Biên hoang truyền thuyết
Hồi 41
Kiếp hậu dư sinh
Tựa như từ dưới đáy tối tăm của đại dương sâu thẳm, ý thức của Yến Phi phiêu phù nổi dần lên, trong hư vô lãng đãng trôi như cánh bèo không rễ, tư tưởng dần dần ngưng tụ, thân thể lạnh lẽo từ từ chuyển sang ấm áp, cuối cùng thốt lên một tiếng rên rỉ, hai mắt bừng mở.
Cảnh tượng mơ mơ màng màng đập vào mắt, phảng phất như trong mộng.
Chàng đang ở trong một gian phòng rộng rãi, bố trí giản dị cao nhã, mình thì ngồi trên giường màn che trướng rủ, ánh dương quang nhu hòa chiếu rọi qua cửa sổ bên cạnh, thế giới bên ngoài một màu trắng toát, rõ ràng là nơi này vừa trải qua một trận bão tuyết.
Trong thời khắc này, chàng cảm giác hết sức kỳ dị, vì thế giới trước mặt và trong quá khứ không có lấy một nửa điểm liên hệ với nhau.
Tuy nhiên đó cũng vì ký ức đã bị tàn phá đến mức không còn gì rõ ràng nữa. Ánh thái dương rọi vào tuy dịu dàng, nhưng chàng vẫn cảm thấy không chịu đựng nổi, liền nhắm nghiền hai mắt, hơi thở dồn dập.
Chàng theo phản ứng tự nhiên kiểm tra tình trạng bên trong thân thể, chân tay thì đã khôi phục khí lực, nhưng chân khí sung mãn xưa nay lại tựa như có như không, vô phương ngưng tụ.
Yến Phi trong lòng chấn động mạnh, biết rằng nội công tu vi đã mất, biến thành người thường.
Tiếng chân bước lại gần.
Yến Phi nhìn ra cửa phòng, có một tiểu sảnh nằm bên ngoài, có người đang bước qua sảnh tới đây. Là ai vậy?
Một tiểu tỳ bước qua ngưỡng cửa, xuất hiện trước mặt chàng, tuy không thật mỹ lệ, nhưng ngũ quan đoan chính, cặp mắt to tròn rất đáng yêu. Ả tựa hồ không nghĩ đến chuyện Yến Phi trong trướng đã tỉnh lại, nhanh nhẹn tiến vào, tay bê một chiếc bồn gỗ đầy nước nóng đặt lên đầu giường, trong đám hơi nước nghi ngút đưa tay rút chiếc khăn lông vắt vai bỏ vào trong bồn nước.
Yến Phi muốn gọi một câu “cô nương”, nhưng nói được thành lời quả thật muôn vàn gian nan, âm thanh lên đến cổ rồi liền biến thành một tiếng rên thoát ra.
Tiểu tỳ giật bắn mình, mặt lộ vẻ hết sức kỳ quái, ngó vào trong trướng, nhìn Yến Phi đã ngồi lên như nhìn thấy quỷ, vội lui lại hai bước, tay ôm ngực, song mục bàng hoàng không tin ở mắt mình.
Yến Phi cũng ngơ ngác nhìn, hết sức bất ngờ trước phản ứng kịch liệt của ả. Tiểu tỳ khẽ mấp máy đôi môi, tựa như muốn nói điều gì, nhưng cặp chân lại bất giác thoái lui ra ngoài, đến bên cửa rồi mới kêu lên một tiếng chói tai, quay đầu chạy như ma đuổi. Yến Phi cảm thấy toàn thân mềm nhũn, lại nằm ngửa ra ngó lên đình màn.
Trời ơi! Cuối cùng là chuyện gì đây? Chẳng lẽ địa phủ là như thế này sao? Chẳng có gì khác với thế giới trước khi chết, giá như người tiến vào phòng khi nãy không phải là người khác mà là mẫu thân đã quá thế thì chẳng phải thật là tuyệt vời hay sao?
Ký ức trước khi đánh mất tri giác dần dần trở lại trong đầu, bối tâm vẫn còn đó cảm giác lạnh buốt lúc bị Nhậm Dao dùng song chưởng toàn lực đập vào.
Còn Điệp Luyến Hoa nữa?
Yến Phi lại ngồi dậy, nhìn quanh tìm kiếm, thấy Điệp Luyến Hoa được treo hững hờ trên bức tường bên cạnh, ngoài ra còn có Khảm thái đao của Bàng Nghĩa, tự đáy lòng liền dâng lên cảm giác ấm áp dễ chịu, rồi ngay lúc đó lại cười khổ. Lúc này đối với chàng Điệp Luyến Hoa chẳng biết dùng để làm gì nữa.
Chẳng lẽ song chưởng của Nhậm Dao rốt cuộc đã chấn tan đi nội công tu luyện từ nhỏ của mình sao?
Là do di hại của Đan kiếp?
Tiếng chân lại vang lên, ba bốn người đang chạy vội đến, không như lúc trước, hiện tại chàng đã có thể qua tiếng bước chân đoán đúng số người tới.
Yến Phi ngầm thở dài, nhắm mắt lại, nghĩ thầm miễn sao không phải Nhậm Dao hay yêu nữ Thanh Thị tới, bằng không lão tử sẽ mệt đây.
Một giọng nam nhân ngoài cửa nói: “Các ngươi ở lại đây”.
Yến Phi thở phào một hơi, không phải giọng Nhậm Dao.
“Yến huynh tỉnh rồi ư?”.
Yến Phi thất kinh, vì chàng không nghe được thanh âm của người tới sát đầu giường, chậm rãi mở to mắt, một trung niên hán tử chừng bốn mươi tuổi, y phục võ sĩ màu xanh, đang đứng sững bên giường, cặp mắt lóe lên những tia vui mừng thân thiết, đang chăm chú nhìn chàng.
Yến Phi ngồi thẳng dậy, hai tay ôm đầu gối, lắc đầu như muốn xua đi những ý nghĩ loạn xạ trong đầu, trầm giọng hỏi: “Đây là nơi nào?”.
Nam tử nọ kéo tấm màn, vắt lên trên, ngồi lên mép giường, thân thiết nói: “Tạ phủ ở hẻm Ô Y, Kiến Khang thành”.
Nam nhân lộ xuất biểu hiện đồng tình mà tiếc nuối, nói: “Yến huynh vì bị thương trong tay Nhậm Dao ở Biên Hoang Tập, từ đó hôn mê bất tỉnh, Huyền thiếu gia mang Yến huynh về Thọ Dương, sau đó mới lại đưa về đây. May mà ông trời có mắt, Yến huynh cuối cùng cũng tỉnh lại”.
Rồi ngập ngừng nói: “Yến huynh hiện giờ ở tình trạng thế nào?”.
Yến Phi nghĩ thầm, nếu vậy thì bản thân mình ít nhất cũng đã hôn mê hơn mười ngày, không lý gì đến câu hỏi của người nọ, nói: “Tại hạ hôn mê bao lâu rồi?”.
Người này nói: “Vừa đúng trăm ngày”.
Yến Phi không tin: “Thế nào cơ?”.
Người này khẳng định: “Chính xác là trăm ngày, Huyền thiếu gia đánh lui Nhậm Dao, cứu được Yến huynh, Yến huynh sinh cơ gần tuyệt, chìm trong trạng thái thai tức của người tu đạo, chỉ có tâm mạch khe khẽ đập, trong trăm ngày, Yến huynh không hề uống một giọt nước, Chi Độn đại sư là người tinh thông cả y đạo và đan đạo đã trăm lần suy nghĩ về trường hợp của Yến huynh mà cũng không tìm ra lý do”.
Yến Phi kéo bức màn gấm, vươn chân vươn tay, lạ là tâm hồn rất bình yên, không hề vì nội công thất tán mà sinh ra bi quan chán nản.
Nhìn ra ngoài cửa, thấy có mấy người đang thò đầu thò cổ chen nhau ngó vào, đều là đám tỳ bộc hộ viện, trong đó có cả ả tiểu tỳ mắt to.
Người nọ lại ân cần hỏi: “Yến huynh có cảm giác ra sao?”.
Yến Phi ngừng vận động, nói: “Huynh đài cao tính đại danh là gì?”.
Người kia đáp: “Bản nhân là Tống Bi Phong, là tùy tòng của An gia”.
Yến Phi mỉm cười: “Thì ra Tống huynh, tại Biên Hoang Tập đã sớm được nghe đại danh Tống huynh”.
Tống Bi Phong khiêm tốn đáp: “Tại hạ thực không có gì đáng để người ta nhắc đến”.
Yến Phi nói: “Tống huynh quá khiêm tốn rồi, ta hiện thời tình trạng rất tốt, trăm ngày không ăn uống gì vẫn không hề có chút cảm giác đói khát nào, thật tự mình cũng khó tin. Hiện giờ phải chăng đã sang tiết xuân?”.
Tống Bi Phong thăm dò: “Yến huynh có thể hành huyết vận khí không?”. Yến Phi nhạt giọng nói: “Về chuyện này thì đi đứt rồi, từ nay về sau đúng là vô duyên với võ công và kiếm thuật”.
Tống Bi Phong lặng người đi một lát, lộ vẻ xót xa thương tiếc, muốn nói điều gì đấy lại thôi, cuối cùng mới nói: “Thật là kỳ quái! Nếu Yến huynh vì thụ thương quá nặng, chân khí chạy loạn xạ gây ra công lực tiêu tán, như vậy nhẹ thì cũng tẩu hỏa nhập ma, bại liệt điên cuồng, nặng thì kinh mạch bị thiêu đốt mà chết! Làm sao mà Yến huynh lại như chẳng có chuyện gì? Hơn nữa thần khí trong mắt tụ mà không tán, tàng mà không lộ, chắc chắn có gì đấy vi diệu ngoài hiểu biết của bọn ta”.
Yến Phi thong dong nói: “Nghĩ không thông thì chẳng cần phí sức nghĩ, ta tuy mất hết võ công, nhưng tinh thần rất tốt, lại có chút cảm giác sung sướng yên ổn chết đi rồi sống lại. Rất muốn được đi ngao du, coi xem Kiến Khang có những gì thay đổi so với năm năm trước”.
Tống Bi Phong thấy Yến Phi không để tâm đến chuyện võ công mất còn, bội phục sát đất, hơn nữa chàng một chữ cũng không đề cập đến chuyện lập nên đại công cho Nam Tấn, càng thêm kính trọng, vui vẻ nói: “Yến huynh đệ nhiều hứng thú với chuyện du ngoạn, Tống mỗ xin vui lòng tận tình địa chủ. Bất quá xin đợi cho một lát, ta phải lập tức thông báo cho An gia và Cao công tử”.
Yến Phi ngạc nhiên: “Cao công tử?”.
Tống Bi Phong nói: “Là Cao Ngạn công tử, tự khi biết ngươi tới đây, hơn hai tháng nay, hắn ngày nào cũng đến đây thăm nom, mưa tuyết cũng đi. Cũng chỉ có anh hùng hảo hán như Yến huynh đệ mới giao hảo được với bằng hữu như Cao công tử”.
Yến Phi thất thanh: “Rốt cuộc lại là tiểu tử Cao Ngạn! Hắn làm cái chi ở đây?”.
Tống Bi Phong dường như sợ để cho đám tỳ bộc bên ngoài nghe thấy, hạ giọng nói: “Cao công tử là nhân vật phong lưu, hơn nữa Biên Hoang Tập đã bị cháy thành đống đổ nát, do vậy ở đây rong chơi cho quên đi. Bất quá xác thực là hắn rất quan tâm đến ngươi, Tiểu Kỳ còn thấy hắn nhiều lần ngồi bên giường ngươi khóc thầm”.
Yến Phi ngạc nhiên: “Tiểu tử này lại vì ta mà khóc sao?” Rồi phì cười nói: “Hay là sợ không ai bảo hộ cho hắn nữa?”.
Tống Bi Phong làm sao biết được những chuyện dấm dớ giữa hai chàng, vỗ vỗ vào vai Yến Phi, đứng dậy nói: “Tiểu Kỳ sẽ hầu hạ Yến huynh rửa ráy thay y phục, ả là tiểu tỳ của ta, hết sức ngoan ngoãn linh lợi, nhưng vừa rồi thiếu chút nữa bị Yến huynh làm cho khiếp đảm”.
Nói xong cười ha hả, đi ra khỏi phòng.
Yến Phi dịch ra mép giường, hai chân chạm đất, trào lên một cảm xúc đại nạn không chết, tuy không biết có phải tất có hậu phúc hay không, nhưng thật khó mà có ý kiến gì.
Có một phát hiện kỳ quái, đó là bản thân không thấy oán hận người nào, kể cả những kẻ đã hại mình thành như thế này là Nhậm Dao và Nhậm Thanh Thị, quá khứ hãy để cho nó qua đi. Đã không chết được, tốt hơn hết là chuẩn bị để sống một cuộc đời bình dị sau khi võ công tiêu tán.
“Công tử!”.
Yến Phi ngẩng đầu lên, bắt gặp cặp mắt to của Tiểu Kỳ đang lộ vẻ dè chừng, đến rồi nhưng vẫn không dám tiến vào, dừng lại bên ngoài cửa, không nín được, mỉm cười nói: “Còn sợ ta à?”.
Khuôn mặt xinh xắn của Tiểu Kỳ lập tức hồng lên, cố sức lắc đầu, đập đập vào ngực, dáng vẻ thiếu nữ yểu điệu ngây thơ rất đáng yêu, xuôi tay nói: “Tỳ tử thất lễ, ài! Mấy ngày gần đây, công tử lúc nào cũng nằm bất động, mũi miệng không hô hấp, may mà toàn thân còn ấm mềm, ài! Tỳ tử không biết nói thế nào nữa”.
Yến Phi phì cười: “Ngươi lại tưởng ta là quỷ nhập tràng sao?”.
Tiểu Kỳ thẹn thùng liếc nhìn chàng bằng cặp mắt to, ngượng ngập nói: “Tỳ tử gan bé mà, công tử đừng lấy làm lạ, công tử thật là bình dị dễ gần, hiện tại lại bình phục khỏe mạnh, tạ trời tạ đất a!”.
Tiếp đó khẽ chuyển lưng ong, ngoảnh đầu duyên dáng kêu to: “Còn chưa qua đây hầu hạ công tử sao?”.
Một gã võ sĩ hộ vệ cùng hai người hầu mạnh khỏe vội vã chạy vào, muốn nâng Yến Phi dậy.
Yến Phi giơ tay cản lại, cố gắng đứng lên, nhưng đúng lúc chàng thẳng người dậy, một cảm giác khó hình dung lan tỏa toàn thân, ấm áp dễ chịu không bút nào tả xiết. Gã vệ sĩ thất kinh: “Công tử không được khỏe sao?”.
Trong phút chốc, Yến Phi lại trở lại như cũ, thân thể yếu ớt, vươn tay bám vào vai gã, tựa người vào gã, nói: “Vị đại ca này cao tính đại danh là gì vậy?”.
Võ sĩ trẻ ngượng nghịu: “Tiểu tử tên gọi Lương Định Đô, là đồ đệ của Tống gia”. Một gã hầu thấy tính cách Yến Phi hiền hòa dễ thân cận, mạnh dạn hơn nhiều, mỉm cười nói: “Đồ đệ cái gì? Tống gia còn chưa chính thức thu đồ đệ mà”.
Lương Định Đô hiển nhiên thường cãi nhau với chúng, cãi lại: “Không thừa nhận thế nào? Ít nhất cũng là một nửa đồ đệ, Tống gia nếu không nhận ta làm đồ đệ, sao chịu truyền cho ta kiếm pháp thượng thặng?”.
Tiểu Kỳ lại hớn ha hớn hở cười nói: “Không phải cãi nhau! Còn không mau phục thị công tử rửa ráy thay y phục, nếu không lúc Tống gia quay lại mời công tử đi gặp An gia thì các người mới sáng mắt ra”.
Yến Phi vẫn yên lặng ngẫm nghĩ đến cái ý vị ấm áp kỳ dị lúc vừa đứng dậy. Nghe bọn họ cười nói ồn ào, bất giác trào dâng cảm giác hết sức dễ chịu, chỉ có hồi còn rất nhỏ chàng mới có được những cảm giác như thế.
Những hồi ức trước khi hôn mê đang không ngừng trở lại trong đầu chàng, hoàn chỉnh lại bản đồ ký ức thuộc về cuộc sống trước kia của chàng, buột miệng nói: “Tạ Huyền phải chăng đã thắng trận rồi?”.
Câu hỏi này liền khơi lên một trận ầm ĩ ngươi một câu ta một câu, khen ngợi Tạ Huyền anh minh thần võ, đánh cho Phù Kiên đại bại như thế nào, người nào người nấy biến thành chuyên gia bình luận chiến tranh, nói đến mức hoa rơi lá rụng. Bất quá cuối cùng cũng làm cho Yến Phi hiểu được Tấn quân toàn thắng trong trận Phì Thủy, đồng thời cũng làm chàng nhớ lại lời nói của Tống Bi Phong rằng Biên Hoang Tập đã bị đốt cháy thành một đống tro tàn.
Một chuyện khiến cho chàng chợt lo lắng hỏi: “Lưu Dụ không có chuyện gì chứ?”. Bọn Lương Định Đô ba người ngạc nhiên nhìn nhau, rõ ràng chưa từng nghe đến tên Lưu Dụ.
Riêng Tiểu Kỳ nói: “Yến công tử nói hẳn là Lưu phó tướng, chính là y thân đưa công tử đến hẻm Ô Y mà, sau đó mới vội vã ra đi. Y là hảo bằng hữu của Cao công tử, cũng chính y đi tìm Cao công tử tới đây”.
Yến Phi nghĩ thầm đó đúng là Lưu Dụ chứ không sai, lại được thăng làm phó tướng, nhưng đó cũng là chuyện ít nhất hai tháng trước rồi. Tình hình của chàng cũng vẫn còn chút nghi vấn. Ài! Còn chuyện sinh tử của Bàng Nghĩa không biết thế nào, mình thì không thể giúp gì được, chỉ có thể làm tận trách nhiệm thông báo cảnh cáo gã.
Bất chợt, một đôi mắt thần bí và mỹ lệ mơ hồ hiện lên trong tâm. Lần này khoảng cách lại càng thêm xa xôi mịt mờ. Nhưng không phải là khoảng cách thực tế, mà là trên phương diện tâm lý. Bởi vì Yến Phi từ đây sẽ không thuộc về thế giới máu đổ thịt rơi ấy nữa.
o0o
Tạ An khoanh tay đứng tại Vọng Hoài Các trong đông viện, dựa vào lan can nhìn xuống dòng sông êm đềm trôi không mỏi mệt bên dưới, thế nhưng bản thân ông lại có cảm giác mệt mỏi cùng cực.
Niềm hoan hỉ chiến thắng Phì Thủy đã bị triều đình thay thế bằng cuộc tranh đấu kịch liệt hiện thời, Tư Mã Diệu đã biến đổi rất nhiều, từ hai tháng trước, ông ta đã phong chức quý nhân cho mỹ nữ do Tư Mã Đạo Tử dâng lên, thêm nữa là không còn sự uy hiếp của bắc phương hồ tộc, bèn bỏ bê chính sự, chỉ đêm đêm ở trong nội điện cùng nữ tử này yến ẩm cuồng hoan, chìm đắm tửu sắc, quyền bính dần dần rơi cả vào tay Tư Mã Đạo Tử, bắt đầu khuynh loát Tạ An ông.
Nhưng đau lòng nhất lại là nữ tế của ông Vương Quốc Bảo, cùng với Tư Mã Đạo Tử không ngừng thêu dệt chuyện xấu xa với Tư Mã Diệu, làm bại hoại thanh danh ông, khiến cho Tư Mã Diệu mất hẳn đi tín nhiệm trước đây đối với ông, tình thế thay đổi rất nhanh.
Tiếng chân vọng đến, thanh âm của Tống Bi Phong từ đằng sau vang lên: “Yến công tử đến!”.
Tạ An buông lơi tâm sự, vui mừng chuyển thân, song mục vụt sáng lên, chăm chú nhìn người trai trẻ trong y phục nho sinh thần thái sáng láng đứng trước mặt.
Yến Phi cũng đang chăm chú nhìn vị phong lưu tể tướng được coi là thiên hạ đệ nhất danh sĩ, trong làn gió sông thổi tới tà áo tung bay, toàn thân tiên phong đạo cốt, giống như người tiên.
Tạ An cười lớn, nói: “'Cao phong nhập vân, thanh khê kiến để, yến phi trường không'1. Yến tiểu đệ quý thể mạnh khỏe trở lại, đáng mừng đáng mừng!”.
Yến Phi trong tâm trào dâng một cảm giác kích động không rõ nguyên nhân, gượng cười nói: “Đa tạ An công quan tâm, An công khen ngợi, thật thẹn không dám nhận. Yến Phi võ công mất hết, đối với việc thiên hạ tâm ý đã nguội lạnh, không còn chí hướng bay lượn tầng không, chỉ hy vọng sống quãng đời còn lại bình thường là được”.
Tạ An cười nụ bước lên, nắm lấy tay chàng, dẫn chàng tới bên hàng lan can, để Yến Phi sóng vai cùng ông nhìn ra xa xa, lúc ấy mới bỏ tay chàng ra.
Tống Bi Phong yên lặng rút lui, trong lòng hết sức thương tiếc cho Yến Phi võ công mất hết, hắn vừa rồi xem xét kinh mạch Yến Phi, biết rõ Yến Phi nội khí tan hết, đã biến thành một người bình thường.
Yến Phi không vì được đương triều danh tướng ưu ái mà sinh ra cảm giác e ngại, chàng từ xưa tới nay độc lai độc vãng, cô ngạo bất quần, không hề để tâm đến quyền thế danh vị. Vậy mà cũng không đừng được sinh ra lòng tôn kính đối với Tạ An, với thân phận địa vị của Tạ An, lại đối với kẻ sĩ hàn môn như chàng hoàn toàn không hề ra bộ ta đây, chỉ từ đấy là đã có thể nhìn thấy khí phách và tấm lòng ông, cử chỉ lời nói tao nhã của ông càng khiến chàng cảm kích.
Tạ An đột nhiên nói với vẻ ngưỡng mộ: “Theo truyền thuyết năm thứ tư đời Hoàng Sơ, một hôm Tào Thực ra khỏi kinh thành, lúc mặt trời lặn đi tới bên bờ Lạc Thủy, nhìn thấy một mỹ nữ xinh đẹp bên bờ sông, nhẹ nhàng e kinh động bầy thiên nga trên sông, uyển chuyển như thần long uốn khúc, xa trông như mặt trời buổi mai, lại gần tựa hoa sen đùa sóng biếc, bất giác tâm thần mê đắm, tới lúc mỹ nữ nâng chén quỳnh mời mọc, hẹn ước tái hội nơi đáy nước, rồi thoắt đã biến mất, mới hay vừa hạnh ngộ Lạc Thủy nữ thần. Nhưng mà nhân thần hai ngả, không nẻo qua lại. Tào Thực bồi hồi suốt đêm, không nỡ xa rời, bèn làm nên tác phẩm danh truyền hậu thế 'Lạc thần phú'“.
Yến Phi ngưng thần ngắm nhìn bờ bên kia Tần Hoài, đất trời một màu tuyết trắng tinh khiết mỹ lệ, trên sông thuyền bè qua lại không dứt, bỗng dưng bên tai nghe Tạ An lộ mối u tình hoài cổ, hướng tới bản thân là một người xa lạ, kể lại rành rọt một cố sự đau thương về mối tình nhân - thần, lại thêm tự thân tựa như rơi vào lưới mê, thật có một ý vị khác hẳn.
Tạ An không hổ là phong lưu danh sĩ, Yến Phi ẩn ẩn có cảm giác, ông muốn mượn cố sự này để làm vơi đi tình cảm bi hoài tích kết trong lòng, cũng có thể nói đối với Yến Phi vừa gặp đã như cố nhân, coi chàng như một đối tượng xứng đáng để cùng luận đàm những vấn đề sâu sắc.
Tương truyền Mật Phi là con gái Phục Hi, chết đuối ở Lạc Thủy, trở thành nữ thần sông Lạc, trong “Ly Tao” của Khuất Nguyên từng có nhắc đến.
“Lạc thần phú” của Tào Thực thuật lại một đoạn luyến ái khổ đau không kết quả giữa người và thần, cũng ngầm nhắc đến tình quyến luyến của bản thân Tào Thực với gia tộc
hoàng triều, đến tráng chí khó thành, đến nỗi niềm uất ức bị đối xử tệ bạc. Lạc thần mỹ lệ chính là tượng trưng cho lý tưởng, tiếc thay, lý tưởng phiêu hốt tựa thần tiên, chỉ có thể nhìn mà không thể với tới, đúng như miêu tả hiện giờ của Tạ An.
Yến Phi khẽ thở dài: “' Nguyện vitây nam phong, trường thệ nhập quân hoài, quân hoài lương bất khai, tiện thiếp đương hà y?'2. Đã là chuyện nguyện ý, An công sao không trở lại Đông Sơn, chẳng phải hơn là ở lại nơi không chút hy vọng, đau lòng chứng kiến chuyện lực bất tòng tâm sao?”.
Bốn câu thơ này vốn nằm trong bản “Thất ai thi” của Tào Thực, biểu lộ rõ tài hoa văn võ song toàn của chàng, sánh với phong cách tùy tiện ngẫu hứng của Tạ An thật là tương đồng, lại còn vì Tạ An đề xuất giải pháp chàng cho là thích hợp.
Tạ An có cảm giác như chợt gặp tri kỷ vong niên, bỗng dưng thốt lên: “Đại Tần mất rồi!”.
Yến Phi chấn động thất thanh nói: “Cái gì?”.
Chàng trước tiên nghĩ đến Thác Bạt Khuê, Đại Tần nếu mất nước, phương bắc lập tức chia năm xẻ bảy, mà sự tình chỉ phát sinh trong vòng trăm ngày sau trận Phì Thủy, Thác Bạt Khuê liệu có vì chưa kịp đặt chân vững chắc mà bị những ngọn sóng dữ của thời loạn lạc cuốn trôi đi không?
Chú thích:
1- Tạm dịch: đỉnh núi cao chìm vào trong mây, nước suối trong xanh nhìn thấy tận đáy, chim én bay tận trời cao.
2 -Tạm dịch: nguyện làm ngọn gió tây nam, quyết nhập vào lòng chàng, lòng chàng không rộng mở, tiện thiếp biết làm sao đây?
Hồi 42
Tránh trát cầu tồn
Gió tuyết cuồng bạo như những ngọn roi quất vào thảo nguyên mênh mông không thương tiếc, vùi lấp toàn bộ nhà cửa cây cối, cảnh vật lờ mờ, không còn thấy đâu là người và gia súc nữa.
Thác Bạt Khuê một mình ngồi trong lều, nét mặt lạnh lùng đang uống sữa dê, tựa như cơn bão tuyết lớn bên ngoài không có quan hệ gì với hắn.
Nếu vượt qua con đường Ô Luân hiểm yếu mà đẹp đẽ xuyên qua các dãy núi, sẽ tới bãi chăn thả bên sông Tích lạp Mộc lâm, là thảo nguyên nơi bộ tộc hắn tụ tập sinh sống, cũng giống như gặp lại mẫu thân đã xa cách lâu ngày. Nhưng lộ trình ngoài ba mươi dặm này lại giống như nghìn trùng cách trở, không thể vượt qua.
Hắn cùng tướng sĩ thủ hạ dựng lều lập trại nơi này đã hơn một tháng, không dám khinh cử vọng động vượt ra ngoài giới hạn con đường hiểm trở này nửa bước.
Luôn luôn thèm khát địa vị Đại chủ mà hắn kế thừa, thúc phụ hắn là Thác Bạt Quật Đốt suất lĩnh gần một vạn quân, bố trí tại các cao điểm trên bình nguyên phía trước con đường hiểm yếu này, bề ngoài nói rằng để hoan nghênh hắn trở về. Nhưng Thác Bạt Khuê lại biết rõ ông ta muốn bằng vào ưu thế quân số gấp ba lần, bắt giết hắn tại đương trường, để rồi tận thu chiến sĩ và lương thảo vật tư hắn đưa về từ Trung nguyên.
Bất quá rồi thì cơ hội cũng đã xuất hiện.
“Khách! khách!”.
Tiếng động của ủng da dê lún sâu vào lớp tuyết dày đến gối vọng đến mỗi lúc một gần, cửa lều vén lên, Trưởng Tôn Phổ Lạc thân hình cao lớn mang theo gió lạnh tuyết bay ập vào trong lều.
Thác Bạt Khuê chút nữa thì không nhận ra vị mãnh tướng hàng đầu của mình, người này trên đầu trên mặt bám đầy bông tuyết, thở phì ra một luồng bạch khí đậm đặc lạnh lẽo. Với trình độ nội công của gã mà vẫn thấy lạnh run lên cầm cập, có thể hoàn toàn hiểu rõ uy lực của cơn bão tuyết ngoài kia.
Trưởng Tôn Phổ Lạc cởi bỏ tấm áo choàng da dê ngự hàn bám đầy tuyết, ngồi xuống tấm thảm da dê, tiếp lấy bình sữa dê vẫn còn đang nóng từ tay Thác Bạt Khuê, “ực! ực!” uống liền ba ngụm to, hít một hơi lãnh khí nói: “Trận bão tuyết này thật là lợi hại, theo ta thấy, phải kéo dài vài ba canh giờ nữa, sau đây mấy ngày thời tiết chưa chắc gì đã khá lên”.
Thác Bạt Khuê trầm giọng nói: “Nguyên nhân Quật Đốt án binh bất động ta đoán không sai chứ?”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc bội phục nói: “Đúng như thiếu chủ sở liệu, Quật Đốt phái người đến Hạ Lan bộ, du thuyết Hạ Nhiễm Can tiền hậu giáp công chúng ta, bất quá Hạ Nhiễm Can sợ Mộ Dung Thùy không ưng, đến giờ vẫn do dự không quyết, chưa chịu xuất binh phối hợp với Quật Đốt”.
Thác Bạt Khuê lộ ra vẻ hết sức ngoan cường, nhưng thần thái lại rất lạnh lùng nói: “Quật Đốt a! Từ hôm nay trở đi, chú cháu ta tình nghĩa đoạn tuyệt, nếu không phải ngươi chết thì là ta chết”. Lại hừ lạnh một tiếng nói: “Không ai hiểu rõ Hạ Nhiễm Can hơn ta, gã hiện giờ lo lắng là Quật Đốt chứ không phải là Thác Bạt Khuê ta, vì vậy rất vui vẻ tọa sơn quan hổ đấu, hy vọng bọn ta tự tàn sát lẫn nhau, lưỡng bại câu thương, tốt nhất là bộ tộc Thác Bạt của chúng ta chia năm xẻ bảy, khi đó Hạ Lan của gã dễ dàng thừa cơ thôn tính chúng ta”.
Hạ Nhiễm Can là tử địch của Thác Bạt Khuê, luôn nuôi dã tâm đối với bộ tộc Thác Bạt.
Nhân vì bộ tộc Thác Bạt sở hữu đồng cỏ chăn thả ven sông sản sinh được rất nhiều chiến mã chất lượng cao, Mộ Dung Thùy cũng vì lý do này mà coi Thác Bạt Khuê bằng con mắt khác. Bộ lạc Hạ Lan ngoài Hạ Nhiễm Can ra còn một đại tù trưởng khác là Hạ Nạp lại là cữu phụ của Thác Bạt Khuê, em trai mẫu thân hắn, rất coi trọng Thác Bạt Khuê, năm xưa từng thu lưu mẹ con hắn, đối với việc Thác Bạt Khuê có chí phục quốc lại càng ra sức ủng hộ, đây mới là nguyên nhân chân chính khiến Hạ Nhiễm Can do dự.
Thác Bạt Quật Đốt vốn dĩ biết rõ Thác Bạt Khuê trí dũng song toàn, thủ hạ huynh đệ lại càng kiêu dũng thiện chiến, kinh nghiệm tác chiến phong phú, lại rất quen chiến thuật du kích của mã tặc vừa đánh vừa chạy, lại còn sợ hắn không đánh mà lượn quanh quấy rối, vì vậy tại những con đường tất yếu phải đi để trở lại thảo nguyên đều triển khai phục kích, lại muốn thuyết phục Hạ Nhiễm Can, hy vọng có thể tiền hậu giáp công, bao vây tiến công bộ đội tinh nhuệ của hắn, cho dù không thành công cũng có thể ngăn cản hắn trở về bộ tộc.
Trưởng Tôn Phổ Lạc hạ giọng nói: “Chúng ta nên chăng thừa lúc có bão tuyết đột kích Quật Đốt, xông qua cửa ải?”.
Thác Bạt Khuê lộ thần sắc cao thâm khó đoán, lạnh lùng nói: “Theo ngươi nếu vậy thì ăn chắc được mấy thành?”.
Khuôn mặt đầy râu ria của Trưởng Tôn Phổ Lạc nhăn nhó cười: “Chỉ được vài phần, Quật Đốt chẳng phải là kẻ ngu xuẩn, bằng không mấy năm nay đã chẳng thể khuếch trương thế lực mau đến như thế, ông ta đương nhiên sẽ đoán ra quân ta sẽ thừa cơ bão tuyết xông qua phòng tuyến, ông ta hiện đang dĩ dật đãi lao, chiếm hết ưu thế mọi mặt”.
Thác Bạt Khuê khẽ cười: “Nếu ta đoán không sai, đại quân Hạ Nhiễm Can đã rời Âm sơn, đi tới sau lưng quân ta để nghi binh, bên ngoài gã cự tuyệt Quật Đốt mang quân giáp công, sự thực lại hy vọng Quật Đốt lúc này xua quân tấn công ta, đến khi bọn ta lưỡng bại câu thương, tên súc sinh đó sẽ có dịp làm ngư ông đắc lợi, thừa thế xâm nhập bộ tộc chúng ta, Thác Bạt Khuê ta làm sao có thể để gã như sở nguyện được”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc chấn động nói: “Ta còn chưa khi nào nghĩ Hạ Nhiễm Can lại âm hiểm xảo trá như thế”.
Thác Bạt Khuê ngắt lời: “Chúng ta đi thôi!”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc thất thanh: “Chuyện gì?”.
Thác Bạt Khuê lạnh lùng nói: “Đây là phương pháp duy nhất để khỏi phải lưỡng đầu thụ địch, chúng ta di chuyển đến thượng du sông Đạt Tang Can, dẫn dụ Quật Đốt đuổi theo. Mặt khác sai người thông báo với Mộ Dung Thùy, nói hắn phái viện quân, cùng chúng ta hội sư ở Cao Liễu, lần này đến lượt chúng ta giáp công Quật Đốt, đánh cho lão ta trở tay không kịp”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc nói: “Quả là kế rất hay, bất quá còn hai nghi vấn, trước nhất là Quật Đốt có truy theo hay không, thứ hai là Mộ Dung Thùy có chịu phái viện binh hay không”.
Thác Bạt Khuê bật cười: “Quật Đốt chẳng lẽ không lo chúng ta đầu hàng Mộ Dung Thùy sao? Lão ta chẳng những sẽ đuổi theo, mà dù cho vội vàng chưa kịp chuẩn bị xong cũng vẫn đuổi theo. Về phía Mộ Dung Thùy càng không phải lo, Đại Yên của hắn vừa mới tuyên cáo lập quốc, rất cần có người vì hắn giữ yên biên giới phía tây, cung ứng chiến mã. Hơn nữa hắn luôn bất hòa với Quật Đốt, vì vậy hắn chắc chắn sẽ giúp ta. Như vậy đấy! Hỏi còn ai có chủ ý tốt hơn?”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc vươn mình đứng dậy, khom mình thi lễ nói: “Lãnh mệnh!”, rồi đi ra khỏi lều.
Một trận gió tuyết tạt thẳng vào mặt Thác Bạt Khuê, cảm giác lạnh buốt khiến hắn hết sức thống khoái, Yến Phi thường nói hắn là người thích phiêu lưu mạo hiểm, nhưng đó cũng là nguyên nhân thành công của hắn, chỉ không biết lần này có linh nghiệm hay không, bằng không lần này hắn sẽ phải nếm mùi đau khổ để bồi thường cho mấy phen trước đây.
o0o
Tạ An từ từ nói: “Mộ Dung Thùy là người đầu tiên trong chư Hồ tộc phương bắc tự lập vương vị, Phù Kiên bại trận chạy về Trường An, lập tức sai Kiêu kỵ tướng quân Thạch Việt suất lãnh ba ngàn tinh kỵ ra trấn thủ Nghiệp Thành, Phiêu kỵ tướng quân Trương Hồng mang năm ngàn Vũ lâm quân giữ Tinh châu, lưu lại bốn ngàn lính phối hợp với Trấn quân Mao Đương giữ Lạc Dương, tất cả đều để phòng ngừa Mộ Dung Thùy, có thể thấy Phù Kiên hãi sợ Mộ Dung Thùy đến đâu.
Yến Phi thở một hơi nói: “Phù Kiên sau trận Phì Thủy, binh lính Đê tộc không còn bao nhiêu, hiện tại đại bộ phận phái đi phòng bị Mộ Dung Thùy, làm sao có thể đủ để trấn giữ vùng kinh kỳ trọng địa Quan Trung?”.
Tạ An mỉm cười nói: “Không ngờ tiểu Phi ngươi vừa mới tỉnh lại đã hiểu rõ tình huống Phù Kiên sau thảm bại Phì Thủy”.
Yến Phi nghe ông đổi cách gọi mình là tiểu Phi, trào dâng cảm giác thân thiết, gật đầu nói: “Giấc mộng trăm ngày tỉnh lại, thế gian nhân sự đã mấy phen đổi thay, khiến người ta thật là cảm khái!”.
Tạ An quan sát chàng thật kỹ, chỉnh sắc mặt nói: “Không phải ta cố ý đưa chuyện an ủi ngươi, nhưng luận về thuật coi người, nếu Tạ An ta nhận là đệ nhị, sợ không ai dám tranh đệ nhất, tiểu Phi ngươi tuyệt không phải là người bạc phúc, hơn nữa trong mắt ẩn chứa thần quang, không phải là biểu thị của người đã thất tán nội công. Do vậy hiện thời thân thể yếu ớt khả năng chỉ là tạm thời”.
Yến Phi nhớ lại luồng khí lưu ấm áp trong nội thể, hỏi: “An công có từng coi người sai bao giờ chưa?”.
Tạ An nghĩ tới Vương Quốc Bảo, rầu rĩ nói: “Người ta làm sao có thể không có lúc sai lầm?”.
Yến Phi nghe lời này hết sức cảm kích, cũng sinh ra quan tâm đến Thác Bạt Khuê, biết rằng trong một giai đoạn nào đó, sự thành bại của Mộ Dung Thùy rất có liên quan đến Thác
Bạt Khuê, không kềm được liền hỏi: “Phù Kiên há lại chịu ngồi coi Mộ Dung Thùy xưng vương, tự biết cần phải hành động ngay, tránh để các lãnh tụ dị tộc còn lại bắt chước tìm cách phân lập”.
Tạ An ung dung nói: “Cái đó là đương nhiên, đáng tiếc Phù Kiên lại không đủ binh lực để làm chuyện này, chỗ thông minh nhất của Mộ Dung Thùy là hiểu rõ con rết trăm chân, dù chết cũng không ngã, dư thế của Phù Kiên vẫn còn, cho nên mới bỏ Lạc Dương mà giữ Vinh Dương, mặt khác đem quân bức Nghiệp Thành. Phù Kiên thân ở Trường An, roi dài cũng không vươn tới nổi, còn biết làm sao”.
Yến Phi ngầm than, trước khi mình hôn mê, Phù Kiên vẫn còn uy trấn thiên hạ, thế gian không ai bằng. Ai ngờ chỉ có mấy tháng ngắn ngủi, lại rơi vào cái cảnh như vậy! Cuộc đời phong vân biến ảo, thực không ai có thể lường trước được, nói: “Phù Kiên đã chẳng làm gì được Mộ Dung Thùy, đại Tần nguy rồi”.
Tạ An nói: “Đúng như vậy, một đại tù trưởng Tiên Ti khác là Mộ Dung Hoằng, biết Mộ Dung Thùy công nhiên phản Tần công kích Nghiệp Thành, kềm chế trọng binh Đê Tần ở Quan Đông, bèn mượn gió bẻ măng, khởi binh phản Phù Kiên, lại còn đánh cho quân đội của Phù Kiên phái đến giám thị gã tơi bời, Phù Kiên nổi cơn thịnh nộ cuối cùng lại trút giận sang Diêu Trường, giết chết nhi tử của hắn. Nay Diêu Trường căm hận khởi binh phản kích, loạn động như sóng khởi triều dâng, con sóng sau càng cao hơn trước, thời đại Phù Kiên trong năm nay sẽ chấm dứt chứ không sai”.
Đối với Mộ Dung Hoằng, Yến Phi còn quen thuộc hơn Tạ An nhiều. Bộ tộc Mộ Dung là đại tộc Tiên Ti, vào thời Ngụy Minh đế tới đóng ở Xương Lê Cức thành, tới thời Tấn Võ đế dần dần trở nên cường thịnh, đến khi Tấn thất nam độ, bọn họ thừa cơ công chiếm Liêu Đông, càng thêm lớn mạnh, lấy đất Kế làm thủ phủ, lại đoạt được Nghiệp Thành, lập nên Yên quốc, thế lực phát triển chưa từng thấy. Hoàn Ôn từng suất binh năm vạn tới thảo phạt, nhờ có Mộ Dung Thùy hết sức chống giữ, đẩy lui Hoàn Ôn. Mộ Dung Thùy cũng nhờ chiến dịch này mà thanh danh cực thịnh, liền chuốc lấy sự nghi kỵ của Yên chúa, lập mưu gia hại, Mộ Dung Thùy bèn chạy tới đầu hàng Phù Kiên. Nước Yên đến đời này là dứt! Không lâu sau mất vào tay Phù Kiên. Mộ Dung Huy, Mộ Dung Hoằng, Mộ Dung Văn, Mộ Dung Xung và Mộ Dung Vĩnh năm huynh đệ đều là dòng dõi vua Yên Mộ Dung Kiều, Mộ Dung Huy còn là người kế vị Yên vương, bị Mộ Dung Thùy quay lại phục cừu bắt làm tù binh, năm anh em đều cúi đầu xưng thần trước Phù Kiên.
Năm huynh đệ này trước nay đều vô cùng căm hận Yến Đại của bộ tộc Thác Bạt, cho rằng nếu chẳng phải do Yến Đại phân liệt khỏi Yên quốc của họ Mộ Dung, chắc không phải chuốc lấy mối hận vong quốc. Vì vậy mà Mộ Dung Văn mới xúi bẩy Phù Kiên, nhất nhất đuổi tận giết tuyệt người của bộ tộc Thác Bạt, chẳng những khiến Yến Phi và Thác Bạt Khuê từ nhỏ mất nhà lưu lạc, mà còn hại Yến Phi đau đớn mất đi từ mẫu.
Vì vậy mà sau đó Yến Phi lập chí báo thù, chăm chỉ rèn luyện kiếm thuật, chém chết Mộ Dung Văn ở giữa phố Trường An. Cho dù hiện này chàng đã mất võ công, chàng vẫn hiểu rõ bốn huynh đệ họ tuyệt sẽ không bỏ qua cho mình.
Mộ Dung Thùy bỏ Lạc Dương mà giữ Vinh Dương và Nghiệp Thành, chẳng những vì Lạc Dương là nơi bốn bề thụ địch, chẳng nên đóng quân, càng nên phân biệt là căn cứ địa từ xưa đến nay của họ Mộ Dung Yên quốc, là nơi có tổ miếu của họ.
Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Huy mấy huynh đệ tuy là anh em họ, nhưng vì nước cựu Yên sự thực bị mất trong tay Mộ Dung Thùy, từ góc độ Mộ Dung Hoằng mà nhìn, bất luận Mộ Dung Thùy có lý do thế nào đi nữa, vẫn là kẻ phản bội tộc nhân, hiềm khích giữa đôi bên rất sâu nặng, không thể hòa giải.
Trong hoàn cảnh này, Mộ Dung Thùy lại càng phải trợ giúp tử địch của huynh đệ Mộ Dung Hoằng là Thác Bạt Khuê, để làm lá chắn phía tây, để kháng cự lại huynh đệ Mộ Dung Hoằng vốn có căn cứ địa là Quan Trung, thế lực lại không kém gì hắn.
Đã thông suốt điểm này, Yến Phi không còn lo lắng về tình hình của Thác Bạt Khuê nữa, chàng hiểu rõ tính cách của Thác Bạt Khuê, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, Thác Bạt Khuê đối kháng bất kỳ cá nhân nào đều có biện pháp thỏa đáng.
Yến Phi nói: “Bắc phương từ yên hóa loạn, từ thống nhất mà thành phân liệt, An công sao không nhân cơ hội hiếm có này phát động công cuộc bắc phạt?”.
Tạ An nói: “Không ngờ ta cùng tiểu Phi lần đầu gặp nhau đã như cố nhân, cùng nhau dốc bầu tâm sự, chẳng bù cho ta mấy tháng gần đây mỗi ngày càng cảm thấy tịch mịch hơn. Tiểu Phi ngươi kiến thức rất cao, hoàn toàn ngoài ý liệu của ta, người am hiểu thời cuộc như ngươi tại Giang Nam này cũng không mấy dễ gặp đâu”.
Yến Phi nói: “An công xin chớ quá khen, chỉ vì tiểu nhân trường kỳ lưu lạc Biên Hoang Tập mà nghe ngóng được nhiều chuyện, vì thế mà so với người thường nhận thức có hơn đôi chút”.
Tạ An hít thở một hơi, điềm đạm nói: “Nghe nói Biên Hoang Tập là địa phương hết sức năng động, tuy bị Diêu Trường phóng hỏa đốt cháy phần lớn nhà cửa, bất quá sau khi song phương thoái binh, Hoang nhân đã ào ào trở về, tiến hành công việc trùng kiến, tiểu Phi có tính trở lại nơi đó không?”.
Yến Phi gượng cười: “Tiểu nhân trở lại thì làm được chuyện gì? E rằng lại phải tìm người bảo hộ mới xong”.
Tạ An mỉm cười: “Sự tình có lẽ không tệ như ngươi nghĩ đâu. Ta luôn cảm thấy sự việc ngươi mất võ công có thể có cơ hội thay đổi, đấy cũng chính là nguyên nhân mà tiểu Huyền đưa ngươi về Kiến Khang. Chi Độn đang thiết pháp tìm kiếm một người, xin thứ cho ta lúc này không tiện thấu lộ danh tánh người đó. Người này danh đầu rất lớn, mà lại trời sinh cô tịch, bất quá nếu thiên hạ có một người có thể mời được ông ta thì tất là Chi Độn chứ không phải ai khác”.
Yến Phi trong đầu chợt hiện cái tên Đan vương An thế Thanh, nhưng không nói ra, thầm nghĩ nếu Tạ An biết được sự tình về Đan kiếp, lại biết Đan kiếp là do Đan đạo đại tông sư tiền bối Cát Hồng “khấp chế”, hẳn là Tạ An sẽ không còn tin tưởng ở An Thế Thanh nữa.
Mỹ nữ với đôi mắt đẹp thần bí sẽ cùng với phụ thân xuất hiện chăng? Tạ An thấy gã im lặng không nói, rất ngạc nhiên nói: “Tiểu Phi có vẻ không hề để tâm đến chuyện này sao?”.
Yến Phi đột nhiên nói: “Tiểu nhân thật không muốn phí công nghĩ đến chuyện lo lắng vô bổ này, mấy tháng qua, được An công chiếu cố, Yến Phi sẽ nhớ mãi không quên. Xin An công chẳng cần phí sức thêm, sáng mai tiểu nhân sẽ ly khai Kiến Khang, tùy tiện tìm một nơi yên ổn, lặng lẽ sống nốt nửa cuộc đời còn lại”.
Tạ An lắc đầu bật cười nói: “Tiểu Phi được mất thong dong, Tạ An ta hết sức hâm mộ, cũng không dám miễn cưỡng lưu lại. Chỉ hy vọng ngươi lượng thứ cho nỗi khổ của ta, vì ta từng chịu lời phó thác của tiểu Huyền, là một khi ngươi tỉnh lại, lập tức dùng bồ câu truyền tin cho y, đến khi y và bằng hữu Lưu Dụ của ngươi vội vàng chạy về không thấy ngươi, sẽ hết sức thất vọng. Tiểu Phi có thể chờ thêm mươi ngày rồi hẵng đi được không?”.
Yến Phi nhớ lại cần phải cảnh báo Lưu Dụ, thầm trách mình sơ hốt, nghĩ rằng thêm mười ngày với bớt mười ngày chẳng có chuyện gì ghê gớm, liền gật đầu đồng ý.
Tạ An không ngờ chàng đáp ứng nhẹ nhàng như vậy, càng thêm tán thưởng chàng đối xử không chút giả dối, rốt cuộc lại chuyển về chính đề hỏi: “Thứ cho Tạ An ta nhiều chuyện, tiểu Phi ngươi làm sao mà lại cùng với Nhậm Dao của Tiêu Dao giáo kết mối dây oan nghiệt? Sau khi bị y toàn lực công kích, lại chuyển sang trạng thái thai tức kỳ dị, toàn bộ sự việc khiến người ta nghĩ đến nát óc cũng không hiểu”.
Yến Phi định trả lời, chợt nghĩ rằng chuyện này có dính dáng đến Thái Bình ngọc bội, mà chàng và Lưu Dụ vì tình thế bức bách, tại Biên Hoang Tập, hầm chứa rượu Đệ Nhất lâu
thề không tiết lộ việc này. Nếu bây giờ chàng không giữ lời nói ra, dù sao đi nữa Yêu hậu Thanh Thị cũng đã không chịu tuân thủ tinh thần của lời hứa, nhưng mà không biết Lưu Dụ có tiết lộ bí mật của Thiên Địa bội hợp nhất cho Tạ Huyền hay không, nếu mình lỗ mãng, chưa biết chừng lại khiến Lưu Dụ mang tội man trá thượng cấp, sự tình chẳng biết là lớn hay nhỏ. Bèn tránh nặng tìm nhẹ nói: “Chuyện này một lời khó tận, tại hạ ở Biên Hoang Tập gặp Nhậm Dao ác đấu cùng yêu đạo Thái Ất giáo, rồi bị cuốn vào cuộc tranh giành của họ, khi ấy Nhậm Dao cần phải hộ tống một vị phi tử của y có tên là Mạn Diệu phu nhân tới Kiến Khang, không biết có mưu đồ gì. Tóm lại không phải là chuyện tốt lành gì, An công cần thận trọng”.
Tạ An cảm giác trong câu chuyện của chàng có chỗ chưa nói hết, tựa như ẩn chứa điều gì khó nói, đương nhiên không muốn bức bách chàng, cũng ngấm ngầm cảm thấy Mạn Diệu phu nhân với những chuyện phát sinh hiện nay ở Kiến Khang thành có liên quan gì đó, nhưng nhất thời không nghĩ ra đó là chuyện gì. Liền nói: “Với tính cách của Nhậm Dao, chắc chắn sẽ không bỏ qua cho ngươi, tiểu Phi cần phải ra vào cẩn thận, nếu muốn dạo chơi lang thang trong thành, cần phải được Bi Phong an bài thỏa đáng”.
Yến Phi tuy không nguyện ý, nhưng cũng biết Tạ An có ý tốt, cũng biết Tạ An trong chuyện này sẽ kiên quyết không nhượng bộ, đành đồng ý nói lời cảm tạ.
Tạ An trầm ngâm một lát, gượng cười nói: “Nếu trước trận Phì Thủy, ta vốn có biện pháp đối phó với Nhậm Dao, thì hiện tại lại có cảm giác lực bất tòng tâm. Cái đêm tiểu Huyền cứu được ngươi từ tay Nhậm Dao, đã từng ngạnh tiếp hắn một chiêu, tiểu Huyền nói người này kiếm thuật đã đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa, nội công tâm pháp quỷ bí tà dị, cho dù quyết đấu công bình, tiểu Huyền cũng không nắm chắc phần tất thắng, vì vậy ngươi vạn lần không được sơ tâm đối với y”.
Yến Phi lại cho là sau trận Phì Thủy, Tư Mã Diệu trở nên nghi ngờ Tạ An khiến ông cảm thấy hữu tâm vô lực, đâu ngờ rằng kẻ gây nên cảm giác này lại là long đầu đại ca Giang Hải Lưu của Trường Giang bang. Trúc Lôi Âm hai tháng trước đã ngấm ngầm ly khai Kiến Khang, còn Giang Hải Lưu lại không thấy có chút tin tức nào, Giang Hải Lưu tránh mặt ông, hiển nhiên là do Hoàn Huyền tác quái, khiến hắn phụ lòng ủy thác của ông.
Đúng lúc này, Tống Bi Phong thần sắc ngưng trọng đi đến, nói: “Bi Phong có chuyện quan trọng báo với An gia”.
Tạ An nhíu mày hướng về phía Yến Phi nói: “Tiểu Phi ngươi đêm nay tới cùng ta dùng cơm có được không?”.
Yến Phi thầm nhủ cái chân Trung thư lệnh của Tạ An thật không dễ dàng, phiền não không dứt. Hèn gì ông biểu lộ niềm mong ước đối với Lạc Thần. Gật đầu đồng ý, cũng bất giác hết sức cảm kích vì ông hiểu và giúp mình.
Tống Bi Phong nói: “Cao công tử vừa đến, hiện đang ở tại Nghênh Khách hiên chờ đại giá của Yến công tử, Định Đô sẽ dẫn đường cho Yến công tử. Luận về kiếm pháp, trong đám hộ viện ngoài tôi ra mới có thể thay cho hắn, hắn sẽ phụ trách an toàn của công tử tại Kiến Khang”.
Yến Phi đã nhìn thấy Lương Định Đô đứng gần đấy chờ đón, bèn thi lễ cáo lui, thầm nghĩ có thể làm cho Tống Bi Phong lo lắng như vậy, tất phải là chuyện hết sức khó khăn đau đầu, chỉ tiếc mình đã biến thành vô dụng, không giúp gì được
Chú thích:
1-Đấu tranh sinh tồn.