View Single Post
  #27  
Old 12-08-2012, 12:38 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 8 - Chương 1, 2

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 8 - Chương 1

Vòng hoa trước mộ


Giữa tháng 9, chính phủ Ngô Đình Diệm tung ra một đòn ngoạn mục: chấm dứt tình trạng giới nghiêm trên toàn quốc kể từ 12 giờ trưa ngày 14. Thoạt nhìn, người ta có thể ngỡ rằng nội tình Việt Nam Cộng hòa đã được ổn định. Tổng thống Ngô Đình Diệm có vẻ lờ mờ về một hiện thực như vậy, trong khi cố vấn Ngô Đình Nhu có một cái nhìn khác hẳn.
Nhu không rời bỏ chủ trương cho nổ ra một cuộc đảo chính giả để quét mọi thế lực chống đối theo kế hoạch mà anh ta đã trao đổi với Luân. Sở dĩ Nhu chưa bật đèn xanh cho Tôn Thất Đính là vì anh ta muốn Tổng ủy tình báo đánh giá thật chặt chẽ khả năng lợi dụng của Việt Cộng một khi Hội đồng cứu quốc do Nhu điều khiển thay cho chính phủ. Nhu cũng muốn chờ tin tức của Trần Lệ Xuân trong chuyến đi “giải độc”, nhất là tại Mỹ. Theo Nhu, biện pháp cứng rắn của Việt Nam Cộng hòa phải được sự đồng tình của một bộ phận dư luận Mỹ, đặc biệt là thượng nghị viện. Ngày 20-9, khối Á – Phi, với lời lẽ ôn hoà, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa trình bày trước Đại hội đồng Liên hợp quốc vấn đề Phật giáo. Như vậy, bản thân khối Á – Phi cũng không hoàn toàn đồng nhất với kiến nghị do Afghanistan, Nepal và Cambodia đề xuất. Trên tất cả, một vài nguồn tin phần nào khích lệ Nhu: Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn phân hóa, một bộ phận chống Ngô Đình Diệm, một bộ phận ủng hộ. Trước khi rời Việt Nam sang Arabie Seoudite, giáo sư Fishell đã gặp Nhu. Hơn 2 tiếng đồng hồ, Nhu và Fishell trao đổi như hai người bạn chí thân, thông cảm và chia xẻ với nhau mọi phấn khởi và lo lắng. Fishell không giấu giếm về sức ép ngày một tăng trong giới cầm quyền Mỹ cho một sự thay đổi căn bản ở Nam Việt Nam mà tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu là mục tiêu hàng đầu. Nhưng tay trùm CIA nhấn mạnh rằng tổng thống Kennedy đủ sáng suốt để thấy Ngô Đình Diệm là nhân vật không thể thay thế được trong sự nghiệp chiến thắng Cộng sản trên bán đảo Đông Dương và là tối cần thiết đối với sự có mặt của mặt tại khu vực Đông Nam Á. Tất nhiên, vấn đề Phật giáo đang gây rầy rà cho Diệm, nếu chính phủ Việt Nam Cộng hòa xử lý thật gọn vấn đề này thì quả bong bóng chống Diệm sẽ lập tức xẹp xuống – Fishell khuyên nhủ Nhu như vậy. “Xử lý bằng cách nào, tùy các ngài, miễn là nó không đẻ số. Cách nào cũng phải thật gọn”. Fishell nói thêm. Nhu không hé môi với Fishell về kế hoạch “Bravo” nhưng rõ ràng quan điểm của Fishell phù hợp với quan điểm của Nhu.
Nhu nhận được một điện tín của Trần Lệ Xuân gửi từ Belgrade:
“Hội nghị liên hiệp nghị sĩ thế giới vừa bế mạc. Đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã trình bày đầy đủ, với nhiều tài liệu và hình ảnh, về chính sách của Việt Nam Cộng hòa đối với Phật giáo cũng như đối với tín ngưỡng và nhân quyền nói chung. Trừ các phái đoàn Cộng sản và một số nước không Cộng sản bị thông tin xuyên tạc, hầu hết các phái đoàn đại biểu hoan nghênh chính sách của chúng ta cũng như cám ơn đoàn đại biểu chúng ta đã cung cấp cho họ những sự thật không thể chối cãi. Khác với nhận định khi chúng tôi còn ở nhà, vị thế của Việt Nam Cộng hòa không vì vấn đề Phật giáo mà lung lay. Qua hội nghị này, chúng tôi thấy rõ sự cần thiết phải gấp rút “giải độc” dư luận chung trên thế giới. Đề nghị chính phủ cử thêm nhiều đoàn công cán nước ngoài, nếu được một số nhà sư có tên tuổi trong các đoàn công cán ấy thì rất có lợi... ”
Điện tín bổ sung cho cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa Nhu và Lệ Xuân:
- Anh đó hả? Em đây...
- Em khỏe không?
- Khỏe. Rất khỏe! Anh thế nào? Nên nghỉ ngơi, anh nhé. Tình hình sẽ bình thường thôi. Các con thế nào? Anh Tổng thống khỏe không? Gia đình có việc gì mới không?
- Bình thường... Em nhớ tranh thủ thêm nhiều bạn, cân nhắc lời lẽ. Anh mừng thấy việc làm của em thu kết quả tốt. Anh Tổng thống cũng mừng.
- Cân nhắc lời lẽ là thế nào? Không đánh động dư luận một cách mạnh mẽ thì không bịt mồm được bọn nói láo và không tỉnh ngộ được bạn bè. Anh tin là em làm bất cứ việc gì cũng đều suy xét cẩn thận. Ra ngoài em mới thấy lối nhượng bộ của chúng ta là vô cùng tai hại. Em đã điện cho giáo sư Bửu Hội phải phát hành một kháng thư phản đối việc Đại hội đồng Liên hiệp quốc mang nội tình của Việt Nam Cộng hòa ra thảo luận... Em sắp bay sang Balê. Có thể gặp Đức cha ở đó, trước khi Đức cha triều kiến Giáo hoàng. Nếu Đức cha đồng ý em sẽ sang La Mã...
- Có nên không?
- Nên. Rất nên! Em và Lệ Thủy sẽ thăm Hy Lạp... Mẹ con em thanh thản như người du lịch.
- Chúc em mạnh, vui... Hôn Lệ Thủy.
- Nếu em chưa về, anh có định sang Pháp không? Em muốn gặp anh, rất nhớ anh. Lệ Thủy nhớ ba lắm.
- Anh chưa định... công việc còn bề bộn qua...
- Vụ “Triangle”...
-... Anh định nhờ anh Luân lo.
- Được lắm... Thôi, hôn anh nhiều, hôn các con. Kính chào Tổng thống. Thăm gia đình. Anh nói giùm với Thùy Dung: Cô ấy đừng quên điều em dặn tại sân bay... Lệ Thủy đi chơi, nó sẽ tiếc không được nói chuyện với ba...
*
- Tôi bàn với anh một việc tuyệt mật và thượng khẩn... – Nhu bảo Luân vào buổi sáng đầu tháng 10.
Mở đầu trịnh trọng như vậy nhưng Nhu lại không vào đề ngay. Anh ta hớp từng hớp cà phê, mắt dò xét Luân. “Việc gì?”. Luân chưa đoán ra. Kế hoạch “Bravo”? Thì Nhu đã lật sấp lật ngửa, thậm chí đã đưa cho Luân đọc bản thông cáo viết sẵn một khi “cuộc đảo chính” do Nhu đạo diễn nổ ra. Hay Nhu định phái anh vào chiến khu gặp “phía bên kia”? Không chắc. Gần đây. Nhu ít trở lại đề tài này, có vẻ anh ta cho rằng con đường thỏa hiệp với Mặt trận dân tộc giải phóng mất hết các cơ sở hiện thực. Thế thì việc gì?
Tách cà phê đã cạn, Nhu ngả người rít thuốc.
Đến 10 phút trôi qua.
- Tôi suy tính kỹ rồi, chỉ có anh gánh vác nổi việc này. Anh đừng băn khoăn tại sao tôi rào đón và ngập ngừng trrước khi nói với anh. Anh còn nhớ một lần, sau vụ Nguyễn Chánh Thi, lúc Nolting mới sang, tôi có trao đổi với anh về tài chính của ta.
Luân nhớ, bấy giờ để trả lời lo lắng của Luân về khả năng dùng áp lực tài chính để bóp cổ chế độ Nam Việt của Tổng thống Diệm, Nhu bảo rằng anh ta “có cách”. “Cách” của Nhu không phải là một khẩu hiệu chính trị. Lúc đó, Luân mơ hồ.
Nhu hỏi Luân, rất nghiêm chỉnh:
- Có khi nào anh nghe nhắc một người thuộc dân đảo Corse, tên Francisci hay không?
- Có, ông ta là trùm buôn nha phiến...
- Đúng rồi... Thế, có khi nào anh nghe nói đến “Tam giác vàng” không?
- Báo chí thế giới nhắc đến khu vực này không chỉ một lần...
- Công việc mà tôi sắp bàn với anh liên quan đến tên người và tên địa phương đó.
Luân bị bất ngờ. Cái mà Nhu gọi là “tuyệt mật” và “thượng khẩn” lại liên quan đến một tên buôn lậu nha phiến sừng sỏ và khu vực sản xuấtkhối lượng lớn nhất thứ hàng hóa giết người này.
- Chắc anh phân vân. Chẳng lẽ anh lại xếp tôi vào hạng buôn lậu nha phiến? – Nhu cười.
Luân cố kiềm chế để không nhìn đôi môi bắt đầu thâm của Nhu. Những người chống Nhu rêu rao Nhu nghiện á phiện từ nhiều chục năm, Luân biết không phải như vậy: Nhu mới đánh bạn với ả phù dung vài tháng nay, có thể từ sau biến cố Phật giáo ở Huế. Anh ta cần “ngoại viện” cho bộ não thêm hưng phấn trước bao nhiêu là sự cố dồn đập, toàn là sự cố thách thức sự tồn vong của chế độ Nam Việt. Chẳng rõ Trần Lệ Xuân phản ứng cái tật nguy hiểm này ra sao, riêng Luân, đôi lần theo lối thông cảm bạn bè, khuyên Nhu nên tránh hoặc nên bớt hút. Mỗi lần như vậy, Nhu chỉ thở dài. Anh ta thừa hiểu tác hại của mỗi liều á phiện. Nhưng, - Luân đoán – anh ta quá mệt mỏi.
Dù sao, việc mà Nhu sắp giao cho Luân không phải do nhu cầu riêng của Nhu – nó chẳng là bao; vài cân thuốc phiện dự trữ là quá thừa...
- Chính phủ Mỹ giảm viện trợ kinh tế cho chúng ta. Không loại trừ khả năng, đến một lúc nào đó, họ dùng viện trợ để đánh chúng ta một cú quyết định. Tôi không muốn ngã quỵ như một tên ăn xin, khi kẻ cho tiền khóa tủ sắt, chúng ta chỉ còn nước đầu hàng. Những chuyến buôn nha phiến đã giúp chúng ta chống đỡ, từ năm 1962 đến nay. Chúng ta đang cần rất nhiều tiền. Nhưng những cơ sở chế biến heroine đặt ở Bắc Lào nay không còn an toàn vì Pathét Lào mở rộng vùng kiểm soát của họ, tình hình ở Kontum cũng xáo trộn vì bọn Fulro lẫn lực lượng Mặt trận Giải phóng. Cơ sở chính của chúng ta đặt trong khu tam giác Lào – Trung Quốc – Miến Điện. Cần thêm vài đường băng cho máy bay sử dụng, cần thêm một số máy móc cho xưởng chế biến mở rộng. Anh cũng biết, “Tam giác vàng” luôn luôn rất an ninh bởi nó là vùng biên giới, thường hứng chịu các cuộc hành quân của nước này hay nước kia – kỳ thật, lực lượng biên phòng của mỗi nước không nhượng cho ai giữ độc quyền sản xuất heroine. Còn tàn quân của Tưởng Giới Thạch, còn các nhóm ly khai và nhất là còn sự can thiệp ráo tiết của tổ chức buôn lậu nha phiến quốc tế mà tổng hành dinh đặt tại Bangkok. Anh cần đến đó mộtlần để đánh giá khả năng phòng thủ và anh cho tôi biết kế hoạch tăng cường lực lượng vũ trang của chúng ta. Tôi đặt thiếu tá Nguyễn Thuần dưới quyền anh. Thiếu tá Thuần khá thành thạo vì trước đây anh ta thực hiện chỉ thị của Trần Kim Tuyến. Thuần là người có thể tin cậy được, nhưng cần phải giấu kín với Nguyễn Cao Kỳ... Tôi nói trước với anh: chuyến đi khá nguy hiểm và, tôi chỉ yêu cầu anh mỗi việc nghiên cứu cách bố phòng.
Do đó, thời gian cũng eo hẹp – anh chỉ được tối đa là 10 ngày để lập một tờ trình, kể cả ngày đi và ngày về. Mọi chi tiết, thiếu tá Thuần sẽ báo cáo với anh...
“Nguyễn Thuần? À, gã sĩ quan không quân gặp Dung ở biệt điện Ban Mê Thuột, trươc vụ ám sát hụt Ngô Đình Diệm... ” - Luân nhớ lại. - “Hình như anh ta gọi điện thoại xin lỗi Dung, nói rằng anh ta “làm quen” sỗ sàng với Dung không do ý riêng mà do “một mệnh lệnh” từ đâu đó...
Thôi được, bây giờ là việc thi hành ý kiến của Nhu... Ta sẽ có lợi gì? Chẳng lẽ chuyển nghề thành “nhân viên kinh tài” cho Diệm – Nhu? Và “cách” Nhu giãy giụa khỏi thòng lọng tài chính của Mỹ là đây!
Còn gã Trần Kim Tuyến nữa, trong các thứ hắn “sang sổ” cho mình, tuyệt nhiên không nhắc một lời về vụ pha phiến này... Gã lại đang ở Bangkok, tổng hành dinh của các “băng” buôn lậu... Có thể do đó mà Nhu sợ?... ”
- Cần chăng một tổ chức như GMCA của Roger Triquier? - Luân hỏi.
GMCA, chữ tắt của Groupe Mobile des Commandos Aeroportés – Nhóm biệt kích không vận cơ động.
- Chà! Anh thông thạo dữ! – Nhu kinh ngạc ngó Luân – Có thể không cần đến mức đó...
- Lúc tôi làm trưởng sở mật vụ kháng chiến, tên tuổi của viên thiếu tá Roger Trinquier cùng đội biệt kích của y thường xuất hiện trên các bản tin riêng. Y tuyển một lính sơn cước và hoạt động trong phạm vi “xứ Thái tự trị” ở Tây Bắc Việt và Bắc Lào, nơi sản xuất một lượng á phiện đáng kể...
- Tình hình thay đổi, đã thay đổi nhiều! – Nhu thở dài – Hơn 10 năm rồi, còn gì! Trinquier vẫy vùng được nhờ địa bàn thuộc quân đội Pháp kiểm soát. Chắc anh thấy rõ, quân đội Pháp chết sống bám Nà Sản, Xiêng Khoảng, Điện Biên Phủ... không đơn thuần vì quan điểm chiến lược. Á phiện giữ một tỷ lệ không nhỏ trong quyết định của người Pháp...
Nhu bộc lộ một luyến tiếc: Khu “Tam giác vàng” nằm ngoài khả năng khống chế của chính phủ Sài Gòn. Lúc bấy giờ, đầu những năm 1950 Trinquier thu á phiện sống, thường vào tháng 4, đưa về Vũng Tàu bằng máy bay quân sự. Từ Vũng Tàu, á phiện chuyển thẳng theo đường sông Soài Rạp hoặc đường bộ giao cho Bình Xuyên. Sĩ quan tình báo Savani chịu trách nhiệm kiểm tra các mối phân phối của Bình Xuyên chủ yếu qua Ly Kai và các nhóm người Hoa Chợ Lớn. Riêng Bảy Viễn, hắn có nhiều cơ sở chế biến đặt ngay trung tâm thành phố, tất nhiên ngụy trang với một cái tên nào đó. Thật sự, cả Bảo Đại lẫn Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đều chia chác với Bảy Viễn, số tiền lên đến hàng trăm nghìn dollar... Sau này, những tên Pháp có máu mặt giành phần với số người Hoa – như Franchini, chủ khách sạn lớn Continetal: á phiện sơ chế hoặc tinh luyện tìm được nơi tiêu thụ quan trọng là các hải cảng trên nước Pháp.
Pháp rút khỏi Đông Dương đồng nghĩa với sự cáo chung của đường dây buôn á phiện so Pháp bảo trợ. Nhu và Tuyến không bỏ lỡ cơ hội Trinquier, Franchini, Bảy Viễn bị tước đoạt mọi thứ và thay vào đó bằng bộ máy: vẫn những người Pháp dày dạn kinh nghiệm thu mua, vận chuyển và chế biến mà xưa kia vốn là đàn em; vẫn những người Hoa đông khách hàng. Francisci và Mã Tuyên nổi lên như “người hùng” của ngành buôn lậu á phiện, bây giờ, do Ngô Đình Nhu bảo trợ.
Tàn dư của Trinquier chưa chịu bó tay. Nhưng Francisci thừa sức cho xộ khám hoặc tán gia bại sản những tên dám léo hánh đến “vương quốc á phiện” của anh ta như Enjahal, Labenski...
- Anh lưu ý thêm sức chở, máy bay hai động cơ chỉ có thể mang non một tấn á phiện sống. Ít quá... Vả lại, từ “Tam giác vàng” về Sài Gòn, gần hàng nghìn cây số đường bay. Chúng ta bắt buộc phải bay trên không phận Lào đến Hạ Lào mới chuyển hướng sang cao nguyên Trung phần... Không thể không tiếp nhiên liệu ở sân bay Vattay Vientiane, sân bay Savanakhet, sân bay Liên Khương Đà Lạt... Hiện nay, còn có thể thả dù trên vịnh Thái Lan song đường bay khó đảm bảo, dễ lộ bí mật nếu ta dùng Phú Quốc làm trạm. Không thể thả dù ở biển Đông, thả gần bờ thì đụng thuyền đánh cá, thả ngoài khơi thì đụng tàu tuần của Mỹ. Nhất thiết “hàng” phải xuống sân bay Biên Hòa. Đáng tiếc căn cứ Sa Thầy đành đóng cửa nay mai, ta không thể chuyển tải được bằng trực thăng ra vịnh Cam Ranh. Cũng có vài đường băng đón máy bay hai động cơ, nhưng phần lớn của các đồn điền cao su Pháp... Tôi đã nghĩ đến vùng biên giới Nam phần giáp Cambốt đó là một chuyện sắp tới... Gọn hơn hết, ta chiết suất morphine, heroine tại “Tam giác vàng”, trọng tải nhẹ...
- Francisci liên quan như thế nào với Savani?- Luân hỏi.
- Cho tới bây giờ, không thấy dấu hiệu về sự liên quan đó... Chắc anh ngại Mai Hữu Xuân? Francisci ít về Sài Gòn và tôi có tài liệu về thái độ cay cú của Mai Hữu Xuân với Francisci... Xuân là bạn thân của Franchini.
- Nguyễn Cao Kỳ?
- Hắn từng được ông Tuyến giao vận chuyển “hàng”. Hắn và bạn bè của hắn như Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc Loan nắm khá sâu công việc... Anh nên cẩn thận.
Nhu căn dặn Luân y như giao cho anh một kế hoạch quan trọng, một chiến dịch cỡ “Bravo” chẳng hạn.
Nhìn đối thủ của mình, Luân man mác trong lòng niềm thương hại: Nhà tư tưởng, nhà chiến lược của triều đình họ Ngô dồn tâm trí cho một cái râu ria của đại cuộc, tầm nhìn xa của anh ta chỉ đóng khung trong tuyến buôn lậu nha phiến và khói thuốc phiện quả rất giống lớp sương mù huyễn hoặc Nhu đến độ anh ta thổi phồng những cân bạch phiến lên mức cứu tinh toàn chế độ...
- Giá mà “Tam giác vàng” nằm ở một nơi như Xuân Lộc! – Nhu nói giọng tiếc rẻ. Luân cho rằng Nhu than thở về sự cách trở đối với nguồn tài chính mà anh ta cần. Nhưng, không phải, bởi Nhu nói tiếp:
- “Tam giác vàng” ở Xuân Lộc, ở Hớn Quản, ở Bảo Lộc... Chúng ta sẽ xây dựng chiến khu tại một nơi tuyệt vời như vậy!
Luân cố giấu nụ cười mỉa. Nhu dự kiến cả chiến khu, thật trớ trêu, chiến khu mà Nhu tưởng tượng dính dáng với những cây anh túc cho chất nhựa, ru con người những phút lâng lâng quên đời, hoặc – trộn với giấm thanh – đẩy vào cái chết vô phương cứu chữa...
*
AI ĐÃ ĐẨY TỔNG THỐNG KENNEDY VÀO CON ĐƯỜNG BẾ TẮC Ở VIỆT NAM
(Frank Connif – New York American Journal).
Chúng ta đang mắc vào mớ chỉ rối ở Việt Nam và có lẽ đã đến lúc cần xem xét vì đâu chúng ta lại bị sa trong vũng lầy đó.
Tổng thống Kennedy dường như đã bảo đảm cho Bộ Ngoại giao thì hành một kế hoạch để phá hoại một chính phủ đồng minh đang chiến đấu chống Cộng sản, bằng những mưu kế nửa mùa.
Không một ai đầy đủ lý trí lại dám chê trách gì Tổng thống Kennedy về việc để mất nước Cuba lọt vào tay Cộng sản bởi vì vụ ấy đã xảy ra từ thời Tổng thống Eisenhower với sự góp sức của hệ thống tin tức của nó: tờ New York Times. Cũng trong tình trạng này, sẽ không một ai có thể tha thứ cho Tổng thống Kennedy nếu ông bắt chước những hành động trong thời Eisenhower bằng cách chấp thuận việc lật đổ một chính phủ đã từng chiến đấu chống Cộng trong 9 năm trường như Eisenhower đã bỏ rơi Batista vào lúc nguy nan nhất.
Việt Nam là một món quà của tờ New York Times tặng Tổng thống Kennedy thuộc loại một trái bom chính trị nổ chậm chẳng khác nào trước đây họ tặng Cuba cho Tổng thống Eisenhower.
Hơn nữa, không căn cứ vào những bài tường thuật mà chỉ vào quyết định của những bài bình luận, tờ New York Times đã biến đổi một cuộc tranh chấp chính trị nội bộ thành một cuộc chiến tranh giữa những người Công giáo và những người Phật giáo. Quả thật không cần ai vẽ cho ông Kennedy mới biết về ảnh hưởng chính trị của lời phỏng định hoàn toàn sai lầm đó...
Cần phải nhắc rằng, ngày 8-5-1963, cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và các tín đồ Phật giáo bùng nổ thì 10 ngày sau, tướng Maxwell Taylor, chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn dành cho tập đoàn báo chí Hearst: Tôi có thể nói là cuộc chiến tranh ấy đang diễn tiến khá tốt đẹp; chúng tôi đang đạt được những thắng lợi thật sự, từng tháng một...
Giữa lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Tổng hội Phật giáo tiếp tục hoạt động bí mật chống chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, gây ra một cuộc tuyên truyền phá hoại mà không một chính phủ nào có thể tha thứ được trong thời kỳ chiến tranh.
Bây giờ thì tờ New York Times đòi “triệt hạ” Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ a dua theo luận điệu đó và Tổng thống Kennedy đã nghe họ. Nhưng chỉ mới đây thôi, chính trị cố vấn quân sự mà Tổng thống Hoa Kỳ tự ý lựa chọn để mạt sát những cố gắng về chiến tranh tại Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hai thái độ này quả là không ăn khớp với nhau chút nào.
Quan niệm của chúng tôi là:
Nếu có bao giờ cần phải chờ để cho bụi lắng xuống, thì đó chính là lúc mà cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và Phật giáo đồ trở nên công khai. Chúng ta không biết rõ rệt về những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì Tổng thống Kennedy và Bộ Ngoại giao có thể chờ đợi cho đến khi sự thật rõ ràng ra đã. Nhưng thay vì làm như vậy, chính phủ một lần nữa lại ngoan ngoãn nghe theo lối bình luận của tờ New York Times. Họ sẽ bị gậy ông đập lưng ông!
*
ĐÀI PHÁT THANH AUSTRALIA PHỎNG VẤN TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
(Do phóng viên phụ trách Đông Nam Á Peter Barnett thực hiện)
HỎI: Những cuộc tranh chấp mới đây (với Phật giáo đồ) có dấu hiệu nào tỏ ra có ảnh hưởng đến tinh hình chính sự của miền Nam Việt Nam hay ảnh hưởng đến tinh thần của các sĩ quan và binh sĩ hiện đang hành quân không?
ĐÁP: Có và không. Có, vì rằng lúc đầu nhờ ở sự ngụy trang hết sức khéo léo, chiến dịch tuyên truyền do một nhóm nhà sư phản loạn phát động đã tạo được đôi chút ảnh hưởng tại một vài thị trấn, phần lớn là trong số các phụ nữ đã đứng tuổi và các thanh niên.
Không, vì càng ngày chiến dịch đó càng mở rộng, những sự bịa đặt quá đáng và những mục tiêu chính trị phản quốc gia ngày càng trở nên rõ rệt và đã gây ra một ảnh hưởng ngược lại, nghĩa là làm cho quân đội căm phẫn và đoàn kết. Sự kiện đó đã đưa tới việc ban hành tình trạng giới nghiêm như ông đã thấy.
Thật là một điều hết sức đáng tiếc là báo chí ngoại quốc đã đóng một vai trò chính yếu đầu độc dư luận thế giới, về “vụ Phật giáo” này. Thật ra vụ Phật giáo có rất ít tính cách Phật giáo và hơn nữa còn đi ngược những quyền lợi cao cả của Phật giáo.
HỎI: trong giai đoạn hiện tại, Tổng thống có thấy cách nào vượt qua những sự bất đồng chính kiến giữa Tổng thống với các đồng minh của Tổng thống không?
ĐÁP: Hiện đang có một âm mưu quốc tế lớn lao, song song với âm mưu Cộng sản quốc tế chống lại chính phủ Việt Nam.
Khi thi hành tình trạng giới nghiêm, quân đội đã tịch thu tại các chùa nhiều tài liệu, hiện đang còn được nghiên cứu. Những tài liệu này chứng tỏ một âm mưu rộng lớn đã được sắp đặt chống chính phủ chúng tôi. Một trong những căn bản của âm mưu ấy là chiến dịch đầu độc dư luận quốc tế như hiện đang diễn ra trước mắt ông.
Các bạn hữu của Việt Nam có bổn phận làm sang tỏ dư luận nhân dân nước họ, giải độc thế giới tự do, hơn là đòi hỏi chúng tôi phải làm việc đó, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến dịch đó mà thôi. Nếu không có sự giúp đỡ đó, chúng tôi quả thật không thể vừa làm được công việc đó, vừa tiếp tục cuộc chiến tranh chống Cộng sản.
HỎI: Tổng thống có thể cho chúng tôi biết ý kiến về các tin đồn rằng có những người trong gia đình Tổng thống muốn đảm nhiệm việc điều khiển quốc gia thay Tổng thống không?
ĐÁP: Những tin đồn ấy là một trong những khí giới chính yếu của chiến dịch đầu độc khổng lồ nhắm nhiều mục tiêu cùng lúc: làm nản lòng những người có thiện chí, cắt đứt Việt Nam với các đồng minh, gây chia rẽ giữa nhân dân và chính phủ, gieo rắc sự ngờ vực và hoang mang khắp nơi v.v... Đó là cuộc chiến tranh cân não phụ họa vào cuộc chiến tranh nóng mà tôi cần vượt qua.
Tôi có thể bảo đảm với ông rằng, không có một người nào trong gia đình tôi muốn chiếm đoạt địa vị của tôi. Trong tình thế hiện tại, địa vị ấy thật không có gì đáng mong muốn cho lắm!
Những kẻ muốn thay thế tôi chỉ nghĩ đến việc ấy khi trong thâm tâm họ tưởng rằng có một cường quốc bảo hộ nào đó sẽ đảm nhiệm trên thực tế những trách vụ nặng nề của vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng cường quốc ấy không bao giờ có.
*
ĐẠI SỨ CABOT LODGE KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI ĐE DỌA RỔNG TUẾCH
(Bài của báo New York Forum)
Tổng thống Kennedy đã hoạt động một cách sốt sắng và vất vả trong vụ khủng hoảng ở Việt Nam, nhưng ông đã thất bại.
Trước hết là Tổng thống Kennedy đã không nhận thức được sớm hơn tính cách quan trọng của cuộc khủng hoảng và các Phật giáo đồ đã châm ngòi vào kho thuốc súng. Tổng thống đã để cho tình thế rối nát đến mức ông không còn biết xử sự cách nào nữa.
Vì không biết xử sự cách nào nên dĩ nhiên là Tổng thống đã làm những việc không nên làm. Đáng lẽ đừng làm gì cả khi người ta không biết chắc cần phải làm gì. Tổng thống lại bắt đầu lên tiếng. Việc đó đã làm cho tình trở nên tệ hại hơn nữa, bởi vì Tổng thống đã nói những điều không đúng, không đúng lúc và cũng không đúng chỗ.
Ngoài ra, cũng có nhiều người khác lên tiếng nữa. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao đã tuyên bố về nhiều việc rất tế nhị, chẳng hạn như việc thay thế và lật đổ một chính phủ ngoại quốc. Và chỉ cốt để cho nhân dân Việt Nam thấy rõ điều đó, Đài tiếng nói Hoa Kỳ liền phát thanh những lời tuyên bố ấy. Kết quả, cả Tổng thống Kennedy và các cộng sự viên của ông với những lời tuyên bố lảm nhảm đó, đã không làm được gì hơn là để lộ cho người ta thấy rõ sự thất bại, sự mất bình tĩnh và sự phân vân của họ.
Đây quả thật là những đám mây mờ Á châu.
Họ đã nói rõ là họ muốn tổ chức lại hoặc lật đổ chính phủ “độc tài” của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Và cũng sau đó, họ lại nói một cách không kém rõ ràng là họ không muốn lật đổ chể độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nếu việc này là một sự mạo hiểm có thể dẫn tới việc đưa toàn thể miền Nam Việt Nam vào chế độ Cộng sản.
Tổng thống Kennedy bây giờ có thể nhận ra rằng tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông cần phải đề cao các nhà chuyên nghiệp trách nhiệm giải quyết. Nói cho cùng, chúng ta đã có một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm ngay tại chỗ là Đại sứ Cabot Lodge. Đại sứ là người không khờ dại công khai đe dọa rỗng tuếc.
Dùng biện pháp ngoại giao ôn hòa, đại sứ có thể đem lại yên ổn nội bộ tại Việt Nam và giữa Sài Gòn và Washington.
*
TUYÊN BỐ CỦA CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU
(tại cuộc họp báo ở dinh Gia Long)
Theo cái đà tiến triển chung hiện nay của nước nhà, tôi tin rằng trong 2 năm nữa, mình (người Việt miền Nam nói chung) sẽ có đủ tự do, tự do ngôn luận, tự do hội họp v.v... Tuy nhiên mình cũng phải biết tránh sự phá hoại của Cộng sản lợi dụng tự do của mình mà đập mình. Thời gian 2 năm không phải cái mức nhất định, mà mình tranh đấu tới cấp nào thì hưởng tới cấp đó. Không phải tranh đấu tới với chính phủ Ngô Đình Diệm, mà mình phải biết đặt đối tượng tranh đấu. Đối tượng tranh đấu của chúng ta hiện nay là Phong – Thực – Cộng. Mà Phong – Thực – Cộng ở đâu? Chính ở ngay trong mình và ở chung quanh mình.
*
Trả lời phỏng vấn vô tuyến truyền hình NBC của Tổng thống Mỹ Kennedy (tóm tắt)
1- Không có sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
2- Nếu Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì toàn miền Đông Nam Á sẽ sụp đổ theo.
3- Hoa Kỳ không thể mong mỏi Việt Nam làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ mong chính phủ miền Nam Việt Nam áp dụng những biện pháp cần thiết hầu có thể lấy lại sự ủng hộ của dân chúng; việc này cần một khoảng thời gian và chúng ta cần phải kiên nhẫn. Bất kể như thế nào, không thể để tình hình phát triển như đã phát triển ở Trung Quốc sau Thế chiến thứ hai. Trung ương tình báo Mỹ không làm bất cứ điều gì để chống lại chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giám đốc trung tâm, ông McCone thường xuyên tham dự Hội đồng an ninh quốc gia và chính tôi – Tổng thống Mỹ - quyết định chính sách chứ không phải ai khác. Có nhiều người Mỹ sốt ruột trước các diễn biến ở Đông Nam Á, khuyên chính phủ Mỹ nên rút lui. Như vậy, chỉ có lợi cho Cộng sản. Tôi tưởng, chúng ta nên ở lại. Chúng ta nên sử dụng ảnh hưởng của chúng ta một cách hết sức hữu hiệu nhưng chúng ta không nên rút lui.
*
CUỘC ĐẢO CHÍNH BẤT THÀNH ĐÃ ĐẶT HOA KỲ VÀO MỘT TÌNH TRẠNG LÚNG TÚNG VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM
(Washington Post).
Bây giờ đã rõ ràng là trong tuần lễ trước, một số nhà lãnh đạo dân chính và quân sự Việt Nam, với sự khuyến khích của Hoa Kỳ, đã dự định hoạt động để lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm hay ít nữa cũng loại ra khỏi chế độ ấy ảnh hưởng của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ Tổng thống.
Nhưng vào khoảng giữa tuần, vì những lý do mà ở Washington người ta chưa biết được rõ rệt, các nhà lãnh đạo dân chính và quân sự ấy đã quyết định bỏ rơi tất cả. Tuy vậy, vào ngày thứ hai tuần này, Tổng thống Kennedy lại tuyên bố rằng chế độ ở Việt Nam cần phải thay đổi “về chính sách hoặc có thể về nhân viên”.
Sự thật là sự khuyến khích một cuộc đảo chính của Hoa Kỳ không có nghĩa đó phải là một cuộc đảo chính do cơ quan tình báo Trung ương điều khiển. Các nhân vật hữu trách ở đây quả quyết như thế.
Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ đã minh xác – và hiện nay vẫn còn tiếp tục minh xác như thế - rằng Hoa Kỳ quan tâm hơn hết một chính phủ cương quyết theo đuổi cuộc chiến tranh chống Việt Cộng một cách thắng lợi.
Như thế, đường lối của chính phủ Hoa Kỳ hiện nay tóm tắt như sau: Hoa Kỳ quan tâm nhiều đến những việc đang xảy ra hơn là việc ai cầm quyền. Rõ ràng là những người đang nắm quyền chính hiện này là Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu cùng phu nhân, đã bắt đầu làm trở ngại cuộc điều khiển chiến tranh vì họ, đã làm cho dân chúng Việt Nam thất vọng.
Những lời nhận xét của Tổng thống Kennedy, sau khi cuộc đảo chính không xảy ra, nhằm mục đích để cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu biết rằng Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng. Có thể Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trả lời về vấn đề này trong cuộc phỏng vấn ngày hôm qua dành cho hãng thông tấn Associated Press về vụ Phật giáo và sinh viên.
Điều người ta nghi ngờ ở đây là ông Ngô Đình Nhu có thể tin rằng ông có thể điều đình với Bắc Việt và lời tuyên bố của Tổng thống Pháp De Gaulle hôm gần đây có thể khuyến khích ông Nhu đi theo một đường lối như vậy. (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn ngày 5-9-1963 dành cho các ký giả ngoại quốc, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng việc thành lập một chính phủ liên hiệp với Bắc Việt phải có nhiều điều kiện tiên quyết, và lúc này không phải là lúc đề cập tới vấn đề đó).
Tuy nhiên, các nhân vật hữu trách ở đây cho rằng ý định dùng Pháp để thay thế Hoa Kỳ - như một vài người nghĩ rằng ông Ngô Đình Nhu có thể cho là việc ấy làm được – là một sự khôi hài rõ rệt, vì chỉ có một mình Hoa Kỳ mới có đủ quân sự và muốn dùng quân lực ấy trong cuộc chiến tranh chống Việt Cộng (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả ngoại quốc hôm 5-9-1963, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng các lời tuyên bố của tướng De Gaulle có thể nhắm vào những viễn ảnh xa xôi của vị Quốc trưởng Pháp).
Ngày nay, Hoa Kỳ trong tình trạng lúng túng, mặc dù không ai muốn thú nhận như thế. Nếu ông Ngô Đình Nhu vẫn còn giữ chức vị thì dù cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nói thế nào đi nữa, Washington vẫn thắc mắc về vấn đề không biết cuộc chiến tranh (chống Cộng) có thể tiếp tục một cách thắng lợi nữa không.
Và việc tiếp tục cuộc chiến tranh ấy, mà ở ngay Washington người ta cảm thấy có sự tiến triển hết sức tốt đẹp trong mấy tháng gần đây, chính là bí quyết của quyền lực và uy tín của Mỹ tại Đông Nam Á, một khúc rẽ quan trọng của cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản trên toàn thế giới.
*
HỌ YÊU NƯỚC HƠN CẢ TÔI?
Sài Gòn.
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã dành cho ông Peter Hunt, đại diện Hãng liên hiệp vô tuyến truyền thanh và truyền hình (Associated Rodifusion Ltd) một cuộc phóng vấn mà sau đây là bản dịch.
HỎI: Các thông tín viên ngoại quốc từ Sài Gòn viết tin đi, tố cáo chính phủ quý quốc đàn áp Phật giáo đồ Việt Nam và như vậy, phá hoại nỗ lực cuộc chống Việt Cộng. Xin Tổng thống bình luận về những sự tố cáo ấy.
ĐÁP: Các thông tín viên ngoại quốc tự phụ rằng họ yêu nước tôi hơn cả tôi. Đó là một điều rất lạ lùng. Các Phật giáo đồ không là nạn nhân của một chính sách đàn áp nào cả: họ là nạn nhân của chính sự thành công của họ, của sự phát triển quá mau lẹ, ngoài khả năng của họ về mặt cán bộ; do đó đã không tránh được việc đi sai chính đạo. Kể từ ngày tôi chấp chính năm 1954, nhờ ở chính sách khuyến khích tín ngưỡng tôn giáo của chính phủ tôi, 1.275 ngôi chùa mới đã được xây dựng và 1.295 ngôi khác được trùng tu, tính ra tất cả hơn gấp đôi số chùa có trước năm 1954.
Vì vậy mới có vấn đề khủng hoảng về sự phát triển mau chóng mà chính các Phật giáo đồ có bổn phận phải tự giải quyết lấy trong nội bộ của họ; chính phủ chỉ có thể đảm bảo cho họ những điều kiện tự do à an ninh cần thiết để cho Tăng thống Phật giáo khỏi bị bọn quá khích và phần tử ngoại lai tràn ngập lấn át. Đó là điều mà chính phủ đã làm. Tăng thống Phật giáo đã nắm lại được các sư sãi và chùa chiền theo đường lối của riêng họ.
HỎI: Chính phủ quý quốc đã theo chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hay hình như đã làm như thế. Hiện nay tướng De Gaulle chủ trương một đường lối khác. Vậy kính xin Tổng thống cho chúng tôi được biết tôn ý về vấn đề này.
ĐÁP: Nói rằng chính sách ngoại giao của chính phủ tôi nghiêng theo chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thì thật không đúng. Hoa Kỳ là nước giúp chúng tôi mạnh nhất trong cuộc tranh đấu giải phóng chúng tôi, chúng tôi xét rằng tỏ rõ sự liên đới của chúng tôi với quốc gia này là một sự ngay thẳng tối thiểu. Tuyên bố của tướng De Gaulle không gửi cho chính phủ tôi, vì vậy chính phủ tôi không thấy cần bình luận gì về tuyên bố đó.
*
TUYÊN BỐ CỦA TỔNG THỐNG DE GAULLE
Đông Dương luôn luôn chiếm một khoảng quan tâm rất lớn đối với nước Pháp. Những liên hệ lịch sử và văn hóa hàng thế kỷ đã khiến cho mọi người Pháp vui mừng hoặc lo lắng trước các biến động ở khu vực này. Sự tranh chấp, đôi khi đẫm máu, ở Đông Dương mang tính chất xung đột bộ phận trong một thế giới phân chia nhiều cực như hiện nay. Tôi không xem các chuyển biến đang xáo trộn tình hình Nam Việt Nam như một cái gì đơn độc, riêng lẻ. Lối ra của một thực tế như vậy chỉ có thể xuất phát từ chính sách khôn ngoan nhất của những người có trách nhiệm tại đây - ấy là chính sách trung lập. Mặc dù theo con đường không phải lúc nào cũng suôn sẻ, Vương quốc Lào đã tránh được hiểm họa nội chiến cùng sự đụng độ của các thế lực bên ngoài tại địa bàn này nhờ vào chính sách trung lập. Vương quốc Cambodie là một tấm gương đầy giá trị thuyết phục về sự đứng bên ngoài mọi tranh chấp ý thức hệ quốc tế. Nước Pháp, trong bổn phận cao quý của mình, sẵn sàng hỗ trợ cho nỗ lực của toàn bán đảo Đông Dương theo phương hướng mang đến phồn vinh và ổn định ấy...
*
HÃY CHẤM DỨT “TRẬN GIẶC” BẰNG VÔ TUYẾN TRUYỀN THANH, BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN HÌNH
(Trả lời báo chí của Tổng thống Mỹ Kennedy)
HỎI: Tổng thống có thể cho biết chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với chính phủ hiện hữu ở Việt Nam hay không?
ĐÁP: Tôi đã từng tyên bố quan điểm của tôi như thế nào rồi. Chúng ta chủ trương áp dụng những hành động và chính sách khả dĩ giúp được cuộ chiến tranh ở đó. Đó là lý do tại sao 25.000 người Mỹ đã vượt 10.000 dặm để sang tham gia cuộc chiến đấu tại đây. Chúng ta ủng hộ những gì giúp chiến thắng cuộc chiến tranh đó. Và chúng ta chống lại những gì ngăn cản nỗ lực chiến đấu ở đó.
Tôi đã từng tuyên bố rằng, bất cứ một hành động của bất cứ một chính phủ nào có thể làm hại đến sự chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó cũng đều không phù hợp với chính sách và mục tiêu của chúng ta. Đây là sự thử thách mà tôi cho rằng, tất cả các cơ quan và các nhân viên trong chính phủ Hoa Kỳ cần phải đối phó trong tất cả mọi trường hợp. Và chúng ta sẽ đối phó với mối thử thách đó bằng nhiều đường lối khác nhau trong những tháng sắp tới, mặc dầu tôi không cho rằng, chúng ta nên trình bày tất cả mọi quan điểm của chúng ta trong lúc này. Theo ý tôi, những quan điểm này sẽ trở nên rõ rệt hơn về sau. Nhưng chúng ta có một chính sách rất giản dị ở đó.
Và về một vài phương diện khác, tôi cho rằng dân chúng Việt Nam và chúng ta (dân chúng Hoa Kỳ) đều đồng ý: chúng ta muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó, muốn chận đứng Cộng sản và muốn người Mỹ trở về nước. Đó là chính sách của chúng ta và tôi tin chắc đó cũng là chính sách của nhân dân Việt Nam. Nhưng chúng ta không thể ở đây để chứng kiến một sự thất bại. Và chúng ta sẽ theo đuổi chính sách mà tôi vừa nói đến hôm nay, xúc tiến những chính nghĩa và những vấn đề sẽ giúp chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó.
HỎI: theo như ban nãy Tổng thống đã nói, phải chăng Tổng thống cho rằng, chừng nào mà ông Ngô Đình Nhu vẫn còn làm cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm thì chừng đó, sẽ không có một sự thay đổi có ý nghĩa nào trong chính sách của chính phủ Việt Nam?
ĐÁP: Ngoài những lời nói tổng quát đã từng được đưa ra cho Đại sứ Lodge và những người khác thảo luận đến. Tôi không thấy có một ích lợi nào để đem vấn đề này ra thảo luận trong lúc này.
HỎI: Khi chỉ trích những chính sách và những lời bình luận của Tổng thống về Việt Nam có một vài điều nói rằng, Tổng thống hành động dựa theo những tin tức sai lầm và không được đầy đủ. Vậy xin Tổng thống cho biết ý kiến.
ĐÁP: Tôi hành động dựa theo những quan điểm theo những ý kiến đồng nhất của những người Mỹ có kinh nghiệm hiện có mặt ở Việt Nam thuộc các giới quân sự, ngoại giao, cơ quan viện trợ và những người mà chỉ có một mối quan tâm duy nhất: mong muốn chiến thắng càng sớm bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tôi xin nói rằng, tôi đã không nói nhiều đến mối quan tâm của họ đối với các vấn đề ở Việt Nam và chúng ta không có một mối quan tâm nào khác.
Ngoài ra, như tôi đã từng nói trước đây, tôi cho rằng chúng ta may mắn có Đại sứ Lodge ở đó và tôi xin nói rằng, bất cứ một lời tuyên bố nào mà tôi đã đưa ra để bày tỏ mối quan tâm về tình hình Việt Nam cũng đều phản ánh quan điểm của ông Lodge và phản ánh một cách rất ôn hòa.
HỎI: Tổng thống nghĩ như thế nào về bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church định đệ trình, yêu cầu Tổng thống đừng viện trợ thêm cho Việt Nam nếu chính phủ Việt Nam không thay đổi chính sách và nhân viên của họ?
ĐÁP: Bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church phản ánh mối lo ngại của ông. Ông Church đặc biệt quan tâm tới Viễn Đông cũng như Thượng nghị sĩ Turson và một vài thượng nghị sĩ khác.
Tôi đã từng trình bày quan điểm của tôi là chúng ta nên ở lại đó và tiếp tục trợ giúp miền Nam Việt Nam. Nhưng tôi cũng đã trình bày, tỏ rõ quan điểm của tôi là sự trợ giúp mà chúng ta cung cấp cho họ cần phải được sử dụng làm sao cho có hiệu lực nhất. Tôi nghĩ rằng, dường như đó cũng là quan điểm của Thượng nghị sĩ Church.
HỎI: Tổng thống có nghĩ đến việc cho gia đình của các nhân viên Mỹ ở Việt Nam trở về nước hay không?
ĐÁP: Như tôi đã nói, tôi cho rằng bất cứ một vấn đề nào mà chúng ta hiện đang cứu xét, tốt nhất cũng nên để cho chính phủ cứu xét và bất cứ một quyết định nào mà chúng ta đạt tới cũng sẽ được công bố vào lúc nào thích hợp nhất.
HỎI: Gần đây, báo chí, các đài truyền thanh và truyền hình liên tục công bố các ý kiến rất trái ngược của các nhân vật Hoa Kỳ và Việt Nam về tình hình Nam Việt Nam. Tổng thống có cho đó là phương pháp thông tin mang ý nghĩa xây dựng hay không?
ĐÁP: Tôi cho là nên chấm dứt các hình thái tạm gọi là “trận giặc” giật gân bằng báo chí, đài phát thanh và đài truyền hình ấy để các bên suy nghĩ và tìm đáp số cho những vấn đề tuy phức tạp nhưng vẫn chứa sẵn trong lòng nó những nhân tố giải quyết thỏa đáng.


Phần 8 - Chương 2


“Chấm dứt cuộc chiến tranh bằng báo chí, truyền thanh và truyền hình để mở đầu cho một loại hình chiến tranh nào đây?”
Dung đọc nhiều lần những câu trả lời trên báo của tổng thống Kennedy. Có vẻ người đứng đầu Nhà Trắng đã hết kiên nhẫn. Đây là những câu trả lời thằng thừng nhất của Kennedy sau nhiều lần trả lời úp mở. Kennedy không thể lẩn tránh các vấn đề mà lẽ ra ông ta cần tế nhị hơn, chẳng hạn như việc thay đổi Ngô Đình Diệm, cả số phận của con ngựa tuy nhiều chứng tật nhưng rất có công với Mỹ trong thời điểm Mỹ cố chen chân với Pháp ở Đông Dương. Có thể hiểu những câu trả lời này như là một tín hiệu cho phép đại sứ Cabot Lodge hành động hay không?
Luân rời Sài Gòn lên Lào sang hôm nay, không kịp đọc những câu trả lời này.
“Anh ấy nhạy cảm hơn mình. Trước khi đi, anh ấy bảo: Chúng ta không còn nhiều thì giờ... Anh ấy xem một tuần lễ chỉ cho vụ “Tam giác vàng” là phí phạm. Nghĩa là anh ấy đoán trước sắp có đột biến... ”.
Dung miên man với cách suy nghĩ thì chuông ngoài cổng reo, chị Sáu vào báo:
- James Casey đến.
Gã trung tá Mỹ luôn luôn quấy rầy Dung. Và lần này, gã thừa biết Luân vắng nhà nên đến gặp Dung mà không xin phép trước. Dung có thể viện cớ này cớ khác để tống khứ gã sĩ quan Mỹ nhưng cô lại đắn đo. “Tại sao mình sợ? Mình sợ cái gì? Biết đâu qua James Casey, mình thêm được những cơ sở mới để báo cáo cho các anh?”
Dung bảo chị Sáu mời James Casey vào phòng khách và cô đi thay quần áo.
- Tôi muốn gặp đại tá... - James Casey bắt tay Dung.
“Hình như gã chưa biết Luân không có mặt ở Sài Gòn.” Dung chợt nghĩ, và qua đôi mắt và cách nói của James Casey cô hiểu rằng gã đến đây không phải để tán tỉnh Dung.
- Nhà tôi chưa về...
Dung đưa đến quyết định:
- Mời trung tá ngồi.
- Xin lỗi, bà vừa đi làm về hay sắp đi đâu? - James Casey hỏi Dung bởi bộ đồng phục sĩ quan cảnh sát của Dung. Đây là lần đầu tiên Dung tiếp James Casey trong bộ đồng phục, không quên đính lên cầu vai cấp hiệu đại úy.
- Tôi vừa đi làm về và sắp trở vào Tổng nha.
James Casey ngồi xuống ghế.
- Trung tá dùng chi?
James Casey đưa tay ra hiệu từ chối:
- Cám ơn bà, khỏi, tôi cũng rất bận...
- Dạo này, Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thường phải làm “việc đêm hay sao? - James Casey hỏi, Dung hiểu gã muốn khai thác ở Dung nhịp độ làm việc của Tổng nha cảnh sát - một dấu hiệu về độ khẩn trương của guồng máy an ninh Nam Việt, đại diện cho bộ thần kinh của chế độ.
- Có lẽ gần ba tuần lễ rồi, không hôm nào tôi không làm đêm và chỉ về nhà sau 11 giờ. Không có luôn ngày Chủ nhật!
Dung chọn lựa cách tiến công.
- Thế đấy!- James Casey như đồng tình với Dung – Tôi cũng vậy, thậm chí mỗi đêm chỉ ngủ không quá 5 tiếng đồng hồ.
- Tình hình mỗi lúc mỗi khó khăn... - Dung nói câu lơ lửng.
- Đúng! - James Casey xác nhận. – Nhưng...
James Casey cũng bỏ lửng chữ “nhưng’. Gã cười, không có vẻ gì bí hiểm.
- Nhưng, – gã nói tiếp – Có lẽ đại tá đã trấn an bà: Tình hình khó khăn là trên tổng quát, liên quan đến những nhân vật đang “so găng” với nhau... Đại tá gần như một trọng tài, mà trọng tài thì khác đối thủ! Nếu phải dùng đến chữ “khó khăn” đối với đại tá, tôi cho rằng có thể đúng vào một trận đấu khác...
- Một trận đấu khác hay một hiệp đấu khác? - Dung hỏi, như không quan tâm lắm sự tiết lộ của James Casey. Với Dung, một đảm bảo quan trọng về an toàn cho Luân...
- Trận đấu! – James Casey xác định...
- Thậm chí, tôi nghĩ đến một hiệp phụ nữa! – Dung vẫn lạnh lung.
- Bà đánh giá vai trò quá thấp của đại tá... Thôi được... Hôm này, tôi muốn gặp đại tá bởi vì Tổng thống nước chúng tôi quyết định hưu chiến với ông Diệm trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng bà Nhu vẫn lắm lời. Bà Nhu lắm lời đặt Tổng thống nước chúng tôi vào thế mất sĩ diện. Một Tổng thống Mỹ giữ sĩ diện đồng nghĩa với một biến cố. Cả đại sứ Cabot Lodge, cả tướng Jones Stepp... dĩ nhiên, cả cá nhân tôi, chưa ai cho rằng mọi thứ đã chín muồi. Đặc biệt, đại tá – tôi nói rõ, đại tá Nguyễn Thành Luân – cần một thời gian đủ để chứng tỏ với dư luận Mỹ và với các thế lực chính trị Sài Gòn rằng ông luôn luôn có quan điểm độc lập. Tốt nhất, khớp mõm bà Nhu! Đừng dại dột đổ xăng vào lửa... Đại tá có thể làm việc đó, tức là can thiệp với ông Nhu hoặc ông Diệm. Đồng thời, đại tá nên khuyên ông Thục, khi sang dự Công đồng Vatican II, đừng khuấy động dư luận Ý. Giáo hoàng La Mã đang đứng trước một sự kiện tế nhị ở Nam Việt – ông ấy không thể công khai ủng hộ con chiên của mình đàn áp một tín ngưỡng khác...
James Casey nói một thôi dài.
- Người Mỹ muốn giữ chủ động cao... - Dung bình luận.
- Bà nói chưa thật chính xác. Phải diễn đạt như thế này: Chúng ta muốn giữ chủ động cao. Chúng ta gồm tôi, những người Mỹ, và các bạn bè Việt Nam, trong đó, một khuôn mặt quan trọng là đại tá Luân.
- Mấy giờ đại tá về? – James Casey xem đồng hồ tay.
- Tôi không rõ. Nhà tôi không bảo hôm nay anh ấy làm việc ở đâu.
- Chỗ ông Nhu chăng?
- Tôi không dám chắc...
- Thôi tôi đành phải đi. Khi nào đại tá về, bà thuật lại những điều tôi vừa nói với bà và tôi mong đại tá gọi điện cho tôi... Tốt nhất, gọi điện vào 7 giờ sáng...
Tới bây giờ, James Casey mới nhìn Dung như gã từng nhìn trước đây...
- Bà có biết khi cùng các người Mỹ phát quang con đường đi của đại tá, tôi đã làm một việc ngược lại với trái tim của tôi không?
Dung nghiêm mặt:
- Tôi sẽ nhắc nhà tôi gọi điện cho trung tá...
Cô không chìa tay cho James Casey và không tiễn gã ra cửa.
*
John Hing ung dung bao nhiêu thì Lâm Sử bồn chồn bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ lần này diễn ra tại khách sạn Thu Thủy, Long Hải, theo yêu cầu của Sử, qua trung gian Bá Thượng Đài. Lâm Sử đề nghị gặp Hing trước ngày 26-10. Với các tin tức mà anh ta nắm, kể luôn phần tin do Ly Kai cung cấp, Sài Gòn sẽ đảo lộn dữ dội đúng vào ngày Quốc khánh hàng năm. Nhưng John Hing nhởn nhơ, hẹn rồi hoãn đến mấy lần. Ngày 26-10 nhích gần, Lâm Sử quá sốt ruột. Đến Bá Thượng Đài luôn, đôi khi đến cả Tần Hoài, Tào Phu. Các “ông vua” sắt, gỗ sốt ruột không kém Lâm Sử. Tin tức đảo chính lan truyền đến mức thành câu chuyện đầu môi của các tay phổ ky tiệm nước: “Hà, ngày mai ông Diệm không “hui nhị tì” (1) thì cũng “hui” sang ở chung với Xưởng Cái Xạch... (2)”. Nhưng ai lật Diệm? Các “ông vua” quan tâm điều đó hơn hết. Có tin đồn chính Nhu lật Diệm. Ối, thứ đảo chính “cụi” này chẳng ăn nhằm gì. Có tin đồn Dương Văn Minh lật Diệm... À, nếu quả vậy, còn chờ xem. Mai Hữu Xuân lật Diệm? Những tay bồ bịch lâu năm với các công ty Pháp mừng rơn. Tôn Thất Đính? Các “bar” sẽ mọc ra, đếm không xuể, “ chị em ta” rộng đường kiếm ăn!
Lâm Sử cần báo cáo về Bắc Kinh – Hoa kiều vụ nhắc nhiều lần, qua đại sứ Trung Quốc ở Nam Vang. Hệ thống sưu tra tin tức của Lâm Sử quá yếu – những tay Hoa kiều giàu có tỏ ra kém khiếu chính trị - rốt lại, có mỗi Ly Kai là giúp được cho Lâm Sử ít nhiều. Sau này, Ly Kai làm cao, mỗi tin theo độ mật, lên giá vùn vụt. Không hiếm trường hợp Ly Kai cung cấp tin gọi là “tuyệt mật” nhưng thật ra hắn nghe lỏm hoặc là tin trên báo Mỹ mà hắn xào nấu lại, Lâm Sử cự hắn, hắn trả lời tỉnh bơ: Vậy thì thôi, ông tìm người khác! Lâm Sử không dám buông hắn – buông hắn thì còn biết khai thác tin chính trị ở ai?
Bởi vậy, Lâm Sử hy vọng lần gặp John Hing này. Cuối cùng, Bá Thượng Đài móc nối, và hai người chọn Long Hải vào ngày giữa tuần, vắng khách. Họ trao đổi ngoài bãi cát.
Đúng ra, Lâm Sử còn lâu mới có thể đối đầu với John Hing. Một thầy giáo tiểu học miền hẻo lánh đuối sức trước một tay lõi đời, tốt nghiệp đại học thương mại, cổ đông quan trọng trong nhiều công ty hỗn hợp Mỹ - Hongkong, chủ chứa nhiều song bạc và trên tất cả, một tình báo có cỡ đứng đầu một cơ quan tình báo tư nhân lớn nhất nước Mỹ, chuyên làm thuê cho những cơ quan tình báo nào trả tiền hời. Mấy lá bùa của Lâm Sử đều vô hiệu hóa: John Hing bĩu môi về cái luận điểm cách mạng thế giới của Mao, cười khẩy về “đại tiến vọt” ở Hoa lục. Cầu thần chú “Tổ quốc” là để John hốt hồn người khác chớ đâu phải để cho Lâm Sử lên gân với gã, cả thuyết “huyết thống” cũng vậy.
- Đã gọi là hội đàm, mỗi bên phải mang đến cho bên kia một cái gì... Ông có cái gì? – John Hing đi thẳng vào cuộc trả giá.
Lâm Sử không có cái gì cả, ngoài các mẩu tin vụn vặt.
- Nghĩa là ông nhờ tôi hé cho ông vài tin để ông báo cáo cho Liêu Thừa Chí? – John Hing cười với vẻ thương hại – Tôi chưa gặp Nghị Lực, cánh Hoa vận của Việt Cộng, nhưng tôi nghĩ rằng Nghị Lực biết nhiều hơn ông...
Lâm Sử thẹn đến chín người. “Có lẽ mình chưa chi đủ tiền cho bọn săn tin”, Lâm Sử chợt nghĩ.
- Ông cần học tập cách hệ thống tình báo ở các nước mà đồng đôla có tiếng nói chung thẩm. – John Hing lên lớp một cách thô bạo – Tôi có thể cho ông biết vài tin, nhưng tôi biết chắc rằng ông không đủ tiền để trả cho tôi...
- Ông cứ thử ra giá... - Lâm Sử muốn lấy lại một chút uy phong.
John Hing lắc đầu:
- Tôi không mơ ước làm cách mạng thế giới với khẩu súng trường và gói cơm khô, cho nên ông không thể trừ vào giá biểu những khẩu hiệu suông mà lại tính bằng đôla. Ông nên nhớ đơn vị thanh toán của tôi – trực tiếp với tôi, tôi nhắc lại – đều theo đơn vị gồm đến 5 con số và tôi chỉ quen với các ngoại tệ đôla Mỹ, Canada, quan Pháp và Thụy Sĩ, bảng Anh... Tôi không dùng đôla Hồng Kông, giá bấp bênh. Tôi cũng không dùng Yên của Nhật – nhiều chữ số quá, tốn giấy! Liệu ông có sẵn vài chục nghìn đôla Mỹ để mua một tin của tôi không? Một tin thôi nhé! Tất nhiên, tin của tôi xứng với giá biểu đó... Tỷ như, sắp tới, ai sẽ đứng lên lật đổ ông Diệm, chính sách đối ngoại của nhóm đảo chính ra sao, ngày nào đảo chính nổ. Đó là ba tin, mỗi tin không thể dưới năm vạn đôla... Sao? Ông không đủ tiền?
Lâm Sử im lặng. Đúng là những tin cực kỳ hấp dẫn. Bắc Kinh mà nhận được, anh ta sẽ lên như diều. Bắc Kinh nhận sớm, sẽ có chỉ thị cho anh ta, anh ta đủ thì giờ xoay xở. Nhưng, món tiền quá lớn. Tào Phu, Tần Hoài, Bá Thượng Đài... không ai đủ “lòng yêu Tổ quốc” đến mức mở tủ sắt tuôn ra chừng ấy đôla. Đại sứ Trung Cộng ở Nam Vang nhất định “chỉnh” Lâm Sử nếu nghe yêu cầu chi xuất như vậy: Phải dựa vào người Hoa khai minh! Không thể nào dám gửi về Hoa kiều vụ Bắc Kinh một đề nghị như vậy.
John Hing đứng lên, phủi những hạt cát bám vào quần. Lâm Sử ủ rũ.
- Có lẽ tôi không nên quá nghiêm khắc với ông. – John Hing nheo mắt ngó Lâm Sử - Dẫu sao, nhờ ông mà tôi được nghỉ ngơi tại bãi biển tuyệt đẹp này... Tôi báo cho ông: ngày 26-10 không có cái gì xảy ra cả, tôi cam đoan...
- Còn sau ngày 26-10? – Lâm Sử rối rít.
- Tôi tặng không ông một tin. Nếu ông muốn thêm một tin, chúng ta trở lại điều kiện ban nãy...
John Hing bước đến chiếc dù, ngả lưng lên ghế, sau khi uống một ly bia. Lâm Sử ngồi chỗ cũ, đón mấy đợt sóng quất vào mặt mà anh ta không buồn vuốt...
*
Mai Hữu Xuân thầm thì với Tôn Thất Đính tại sở chỉ huy của Đính. Cửa phòng đóng kín. Với người ngoài, hai vị tướng bàn bạc công vụ, rất bình thường.Xuân đã cẩn thận cho thiếu tá Hùng dò trên trần nhà, gỡ từng tấc vuông bức tường, kiểm tra ngay các chiếc quạt trần – biết đâu Nhu không cài máy ghi âm. Ngay đối với Mỹ, Mai Hữu Xuân cũng đề phòng. Chính Savani, trong mật thư, đã nói lóng để Xuân lưu ý mọi bất trắc, dù tình báo Mỹ trực tiếp gợi ý Xuân tham gia vào cuộc đảo chính – về nguyên tắc, nhất thiết không tránh khỏi. “Điều mà chúng ta quan tâm là thời gian nào thích hợp nhất và vài chi tiết kỹ thuật cần xem xét thêm”. Đại tá Đỗ Mậu, mà Xuân biết rõ ông ta là người của CIA, là một chỉ huy có cỡ chứ không phải một nhân viên quèn kiểu Thích Tâm Châu. Đỗ Mậu xuống tóc, biểu tượng đứng về Phật giáo của ông – sĩ quan cấp đại tá đầu tiên công khai chống lại Ngô Đình Diệm. Nếu ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc gây tiếng vang lớn trong giới trí thức và ở nước ngoài – ông Mẫu là một luật gia tên tuổi và là Bộ trưởng Ngoại giao khá lâu của Diệm – thì hành động của đại tá Đỗ Mậu nhằm tác động quân đội đồng thời cũng nhằm sửa soạn chỗ đứng trong hàng ngũ Phật giáo của ông ta. Vả lại, Đỗ Mậu là CIA, ông ta đi nước cờ của CIA, với từng chi tiết.
Mai Hữu Xuân bắt tay Đỗ Mậu, nhưng không phải vì vậy mà Xuân quên lai lịch của Đỗ Mậu. “Thời gian thích hợp” đôi khi đồng nghĩa với hết nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy, tận cuối năm 1964. Với khoảng thời gian ấy, Đỗ Mậu dám bán Xuân cho Nhu lắm! “Chi tiết kỹ thuật” là gì? Rất có thể người Mỹ e ngại một loạt tướng tá do Pháp đào tạo nắm cuộc đảo chính, đưa Nam Việt Nam theo con đường của De Gaulle, nên cần điều chỉnh đôi chút – gạt Xuân ra, chẳng hạn... Cái gì cũng có thể xảy ra trên trường đỏ đen cả!
Ngay với Tôn Thất Đính, chưa phải đã có thể rút ruột mà đối xử. “Thằng cha giống Lữ Bố quá chừng”. Xuân đánh giá Đính như vậy.
- Nhu còn do dự. - Đính bảo - Lẽ ra ngày 26-10 “Bravo I” ra mắt, nhưng bỗng Nhu đổi ý. Ông ta gọi tôi vào dinh Gia Long, dặn tôi chờ Nguyễn Thành Luân...
- Luân không có mặt ở Sài Gòn.
- Có lẽ không có mặt. Hai hôm rồi, hắn chẳng liên lạc với tôi, ngay bằng điện thoại. Tôi gọi về Tham mưu biệt bộ, vợ hắn trả lời hắn đang ở chỗ Nhu. Tôi gọi chỗ Nhu, thư ký của Nhu trả lời Luân và Nhu đang bận... Song, tôi nghĩ rằng Luân đi đâu rồi.
- Đi đâu?
- Răng mà tôi biết được?
- Hỏi chỗ Harkins xem?
- Không nên...
- Đỗ Mậu biết không?
- Chắc không biết...
- Coi chừng!
- Răng mà coi chừng?
- Nó ra khu hoặc ra Hà Nội!
- Nếu Luân ra khu hoặc ra Hà Nội thì thiếu tướng và tôi muốn “coi chừng” cũng không coi chừng nổi. Nhất định hắn thực hiện lệnh của Jones Stepp. Nhưng, tôi không nghiêng về giả định của thiếu tướng...
- Thằng đó láu cá lắm. Tôi nghĩ xem!
Xuân ngồi thừ khá lâu. Bỗng Xuân quay điện thoại:
- Alô! Bộ chỉ huy không quân, phải không? Tôi là Mai Hữu Xuân, muốn nói chuyện với trung tá Nguyễn Cao Kỳ... Chào trung tá... Chúng tôi, thiếu tướng Tôn Thất Đính và tôi, muốn nói chuyện với đại tá Nguyễn Thành Luân... Ông ấy không có ở đó? Ông ấy có đến sân bay không? Ở Tân Sơn Nhất thì không, còn ở Biên Hòa? Cám ơn, tôi sẽ hỏi sân bay Biên Hòa...
Xuân gác máy, không quay hỏi sân bay Biên Hòa.
- Có vẻ thiếu tướng mất bình tĩnh... - Đính nhận xét, giọng hơi châm biếm.
- Không nên coi thường sự vắng mặt kỳ lạ này. – Xuân mím môi và quay tiếp điện thoại.
- Hello! Tôi Mai Hữu Xuân, xin nói chuyện với tướng quân Jones Stepp... Ồ... Chào phu nhân... Tôi muốn biết đại tá Nguyễn Thành Luân có chỗ tướng quân không... Vâng, có việc... Rất khẩn... Xin lỗi, nếu đại tá bàn xong công việc với tướng quân, nhờ phu nhân nói lại tôi muốn nói chuyện với đại tá qua điện thoại... Cám ơn phu nhân!
- Hắn ở chỗ Jones Stepp... - Xuân thở phào.
- Luân vắng mặt bây giờ thì tôi không thích, - Xuân đã nhồi thuốc vào pipe – Nhưng khi bắt đầu “Bravo”, tôi lại muốn hắn vắng mặt. Cả thằng Hồ Tấn Quyền. Những tiểu đỉnh ở bến Bặch Đằng, với pháo cao xạ và pháo tấn công, không phải là chuyện giỡn!
Điện thoại reo. Đính nhấc máy.
- Dạ, trình cụ, con đây... Dạ, con đến ngay...
- Trong “Dinh” gọi – Đính nói nhỏ với Xuân, sửa lại cổ áo, đội mũ, bước ra khỏi phòng.
... Saroyan đến nhà Luân, khi Dung đi làm vừa về.
- Đại tá đi vắng?- Saroyan hỏi lo lắng. Dung gật đầu, cũng lo lắng.
- Có chuyện gì sao?
- Không! – Saroyan nắm tay Dung – Đại tá đi đâu?
- Hình như đi Lào...
- Đi Lào?
- Nhu giao cho anh ấy một công vụ gì đó ở vùng “Tam giác vàng”... Dặn giữ bí mật.
- A!- Saroyan gục gặc đầu – Dính chuyện buôn nha phiến... Vừa rồi, thiếu tướng Mai Hữu Xuân hỏi đại tá. Tôi chưa đoán ra việc gì nên trả lời bừa là đại tá đang ở chỗ Jones... Thế, bao giờ đại tá về?
- Lối một tuần... Đi hai hôm rồi.
- Họ săn đón đại tá cẩn thận lắm, tôi rất ngại. – Saroyan nói, giọng buồn.
Dung cảm thấy hơi ân hận với Saroyan. Thật ra, Dung biết tường tận chuyến đi của Luân, nhưng không thể nói thật.
- Tôi có đọc vài phúc trình của tình báo Mỹ ở Bangkok chung quanh “Tam giác vàng”. Tôi không rõ đại tá thực hiện công vụ gì ở đó? Khá nguy hiểm. Những băng buôn thuốc phiện khử tất cả những gì chúng cho là cản trở ngại. Chúng có máy bay, cao xạ, xe tăng. Tại sao Dung không báo cho tôi biết? Tôi có cách bảo vệ đại tá...
- Chắc không cần, Saroyan ạ! Anh Luân đối phó được với mọi tình huống...
- Tất nhiên tôi tin anh Luân... Xin lỗi Dung, tôi tin đại tá! – Giọng Saroyan run rẩy.
- Từ nay, Saroyan cứ gọi anh Luân bằng tên, mình không buồn đâu! Việc gì mà buồn?
- Cảm ơn Dung nhiều. Saroyan không điên đến nỗi báo cho Jones về sự vắng mặt của anh Luân, nhưng nếu Jones bỗng muốn gặp Luân thì sao?
- Dung chưa nghĩ điều đó... Hôm kia James Casey đến đây, cũng muốn gặp anh Luân.
- Rắc rối quá!
Saroyan bỗng như tức giận:
- Gia đình lão Diệm đáng giá bao nhiêu mà anh Luân phải chịu cực, chịu nguy hiểm? Tôi bảo Jones: Định “súp” lão thì “súp” ngay đi...
- Tướng quân trả lời sao?
- Ông ta chỉ cười... Tôi biết tôi kém khiếu chính trị, nên không hiểu ông ta cười với ý nghĩa gì...
Saroyan quay sang bé Lý. Cô đùa với thằng bé như không chịu dứt.
---
(1) ra nghĩa địa
(2) Tưởng Giới Thạch
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn