhu, Đại Việt đáng sợ hơn mọi thứ trên đời. Anh ta từng nói: Bọn lưu manh làm chính trị - thà lưu manh như Bình Xuyên – chúng không từ một thủ đoạn nào; Đại Việt tựa con rết, con lươn, lũ hồ ly tinh…
Nghe Luân một lúc, Nhu cầm máy nói. Luân phải ngăn anh ta:
- Khoan, anh đừng nóng…
- Thằng tên Hoàng đó là ai? – Nhu hỏi.
Luân lắc đầu:
- Tôi không biết, hẳn một nhân vật lớn của Đại Việt; có thể lấy họ làm tên, Hoàng Xuân gì đó, chẳng hạn.
- Tôi sẽ tìm ra nó! Còn ngôi nhà… Anh để tôi gọi Tổng nha… Thế nào, qua khỏi Cầu Kinh chừng cây số, qua Cercle Nautique và trăm mét, về phía tay trái, villa hai tầng, tường cao…
Luân tiếp tục báo – anh không đả động đến P.42 và các thứ liên quan, kể cả viên phi công AD6…
Điện thoại Tổng nha trả lời: đúng là nhà nghỉ của trung tá Vũ Liệu.
- Cái thằng trung tá nhóc con này! – Nhu gằn giọng. - Fishel thì chẳng có gì lạ. Ông ta trước kia ủng hộ anh Tổng thống hết mình, bây giờ xoay hướng. Còn John Hing, tôi chưa nghe tên va lần nào… À, có phải cái thằng tên là … là…
- Dương Tái Hưng!
- Đúng, có lần anh nhắc va với tôi… Va là cái gì?
- Có cổ phần trong Công ty ngựa bay Colt…
- Hừ… đến vậy kia! – Nhu buông thõng câu nói.
- Tôi cho họ, tôi nói Đại Việt, còn trẻ con… Có thể họ lưu manh như anh nhận xét. Song, họ vẫn là trẻ con… Đối phó của anh không nên chỉ nhắm vào họ…
Nhu thừ người khá lâu.
- Anh có lý… Tôi sẽ làm việc với đại sứ Nolting. Riêng anh, tôi khuyên anh nên thận trọng. Canh bạc đến hồi sát phạt không nương tay!
Nhu cảm thấy mình yếu thế. Một đảng Đại Việt vẫn làm anh ta mất thần. Anh ta lại rất giống Đại Việt – sẽ “thưa gởi” với người Mỹ. Anh ta không biết đó là việc dại dột. Người Mỹ sở dĩ còn tính toán trong thay đổi tay chân là sợ gia đình Diệm phản ứng mạnh, tình thế sẽ xấu. Nếu Nhu chỉ cần xin sự phán xét của Mỹ, thì chính anh tự thú cái nhược, không chỉ về thực lực mà cả về ý chí. Đó là một thứ tín hiệu đóng góp vào xu hướng gạt Diệm đang hình thành, lớn dần trong chính giới Mỹ… Lại qua Trần Lệ Xuân với Notling thôi! Ngay cả trong thủ thuật này, Nhu cũng khờ khạo. Nolting thu lợi đầy đủ nhất: chiếm Lệ Xuân và thực hiện ý định của Mỹ, hoặc chuẩn bị cho ý định đó hội càng nhiều điều kiện càng tốt.
Luân rời dinh Độc Lập, với những kết luận như vậy.
Tất nhiên, Luân không thể biết, ngày hôm sau, thứ bảy, Lệ Xuân cùng Nolting bay lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần.
Gã đại sứ Mỹ không hề che dấu cái đam mê của gã. Vừa đặt chân lên ngôi nhà nghỉ - xưa kia dành cho Bảo Đại – gã đã đòi hỏi Lệ Xuân.
- Em muốn anh làm sáng tỏ một vấn đề…
Lệ Xuân nằm trong vòng tay Nolting, không chịu đáp ứng.
- Lên Đà Lạt không để nói chuyện chính trị…
Nolting thều thào.
- Nhưng, em chỉ bằng lòng khi anh trả lời với em…
- Anh chỉ bằng lòng trả lời với em sau khi em bằng lòng… Anh chờ đợi giây phút này quá lâu…
Cuộc đấu trí kéo dài một lúc, Lệ Xuân thua. Không phải vì tình dục bị kích thích – Lệ Xuân là hạng chủ động cao với tình dục – mà vì y thị cho rằng Nolting có thể chết vì y thị, cho nên nhượng Nolting một bước chỉ có nghĩa là sẽ xỏ mũi gã đại sứ dại gái này, muốn dẫn gã đến đâu, tùy y thị.
Như mụ nghĩ, sau cuộc truy hoan. Nolting hứa – gã cẩn thận ghi vào sổ tay nữa – sẽ “trị” Fishel và đồng bọn.
- Không có điều gì xảy ra với Tổng thống Diệm! – Nolting tiếp tục ve vuốt Lê Xuân.
Lệ Xuân hoàn toàn không thể ngờ rằng Nolting sẵn sàng hứa – kể cả ly dị vợ để lấy Lệ Xuân – bởi chương trình nghỉ mát Đà Lạt của gã còn cả đêm nay, trọn ngày chủ nhật, đêm chủ nhật…
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn