View Single Post
  #22  
Old 12-21-2012, 12:19 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 43, 44

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 43

Di Lặc nam lai


Trang viên của Tạ gia ở hẻm Ô Y, quy mô chỉ có trạch viện của Vương gia mới có thể sánh bằng, chia thành đông, tây, nam, bắc, trung ngũ viên. Đông, nam lưỡng viên dựa vào bờ bắc sông Tần Hoài mà dựng nên, sắp xếp không theo quy tắc, mục đích là để có thể ngắm nhìn cảnh sắc rất mỹ lệ hai bên bờ Tần Hoài.
Trung viên hay Tứ Quý viên, bên trong là Vong Quan hiên, nơi thường ngày Tạ An xử lý công việc, có vị trí tôn quý nhất trong trạch viện, bắc viên là quảng trường dẫn vào đại môn, trong đó Tùng Bách đường là kiến trúc hoành tráng trọng yếu nhất, khách nhân tới viếng thăm đều được tiếp đãi trong phạm vi bắc viên. Yến Phi trong lúc hôn mê trăm ngày nằm tại căn lầu dành cho tân khách, tọa lạc tại góc tây nam bắc viên, trong căn sương phòng phía đông của một tòa tứ hợp viện. Cao Ngạn chờ chàng trong Nghênh Khách hiên nằm trong một tòa tứ hợp viện ở mặt bắc của tòa nhà chính.
Tạ gia trên dưới có khoảng trăm người, thêm vào hơn hai trăm phủ vệ tỳ bộc, đa số cư trú ở đông, tây và nam tam viên, chia ra theo phẩm cấp và bộ phận.
Theo ý muốn của Tạ An, Tạ gia đại trạch rộng tới hàng trăm mẫu tràn đầy bầu không khí truy cầu niềm vui đích thực từ thiên nhiên. Tất cả đều lợi dụng đá núi cây rừng cùng suối khe ao hồ sáng tạo ra cảnh quan mang đậm chất thiên nhiên, vun đá dẫn thủy, trồng cây khơi ngòi, thể hiện sâu sắc mối quan hệ huyền diệu giữa các không gian xa gần, cao thấp, sơn, thủy, thạch, lâm, bố cục xảo diệu, trong không gian hữu hạn chứa đựng vô hạn thi tình họa ý, thiên nhiên như có như không. Cây rừng che mây, dây leo chằng chịt vẫn để khói sương lan tỏa, đường mòn ngõ tắt, như tắc mà thông, khe suối chênh vênh, cong rồi lại thẳng, cảnh đẹp trùng trùng bất tận.
Đắm mình trong thiên nhiên cây rừng tươi đẹp này, Yến Phi bất giác dứt bỏ mọi phiền não của thói đời hiểm ác, cũng càng thấu hiểu, Tạ An vai mang trọng trách bảo trì địa vị gia tộc, sao có thể giống như chàng được mất coi như không, chả trách Tạ An hết lòng hâm mộ chàng.
Trận bão tuyết đã tân trang Tạ trạch thành một màu trắng xóa, lúc này Yến Phi bước trên con đường hành lang uốn khúc, chậm rãi đi hết Vong Tục hồ lừng danh của Tạ gia xuyên suốt đông, bắc, trung tam viên, thì trong lòng đã giống như tên hồ, tẩy tâm vong tục.
Lương Định Đô hiển nhiên là một tiểu tử rất hay chuyện, Yến Phi chỉ đành câu được câu chăng từ từ đáp ứng. Hốt nhiên phía trước truyền lại một trận nói cười, Lương Định Đô vội kéo Yến Phi qua một bên, thấp giọng nói: “Là Tú tiểu thư, chúng ta nên nhượng lộ”.
Yến Phi nhìn về phía bên kia cây cửu khúc kiều vắt qua mặt hồ, bốn năm người cả nam lẫn nữ đang nói cười hỉ ha đi đến. Rất ly kỳ là thị lực của chàng không hề bị ảnh hưởng của nội công thất tán, tựa hồ so với trước còn tinh tế hơn nhiều, khoảng cách ngoài mười trượng giống như ở ngay trước mặt, thấy một mỹ nữ xinh đẹp thanh tú, đi lẫn trong đám bốn thiếu niên nam tử như chúng tinh củng nguyệt xúm xít xung quanh đang qua cầu đi tới.
Đi tới thật gần, mới biết bốn nam tử đều là con em cao môn đại tộc, ai nấy đều áo quần thơm tho, tô son điểm phấn, mang kỳ trang dị phục, áo choàng tác dụng ngự hàn chỉ là phụ, chủ yếu là để khoe mẽ, trong số đó còn có hai người đeo túi tử la hương, một người trước ngực quấn khăn lông hoa hoét, đầy những thói tật đua chen giành giật hư vinh bề ngoài của hạng công tử bột.
Đem so sánh bọn họ với hai tên phất phơ Yến Phi và Lương Định Đô, thì giống như những người đến từ thế giới khác vậy.
Thiếu nữ áo choàng đỏ sẫm gió cuốn bay bay, bên trong áo mềm, bên dưới quần lụa xanh đỏ hai màu kết hợp tương xứng, tóc tết từ dưới lên trên, dần dần thu gọn lại, bước chân nhẹ nhàng thoải mái, phong tư diễm lệ như phụng hoàng tha thướt, chính thị một tiểu mỹ nhân diêm dúa.
Không trách bốn gã thanh niên tranh nhau nịnh nọt, đúng với nghĩa quanh quẩn bên quần hồng.
Đám nam nữ không biết đang tranh luận về đề tài vớ vẩn gì, đều to tiếng nghị luận, phê phán kịch liệt. Nữ tử thì chỉ im lặng cười nụ, môi thơm khẽ nhếch, lộ vẻ cao ngạo khinh đời.
Bọn họ trông thấy Yến Phi, có lẽ cho Yến Phi cũng là một hộ vệ nào đó trong phủ giống như Lương Định Đô, mấy nam nhân chỉ liếc qua một cái, lại chăm chú vào mỹ nhân. Ngược lại tiểu mỹ nhân nhìn thấy Yến Phi, lại lộ vẻ chú ý nhìn kỹ, nhưng cuối cùng cũng không nói không rằng, đầu cũng không hề quay về phía Lương Định Đô đang lễ phép thỉnh an, cả đám hớn hở kéo nhau đi hết.
Lương Định Đô vẫn ngơ ngẩn dõi theo bóng dáng nữ tử, hít sâu một hơi: “Tú tiểu thư là nữ nhi của Huyền thiếu gia, là người đẹp nhất trong Tạ gia chúng ta”.
Yến Phi từ sau khi rời khỏi Trường An, lòng đã nguội lạnh đối với bất kỳ mỹ nữ nào, thú vị nói: “Ngươi chẳng phải đang thầm thương trộm nhớ tiểu thư nhà ngươi chứ?”.
Lương Định Đô thất kinh, nhìn quanh không thấy có ai, thì thầm van nài: “Ngàn vạn lần đừng bao giờ nhắc lại chuyện đó. Ta là cái thớ gì chứ? Đến ngấm ngầm tưởng nhớ trong lòng còn không dám, nếu để cho người khác biết được, nhẹ cũng bị đánh đòn, nặng thì bị đuổi ra khỏi cửa”.
Yến Phi hơi cụt hứng, phản ứng cùng lời nói của Lương Định Đô chẳng những khiến chàng cảm thấy trong cao môn chủ tớ cách biệt, mà còn nghĩ đến sự khác nhau giữa Hoang nhân và Tấn nhân. Bất giác khởi lên những hoài niệm về Biên Hoang Tập, ở đấy không những là thế giới vô pháp vô thiên, tha hồ tự do cạnh tranh, không phải dựa vào thân phận địa vị mà dùng bản lãnh chân chính để phân định cao thấp. Về phương diện này Lưu Dụ gần gũi với Hoang nhân hơn.
o0o
Xe ngựa của Tạ An đang sắp ra khỏi cửa thì gặp Tạ Thạch trở về, ông này vội xuống ngựa đến bên cỗ xe, nói: “Nhị ca định đi đâu vậy?”.
Tạ An kéo rèm, để lộ sắc mặt nhợt nhạt với cặp mắt trũng sâu đầy mệt mỏi nói: “Sự tình hết sức không hay, ta phải lập tức nhập cung gặp Hoàng thượng”.
Tạ Thạch chưa bao giờ nhìn thấy thần sắc trầm trọng đến mức như thể đại họa lâm đầu của Tạ An, xưa nay ông luôn mang phong tư thần thái đàm tiếu dụng binh, hốt hoảng nói: “Đã phát sinh chuyện gì sao?”.
Tạ An lắc đầu gượng cười: “Trúc Bất Quy vừa tới Kiến Khang, lại là do Phạm Trữ ngầm sai người tới thông tri cho ta, ta mới biết chuyện này”.
“Hoàng thượng hưng kiến Di Lặc tự không hề thương nghị với ta, chỉ ngầm mang quốc khố ra chi dụng, ta vẫn bịt mắt làm ngơ, cho rằng chỉ cần thi xuất thủ đoạn đối phó Trúc Bất Quy là đủ, ai ngờ Giang Hải Lưu dám bán đứng chúng ta, khiến kế hoạch này của ta thất bại, ài! Khi đó làm sao nghĩ được là Đại tư mã hốt nhiên phát bệnh từ trần?”.
Phạm Trữ là gián nghị đại phu của triều đình, là cận thần thân tín của Tư Mã Diệu, luôn giúp đỡ Tạ An, còn là cậu ruột của Vương Quốc Bảo, tính cách chính trực, vì lý không vị thân.
Tạ Thạch biến sắc nói: “Nhị ca muốn gặp Hoàng thượng?”.
Tạ An trở lại bình tĩnh nói: “Ngươi có biện pháp nào hay hơn chăng?”.
Tạ Thạch chợt kích động hỏi: “Vậy nhị ca há chẳng biết trúng gian kế của Hoàn Huyền sao?”.
Tạ An nghe đến tên Hoàn Huyền, hừ lạnh: “Chỉ với sự phản bội của Giang Hải Lưu là có thể biết Hoàn Huyền có chí phản nghịch, hắn đương nhiên muốn ta chính diện xung đột với Hoàng thượng, ta thì đang muốn tương kế tựu kế, cứ để cho sự tình phát triển như thế này, lợi dụng tình thế Hoàn Huyền độc bá Kinh Châu, để cho Tư Mã Diệu tự chọn lựa, nếu Tư Mã Diệu cho rằng Tư Mã Đạo Tử có đủ lực lượng đối phó Hoàn Huyền, từ hôm nay trở đi, Tạ An ta sẽ tụ thủ bàng quan với mọi chuyện của triều đình”.
Tạ Thạch hít một khẩu lương khí, một lúc lâu nói không ra lời. Tạ An kiên trì như thế đối với chuyện này, tựa hồ nằm ngoài ý tưởng của ông ta.
Tạ An ung dung cười, như đã quyết tâm, bình tĩnh nói rõ: “Ta không có chọn lựa, Tư Mã Diệu cũng không có lựa chọn, so với ngồi yên chờ chết, chẳng bằng đánh nốt canh bạc cuối cùng, coi xem biết đâu có thể qua được kiếp nạn này. Tự ta biết mình từ lâu, ngày tháng còn lại cũng không mấy, hy vọng có thể tranh thủ an bài cho các ngươi tốt nhất, còn về sau gia tộc phải nhờ vào các ngươi đó!”.
Nói xong hạ rèm xuống, cho xe ra khỏi cửa phủ, để lại Tạ Thạch ngơ ngác đứng lặng yên.
o0o
Cao Ngạn vẫn cái bộ dạng cà lơ thất thểu như xưa, bất biết lễ số gì, đang trong tư thế rất không tự nhiên nửa khom nửa quỳ, từ trong một góc Nghênh Khách hiên nhìn Yến Phi tới ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, hướng về phía Lương Định Đô cười hì hì nói: “Vị tiểu ca này xin giúp đỡ, ta và Yến đại ca có chuyện riêng muốn nói”.
Lương Định Đô nhíu mày không vui, nhìn Yến Phi, thấy chàng gật đầu, không còn cách nào đành hướng về phía Cao Ngạn hung hăng nói: “Ta tên là Lương Định Đô, không phải là tiểu ca gì gì hết”.
Nói xong miễn cưỡng thoái lui ra ngoài hiên.
Cao Ngạn bật cười nói: “Tạ gia coi Yến Phi là thứ gì vậy? Chẳng lẽ là loại hoại quỷ thư sinh? Lại còn phái hộ viện theo bảo hộ ngươi. Con bà nó, mỗi lần ta tới thăm ngươi lúc ấy chỉ biết ngủ mê mệt như một quả trứng ngốc, hắn ta cứ như con quỷ lẵng nhẵng theo ta, lại còn chỉ cho ta theo đường nhỏ cửa hông mà đi, hại ta không lần nào gặp được Tạ Chung Tú tiểu mỹ nhân hết”.
Nghe ngôn ngữ thô bỉ quen thuộc của hắn, ngược lại Yến Phi lại sinh ra cảm giác quen thuộc thân thiết, nói: “Ngươi hình như không biết nội công của ta đã hoàn toàn mất đi, bây giờ chỉ cần một kẻ võ công hạng bét cũng đủ thu thập ta rồi”.
Cao Ngạn cười “khè!” một tiếng, lại lập tức đưa tay bịt mồm, sợ như thế quá ư không phù hợp, ảnh hưởng đến bầu không khí yên ả trong hiên, cười khùng khục nói: “Ngươi không cần lừa ta, phải biết Cao Ngạn ta là người chuyên đi lừa người khác. Chỉ cần coi hai con mắt ngươi, tinh thần còn tốt hơn xưa, vừa rồi đến đây vẫn như long hành hổ bộ, không giống như ta đắm đuối với bọn con gái, cước bộ mới phiêu phù như thế, ha! Ngươi đem chuyện tán công ra thử lừa bọn gái lầu xanh xem có dễ dàng không? Cho dù chết không xong, cũng phải biến thành một nửa người tàn phế, hây! Ngươi đưa tay qua đây có can gì không? Ta không hứng thú với đàn ông đâu mà sợ”.
Yến Phi không chút giận dữ nói: “Sự thực mạnh hơn lời hùng biện, ta không những đưa cả hai tay cho ngươi mò mẫm, mà còn để ngươi coi mạch, chứng thực ta đúng là thất tán nội công, như thế về sau ngươi đừng có ỷ lại vào ta, vì rằng ta không đủ bổn sự để bồi thường cho cái chết của ngươi đâu”.
Cao Ngạn sắc mặt biến đổi hẳn, chăm chú nhìn vào hai mắt chàng, cuối cùng không dám bắt mạch thăm dò, nói: “Mau bỏ tay ngươi ra, chúng ta không nói chuyện vớ vẩn nữa, ha! Mọi người là anh em đã lâu, chẳng vì bất cứ chuyện gì thay đổi được, bây giờ không như ngày xưa, ta còn có rất nhiều chuyện hay ho cho ngươi”.
Yến Phi thoang thoảng cảm thấy ấm áp trong lòng, bản thân đúng là đã không coi lầm tư cách thiện lương khác hẳn bề ngoài của Cao Ngạn, điềm đạm nói: “Vì sao mà còn không cút về Biên Hoang Tập đi chứ?”.
Cao Ngạn lập tức lại hưng phấn nói: “Còn chưa tiêu đến nhẵn túi, trở về làm gì? Thiên hạ tuy rộng lớn, ta lại có thể khẳng định không đâu sánh được với Tần Hoài hà, muốn mỹ tửu có mỹ tửu, muốn con gái có con gái, bao năm huynh đệ, chi phí của ngươi ở đấy hoàn toàn tính vào phần lão tử”.
Yến Phi tuy không háo sắc, nhưng lại nghe sâu rượu ngọ nguậy, thầm nghĩ mình tuy từng đã qua Kiến Khang, nhưng vẫn chưa thử qua du thuyền nghe hát uống rượu, bất giác có chút động tâm, nói: “Chuyện này đêm nay sẽ tính. Có tin tức gì của Bàng Nghĩa không?”.
Cao Ngạn ngạc nhiên nói: “Bàng Nghĩa chẳng phải đã đến thăm ngươi sao? Hắn thấy ngươi giống như hoạt tử nhân, mới mang Khảm thái đao bửu bối tùy thân lưu lại, chuẩn bị làm vật bồi táng cho ngươi, ai ngờ cuối cùng lại không có chỗ dùng”.
Yến Phi nhíu mày nói: “Ta nói chuyện nghiêm túc đấy!”.
Cao Ngạn xòe tay đầu hàng nói: “Ta hình như vẫn có chút sợ ngươi hay sao ấy, nói cười cũng không được sao? Mấy kẻ kêu là cao môn đại tộc đại đa số đâu dễ nói cười. Hầy! Ta tuy rằng thân ở nơi này, bất quá vẫn đang bổn cũ mà diễn, tình thế Biên Hoang Tập vẫn rõ như trong lòng bàn tay. Nghe nói Bàng Nghĩa nằm trong đám người phản hồi Biên Hoang Tập đầu tiên, hắn đang tự tay trùng kiến Đệ Nhất lâu bị hỏa thiêu thành tro bụi. Con mẹ nó, coi hắn lần này chẳng lẽ lấy gỗ mà làm nhà, tình hình Biên Hoang Tập hiện thời rất phức tạp! Biết bao là người ở đấy tranh nhau một chén canh”.
Yến Phi thở phào một hơi, Bàng Nghĩa rốt cuộc không xảy ra chuyện gì ngoài dự liệu của chàng, thật đáng cảm tạ trời đất, ngắt lời Cao Ngạn nói: “Ta không còn hứng thú với Biên Hoang Tập nữa, ngươi ở đây ngoài việc rủ rê con gái người ta ra, còn có gì không?”.
Cao Ngạn không chút ngượng ngùng, nhún vai nói: “Ngoài chuyện giết thì giờ với bọn con gái lại vẫn là với bọn con gái giết thì giờ, còn chuyện gì có thể làm được nữa?”.
Tiếp đó chồm người qua thành ghế, thần thần bí bí nói: “Chúng ta là huynh đệ, ta mỗi ngày đều lại thăm ngươi, thành thực mà nói, ta có một chuyện cần đến ngươi, ngàn vạn lần đừng để ta thất vọng”.
Yến Phi nghe nói phì cười, liếc nhìn hắn, Cao Ngạn là thứ người như vậy đấy, rõ ràng trong hành động biểu hiện quan hoài và tình nghĩa đối với chàng, lại sợ để gã khám phá tâm sự, mang sự tình ra nói năng hàm hồ để che giấu tình cảm bên trong.
Nhạt giọng nói: “Nói đi! Nhưng vung đao múa kiếm thì đừng tìm ta, hiện giờ ta cầm Điệp Luyến Hoa đã cảm thấy khó khăn rồi”.
Cao Ngạn nói: “Có võ công vị tất đã hơn không có võ công, Tạ An tuy không hiểu võ công, vậy mà ai dám coi thường tư cách làm người của ông ấy, Tư Mã Diệu tuy là hoàng đế, cũng không ngoại lệ. Mà ai biết võ công thì lại vì ông ấy mà xông pha chiến trường vào sinh ra tử, ài!”.
Cuối cùng thở dài một tiếng, lại không giấu được sự nuối tiếc đối với việc Yến Phi mất đi võ công, hiển nhiên hắn chỉ muốn an ủi Yến Phi, cũng biểu thị hắn bắt đầu tin là Yến Phi võ công thất tán.
Lời nói của Cao Ngạn không phải là không có đạo lý, nhưng lại tuyệt không phù hợp áp dụng đối với trường hợp của Yến Phi. Trước tiên là chàng đã mất đi bản lĩnh võ công hộ thân để lãng đãng thiên hạ, sau đấy là chàng có cừu nhân khắp nơi, nhưng hiện nay đã biến thành một thư sinh yếu đuối trói gà không chặt, sau này chỉ có cách ẩn giấu tung tích sống qua ngày.
Yến Phi mỉm cười: “Sinh tử hữu mệnh, không cần tiểu tử ngươi an ủi ta, có chuyện gì? Mau nói ra đi! Bỗng nhiên bao tử hành ta quá trời, muốn đi ra ngoài tìm một vò rượu thấm ướt cho cái dạ dày”.
Cao Ngạn vội cười, lại hạ giọng nói: “Ngươi đã nghe nói tới Kỷ Thiên Thiên chưa?”. Yến Phi lắc đầu nói: “Chưa nghe qua, cái tên này nghe thơ mộng quá”.
Cao Ngạn đằng hắng một tiếng, đứng thẳng người dậy, hậm hực nói: “Trong Tạ phủ muốn tìm một chiếc kỷ để ngồi cho dễ chịu cũng chẳng có, suốt ngày ngồi chiếu, ngồi đến nỗi lão tử hai chân tê dại hết cả, con bà nó!”.
Yến Phi bất mãn nói: “Nói nhanh đi!”.
Cao Ngạn lại chồm đến bên, hai mắt lóe sáng, nói: “Kỷ Thiên Thiên là danh kỹ hàng đầu, danh giá nhất của Kiến Khang, của lưỡng đại thanh lâu, của Tần Hoài hà, bán nghệ không bán thân, là nơi toàn thể phong lưu công tử nam nhi ở Kiến Khang nằm mơ cầu được một đêm vui vẻ, hương phòng của cô ta như thánh địa của toàn bộ thanh lâu lãng tử, Kỷ Thiên Thiên sắc nghệ song tuyệt đương nhiên không phải nói...”.
Yến Phi hết kiên nhẫn ngắt lời: “Ta biết rồi! Tóm lại cô ta đẹp hơn hơn hẳn các cô khác! Bất quá ta đứng trên lập trường bằng hữu khuyên ngươi tốt nhất là thủ tiêu vọng niệm. Làm người quan trọng nhất là tự biết rõ mình, Kiến Khang thành phong vân biến đổi, luận tài lực, danh vọng và địa vị, Cao Ngạn ngươi được bao nhiêu cân lượng? Tốt nhất là ngoan ngoãn quay về Biên Hoang Tập, ngươi đích thị thuộc về nơi ấy”.
Lại lắc đầu nói: “Chuyện này ta không có cách nào giúp đỡ, cho dù hữu tâm cũng vô lực”.
Cao Ngạn bất mãn nói: “Còn coi là huynh đệ sao? Chưa nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, đã làm một lô một lốc như loạn tiễn bắn đến, từng mũi tên như xuyên tâm liệt phế, mẹ nó chứ, ta tính ra đã từng giúp ngươi được kha khá chuyện, là ai mang ngọc tỷ giúp ngươi đưa vào tay Tạ Huyền?”.
Yến Phi phì cười nói: “Tạ Huyền không cho ngươi tiền thù lao hay sao? Theo ta, đến tận hôm nay, nếu ngươi vẫn chưa bị người ta cho mấy trận đòn, cũng đều là nhờ ân huệ của Tạ Huyền đúng không?”.
Cao Ngạn bị đánh trúng điểm yếu hại, yếu ớt nói: “Hảo! Không ai thèm cùng với ngươi tính toán thiệt hơn nữa, ngươi rốt cuộc chịu hay không chịu giúp nào?”.
Yến Phi không bắt ép được hắn, gượng cười nói: “Nói đi! Cái đồ không biết tự lượng sức, loài sâu bọ si tâm vọng tưởng đáng thương!”.
Cao Ngạn than: “Không dám giấu lão nhân gia ngươi, ta si tâm vọng tưởng không phải là đích thân ân trạch của Kỷ Thiên Thiên, chỉ hy vọng sau khi về Biên Hoang Tập, có thể kể với người khác, đã từng tại Vũ Bình đài được nghe Kỷ Thiên Thiên vừa đàn vừa hát, mọi người cùng cụng chén. Như thế Cao Ngạn ta trong giới thanh lâu, thân giá có thể tăng lên gấp bội, minh bạch chưa? Yêu cầu này há là quá phận?”.
Yến Phi không làm hắn đổi ý được, nói: “Ta đang rửa tai cung kính lắng nghe đây, tuy biết rõ là khó lòng giúp được”.
Cao Ngạn thấy cuối cùng cũng thuyết phục được Yến Phi, hết sức vui mừng nói: “Từ khi Tư Mã Nguyên Hiển cái tên mất dạy ấy làm cho Kỷ Thiên Thiên nổi giận, nàng ta không chịu gặp khách nữa, chỉ có hai người là ngoại lệ, một người là người chào đón ngươi lúc mới tỉnh lại sau giấc ngủ dài”.
Yến Phi ngạc nhiên nói: “Tạ An?”.
Cao Ngạn nói: “Kỷ Thiên Thiên là con gái nuôi của Tạ An, Tạ An là người nàng ta muốn gặp nhất”.
Yến Phi cười khổ nói: “Ngươi muốn ta giúp thế nào đây? Chẳng lẽ đi nói với Tạ An, nguyện vọng bình sanh lớn nhất của ta là muốn gặp gỡ Kỷ Thiên Thiên, bất quá còn muốn đưa theo một tiểu tử tên là Cao Ngạn cùng đi, hy vọng An công người có thể hoàn thành tâm nguyện của ta vân vân gì đấy?”.
Cao Ngạn buồn bã thở dài khổ sở nói: “Đương nhiên không phải như thế, làm sao có thể thô thiển như thế được? Trong đám thủ hạ của Tạ An có một người tên là Tống Bi Phong, cùng với Kỷ Thiên Thiên có quan hệ rất tốt, Tạ An khi muốn gửi các món sơn hào hải vị cho Kỷ Thiên Thiên, hay là cần người chuyển lời, đều do một tay Tống Bi Phong thực hiện, chỉ cần ngươi lung lạc được hắn, chưa biết chừng có biện pháp đưa ta đi gặp mặt Kỷ Thiên Thiên”.
Yến Phi cười: “Chỉ gặp mặt sao?”.
Cao Ngạn giậm chân nói: “Đương nhiên không chỉ đơn giản gặp mặt như thế, ai! Mẹ nó! Ngàn vạn đừng kinh động đến Tạ An, ông ta là người đứng đầu trong những người đứng đầu cao môn, tuyệt không để cho hai gã đại Hoang nhân chúng ta lỗ mãng khinh nhờn con gái nuôi của mình”.
Yến Phi nói: “Tống Bi Phong là người nhận lệnh của Tạ An mà hành sự, hắn chịu vì ý tưởng hoang đường của chúng ta mà quấy nhiễu an ninh của Kỷ Thiên Thiên sao?”. Cao Ngạn gượng cười nói: “Đây là biện pháp duy nhất trong khi không có biện pháp nào, chỉ cần ngươi có thể tác động được Tống Bi Phong, hắn tất có thể có an bài”. Yến Phi thuận miệng hỏi: “Kẻ còn lại Kỷ Thiên Thiên chịu gặp là thần thánh phương nào vậy? Có lai lịch ra sao?”.
Cao Ngạn thở dài: “Tiểu tử đó thật đáng hâm mộ, chỉ là ngẫu nhiên gặp gỡ Kỷ Thiên Thiên trên đường, cuối cùng khiến cho Kỷ Thiên Thiên trong lòng vui vẻ, ba lần trên Vũ Bình đài tiếp đãi hắn, bất quá tiểu tử đó xác thực như ngọc thụ lâm phong, anh tuấn hào hùng, lại võ công bất phàm, mới hai mươi tuổi đã có kiếm pháp cao minh, căn cơ sâu dày”.
Yến Phi bỗng động tâm nói: “Ngươi làm thế nào mà biết rõ thế?”.
Cao Ngạn nghênh ngang nói: “Lão tử chỉ cần huơ tay một cái, mua chuộc người của Tần Hoài lâu đâu phải là chuyện to tát gì”.
Yến Phi trầm giọng nói: “Ngươi đã thấy qua tên đó chưa?”.
Cao Ngạn nói: “Chỉ nghe người ta nói. Theo như tiểu tử đó tự xưng thì y là vọng tộc phương bắc, hơn hai tháng trước mới tới hoạt động ở Kiến Khang. Đừng có nói đến tiểu tử đó nữa, nói ra làm ta bốc hỏa lên đầu mất! Đi nào! Chúng ta ra ngoài kiếm cá to thịt béo chén con mẹ nó một trận thật thống khoái, thuận đường khánh chúc ngươi trở lại nhân thế”.
Tâm trí Yến Phi lại chuyển đến gã tiểu tử có khả năng chiếm được tình cảm của Kỷ Thiên Thiên, trên rất nhiều mặt là trùng hợp với Nhậm Dao, chẳng lẽ đích thực là Nhậm Dao?


Hồi 44

Minh tranh ám đấu


Cung thành nam Tấn nằm ở khu bắc đông thành thuộc Kiến Khang, còn gọi là Đài Thành, có câu “Thiên tử cư xứ cấm giả vi đài”, nghĩa là nơi thiên tử cư ngụ không được dựng đài, từ đấy có tên Đài Thành.
Đài Thành lưng tựa vào núi Phục Chu, Kê Lung, phía trước nhìn ra Ngưu Thủ sơn, có hai lớp tường thành, vòng tường nội cung dài năm dặm, ngoại cung dài tám dặm, cung Kiến Khang nằm bên trong.
Vòng quanh thành có hào, rộng năm trượng, sâu bảy thước. Đại môn ở chính giữa tường ngoài gọi là Đại tư mã môn, những người có việc tâu lên, đều phải quỳ tại đây chờ, vì vậy cũng gọi là Chương môn.
Đại tư mã môn đối xứng với nam đại môn của đô thành tên gọi là Tuyên Dương môn, nối liền bằng ngự đạo, hai bên đường ngự đạo đào hai dòng kênh, gọi là ngự câu, trên bờ trồng hòe liễu.
Từ Tuyên Dương môn về phía nam, một đường ngự đạo khác dài năm dặm nối với Chu Tước kiều. Bảy dặm đường ngự đạo nối thông trục đường chính của đô thành, ngoài ra đường ngang ngõ tắt cứ dựa vào đó mà phát triển.
Đô thành nam Tấn bất luận cung thành hay những chốn thấp kém khác, cho đến cả thành bảo vệ như Thạch Đầu Thành, đều lợi dụng đồi núi thiên nhiên hay thủy đạo, phát huy cao nhất khả năng phòng ngự, điều này cũng phản ánh hoàn cảnh nam Tấn đang đối kháng với bắc phương Hồ tộc, lại thêm đấu tranh nội bộ kịch liệt cùng tình hình hỗn loạn trong xã hội.
Tư Mã Diệu cư trú trong cung thành này, xa xa là khu cung điện, càng có thể phát huy lực lượng phòng thủ đến mức tối đa trong chiến tranh.
Sự an nguy của Đài Thành quan hệ đến toàn bộ sự tồn vong của chính quyền.
Đối với Hoàn Huyền mà nói, nếu có thể xâm nhập vào Đài Thành, coi như đã khống chế thiên hạ của nam Tấn, phối hợp với lực lượng hai châu Kinh, Dương, Bắc Phủ binh của Tạ Huyền khi đó muốn làm gì cũng chẳng đủ sức.
Nếu ở địa vị Tạ Huyền, tất nhiên cần phải tận lực ngăn không để Kiến Khang rơi vào tay Hoàn Huyền.
Trong tình hình như vậy, Tạ Huyền ngược dòng công đả Kinh Tương thì rất khó khăn, Hoàn Huyền thuận dòng tiến công Kiến Khang thì thuận lợi, cho nên từ thời nam Tấn trở lại đây, nhìn chung quyền chủ động nằm trong tay quân phiệt tại Kinh Châu, Kiến Khang nằm ở hạ du lại bị hãm vào thế kém, bị động.
o0o
Tạ An cùng với xe ngựa và đám tùy tùng mặc toàn y phục đen, ruổi ngựa chạy thẳng vào Đại tư mã môn, địa vị của ông tôn kính, không cần chờ ở Đại tư mã môn, tự khắc có người phi báo cho Tư Mã Diệu.
Mắt tuy nhìn cảnh lầu các trùng điệp trong cung thành, nhưng lại hình dung cảnh tương lai lưỡng Huyền tranh đấu, trong lòng dậy lên vô số cảm xúc.
Xa đội hướng về phía chính điện Thái Cấp điện phi thẳng tới, điện này là kiến trúc to lớn hoành tráng nhất trong cung thành Kiến Khang, mở ra mười hai gian, tượng trưng cho một năm mười hai tháng, hai bên có đông, tây nhị đường.
Điện cao tám trượng, dài hai mươi mốt trượng, rộng mười trượng, sân phía trước rộng sáu chục mẫu, toàn bộ lấy Thái Cấp điện làm chủ theo kiến trúc đình viên, là nơi Tư Mã Diệu triệu kiến đại thần, cử hành yến hội và xử lý chính vụ ngày thường.
Tư Mã Diệu đã ba ngày liên tục bỏ buổi chầu sớm, từ khi nạp được Trương quý nhân, mượn tiếng sau chiến dịch Phì Thủy cần nghỉ ngơi dưỡng sức, để cho triều chính hoang phế.
Lại lấy lý do Tạ An, Vương Thản Chi công lao khó nhọc, giảm bớt rất nhiều công việc hành chính sự vụ, chuyển sang bên thượng thư phủ nằm trong tay Tư Mã Đạo Tử, vì vậy một công việc trọng đại như hưng kiến Di Lặc tự cũng vượt mặt Tạ An, khiến ông vô phương cản trở.
Bất quá lần này Tạ An đã hạ quyết tâm, quyết không để Tư Mã Diệu vượt quá giới hạn, buộc Tư Mã Diệu phải chọn lựa giữa đoàn kết hay phân liệt với trọng thần.
o0o
Nếu muốn dạo chơi Kiến Khang, tốt nhất là ngồi thuyền đi theo đường thủy đạo chằng chịt khắp nơi trong thành nội.
Kiến Khang thành nằm trong khu vực Trường Giang, Tần Hoài hà, Huyền Vũ hồ tạo nên một màng lưới giao thông đường thủy, bốn mặt sông nước, thành trấn phát triển dựa vào Tần Hoài hà, ngày càng phồn thịnh, khu công thương nghiệp và khu dân cư từ Trường Can Lý, phố lớn hướng về hai bờ Tần Hoài hà phía đông và Thanh Khê phát triển, các khu buôn bán chen chúc sầm uất, hết sức náo nhiệt.
Quy mô Kiến Khang thành hiện thời đã trở thành to lớn nhất ở Trung Nguyên, nhà lớn lầu cao, mái hiên san sát nhấp nhô.
Nơi chốn đặc sắc nhất chính là những ngã ba sông, tàu thuyền qua lại nối nhau vào bến, ngựa phi trên đường, người đi xe đỗ, không khi nào ngừng.
Trong thành có bốn khu buôn bán, hai bờ Tần Hoài hà những chốn mua bán có tới hơn trăm, một thứ đặc sắc nữa là chợ nhỏ có ở khắp xung quanh các chùa chiền.
Nhờ có việc thờ Phật hưng thịnh, xung quanh nhà chùa người qua lại không ngớt, cho nên mới trở thành nơi buôn bán giao dịch thuận lợi, trong đó nổi danh nhất là khu chợ phía bắc hai ngôi chùa lớn Kiến Sơ tự và Quy Thiện tự.
Ngoài những thị trường nhóm họp liên tục, lại còn rất nhiều chợ cóc không cố định, rõ ràng số người mưu sinh bằng việc buôn bán ngày càng nhiều hơn, biến Kiến Khang thành nơi giàu có và phồn hoa nhất thiên hạ.
Ngoài ngự đạo và những đường phố chính, là những phố phường đường ngang ngõ tắt tựa như lưới nhện vươn dài vào thành nội. Dân cư xây dựng nhà cửa men theo bờ sông, cơ ngơi sâu rộng, tường hoa mái ngói, đường đi lát đá, cầu đá vòng cung, cầu phao, bờ sông đá kè; dưới sông thì thuyền bè qua lại, nước soi cánh buồm, tạo nên một phong cách riêng biệt của non nước Giang Nam, lại thêm sau trận tuyết lớn, khắp chốn tuyết bay sương rũ, cảnh đẹp như mộng.
So với cách đây năm năm Yến Phi viếng thăm nơi này, hiện tại quang cảnh đã phồn thịnh hơn hẳn.
Đối với hương sắc đặc biệt của Giang Nam, Yến Phi có một tình cảm đặc biệt. Với chàng, cảnh đẹp sông nước Giang Nam tựa như một bức tranh bố cục thưa dày hợp cách, tràn đầy ý thơ, trong không gian hữu hạn biểu lộ vô hạn tình ý.
Yến Phi ra khỏi hẻm Ô Y, bước chân lên đường ngự đạo, tả hữu bồi bạn có Cao Ngạn, Lương Định Đô, phía sau còn có bốn tên phủ vệ của Tạ gia đi cùng, đều là hảo thủ được tuyển chọn, Yến Phi chối chẳng được đành để Lương Định Đô an bài như vậy.
Cao Ngạn và Lương Định Đô giống như một đôi oan gia, không thèm nhìn nhau, không nói thì thôi, hễ có một lời nói ra là không ai chịu ai, bắt bẻ chế nhạo lẫn nhau, khiến Yến Phi không khỏi phiền lòng.
Chàng đành lặng thinh, quên đi mọi ưu phiền, chen vào đám đông người qua kẻ lại trên đường lớn, tham gia cái thú sinh hoạt của người Kiến Khang.
Hai bên ngự đạo các loại cửa tiệm san sát, tửu điếm chào mời, không thiếu quán ăn, tửu lâu, trà quán, nhà hàng bán rượu, lại còn có những người bày bán các thứ tạp hóa ngổn ngang trên mặt đất.
Chỉ riêng trên đường ngự đạo ở phụ cận hẻm Ô Y, đã có hai gian Phật tự và một đạo quán, bất luận là ở cổng chùa hay ngoài đạo quán, đều người đông như nêm, đa số là tín nữ có mặt trên đường. Tựa hồ như không khí hoan lạc do chiến thắng Phì Thủy mang lại vẫn chưa hề suy giảm.
Khiến cho Yến Phi cảm thấy hứng thú dào dạt lại là nông dân, ngư dân từ bốn phương ngoại thành dùng thuyền vận chuyển cá tươi rau cỏ, hoa quả mới hái theo các đường thủy đạo, cá tươi bắt từ dưới sông lên thì bày bán ở chân đê dưới cầu, hoặc men theo bờ sông rao bán.
Bọn Yến Phi lần theo bờ sông uốn lượn phía bắc Tần Hoài hà từ từ mà đi, rời khỏi con đường ngự đạo thẳng tắp, lại có một cảm nhận khác hẳn.
Bất luận là địa phương vô pháp vô thiên như Biên Hoang Tập, hay là kinh đô Kiến Khang thành của nam Tấn, người ta đều phải sống, tình hình căn bản là giống nhau, nhưng Biên Hoang Tập không sánh được với Kiến Khang về mức độ du nhàn.
Cao Ngạn nói vào tai Yến Phi: “Phía trước là Cao Bằng lâu, món xuất sắc nhất chính là thịt dê nướng, tự xưng là 'thượng phong xuy chi, ngũ lý văn hương'1, không thể bỏ qua”.
Lương Định Đô vận khởi thính lực, nghe nói thế nổi xung: “Yến công tử trăm ngày không ăn cơm uống nước, lúc này nên ăn nhẹ chứ không nên ăn nặng, đi thêm trăm bộ là tới quán chay nổi tiếng Tịnh Tâm trai, chắc chắn sẽ thích hợp với Yến công tử”.
Cao Ngạn tức khí nói: “Ngươi làm sao biết được Hoang nhân bọn ta có thói quen ăn không có thịt là không sướng, trăm ngày không ăn uống gì, tỉnh lại lại phải xơi thứ đồ ăn chay nhạt nhẽo như thế, thử hỏi đấy là thứ đạo lý gì chứ? Hừ! Hiện tại là ai mời khách?”.
Lương Định Đô đang muốn mở mồm phản bác, chợt phía trước nhốn nháo, người người xô nhau trốn chạy.
Lương Định Đô phụ trách việc bảo đảm an toàn cho Yến Phi, nhảy vọt tới, kéo Yến Phi tránh qua một bên, đám phủ vệ phía sau lập tức xông lại lập thành một bức tường người, bảo vệ Yến Phi.
Yến Phi nhìn sang, chỉ thấy một người lao ra khỏi trì đạo, mạo hiểm lướt qua phía trước một cỗ xe ngựa, hốt hoảng như chó nhà có tang chạy về phía con đường đối diện, khiến cho con ngựa nhảy dựng lên, người ngồi xe tức thì há miệng thóa mạ.
Tuy nhiên khi thấy đuổi theo sau người nọ có tới năm sáu thanh y tráng hán vũ trang, lập tức câm như hến, không dám mắng tiếp nữa.
Người bị truy đuổi cùng những kẻ đuổi theo mau chóng biến mất vào một ngõ tắt, tình huống trên đường nhanh chóng trở lại bình thường, giống như không có chuyện gì xảy ra.
Lương Định Đô ủ rũ nói: “Lại là người của Bửu cô gia”.
Cao Ngạn ngạc nhiên: “Bửu cô gia?”.
Lương Định Đô trợn mắt nhìn hắn, bực bội không nói gì.
Yến Phi sợ Cao Ngạn khó hạ đài, hỏi to: “Ai là Bửu cô gia?”.
Đối với Yến Phi Lương Định Đô đương nhiên không dám sơ suất, cung kính đáp: “Bửu cô gia là nữ tế của An công, là nhi tử của trung thư giám đại nhân, tên là Vương Quốc Bảo, hiện tại là có người quyền thế và tài lực nhất ở Kiến Khang, chuyên cho vay lãi cao, lại rất giỏi đầu cơ tích trữ, không ngừng kiêm tính nhà cửa ruộng vườn, dinh thự cửa hàng của người khác, thu được tài phú kinh nhân, An gia rất không thích hắn”.
Yến Phi nghe chuyện trong lòng rất ngán ngẩm, hoàn cảnh thực của Tạ An còn xa mới được như bề ngoài tiêu dao tự tại của ông.
Cao Ngạn đương nhiên không hứng thú gì với chuyện có kẻ cho vay nặng lãi bóc lột người khác, nói: “Hiện tại chung quy là đi đến đâu đây?”.
Yến Phi đưa mắt cho Lương Định Đô, nói: “Ai mời khách thì người ấy quyết, đương nhiên là đi ăn thịt dê nướng”.
Cao Ngạn lại cao hứng, vẻ mặt đắc thắng dẫn đầu đi trước.
o0o
Tư Mã Diệu hoặc giả là loại người tính cách song trùng, y có thể trong một chuyện gì đó hết sức cố chấp, thoắt cái đã trở nên chẳng có chủ ý gì hết, rất dễ để người khác giật dây; y có thể làm ra những chuyện hết sức điên rồ, thậm chí cả những chuyện giết chóc rất tàn khốc, nhưng cũng có mặt cẩn trọng, lương thiện.
Trong bối cảnh chính trị hiện thời của nam Tấn, trước nay y luôn thận trọng kế thừa tổ nghiệp, không dám bỏ bê chính vụ, tuy trong chuyện riêng tư y luôn luôn phóng túng đến mức bản thân mê muội, nhưng vẫn còn biết tự nhắc nhở bản thân, khiến y căn bản vẫn có thể tận sức vì trách nhiệm quân chủ.
Nhưng chiến dịch Phì Thủy đại thắng, bao nhiêu uy hiếp không còn nữa, mang đến cho y một niềm vui sướng tưng bừng, những cố gắng tự kềm chế xưa nay đã tan rã, để lộ mặt bên kia tính cách phóng túng buông thả của mình.
Tư Mã Diệu năm nay ba mươi chín tuổi, vóc người tầm thước, sắc mặt hơi nhợt nhạt không mấy khỏe mạnh, dáng vẻ phong lưu, nói năng chậm rãi mạch lạc, cử chỉ phong nhã, ngôn từ nghiêm cẩn, phong thái danh sĩ, thực chất lại là người cá tính hướng nội, rất thích ỷ lại vào người khác giải quyết sự việc cho mình, lại hơi e ngại phải đối diện với quần thần, đối diện với hiện thực.
Trước đây bắc phương uy hiếp nghiêm trọng, y ỷ lại vào Tạ An, hiện tại để hưởng lạc, y lại ỷ vào Tư Mã Đạo Tử.
Chuyện quan trọng nhất trước mắt, không phải là thống nhất thiên hạ, mà là làm sao củng cố vương quyền nhà Tư Mã, để hưởng thụ cuộc sống hoan lạc trong hoàng thất, cứ thế tiếp tục đến mãi mãi.
Biết tin Tạ An nhập cung, y đang cùng Tư Mã Đạo Tử hai huynh đệ ăn bữa sáng, mới vừa rời khỏi long sàng, vẫn còn mắt nhắm mắt mở, trong đầu vẫn còn đầy những động thái quyến rũ mê người của Trương quý nhân đêm hôm trước, miên man không dứt.
Y có đôi chút mơ hồ quay sang Tư Mã Đạo Tử ở bên phải, nhíu mày nói: “Tạ An đến làm gì? Có chuyện gì có thể chờ đến buổi chầu tới nói không được sao?”.
Bọn họ lúc này đang ở Thanh Long điện nằm ở phía đông Thái Cấp điện, một đám cung nga thái giám đang ân cần thị hầu, Tư Mã Đạo Tử không nói là tới chơi, mà nói thác muốn tới báo cáo chính vụ, sự thực là muốn có được ngọc ấn cho bản tấu chương và thánh dụ.
Nói cho cùng hắn vẫn là kiếm thủ nhất lưu, hiểu rõ cái họa tửu sắc hại thân, tuy là bồi tiếp Tư Mã Diệu yến ẩm, nhưng vẫn biết dừng đúng lúc.
Nghe nói song mục lập tức lóe sát cơ, cố ý chậm rãi nói: “Về phương diện quân chính, chúng ta cần phải nắm chặt, nếu ông ta muốn nói về việc bắc phạt, hoàng huynh một tấc cũng không nhường, sau đại chiến, đại Tấn ta cần có một đoạn nghỉ ngơi dưỡng sức, không nên vọng động can qua. Còn lại cứ để xem Trung thư lệnh đại nhân có chuyện gì muốn nói”.
Hắn rất biết tâm sự của Tư Mã Diệu, chỉ cần nhắc đến hai chữ 'Bắc phạt' là đủ để ông này như con nhím xù lông nhọn tự vệ, lại xảo diệu là Tư Mã Diệu vốn đã đường hoàng phản đối chuyện bắc phạt, khiến Tư Mã Diệu lần này thung dung đối phó Tạ An.
Tư Mã Diệu quả nhiên thần sắc khẩn trương, rầu rĩ nói: “Đại tư mã đang dụng binh Ba Thục, chúng ta đương nhiên nên động không nên tĩnh...”.
“Trung thư lệnh đại nhân đến!”.
Tư Mã Diệu lập tức im tiếng, đưa mắt nhìn Tư Mã Đạo Tử, quay đầu nhìn ra cửa lớn.
Đám thị vệ coi cửa lớn đầy vẻ kính cẩn, Tạ An nhẹ nhàng hân hoan xuất hiện trước mặt hai người, bước chân thoăn thoắt thẳng đến chỗ Tư Mã Diệu, khóe mắt nheo nheo hơi cười, tựa như chỉ tới để nói câu chuyện vãn, không chút khẩn trương làm lễ tham bái, Tư Mã Diệu cho phép ngồi.
Nếu nói thiên hạ này có người khiến y kính sợ, chắc chắn đó là Tạ An.
Tạ An ung dung ngồi xuống chiếc chiếu bên trái, quay sang nhìn Tư Mã Đạo Tử, nhẹ nhàng nói: “Lang Nha vương an khang, Tạ An lần này gặp Hoàng thượng, là có quan hệ đến đại sự tồn vong hưng phế của đại Tấn, cần được cùng Hoàng thượng nói chuyện riêng, thỉnh Lang Nha vương chớ lấy làm lạ”.
Tư Mã Đạo Tử bỗng nhiên hết sức giận dữ, Tạ An nói câu này muốn đẩy hắn ra ngoài, rất không nể mặt hắn, càng không để lại cho hắn đường lui, bèn hừ lạnh một tiếng, đưa mắt nhìn Tư Mã Diệu chờ phản ứng.
Tư Mã Diệu ngơ ngác một lúc, quay nhìn Tạ An, ông này vẫn thần thái ung dung tiêu sái, nhưng y cảm giác rõ ràng Tạ An đang hạ thông điệp tối hậu với y, nếu y vẫn để Tư Mã Đạo Tử lưu lại, coi như sẽ cùng Tạ An công nhiên quyết liệt.
Cho đến thời khắc này, Tạ An vẫn nắm quân chính đại quyền nam Tấn, mà danh vọng ở Giang Tả này không ai dám mơ. Quan trọng nhất là Bắc Phủ binh quyền vẫn hoàn toàn do ông một tay khống chế, lập tức e ngại đến mức cơn say bay sạch, nói: “An công muốn nói là...”.
Chỉ nghe y địa vị hoàng đế chí tôn, vẫn phải xưng hô 'An công' với ông, có thể thấy rõ địa vị của Tạ An tại triều đình.
Tạ An nhìn thẳng vào mắt y, điềm đạm nói: “Lão thần muốn bẩm báo sự việc quan hệ đến chuyện xây dựng lại Di Lặc tự”.
Tư Mã Đạo Tử lại hừ lạnh một tiếng, đang muốn nói gì, nhưng Tư Mã Diệu đưa tay ngăn lại, trầm giọng nói: “Nguyên là như vậy, để trẫm cùng An công giải quyết, khỏi khiến An công nghi ngờ”. Nói đoạn hướng về Tư Mã Đạo Tử gật đầu ra hiệu.
Tư Mã Đạo Tử không còn cách nào, chỉ đành thi lễ cáo lui, nhưng không thèm liếc nhìn Tạ An đến nửa cái, để biểu lộ phẫn nộ trong lòng.
Chờ đến lúc Tư Mã Đạo Tử lui ra ngoài điện, Tư Mã Diệu xua hết cung nga thái giám hầu hạ ra, trong điện chỉ còn vua tôi hai người, cùng lính thị vệ coi cửa lớn phía xa xa, Tạ An thở dài một tiếng.
Tư Mã Diệu nhíu mày hỏi: “An công vì sao phải thở dài, Di Lặc giáo là chi phái Phật môn phương bắc, giáo nghĩa mới mẻ sâu sắc, chúng ta đối với các giáo phái luôn luôn có thái độ thoáng đạt bao dung, lần này xây dựng lại Di Lặc tự, kinh phí toàn là do thiện nam tín nữ quyên góp, không ảnh hưởng gì đến quốc khố, An công có thể yên tâm”.
Tạ An trở lại bình tĩnh, điềm đạm nói: “Kinh phí phải chăng do súc sinh Quốc Bảo mang lại?”.
Tư Mã Diệu hết sức ngạc nhiên, từ khi y biết Tạ An đến nay, chưa bao giờ nghe ông thóa mạ người khác, lần này lại kêu chính nữ tế của mình là súc sinh, có thể thấy trong lòng Tạ An chứa đầy lửa giận.
Mà con người xưa nay không dễ động nộ lại trước mặt mình là hoàng đế nổi xung như thế, càng khiến y hiểu rõ tình hình trầm trọng. Kỳ lạ là trong lòng y không hề giận dữ, chỉ có kinh sợ bất an.
Tư Mã Diệu phấn khởi tinh thần, lắc đầu nói: “Chuyện này do Lang Nha vương xử lý, trẫm không biết chi tiết”.
Tạ An lạnh lùng ngắm nhìn vị thiên tử nam Tấn, khiến y phát run trong lòng, từ từ nói: “Thiên hạ loạn lạc, lòng người hướng về đạo, từ cổ đã thế, trong lúc tuyệt vọng vì hiện thực, lại có thể chuyển sang truy tìm giải thoát tinh thần, để thoát khỏi hoàn cảnh, đó là chuyện thường của con người”.
“Thời Hán mạt loạn lạc, đạo giáo dị đoan bắt nguồn từ dân gian, cùng loạn dân kết hợp, mới sinh ra cái loạn Thái Bình đạo và Ngũ Đấu Mễ đạo, di họa đến nay vẫn chưa dứt, ảnh hưởng sâu rộng”.
“Xây thêm một ngôi chùa, xây bớt một ngôi chùa, vốn chẳng phải chuyện ghê gớm gì, bất quá nếu có quan hệ với Trúc Pháp Khánh, thì chuyện này vạn lần không được, xin Hoàng thượng thu hồi thánh mệnh”.
Tư Mã Diệu không vui nói: “Đại hoạt Di Lặc phật pháp cao thâm, sao có thể kể như cùng hạng với Tôn Ân mà bàn?”.
Tạ An mềm mỏng nói: “Hoàng thượng về việc trùng kiến Di Lặc tự có từng hỏi qua ý kiến một vị Phật môn đức cao vọng trọng như Chi Độn không?”.
Tư Mã Diệu không nghĩ Tạ An dám dồn ép mình đến mức này, phẫn nộ đáp: “Ai thị ai phi, trẫm tự biết phân biệt, nếu chuyện gì cũng hỏi người ngoài, còn làm sao trị vì quốc gia được?”.
Lời này nghiêm trọng phi thường, nếu Tạ An nhường lời nhỏ giọng, tức thời biến thành Tạ An hoài nghi năng lực của đương kim hoàng đế.
Tạ An khẽ mỉm cười nói: “Hoàng thượng anh minh, đương nhiên không ai dám nghi ngờ, chúng thần nhờ hồng phúc của Hoàng thượng, may mắn thu được thắng lợi ở Phì Thủy, nhưng không đủ sức thừa thắng thu phục bắc phương, càng phải thận trọng việc triều chính, không thể để kết quả thắng lợi biến thành hão huyền”.
“Trúc Pháp Khánh người này chẳng những là phản đồ Phật môn, mà dã tâm cực lớn, đối phó với đồng đạo Phật môn tàn bạo phi thường, nếu để hắn có chỗ đứng chân ở Kiến Khang, trước tiên sẽ xuất hiện tranh đấu kịch liệt trong nội bộ Phật môn, loạn từ trong ra, rất khó đề phòng, Hoàn Xung chết đi, Hoàn Huyền mang tâm mờ ám, phương nam còn có Tôn Ân thường xuyên nhòm ngó, thành ra cái họa từ trong gan ruột. Theo ý thần, một động không bằng một tĩnh, thỉnh Hoàng thượng suy xét”.
Tuy ông phản đối quan điểm của Tư Mã Diệu, nhưng nói năng hết sức uyển chuyển, đem mọi điều trong phạm vi này thống thiết phân tích lợi hại cho Tư Mã Diệu, nói lên toàn sự thực không thể chối cãi, cùng những tình huống tất nhiên phải xuất hiện.
Sự thực nhận thức của Tư Mã Diệu về Trúc Pháp Khánh, có một số là thông qua lời nói của Tư Mã Đạo Tử và Vương Quốc Bảo, ngoài ra cũng đã nghe người khác nói, cho nên đối với tác phong “Bất Thủ Thanh Quy”, cũng có điều không ưng ý, lúc này không cầm được trở nên do dự, nói: “Chuyện này để trẫm suy nghĩ đã”.
Tạ An khi nào chịu để y lại bàn bạc với Tư Mã Đạo Tử, lắc đầu nói: “Chuyện này đã truyền bá rộng rãi, khiến cho lòng dân hoang mang, nếu không lão thần đã không biết chuyện. Hoàng thượng nếu cho rằng lão thần còn đương nổi cái chức Trung thư lệnh này, xin Hoàng thượng lập tức quyết định, để lão thần lập tức công bố thiên hạ, ngừng việc xây dựng Di Lặc tự, buộc Trúc Bất Quy trở về bắc phương, như thế có thể dẹp yên sóng gió, nếu không đại Tấn nguy mất”.
Tư Mã Diệu chấn động nhìn Tạ An, ông này không một chút nhượng bộ nhìn trả.
Chú thích
1- Nấu nướng nơi đầu gió, năm dặm còn nghe mùi thơm.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn