PHỤC SINH
Chương 33
Hôm sau, vừa thức dậy là Nekhliudov đã cảm thấy ngay rằng vừa mới có chuyện gì đó xảy ra với mình; và ngay lúc chưa nhớ ra chuyện gì chàng đã biết rằng đó là một chuyện quan trọng và tốt đẹp. "Katiusa, toà án".
Đúng, và cần phải chấm dứt mọi trò lừa dối, cần phải nói đến toàn bộ sự thật. Và cũng vừa là một chuyện may mắn lạ lùng, sáng nay chàng nhận được bức thư mong đợi từ lâu, đúng bức thư mà chàng hiện đang cần hết sức: Maria Vaxilievna, vợ ông thống lĩnh quý tộc kia thuận để chàng được hoàn toàn tự do và chúc chàng hạnh phúc trong cuộc hôn nhân sắp tới.
- Hôn nhân? - Chàng nói chua chát. - Sao bây giờ chuyện ấy nó xa lạ với mình đến thế
Việc nói sự thật với Mitxi sáng nay, chàng cũng thấy khó khăn như thế. Chưa thể nói ngay được,vì thế là làm nhục người ta. Như trong rất nhiều quan hệ hàng ngày, đành cứ phải giữ nguyên tình trạng mập mờ hiểu ngầm thế thôi. Sáng nay, chàng chỉ quyết định được có một điều là sẽ không đến nhà Korsagin nữa và nếu họ có hỏi vì sao thì chàng sẽ nói hết sự thật.
Trái lại, trong quan hệ với Katiusa thì không thể có tình trạng mập mờ, phải dứt khoát, rõ ràng.
"Ta sẽ đến nhà tù nói với nàng, xin nàng tha thứ. Và nếu cần, đúng, nếu cần thì ta sẽ lấy nàng làm vợ", chàng nghĩ bụng.
Sáng nay, ý định sẵn sàng hy sinh tất cả và kết hôn với nàng để tinh thần được thoải mái đã kích động chàng mãnh liệt.
Đã lâu chưa có hôm nào chàng thấy mình có nghị lực như hôm nay. Thấy bà Agrafena Petrovna bước vào, chàng tuyên bố ngay với bà một cách quả quyết. Cái quả quyết mà chàng không ngờ mình có được - rằng chàng không cần chỗ ở nầy và không cần bà giúp việc nữa. Trước đây tuy không nói ra nhưng mọi người đều cho rằng chàng giữ mấy gian nhà rộng và sang trọng nầy là để cưới vợ. Thành thử việc từ bỏ mấy gian nhà đang ở có một ý nghĩa đặc biệt. Bà Agrafena Petrovna sửng sốt nhìn chàng.
- Tôi rất cảm ơn bà đã săn sóc giúp đỡ rất nhiều, bà Agrafena Petrovna ạ, nhưng bây giờ tôi không cần cái chỗ ở rộng đến thế nầy và cũng không cần nhiều người giúp việc nữa. Song, nếu bà còn muốn giúp đỡ tôi thì xin bà làm ơn trông coi nhà cửa và tạm xếp dọn đồ đạc hộ cho như lúc mẹ tôi còn sống. Rồi bao giờ chị Natasa tôi đến, chị ấy sẽ liệu sau. (Natasa là chị ruột Nekhliudov).
Bà Agrafena Petrovna lắc đầu.
- Thu xếp cái gì? Nhà cửa đồ đạc rồi cậu vẫn phải cần đến chứ. - Bà nói.
- Không, không cần nữa đâu, bà Agrafena Petrovna ạ chắc là tôi không cần đến nó nữa đâu, - Nekhliudov nói, chàng muốn đáp lại cái lắc đầu vừa rồi của bà. - Bà nói hộ với Korney rằng tôi sẽ trả trước anh ta hai tháng tiền công và từ nay tôi không cần anh ấy giúp việc nữa.
- Cậu làm thế không được đâu, cậu Dmitri Ivanovich, bà nói bằng một giọng trách móc. - Hừ, cậu ra nước ngoài thì ra, chứ nhà ở sau nầy vẫn cần đến.
- Bà nhầm rồi, bà Agrafena Petrovna ạ. Tôi không ra nước ngoài đâu; nếu có đi thì sẽ đi đến một nơi khác hẳn.
Mặt chàng bỗng đỏ bừng lên.
"Phải, cần nói toạc cho bà ấy biết, - chàng nghĩ bụng, chẳng có gì phải giấu giếm, phải nói hết sự thật với mọi người".
- Hôm qua tôi vừa gặp một chuyện hết sức lạ lùng và quan trọng. Bà còn nhớ Katiusa ở nhà cô Maria Ivanovna tôi không?
- Sao lại không, chính tôi dạy cô ấy khâu vá mà lại…
- Đấy hôm qua toà xử Katiusa đấy, và tôi lại làm bồi thẩm phiên toà.
- Trời ơi? - Khốn khổ thế thì thôi! - Bà Agrafena Petrovna nói. - Thế cô ấy bị xử về tội gì?
- Va tội giết người mà tất cả là do tôi gây ra.
Sao cậu lại gây ra những tội tình ấy được? - Cậu nói lạ quá! - bà Agrafena Petrovna nói và những đốm lửa tinh ranh lóe lên trong đôi mắt già lão của bà.
Bà biết rõ chuyện chàng với Katiusa.
- Đúng thế, chính tôi là nguyên nhân gây nên mọi chuyện. Chính vì thế mà những điều tôi dự định trước đều bị đảo lộn hết.
- Sao nó có thể làm đảo lộn công việc của cậu được? - Bà Agrafena Petrovna nói, cố giữ không mỉm cười.
- Chính tôi đã gây nên nông nỗi khiến cô ta đi vào con đường ấy thì tôi phải đem hết sức ra tìm mọi cách để cứu cô ấy.
- Đó là lòng tốt của cậu, chứ trong việc nầy cậu chẳng có lỗi gì ghê gớm cả. Ai mà chẳng có chuyện thế nầy thế khác, có điều là nếu biết suy nghĩ thì người ta sẽ sửa chữa được lỗi lầm rồi quên nó đi và sống như thường, - bà Agrafena Petrovna nói, giọng nghiêm nghị, đứng đắn - Còn cậu thì tội gì mà cứ mua việc vào mình. Tôi có nghe từ lâu rằng cô ấy đường thẳng không đi, lại đi đường queo, thế thì lỗi tại ai?
- Lỗi tại tôi. Chính vì thế mà tôi muốn chuộc lại.
- Hừ, không phải dễ mà chuộc lại được đâu.
- Đó là việc của tôi. Còn nếu bà có lo cho bà thì như mẹ tôi vẫn mong trước kia…
- Tôi không lo gì cho tôi cả. Hồi còn sống, bà đã ban ơn cho tôi rất nhiều, nên tôi không mong muốn gì hơn nữa. Cháu gái tôi, con Lizonka, đã lấy chồng, nó vẫn mời tôi đến ở với nó, bao giờ cậu không cần tôi nữa tôi sẽ đến ở với cháu. Có điều là cậu chuốc lấy cái việc ấy vào mình thì thật không đúng. Những chuyện ấy thì thiên hạ ai mà chả thế.
- Hừm, tôi thì tôi không nghĩ thế. Tôi vẫn xin bà giúp tôi cho thuê lại mấy căn nhà nầy cho người khác và thu dọn đồ đạc hộ tôi. Xin bà đừng giận. Tôi biết bà lo lắng cho tôi rất nhiều, tôi cảm ơn bà lắm lắm.
Thật là kỳ lạ: từ lúc Nekhliudov thấy chính mình là xấu xa và chính mình là đáng khinh ghét thì chàng không còn khinh ghét ai nữa. Trái lại, chàng còn thấy yêu mến và kính trọng bà Agrafena Petrovna và anh chàng Korney. Chàng muốn ngỏ lời xin lỗi Korney, nhưng anh ta lễ phép quá, nghiêm trang quá, chàng cứ dùng dằng không nói được.
Trên đường đến toà án, chàng cũng đi qua những phố xá ấy, cũng ngồi trên chiếc xe ngựa ấy, nhưng sao hôm nay chàng cảm thấy mình là một người khác hẳn, đến nỗi chím chàng cũng phải lấy làm lạ.
Việc kết hôn với Mitxi, mới hôm qua chàng thấy nó gần gũi là thế, mà hôm nay chàng lại thấy hoàn toàn không thể được. Hôm qua chàng còn thấy thật là sung sướng, không còn ngờ gì nữa; thế mà hôm nay chàng đã thấy chẳng những mình không xứng đáng lấy cô ta mà chỉ đến gần thôi cũng không xứng đáng. "Nếu cô ta biết mình là người thế nào thì nhất định cô ta không bao giờ thèm tiếp mình. Thế mà mình còn trách cô ta là hay làm đỏm với anh nào đó. Không, nếu như bây giờ biết rõ ta là người thế nào, cô ấy có thuận tình lấy ta đi nữa thì, chưa nói gì đến hạnh phúc, liệu ta có thể yên lòng khi biết rằng con người kia đang ở trong ấy, trong chốn lao tù, và chỉ mai kia là cùng đoàn phạm nhân phải qua hết chặng đường nầy đến chặng đường khác, để đi đến nơi đầy khổ sai không. Người đàn bà bị điêu đứng vì ta ấy chịu án khổ sai, còn ta ở đây để tiếp khách đến chúc mừng và cùng cô vợ trẻ đi thăm viếng chỗ nầy, chỗ khác. Hoặc cùng viên thống lĩnh quý tộc - đã bị ta cùng người vợ lừa dối hết sức đê hèn họp hội đồng để kiểm phiếu tán thành và phản đối luật lệ hiện hành về việc thanh tra các trường học của địa phương v.v…, sau đó lại hẹn hò gặp gỡ với vợ người ta (thật là khốn nạn?), hoặc sẽ vẽ tiếp bức tranh mà chắc chắn là không bao giờ hoàn thành được, bởi vì ta chẳng nên phí thì giờ làm những việc vớ vẩn đó, mà bây giờ cũng không thể làm những việc đó được nữa, - chàng tự nhủ và không ngừng vui sướng về sự biến chuyển trong lòng.
"Bây giờ, trước hết phải đến gặp trạng sư, - chàng nghĩ bụng, xem ông ấy định thế nào, rồi mới… rồi mới vào nhà tù gặp nàng và ngỏ hết mọi chuyện với nàng được".
Và chỉ mới hình dung đến lúc gặp nàng, nói hết đầu đuôi ngỏ lời hối hận về tội lỗi của mình, hứa với nàng sẽ làm tất cả những gì có thể làm được, sẽ lấy nàng làm vợ để chuộc lại lỗi lầm xưa, lòng chàng đã tràn ngập một niềm vui sướng vô biên và chàng rưng rưng nước mắt.
Chương 34
Đến toà án, ở ngoài hành lang, Nekhliudov gặp người mõ toà hôm qua, chàng hỏi y xem những tù nhân đã thành án hiện bị giam giữ ở đâu và ai là người có quyền cho phép gặp họ.
Người mõ toà cho biết tù nhân bị giam giữ ở nhiều chỗ và từ nay cho đến khi công bố án quyết, việc cho phép gặp họ là thuộc quyền quan chưởng lý.
- Vãn toà tôi sẽ nói để ngài rõ và sẽ dẫn ngài đi. Quan chưởng lý giờ cũng chưa có ở đây. Ngài để sau phiên xử. Còn bây giờ thì mời ngài vào dự. Phiên toà sắp bắt đầu đấy!
Sao hôm nay Nekhliudov cảm thấy người mõ toà có vẻ đáng thương thế. Chàng cảm ơn rồi đi tới phòng bồi thẩm.
Chàng vừa bước tới thì các bồi thẩm đang lục tục ở trong ra để sang phòng xử án. Cũng với cái vẻ tươi tỉnh ngày hôm qua và cũng như hôm qua, nhà thương gia đã ăn uống no say trước khi đến đây. Ông ta vồn vã chào hỏi Nekhliudov như chào hỏi một người bạn cũ. Và lúc nầy, thái độ suồng sã và tiếng cười khanh khách của Piotr Geraximovich không còn làm Nekhliudov khó chịu chút nào.
Nekhliudov muốn nói cho tất cả các bồi thẩm biết về quan hệ của chàng với nữ phạm nhân bị kết tội hôm qua.
Chàng nghĩ: "Lẽ ra hôm qua, lúc toà án xử, ta phải đứng dậy, công khai nói lên tội lỗi của mình mới phải". Nhưng đến khi chàng đã cùng các bồi thẩm vào trong phòng xử án và khi những thủ tục hôm qua lại bắt đầu tái diễn - lại "Toà thăng đường", lại bộ ba thẩm phán cổ áo thêu lên ngồi trên bục cao, lại im lặng, lại các bồi thẩm ngồi vào những chiếc ghế có lưng tựa cao, lại các tên hiến binh, bức ảnh Chúa, ông linh mục già, - thì chàng cảm thấy dù có bắt buộc phải làm, hôm qua chàng không đủ gan phá rối cái không khí trang nghiêm nầy.
Thủ tục tiến hành trước phiên toà cũng giống như hôm qua (trừ việc bắt các bồi thẩm tuyên thệ và bài nói của viên chánh án với các bồi thẩm là bỏ).
Hôm nay, toà xử một vụ ăn trộm có phá phách. Bị cáo do hai hiến binh gươm tuốt trần coi giữ, là một thanh niên hai mươi tuổi, gầy gò, vai hẹp, mặc áo tù màu xám, mặt tái nhợt. Anh ta ngồi một mình trên ghế bị cáo và đưa mắt lấm lét nhìn những người đang vào. Anh ta phạm tội đã cùng một người bạn bẻ khoá một nhà kho và ăn trộm mấy tấm thảm chùi chân cũ rích, trị giá ba rúp sáu mươi bảy kopeik. Bản cáo trạng có ghi rõ anh ta bị cảnh sát bắt giữ lúc đang đi với bạn, người bạn nầy vác mấy tấm thảm trên vai. Cả hai cùng nhận tội ngay và đều bị tống giam. Bạn anh ta là thợ nguội, đã chết trong tù.
Thế là người ta đem một mình anh ra xử. Mấy tấm thảm cũ nằm trên bàn tang vật. Việc xét xử lại diễn ra đúng như hôm qua, cũng có tất cả một loạt đầy đủ nào là bằng chứng, tang vật nhân chứng, tuyên thệ, hỏi cung, giám định, chất vấn. Khi nghe chánh án, chưởng lý, trạng sư bào chữa hỏi, viên cảnh sát nhân chứng cứ đờ đẫn trả lời nhát gừng "Đúng thế ạ", "tôi không biết" - và rồi lại "Đúng thế!"… Mặc dầu anh ta có cái vẻ đần độn, máy móc của con nhà binh, nhưng ai cung thấy rõ là anh ta thương hại bị cáo và miễn cưỡng phải kể lại việc mình đã bắt được thủ phạm như thế nào.
Nhân chứng thứ hai là một cụ già bé nhỏ, khổ chủ, chủ nhà và chủ những tấm thảm bị mất trộm. Rõ ràng ông cụ người bẳn tính, khi người ta hỏi cụ có nhận những tấm thảm ấy là của cụ không thì cụ nhận một cách miễn cưỡng. Khi phó chưởng lý vừa bắt đầu hỏi xem cụ định dùng những tấm thảm ấy làm gì, cụ có cần đến những tấm thảm ấy lắm không thì cụ nổi cáu và trả lời:
- Đem mà vứt những tấm thảm của nợ ấy đi cho rảnh! Lão không cần gì đến chúng hết. Nếu biết xẩy ra lắm chuyện phiền phức thế nầy thì lão chẳng hơi đâu đi trình báo làm gì. Giá có phải bù thêm vào đấy một tờ giấy bạc đỏ hay hai tờ đi nữa mà khỏi bị đòi hỏi đi lại thế nầy thì lão cũng xin bù. Chỉ riêng tiền xe cũng đã mất gần hai trăm rúp rồi. Mà lão lại đang ốm, vừa bị sa đì, vừa bị tê thấp.
Các nhân chứng thì nói như vậy. Còn chính bị cáo cũng đã thú nhận cả. Anh ta như một con thú bị bắt sống, ngơ ngác nhìn khắp xung quanh rồi ngập ngừng kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Sự việc đã rõ như ban ngày, nhưng cũng giống như hôm qua, phó chưởng lý lại nhún vai, đề ra những câu hỏi cực kỳ tế nhị, nhằm đưa tội phạm xảo quyệt kia vào tròng.
Trong lời buộc tội, hắn chứng minh rằng vụ trộm nầy diễn ra có phá phách và tại nhà có người ở. Vì thế cần trừng trị gã thanh niên nầy thật nặng.
Trạng sư bào chữa do toà cử ra cãi rằng vụ trộm nầy không xảy ra tại nhà có người ở, vì thế mặc dù tội đã rõ, bị can không đến nỗi nguy hiểm cho xã hội như ông phó chưởng lý quyết đoán.
Cũng lại như hôm qua, lão chánh án làm ra vẻ vô tư và công bằng. Lão giảng giải tỉ mỉ và dặn dò các bồi thẩm những điều mà họ đã biết hoặc không thể không biết.
Rồi lại cũng nghỉ giải lao như hôm qua, cũng hút thuốc, cũng viên mõ toà hô to "Toà thăng đường" và cũng hai tên hiến binh như hôm qua, cố gắng không ngủ gật, ngồi cầm gươm tuốt trẩn (đe doạ tội nhân).
Qua hồ sơ thấy rõ anh thanh niên kia được bố xin cho vào làm chân sai vặt ở một xưởng thuốc lá và anh ta đã sống ở đó năm năm. Năm nay, sau một vụ rắc rối xảy ra giữa chủ với thợ, anh bị đuổi. Mất việc, anh lang thang khắp thành phố, có đồng nào uống rượu sạch. Ở quán rượu, anh đánh bạn với một người thợ nguội cũng thất nghiệp như anh, mà còn thất nghiệp trước nữa lâu hơn, và cũng hay say rượu. Một đêm hai người say khướt, bẻ khoá nhà người ta vào vớ được cái gì thì lấy cái ấy. Cả hai bị bắt và đã thú nhận tất cả. Bị nhốt vào ngục, anh thợ nguội chết trong khi chờ ra toà. Còn anh nầy hiện đang bị toà xét xử và bị coi như một kẻ nguy hiểm cần phải trừ đi cho xã hội.
Nghe tất cả những điều đó, Nekhliudov nghĩ: Cũng nguy hiểm như nữ tội nhân hôm qua. Họ nguy hiểm, còn chúng ta thì không nguy hiểm ư? Như ta, một kẻ dâm dật, truỵ lạc, một tên lừa bịp, thế mà tất cả những ai biết ta, thấy ta như thế nầy, không những không khinh bỉ mà còn kính trọng ta nữa? Nhưng dù trong số những người có mặt trong gian phòng nầy, gã thanh niên kia có là kẻ nguy hiểm nhất cho xã hội đi nữa, thì theo lương tri, ta phải làm gì khi đã bắt được anh ta?
Thật rõ ràng anh ta không phải là một kẻ phạm tội đại gian, đại ác mà chỉ là một người rất bình thường, điều đó mọi người đều thấy. Và ai cũng rõ là anh ta sa ngã như bây giờ chỉ vì anh ta đã sống trong hoàn cảnh tạo nên những con người như vậy. Bởi thế cho nên ai cũng thấy rõ là muốn cho không còn có những thanh niên như vậy nữa, thì trước hết phải thủ tiêu những hoàn cảnh tạo nên những con người bất hạnh ấy đi.
Vậy mà chúng ta làm gì? Chúng ta tóm lấy gã thanh niên nầy do tình cờ đã sa vào tay chúng ta, trong khi chúng ta thừa biết có hàng ngàn người phạm tội như anh ta mà không bị bắt; rồi chúng ta phải bỏ anh ta vào tù đặt anh ta trong điều kiện hoàn toàn vô công rồi nghề, hoặc bắt anh ta làm những việc cực kỳ ngu xuẩn, có hại chỏ sức khỏe, bắt anh ta chung sống với những người cũng đã suy nhược và lầm lỗi trong cuộc đời như anh ta, rồi sau đó lại muốn làm tốn tiền công quỹ, đưa anh ta đi đày từ Moskva đến Irkusk, cùng những kẻ hư hỏng nhất đời.
Không những chúng ta không làm gì để thủ tiêu các điều kiện tạo nên những con người như thế mà chúng ta lại còn khuyến khích những cái lò đào tạo ra họ. Ai nấy đều biết đó là những xưởng máy, những xí nghiệp, những xưởng sửa chữa, những quán rượu, những tiệm ăn, những nhà chứa. Chẳng những chúng ta không triệt hết đi mà chúng ta còn cho là cần phải có và khuyến khích giúp đỡ cho những tổ chức ấy hoạt động đều đặn nữa.
Như vậy chúng ta tạo ra, không phải một mà hàng triệu người rồi sau đó lại đi tóm cổ một người và tưởng như thế là làm được một cái gì đó, đã bảo vệ được cho mình và, chẳng cần phải làm gì thêm nữa, chúng ta điệu người ấy đi từ Moskva đến Irkusk, - ý nghĩ của Nekhliudov lúc nầy rất sôi nổi và minh mẫn; ngồi cạnh viên đại tá, chàng nghe đủ các giọng của trạng sư, chưởng lý và chánh án nhìn những cử chỉ đầy tự tin của họ. - Mà cái trò hề nầy tốn biết bao nhiêu công sức? - Nekhliudov tiếp tục suy nghl, mắt ngắm nghía gian phòng rộng lớn, những bức chân dung, những ngọn đèn, những chiếc ghế bành, những bộ quần áo, những bức tường dầy, những khung cửa sổ, chàng nghĩ đến vẻ đồ sộ của toà nhà nầy và đến vẻ đồ sộ còn to gấp đôi của cả ban tổ chức nầy, đến toàn bộ đoàn quân viên chức, quan lại, thư ký, lính canh, tuỳ phái, không phải chỉ ở đây mà trên khắp đất nước Nga, cả bọn đó đều ăn lương để diễn cái tấn hài kịch không ai cần đến ấy. - Ừ, giá mà chúng ta đem dùng một phần trăm những công sức đó để giúp đỡ những người bị bỏ rơi nầy. Những con người mà chúng ta hiện đang chỉ coi như những cánh tay những tấm thân cần thiết cho cuộc sống yên ổn sung túc của chúng ta thôi. - Nhìn khuôn mặt ốm yếu, sợ sệt của anh thanh niên, Nekhliudov ngẫm nghĩ: Vì nghèo đói anh ta phải bỏ quê ra tỉnh, nếu ngay từ lúc ấy có được một người thương hại và cưu mang, hoặc là khi anh ta đã ở tỉnh rồi, sau mười hai giờ làm việc ở công xưởng, giá như lúc anh ta bị bè bạn lớn tuổi rủ rê đến quán rượu mà có được một người khuyên bảo: "Vania nầy, đừng đi! Không nên đâu!" thì anh ta sẽ không đi nữa, sẽ không la cà, tán gẫu và không làm gì bậy bạ cả.
Nhưng suốt mấy năm trời học việc ở tỉnh, có ai thương hại anh ta đâu; anh ta sống như một con vật, đầu cạo trọc lốc cho khỏi làm ổ chấy, chạy đi mua vặt cho các ông thợ cả. Trái lại, suốt thời gian ấy, anh ta chỉ nghe và thấy ở những người nầy và bạn bè có một điều là kẻ nào biết lừa bịp, uống rượu chửi bới, đánh nhau, chơi bời truỵ lạc mới là người giỏi giang. Thế rồi đến khi anh ta bệnh tật kiệt sức vì làm lụng quá sức, đến khi rượu chè và truỵ lạc đã làm anh ta u mê, ám chường, đi lang thang vớ vẩn khắp thành phố, rồi đến khi chỉ vì ngu ngốc anh ta chui vào một cái kho, lấy mấy cái thảm chùi chân cũ rích thì chúng ta, toàn những người giàu có, phong lưu, có học thức, chúng ta đã không tìm cách diệt trừ cho hết những nguyên nhân đưa người thanh niên ấy đến tình trạng hiện nay, chúng ta lại tưởng là uốn nắn chấn chỉnh tình hình bằng cách trừng trị anh ta.
Thật là kinh khủng? Không biết rằng ở đây, cái tàn nhẫn và cái vô lý, cái nào nhiều hơn. Có lẽ cả hai đều đã tới mức độ tột cùng.
Nekhliudov mải suy nghĩ, không chú ý đến việc đang diễn ra trước mắt. Chàng thấy hãi hùng về cái điều vừa khám phá ra. Chàng lấy làm lạ sao trước đây người khác cũng không nhìn thấy được điều đó.
Chương 35
Vừa bắt đầu giờ nghỉ giải lao thứ nhất, Nekhliudov đã đứng dậy và ra hành lang, định sẽ không quay lại phòng xử án nữa. Mặc người ta muốn làm gì anh thanh niên kia thì làm, chứ chàng không thể tham dự vào cái việc ngu xuẩn xấu xa khủng khiếp ấy được nữa.
Hỏi được chỗ phòng làm việc của chưởng lý, Nekhliudov bèn đến đấy. Không muốn cho chàng vào, người tuỳ phái bảo quan chưởng lý đang bận. Nhưng chàng không để ý tới lời người ấy nói cứ bước qua cửa.
Chàng nhờ người viên chức ra tiếp vào trình với quan chưởng lý rằng chàng là một bồi thẩm có việc rất cần gặp ngài. Danh hiệu công tước và bộ quần áo sang trọng đã giúp Nekhliudov. Người vào trình báo với viên chưởng lý và cho Nekhliudov vào. Bực tức vì chàng đã cố đòi gặp bằng được, viên chưởng lý cứ đứng mà tiếp Nekhliudov.
- Ông cần gì? - Viên chưởng lý nghiêm nghị hỏi.
- Tôi là bồi thẩm, tên là Nekhliudov, tôi cần gặp bị can Maxlova, - chàng nói nhanh, vẻ quả quyết. Mặt chàng nóng bừng và chàng cảm thấy mình đang làm một việc có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời mình.
Viên chưởng lý người thấp bé, da ngăm đen, tóc hoa râm cắt ngắn, đôi mắt sáng tinh nhanh, chòm râu rậm mới tỉa quanh cái cằm nhô ra.
- Maxlova à, tôi biết, phạm tội đầu độc, - viên chưởng lý thản nhiên nói. - Ông cần gặp cô ta làm gì? - Và rồi muốn cho có vẻ ôn hoà, ông ta nói tiếp - Chưa biết ông cần gặp làm gì tôi chưa thể cho phép được.
- Tôi cần gặp vì một điều rất hệ trọng đối với tôi, - Nekhliudov đỏ bừng mặt, nói.
- À ra vậy, - viên chưởng lý nói, ngước mắt lên, chăm chú nhìn Nekhliudov. - Việc đã xử hay chưa xử?
- Hôm qua cô ấy đã ra toà và bị kết án bốn năm khổ sai, hoàn toàn oan. Cô ấy không có tội.
- À ra thế. Nếu như mới bị kết án hôm qua, - viên chưởng lý nói không hề để ý đến lời Nekhliudov bảo nàng rằng có tội thì từ nay đến khi chính thức công bố án quyết phạm nhân ở trại tạm giam. Ở đấy người ta chỉ cho phép đến thăm vào những ngày quy định. Tôi khuyên cô nên đến thẳng đấy mà xin.
- Nhưng tôi cần gặp cô ấy ngay, sớm lúc nào hay lúc ấy - Nekhliudov nói. Hàm dưới chàng run lên chàng cảm thấy đã sắp tới phút quyết định.
- Ông cần gặp làm gì? - Viên chưởng lý hỏi, đôi hàng lông mày y rướn lên, có vẻ nghi ngại.
- Vì cô ấy vô tội mà lại bị tù khổ sai. Chính tôi có tội.
Nekhliudov nói giọng run run. Giữa lúc ấy, chàng cảm thấy như mình vừa chót nói một điều lẽ ra không nên nói.
- Sao lại thế? - viên chưởng lý hỏi.
- Vì tôi đã lừa cô ấy và đẩy cô ấy đến tình trạng hiện nay. Nếu không, cô ấy đã không bị kết tội như vậy.
- Dù sao thì tôi cũng không thấy có liên quan đến việc gặp gỡ nầy.
- Có chứ, vì tôi muốn đi theo cô ấy và… lấy cô ấy - Nekhliudov nói. Và cũng như mọi lần, cứ nói đến điều đó nước mắt chàng lại trào ra.
- Thật à? Ra thế, - viên chưởng lý nói. - Đây là một trường hợp thật kỳ dị và rất đặc biệt. Hình như ông là hội viên hội đông dân cử huyện Kraxnopes phải không?
Viên chưởng lý hỏi, dường như chợt nhớ ra trước đây đã nghe thấy nói đến Nekhliudov, con người ấy hiện vừa cho y biết một quyết định kỳ khôi như thế.
- Xin lỗi ngài, tôi nghĩ điều đó không liên quan gì đến việc tôi thỉnh cầu cả, - Nekhliudov đỏ mặt lên, trả lời vẻ tức giận.
- Tất nhiên là không - viên chưởng lý khẽ nhếch mép, mỉm cười không thấy mảy may xao xuyến. - Nhưng lời thỉnh cầu của ông quá khác thường nó vượt ngoài khuôn khổ thông thường đến nỗi…
- Thế nào, tôi được phép chứ?
- Phép à? Vâng tôi sẽ đưa ông giấy vào cửa ngay bây giờ… ông chịu khó ngồi đợi một chút.
Ông ta đến gần bàn, ngồi xuống viết.
- Xin mời ông ngồi.
Nekhliudov vẫn đứng.
Viết xong, viên chưởng lý trao tờ giấy phép cho Nekhliudov và tò mò nhìn chàng. Nekhliudov nói:
- Tôi còn cần báo để ngài rõ là tôi không thể tiếp tục tham gia làm bồi thẩm các phiên toà được nữa.
- Trường hợp vậy, hẳn ông ta đã biết, ông phải trình bày lý do chính đáng để Toà xét.
- Lý do là tôi thấy mọi điều xét xử của Toà án đều không những vô ích mà còn trái với đạo lý nữa.
- À ra thế, - viên chưởng lý mỉm cười, vẫn cái kiểu chỉ mới nhếch mép, như muốn tỏ ra rằng ông ta đã quen nghe những lời như vậy rồi những lời lẽ thuộc loại ngộ nghĩnh mà ông ta đã từng thấy. - Thôi được. Nhưng chắc ông cũng hiểu, tôi là chưởng lý của Toà án nên không thể đồng ý với ông được. Và vì thế tôi khuyên ông nên trình bày ý kiến ấy với Toà và Toà sẽ xem xét ý kiến của ông có chính đáng hay không; và nếu không chính đáng, Toà sẽ phạt ông. Mời ông đến nói với Toà.
- Tôi đã báo với ngài và thế là đủ, tôi sẽ không đi đâu nữa, - Nekhliudov bực tức nói.
- Xin kính chào ông, - viên chưởng lý cúi đầu nói rõ ràng muốn tống cái ông khách kỳ quái nầy đi.
- Ngài vừa tiếp ai đấy? - Giây lát sau, một viên thẩm phán vào hỏi; người nầy lúc đến phòng làm việc của chưởng lý gặp Nekhliudov đi ra.
- Ông Nekhliudov đấy, người mà từ hồi còn ở huyện Kraxnopes, ở hội đồng dân cử địa phương, vẫn hay có đủ những ý kiến lạ đời ấy mà. Ông tính, ông ta là bồi thẩm và vừa rồi trong số bị can có một người đàn bà hay một cô gái nào đó bị kết án khổ sai, ông ta nói ông ta đã lừa người nầy và bây giờ đây, ông ta muốn lấy người ta làm vợ.
- Sao lại có thể thế được nhỉ?
- Chính ông ta vừa nói với tôi như thế đấy! Và ông ta bị xúc động lại.
- Có cái gì ấy thật. Trong đầu óc bọn trẻ ngày nay, hình như có cái gì không bình thường!
- Nhưng ông ta có còn trẻ lắm đâu.
- À mà ông ạ, anh chàng Ivasenkov lừng danh của ông làm người ta đến phát ngấy đấy. Hắn kể lể con cà con kê, lải nhải mãi không chịu thôi cho.
- Những người ấy cần ngắt lời ngay không có sẽ thành những kẻ phá quấy thật sự…
Chương 36
Từ giã viên trưởng lý, Nekhliudov đi thẳng đến nhà tạm giam. Nhưng không có ai là Maxlova ở đây cả. Viên giám mục bảo Nekhliudov là chắc nàng ở ngôi nhà cũ giam tù phát vãng. Nekhliudov bên đi tới đó.
Ekaterina Maxlova ở đấy thật.
Viên chưởng lý quên mất là sáu tháng trước đây, sở hiến binh bày ra một vụ án chính trị và kích lên thật to khiến trại tạm giam chật ních những sinh viên, thầy thuốc, công nhân, nữ học sinh trung học và nữ y sĩ. Trại tạm giam cách trại giam tù phát vãng khá xa nên mãi gần tối Nekhliudov mới tới nơi. Chàng đang định bước vào cửa ngôi nhà âm u to lớn nọ thì tên lính gác không cho vào mà chỉ bấm chuông gọi. Nghe tiếng chuông, một cai ngục ra. Nekhliudov đưa giấy phép vào cửa, nhưng viên cai ngục trả lời là phải có phép của giám ngục mới được vào. Nekhliudov đến gặp giám ngục. Còn đang bước trên bậc hành lang đã nghe thấy lọt ra từ sau nách cửa tiếng đàn dương cầm xa xa, khúc nhạc nghe hùng tráng, phức tạp. Khi người hầu gái, mắt bịt một bên, vẻ cáu kỷnh, ra mở cửa thì tiếng nhạc như từ trong phòng ùa ra đáp mạnh vào tai chàng. Đó là bản "Khúc cuồng tưởng" của Lizt (1) mọi người đã từng nghe chán cả rồi: tiếng dàn đánh rất hay, nhưng có cái lạ là chỉ tấu đến có một chỗ nhất định thôi. Cứ đến chỗ đó lại nhắc lại đoạn đầu như cũ. Nekhliudov hỏi ông giám mục có nhà không. Người hầu gái bảo không.
- Ông ấy sắp về chưa?
"Khúc cuồng tưởng" lại ngừng và trở về đoạn cũ, rộn ràng, thánh thót cho tới cái chỗ quen thuộc thì lại thôi.
- Để tôi hỏi xem sao.
Và người hầu gái quay vào.
Khúc nhạc vừa mới bắt đầu lại thì bỗng nhiên chưa đến cái chỗ quen thuộc đã ngừng bặt. Có tiếng nói vọng ra:
- Bảo người ta là ông không có nhà và nội ngày hôm nay không về được. Ông còn đi thăm bạn. Sao mà người ta cứ quấy rầy thế, - có tiếng người phụ nữ ở sau cánh cửa nói vọng ra. Sau đó lại thấy tiếng dạo bản đàn nọ.
Nhưng tiếng đàn lại dừng lại và có tiếng xê dịch ghế.
Chắc hẳn người phụ nữ chơi dương cầm ấy bực tức muốn tự thân ra trách người khách quấy rầy, đến không phải lúc.
- Cha tôi không có nhà, - một thiếu nữ bước ra, cáu kỷnh nói. Người con gái trông thảm hại, xanh xao, đầu tóc rối bù, đôi mắt thâm quầng, buồn nản. Nhác thấy khách là một người đàn ông trẻ, mặc chiếc áo khoác choàng sang trọng, cô ta dịu giọng. - Xin mời ông vào. Ông cần hỏi gì ạ?
- Tôi cần xin phép gặp một nữ tù nhân giam trong ngục.
- Chắc là tù chính trị?
- Không không phải tù chính trị. Tôi có giấy phép của ông chưởng lý.
- Ồ tôi không rõ đâu. Cha tôi đi vắng. Nhưng xin mời ông cứ vào. - Cô ta đứng ở phòng ngoài nhỏ hẹp, mời chàng lần nữa. - Nếu không xin mời ông đến nói với ông phó giám ngục. Ông ấy đang ở văn phòng. Xin ông cho biết quý danh là gì ạ.
- Xin cảm ơn cô, - Nekhliudov nói, không trả lời câu cô ta hỏi và đi ra.
Chàng vừa ra, cửa chưa kịp đóng thì những tiếng nhạc vui vẻ rộn ràng lúc trước lại vang lên. Những tiếng nhạc ấy không hợp chút nào với người con gái đáng thương kia đang cắm đầu luyện tập thật công phu. Ra đến sân, Nekhliudov gặp một sĩ quan trẻ có bộ ria mép vuốt sáp uốn vểnh lên; chàng hỏi thăm chỗ ở viên phó giám ngục. Lại chính người ấy là phó giám ngục. Y cầm giấy xem qua và nói rằng đây là giấy phép vào trại tạm giam nên y không thể cho vào được. Vả lại cũng muộn rồi!
- Sáng mai, mời ông đến. Mai mười giờ là giờ vào thăm tự do ông cứ đến đây, ông giám mục cũng sẽ có nhà. Mai ông có thể gặp tù nhân ở phòng công cộng, mà nếu ông giám mục cho phép thì sẽ gặp riêng ở văn phòng được.
Thế là ngày hôm ấy không gặp được. Nekhliudov trở về nhà. Chàng đi trên đường phố, nghĩ đến việc sắp gặp mặt nàng, lòng những nao nao. Bây giờ chàng nhớ lại, không phải những công việc ở toà án, mà là nhớ lại những lời đã nói với chưởng lý và mấy người coi ngục. Việc chàng tìm cách gặp nàng, việc chàng nói ý định của mình với chưởng lý, việc chàng đã đến hai nhà giam tìm gặp nàng, tất cả những điều đó khiến chàng bồn chồn mãi, không sao bình tĩnh lại được: Về đến nhà chàng lập tức lôi cuốn nhật ký đã từ lâu không mó đến ra, đọc lại một vài đoạn ở trong rồi viết tiếp như sau:.
"Hai năm nay ta không ghi nhật ký và tưởng rằng không bao giờ còn quay lại cái trò trẻ con nầy nữa. Nhưng đâu phải là trò trẻ con, mà là câu chuyện tự nói với mình, với cái "ta" chân chính, thiêng liêng nằm trong mỗi con người Suốt thời gian qua, cái "ta" ấy đã ngủ và mình không có ai để trò chuyện cả. Bỗng có sự bất ngờ xẩy ra từ ngày hai mươi tám tháng tư, hôm mình làm bồi thẩm ở toà án, đã đánh thức cái "ta" ấy dậy. Mình nhìn thấy nàng ngồi trên ghế bị cáo, thấy Katiusa, - người đã bị mình lừa dối, - mặc áo tù. Chỉ vì một sự sơ ý lạ lùng và do lỗi tại mình mà nàng bị kết án khổ sai. Hôm nay, mình đến gặp trưởng lý và đến nhà giam. Họ chưa cho mình vào gặp, nhưng mình sẽ làm mọi cách để được gặp nàng, ăn năn tội lỗi với nàng và dù có phải cưới nàng để đền tội, mình cũng sẵn sàng. Lạy chúa! Xin người giúp đỡ con! Con thấy lúc nầy tâm hồn rất thanh thoát vui mừng.
Chú thích:
(1) Lizt (1811-1886): Nhạc sĩ Hungary
Chương 37
Đêm hôm đó, Maxlova mãi không ngủ được. Nàng nằm, mắt mở nhìn ra cái khung cửa chốc chốc lại bị ả con gái người phụ lễ nhà thờ đi qua đi lại che lấp, tai lắng nghe tiếng ả tóc hung khụt khịt, nàng suy nghĩ.
Nàng nghĩ, khi đến Sakhalin, nàng sẽ không đời nào chịu lấy một anh tù khổ sai mà sẽ thu xếp cách khác, lấy một người có chức vị: một thư ký hoặc một cai ngục, không thì một anh gác ngục nào đó. Bọn nầy ai mà chẳng ao ước lấy được nàng, nhưng phải giữ khỏi gầy đi mới được. Nếu không thì hỏng cả.
Và nàng nhớ lại viên thầy cãi, lão chánh án đã nhìn nàng ra sao và những người cố ý đến cạnh nàng và gặp nàng ở toà án đã nhìn nàng thế nào. Nàng nhớ lại lời con Berta hôm vào thăm. Nó kể cho nàng biết anh chàng sinh viên mà nàng yêu hồi nàng ở nhà bà Kataieva, có đến hỏi thăm tin tức về nàng và rất thương hại nàng. Nàng nhớ lại cuộc ẩu đả với ả tóc hung và động lòng thương nó. Nhớ đến lão chủ hiệu bánh đã gửi cho nàng thêm một chiếc kalasơ. Nàng nhớ lại nhiều người, nhưng chỉ riêng chỉ có Nekhliudov là nàng không nhớ tới. Nàng không bao gíờ gợi nhớ lại thời ấu và niên thiếu của mình, và đặc biệt không hề nhớ lại mối tình với Nekhliudov. Đó là những kỷ niệm quá đau thương nàng đã vùi sâu chôn chặt trong tâm khảm để không bao giờ cố nhớ lại. Ngay trong giấc mộng, nàng cũng chưa bao giờ mơ thấy Nekhliudov. Hôm nay ra toà, nàng không nhận ra chàng, không phải vì bây giờ chàng đã là một người trung niên để râu, khác hẳn khi nàng gặp lần cuối cùng, - bấy giờ chàng mặc quân phục, chưa có râu, chỉ có hàng ria mép nhỏ và có làn tóc quăn ngắn nhưng dày, - mà chính vì nàng chẳng hề bao giờ nghĩ đến chàng nữa. Nàng đã chôn vùi tất cả những kỷ niệm cũ dính lýu với chàng vào cái đêm tối đen khủng khiếp ấy, cái đêm chàng ở mặt trận về nhưng không tạt vào thăm các bà cô.
Cho đến tận trước đêm hôm đó, và trong khi còn hy vọng Nekhliudov sẽ tới thăm thì nàng chẳng những không hề thấy lo buồn vì đứa con nằm trong bụng, áp dưới trái tim mình, mà còn bồi hồi cảm động mỗi khi thấy cái thai cựa quậy nhẹ, đôi khi hơi mạnh, trong bụng mình. Nhưng từ cái đêm ấy, sự thể đã thay đổi hẳn! Đứa con sắp ra đời chỉ là một mối luỵ cho nàng mà thôi.
Các bà cô Nekhliudov mong đợi chàng. Hai bà có mời chàng rẽ vào chơi, nhưng vì chàng đánh điện trả lời không vào được vì phải kịp có mặt ở Petersburg đúng hẹn. Khi Katiusa biết tin đó, nàng quyết định ra ga gặp chàng.
Đoàn tàu sẽ đi qua ga lúc hai giờ đêm, sau khi đã thu xếp cho các bà chủ ngủ xong, Katiusa rủ một em bé là Maska, con gái bác đầu bếp, cùng đi. Nàng đi đôi ủng cũ, trùm khăn kín, lẻn chạy ra ga.
Đêm mùa thu tối đen, mưa gió. Lúc thì mưa mau, tạt những hạt to âm ấm, lúc thì lại lạnh. Ngoài đồng mờ mịt không thấy rõ đường đi dưới chân, trong rừng tối om như trong hầm. Katiusa thuộc đường là thế mà vẫn suýt nữa thì lạc, lanh quanh mãi không đến được sớm như ý muốn, mãi tới hồi chuông báo thứ hai mới tới được nhà ga. Tàu chỉ đỗ ở đấy có ba phút. Chạy lên đến sân ga, Katerina Alekxeyevna nhìn thấy chàng ở ngay trong cửa sổ toa hạng nhất. Trong ba toa sáng trưng. Trên ghế đệm bọc nhung, hai sĩ quan không mặc áo ngoài, ngồi đối diện nhau đánh bài. Mấy ngọn nến to đang cháy trên chiếc bàn con cạnh cửa sổ. Chàng mặc quần đi ngựa hẹp ống và áo lót trắng, ngồi trên tay ghế, tì khuỷu tay vào lưng ghế, đang cười về chuyện gì đó. Vừa nhận ra chàng, nàng đập bàn tay lạnh cóng vào cửa sổ. Đúng lúc đó, hồi chuông thứ ba vang lên và đoàn tàu từ từ chuyển bánh; mới đầu nó lùi lại, sau đó các toa nối tiếp nhau giật mạnh vă lần lượt chuyển bánh về phía trước. Một trong hai sĩ quan chơi bài, tay vẫn cầm bài, đứng dậy nhìn qua cửa sổ. Nàng lại gõ một lần nữa và áp mặt vào kính cửa.
Đúng lúc ấy cái toa mà nàng đang đứng cạnh cũng giật mạnh một cái và chuyển bánh. Nàng đi theo toa tàu, mắt vẫn dán vào cửa sổ. Viên sĩ quan vẫn định hạ tấm xuống nhưng không sao hạ được. Nekhliudov đứng dậy, đẩy viên sĩ quan ra và hạ tấm cửa xuống. Tàu chạy mau hơn, nàng bước nhanh, cố không chịu tụt lại, nhưng tàu mỗi lúc chạy một nanh hơn. Và đúng lúc cánh cửa sổ tụt hẳn xuống thì người nhân viên xe lửa đẩy nàng ra rồi nhảy lên toa tàu. Katiusa tụt lại sau, nhưng vẫn chạy theo trên sàn ván sân ga ướt đẫm.
Khi chạy đến hết sân ga, nàng phải cố sức ghìm lại khỏi ngã và tiếp tục chạy theo bậc thang từ sàn ván xuống đất. Nàng vẫn chạy, nhưng toa hạng nhất đã đi xa rồi.
Cạnh nàng là các toa hạng nhì và sau đó đến các toa hạng ba còn chạy nhanh hơn. Nhưng nàng vẫn chạy.
Khi toa cuối cùng có ngọn đèn đỏ đằng sau đã chạy qua mất thì Katiusa đã đến quá nhà bơm nước, giữa đồng không mông quạnh, gió lộng táp vào nàng, giật tung chiếc khăn trên đầu, thổi vạt váy tạt dán vào chân. Gió đã cuốn mất chiếc khăn mà nàng vẫn còn chạy mãi.
Cô Mikhailovna ơi? - Em bé gái kêu to, nó vẫn cố chạy theo nàng, - khăn cô rơi mất rồi.
"Chàng ở trên toa tàu sáng trưng, ngồi trên ghế đệm nhung, cười đùa uống rượu, còn mình thì đứng khóc ở đây trong bùn lầy, giữa đêm tối tăm mưa gió" Katiusa đứng lại và ngửa đầu ra đằng sau; hai tay ôm chạt lấy đầu nức nở khóc.
- Đi mất rồi! - Nàng hét lên.
Em gái nhỏ sợ hãi, ôm lấy nàng, áp mình vào vạt áo dài ướt đẫm.
- Cô ơi đi về đi!
"Đợi đoàn tàu sau đến, ta lao xuống dưới bánh xe cho rảnh" - Katiusa ngẫm nghĩ, không trả lời em bé.
Nàng định bụng nhất quyết sẽ làm như thế. Nhưng đúng lúc ấy, như bao giờ cũng vậy, ngay sau cơn xúc động vừa dịu đi, cái bào thai, con của chàng, trong bụng nàng bỗng cựa quậy, đạp và duỗi ra một cách thoải mái, rồi lại đạp bằng một cái gì nhỏ nhắn, mềm mại, nhọn đầu và bỗng nhiên, trong chốc lát, tất cả những nỗi làm nàng đau đớn đến mức tưởng không thể nào sống nổi: nàng oán hận chàng, ý định tự tận để báo thù, - tất cả những nỗi niềm đó bỗng nhiên tan đi hết. Nàng bình tĩnh lại, sửa quần áo, lấy khăn bịt đầu và vội vã trở về nhà.
Về đến nhà, nàng mệt lử, người lấm láp và ướt đẫm.
Và từ hôm đó, trong tâm hồn nàng đi dần đến nông nỗi ngày nay. Từ cái đêm khủng khiếp ấy, nàng không còn tin ở điều thiện nữa. Trước kia; nàng vốn vẫn tin vào cái thiện và nghĩ rằng mọi người ai cũng tin vào điều thiện như mình. Nhưng từ đêm ấy, nàng chắc chắn rằng không ai tin vào điều thiện cả, người ta có nói tới Chúa và tới điều thiện cũng chỉ để lừa dối người khác. Chàng, người mà nàng yêu và đã yêu nàng (nàng biết rõ thế), khi ái ân thoả mãn, đã bỏ rơi nàng, chà đạp lên tình yêu của nàng. Thế mà con người ấy lại là người tốt nhất trong tất cả những người mà nàng biết, thì những kẻ khác còn tồi tệ đến đâu. Về sau, tất cả những điều xảy ra ngày càng củng cố thêm ở nàng niềm tin nầy. Các bà cô chàng là những bà già ngoan đạo, chăm chỉ lễ Chúa, đã đuổi nàng đi khi nàng không còn hầu hạ họ được như trước.
Tất cả những người nàng quen biết, giao thiệp về sau, đàn bà thì tìm mọi cách lợi dụng nàng để kiếm tiền, đàn ông thì từ thằng cẩm già đến mấy thằng cai ngục, chúng đều coi nàng là một thứ đồ chơi để thoả mãn nhục dục.
Và tất cả mọi người, không từ một ai, trên đời nầy không còn gì khác ngoài hưởng lạc ra. Lão văn sĩ già mà nàng đã chung sống với năm thứ hai của cuộc đời tự do phóng khoáng đã khiến nàng càng tin chắc như thế. Lão ta nói trắng ra với nàng rằng hạnh phúc của con người ta ở đời chính là hưởng lạc. Lão ta gọi cái hưởng lạc đó là "Thơ" và "Đẹp".
Tất cả ai ai ở đời nầy cũng đều chỉ sống cho bản thân mình, cho sự khoái lạc của mình. Và tất cả những lời lẽ nói về Chúa, về nhân nghĩa chỉ là nói láo! Nếu như lúc nào đó, nàng băn khoăn không biết tại sao cuộc đời nầy lại sắp xếp tồi tệ đến thế, đến nỗi mọi người đều chỉ lăm lăm hại nhau và ai nấy đều đau khổ, thì lập tức nàng gạt phăng nỗi băn khoăn ấy đi, không nghĩ đến nữa: Thấy lòng buồn ngao ngán, nàng hút một điếu thuốc hay uống một cốc rượu hoặc tốt hơn hết là cùng một người đàn ông nào đó ân ái. Thế là bao nhiêu nỗi buồn sẽ tiêu tan đi hết.
Chương 38
Hôm sau, ngày chủ nhật, lúc năm giờ sáng, khi tiếng còi thường lệ vừa thổi vang trong hành lang khu giam phụ nữ thì bà Korableva, đã dậy trước, đánh thức Maxlova.
"Tù khổ sai" Maxlova nghĩ mà kinh hãi. Nàng dụi mắt và bất giác hít cái không khí thối tha ghê tởm của văn phòng về buổi sáng sớm. Nàng định ngủ lại trốn lận vào cơn mê; nhưng thói quen hoảng sợ đã mạnh hơn muốn ngủ, nàng nhỏm dậy, xếp chân ngồi và nhìn xung quanh. Người lớn đã dậy cả, chỉ còn trẻ con là vẫn ngủ.
Chị bán rượu lậu có đôi mắt lồi kéo chiếc áo khoác ngoài đã lót cho lũ trẻ nằm, chị kéo thật gượng nhẹ cho chúng khỏi thức giấc. Mụ "phiến loạn" thì đang dăng cạnh bếp lò những miếng giẻ dùng làm tã lót. Đứa con mụ khóc thét trong cánh tay Fedoxia có đôi mắt xanh; cô nầy đang đu đưa và ru nó bằng một giọng dịu dàng. Chị lao phổi, mặt bê bết máu, ôm ngực ho rũ rượi và mỗi khi dừng cơn ho, thở một hơi dài thì lại hầu như bật lên những tiếng kêu rên. Ả tóc hung thức dậy nằm ngửa, cọ đôi chân béo mập, oang oang kể lại thật vui giấc mơ đêm qua. Bà cụ người bé nhỏ, can tội đốt nhà, đến đứng trước ảnh Chúa lầm rẩm khấn vái, có mấy câu cứ nhắc đi nhắc lại, làm dấu rồi cúi đầu lễ. Cô gái người phụ lễ nhà thờ ngồi trên phản không nhúc nhích, đôi mắt lờ đờ mất ngủ nhìn về phía trước. Còn "Nàng Tiên" thì tay đang vân vê những sợi tóc đen cứng cáu bẩn.
Có tiếng giầy bước lê ngoài hành lang. Tiếng khoá kêu lách cạch, hai tù nhân đàn ông chuyên việc đổ phân bước vào, họ mặc áo cộc, quần xám, ngắn chỉ tới quá đầu gối. Vẻ mặt họ đăm chiêu, cáu kỷnh. Họ nhấc cái thùng phân lên rồi khiêng ra khỏi phòng giam. Chị em tù nhân ra ngoài hành lang chỗ vòi nước rửa mặt. Ra đó, ả tóc hung lại cãi nhau với một nữ tù nhân ở phòng giam bên cạnh. Lại tiếng chửi rủa, kêu la, thét mắng.
- Chúng mày lại muốn vào "ca sô" hẳn! - Lão cai ngục thét lên và phát một cái vào tấm lưng trần, béo nung núc của ả tóc hung, tiếng phát mạnh đến nỗi khắp cả hành lang đều nghe thấy. - Đừng có để tao còn nghe thấy tiếng mày nói lần nữa.
- Gớm, ông cụ đã nổi cơn lên rồi đấy, - ả tóc hung nói.
Ả coi cách đối xử ấy của lão cai ngục như một sự mơn trớn.
- Thôi nhanh lên, sửa soạn đi lễ.
Maxlova chưa kịp chải đầu xong thì viên giám ngục đã cùng bọn tuỳ tùng tới.
- Điểm danh! - Lão cai ngục thét.
Những nữ phạm nhân khác ở xà lim bên cạnh cũng ùa ra và tất cả đứng làm hai hàng, dọc theo hành lang; người hàng sau phải đặt tay lên vai người hàng trước và người ta đếm tất cả bọn.
Điểm danh xong, mục cai ngục đến dẫn chị em tù nhân đi nhà thờ. Maxlova và Fedoxia đứng vào khoảng giữa dòng người gồm trên một trăm phụ nữ từ tất cả các xà lim dồn ra. Họ đều đội khăn vuông, mặc áo cánh và váy trắng, chỉ lác đác xen lẫn vài người mặc quần áo mầu, của riêng họ. Đó là những người mẹ mang con theo chồng đi tù. Dòng người đầy chật thang gác: tiếng giầy da cứng bước nhẹ, tiếng nói chuyện rì rầm thỉnh thoảng xen lẫn tiếng cười. Đến chỗ ngoặt, Maxlova trông thấy bộ mặt nanh nọc của kẻ thù là Boskova đang ở phía trước. Nàng chỉ cho Fedoxia thấy. Xuống hết bậc thang, mọi người im lặng, làm dấu và cúi đầu, họ bước qua cửa sổ để ngỏ của gian nhà thờ rực rỡ vàng son còn vắng tanh. Chỗ họ đứng ở bên phải. Họ dồn lại và đứng sát với nhau. Sau tù đàn bà, đến tù đàn ông mặc áo tù khoác ngoài màu xám: người đợi phát vãng người sắp mãn hạn: người bị chính quyền hàng xã trục xuất. Họ ho hắng khạc nhổ ầm ĩ, đứng sít vào nhau ở cả khoảng bên trái và khoảng giữa gian nhà thờ. Ở tầng trên, chỗ dành cho ban đồng ca, có những người được dẫn đến từ trước đã đứng sẵn một bên là những tù khổ sai bị cạo trọc nửa đầu vì có tiếng xiềng xích va chạm nên mọi người mới biết có họ ở đấy; còn một bên là những tù chưa thành án, đầu chưa bị cạo, chân không mang xiềng. Nhà thờ mới được một phú thương tu bổ, tiêu tốn vào đấy mấy vạn rúp, bên trong lộng lẫy những mầu sắc vàng son.
Trong nhà thờ im lìm lặng lẽ, chỉ nghe thấy tiếng xì mũi, tiếng ho khạc, tiếng trẻ con khóc và, thỉnh thoảng, cớ tiếng xiềng xích và chạm. Bỗng nhiên đám tù đứng giữa dồn nhau lại, tránh sang hai bên, dành ra một lối đi; viên giám mục bước vào, đến đứng trước mặt mọi người ở giữa nhà thờ
Chương 39
Buổi lễ bắt đầu.
Lễ cử hành như sau: linh mục mặc bộ áo đặc biệt bằng gấm thêu kim tuyến, kiểu kỳ quặc và rất bất tiện, cắt và xếp những mẩu bánh đó vào một chén rượu, vừa làm vừa rì rầm khấn đủ các thứ tên và đọc lời cầu nguyện.
Trong khi đó, thầy phụ lễ luôn miệng đọc rồi hát xen với tù nhân lời cầu nguyện bằng tiếng Xlavơ. Những lời cầu nguyện nầy vốn dĩ đã khó hiểu lại do hát và đọc nhanh nên càng khó hiểu. Nội dung các lời cầu nguyện chủ yếu là cầu Chúa ban phúc cho đức Hoàng thượng và Hoàng gia. Những lời ấy được thầy phụ lễ đọc đi đọc lại nhiều lần cùng với các lời cầu nguyện khác, rồi lạs được thầy quỳ xuống đọc riêng. Ngoài ra, thầy còn ngâm một số đoạn văn vần trích trong "Sự tích các thánh tông đồ" bằng một giọng lạ tai, cố cương lên, không ai hiểu nổi là chuyện gì. Đến lượt linh mục đọc rất rành rọt một đoạn trong kinh Phúc âm của thánh Mác kể chuyện đấng Cứu Thế sống lại, trước khi bay lên trời để đến ngồi bên phải đức Chúa Cha, thoạt đầu đã hiện ra trước mắt Maria Madelina là người đã được Chúa đuổi bảy con quỷ ra khỏi thân thể, sau đó Chúa lại hiện ra trước mắt mười một người đệ tử, ra lệnh cho họ truyền bá kinh Phúc âm đi khắp cả chúng sinh, đồng thời Chúa tuyên bố rằng kẻ nào không tin sẽ chết, kẻ nào tin và chịu phép thánh thì chẳng những sẽ được cứu vớt mà còn trừ được ma quỷ, sẽ chữa được cho người ốm khỏi bệnh bằng cách áp tay lên mình họ, sẽ nói được nhiều thứ tiếng mới sẽ sai bảo được rắn rết và nếu như có uống phải thuốc độc cũng sẽ không chết mà vẫn khỏe mạnh như thường.
Ý nghĩa cốt yếu của cuộc lễ là ở chỗ người ta ước định rằng những mẩu bánh do linh mục cắt bỏ vào rượu kia nhờ có một số động tác làm phép và vài lời khấn quen thuộc đã biến thành thịt và máu Chúa. Những động tác ấy là: mặc dầu bị vướng vào cái bao gấm trên mình, linh mục đã từ từ giơ hai bàn tay lên cao, giữ yên như thế rồi quỳ xuống hôn chiếc bàn và mọi thứ để trên đó.
Quan trọng nhất là khi ông cầm chiếc khăn trong hai tay khẽ vẫy đều đều, nhịp nhàng trên chiếc đĩa và chiếc chén vàng. Theo ước định thì lúc ấy là lúc bánh và rượu biến thành thịt và máu, nên đoạn nầy trong buổi lễ được cử hành rất trọng thể.
Sau đó, linh mục từ phía sau vách ngăn xướng to:
"Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ vô cùng thiêng liêng, vô cùng trong trắng và vô cùng hạnh phúc, Đức Mẹ Đồng Trinh đã sinh ra Chúa?" Tiếp đó, ban đồng ca long trọng cất tiếng hát rằng cần ca ngợi Đức Mẹ Maria đã sinh ra chúa Cứu Thế mà vẫn giữ vững trinh tiết, và vì thế Đức mẹ xứng đáng được hưởng vinh dự lớn hơn tất cả mọi thiên sứ. Đến đó, coi như sự biến hoá đã hoàn thành, bình và rượu đã biến hẳn thành thịt và máu và linh mục nhắc chiếc khăn lên khỏi đĩa, cắt mẩu bánh ở chính giữa ra làm tư, nhúng vào rượu và bỏ vào mồm. Như thế là coi như ông đã ăn một ngụm máu của Chúa. Sau đó, ông kéo màn, mở cửa giữa vách ngăn, nâng chiếc chén vàng, đi ra ngoài mời những ai muốn cùng đến ăn thịt và uống máu Chúa đựng trong chén.
Chỉ có mấy em bé tiến đến.
Hỏi qua tên các em xong, linh mục thận trọng lấy thìa xúc trong chén ra, lần lượt bón sâu vào trong miệng mỗi em một mẩu bánh ngâm rượu. Còn thầy phụ lễ thì vừa lau miệng cho các em vừa cất giọng vui vẻ hát rằng các em đang ăn thịt và uống máu Chúa. Sau đó, linh mục mang chiếc chén vào phía trong vách ngăn, rồi uống nốt chỗ máu, ăn nốt chỗ thịt chúa còn lại, thè lưỡi liếm sạch hàng ria mép, lau sạch miệng, kỳ cọ chiếc chén, đoạn vui vẻ phấn khởi, nện đế giầy da, bước lanh lẹ ra ngoài.
Đến đấy, phần lễ chính kết thúc. Nhưng linh mục muốn an ủi những người tù khốn khổ, bèn thêm vào buổi lễ thường lệ một lễ đặc biệt. Ông ta đến đứng trước bức tượng thánh bằng sắt, mạ vàng mặt và hai tay đen - tượng của chính đức Chúa mà ông ta vừa mới ăn thịt, có mười cây nến chiếu sáng; bằng một giọng rất lạ tai, giả tạo không ra hát, không ra nói, ông ta đọc những lời sau đây:
"Đức Jesus hiền từ nhất vinh quang của các th,l nh tông đồ! Đức Jesus của con, lời ca ngợi của các đấng tử vì đạo. Ôi Đức Chúa vạn năng, Jesus, hãy cứu con? Jesus. Người cứu vớt con, Jesus, Người đẹp nhất của lòng con: con đến cầu ở Người, ôi Đức Jesus cứu thế, hãy thương con; bằng những lời cầu nguyện của tất cả các vị thánh thần ngày Chúa giáng sinh, Jesus, Người là đấng tiên tri của tất cả, Jesus, Người cứu vớt con, hãy cho con được hưởng mềm hoà vui của Thiên đường, ôi Đức Jesus thương xót loài người!".
Đến đây, linh mục dừng lại lấy hơi, làm dấu thánh, cúi xuống sát đất và mọi người đều làm theo, từ viên giám mục, các cai ngục đến tù nhân. Đặc biệt ở tảng trên, tiếng xiềng xích kêu loảng xoảng mau hơn.
"Đấng sáng tạo nên các thiên thần và đấng Chúa tể mọi sức mạnh", - linh mục tiếp tục đọc, - "Đức Jesus vô cùng kỳ diệu, Người đã khiến các thiên thần phải kinh ngạc; Jesus Vạn năng, Người giải cứu tổ tiên ta! Jesus rất hoà nhã, oai danh của bậc Trưởng lão! Jesus rất vinh quang, sức mạnh của các bậc Vua chúa, Jesus rất hạnh phúc, sự thực hiện của các đấng tiên tri, Jesus tuyệt mỹ, niềm sắt son của các đấng tử vì đạo? Jesus rất ôn hoà, niềm vui mừng của các tu sĩ! Jesus rất nhân từ, niềm.vui sướng vô biên của các mục sư? Jesus rất khoan dung đại độ, đức thanh khiết của những người chay tịnh? Jesus rất trong trắng, tiết trinh bạch của các nữ đồng trinh, Jesus sống muôn đời ngàn kiếp, sự cứu vớt chúng sinh lầm lạc? Ôi, Jesus, Con của Thượng đế, hãy thương lấy con?" - Tiếng Jesus được nhắc đi nhắc lại mỗi lần một rít lên, cuối cùng linh mục đã tới được chỗ ngừng. Tay giữ áo lề lót lụa, ông ta quì một chân, cúi rạp xuống sát đất trong lúc ấy ban đồng ca cất giọng hát những tiếng cuối cùng. "Jesus, Con của Thượng đế, hãy thương lấy con!". Các tù nhân sụp xuống lễ rồi lại đứng lên, hất hất mớ tóc còn lại trên nửa đầu, kéo xiềng xích loảng xoảng, làm cho đám chân gầy guộc của họ bị sầy cả da.
Cuộc lễ kéo dài như thế rất lâu. Lúc đầu là những lời ca tụng kết thúc bằng câu "Hãy thương lấy con". Sau đến những lời ca tụng khác kết thúc bằng câu "Hãy ca ngợi Chúa" và các tù nhân làm dấu, cúi đầu gục xuống tận đất. Lúc đầu thì mỗi lần ngừng, các tù nhân lại cúi đầu lễ nhưng rồi cứ hai lần, sau đến ba lần họ mới lại cúi đầu lễ. Tất cả đều mừng rỡ khi xong mục ca tụng và linh mục thở dài khoan khoái gấp sách lại, biến vào sau bức vách ngăn. Nhưng còn phần cuối cùng: linh mục lấy trên chiếc bàn to một cây thánh giá mạ vàng có phù điêu tráng men ở các đầu và tiến ra giữa gian nhà thờ. Viên giám mục tới gần ông ta và hôn cây thánh giá trước rồi đến phó giám ngục và các cai ngục, sau đến các tù nhân chen chúc nhau, miệng lầm rầm cãi cọ, chửi bới nhau, mỗi người lần lượt làm theo. Linh mục vừa nói chuyện với giám mục vừa chìa cây thánh giá và bàn tay ông vào miệng, đôi khi vào cả mũi các tù nhân. Còn tù nhân thì cố hôn cả cây thánh giá lẫn bàn tay linh mục. Thế là kết thúc buổi lễ đạo Cơ đốc, tổ chức để an ủi và răn dạy những người anh em lầm đường.
Chương 40
Không một ai trong buổi lễ, từ linh mục, giám ngục cho tới Maxlova, lại có ý nghĩ rằng chính đức chúa Jesus mà linh mục vẫn rít lên không biết bao nhiêu lần tên tuổi và ca ngợi bằng đủ mọi lời lạ lùng kỳ quái, lại cấm chính cái việc họ đáng làm ở đây. Không những chúa nghiêm cấm cái lối nói lảm nhảm, vô nghĩa và lối phù phép mê hoặc lên bánh và rượu của các thầy linh mục, mà Chúa còn cấm hết sức ngặt cái lối một số người nầy lại gọi một số người kia là thầy, cấm không được cầu nguyện ầm ĩ giữa nhà thờ và dạy rằng mỗi người phải cầu nguyện một mình vào lúc thanh vắng. Chúa cấm ngay cả việc xây dựng các nơi thờ cúng. Người nói, Người giáng sinh là để huỷ bỏ các đền thờ. Người dạy nơi để cầu nguyện không phải là các đền thờ mà là trong trái tim và trong sự thật. Hơn nữa, không những Chúa cấm xét xử giam cầm, hành hạ, xỉ nhục, trừng trị con người như ở đây người ta vẫn đang làm, mà Chúa còn cấm cả mọi lối dùng bạo lực đối với con người. Chúa còn nói rằng Người xuống cõi đời là để giải thoát cho những người cầm tù được sống tự do.
Mọi người có mặt ở đây, không có ai nghĩ rằng tất cả những việc họ nhân danh Chúa làm đó là một sự phỉ báng hết sức thô bạo, một sự chế giễu đối với chính ngay Chúa. Không một ai có mặt ở đây lại nghĩ rằng cây thánh giá mạ vàng, có phù điêu tráng men ở các đầu mà linh mục đưa ra cho mọi người hôn, lại chính là tượng trưng cho cái giá treo cổ, trên đó Chúa Cứu Thế đã bị hành hình chính vì Người đã cấm cái điều mà nhân danh Người họ đang làm ở đây. Không ai nghĩ các vị linh mục kia hình dung ăn bánh uống rượu là ăn thịt và uống máu Chúa Cứu Thế, thực sự họ đã phạm tội ăn thịt và uống máu Chúa, không phải do họ ăn bánh và uống rượu, mà ở chỗ họ không những đã cám dỗ những "con người nhỏ bé" nầy mà Đấng Cứu Thế đã coi là đồng nhất với bản thân Người, mà còn tước đoạt cả hạnh phúc cao quý nhất của họ phải chịu những nỗi đau đớn ê chề, che giấu không cho họ biết Tin Lành mà Chúa đã đem lại cho loài người.
Linh mục với lương tâm rất thanh thản tiến hành mọi việc lễ bái như thế vì từ thuở nhỏ ông vẫn được dạy rằng đó là niềm tin chân chính duy nhất mà xưa kia các thánh đã tin và ngày nay giáo hội và chính quyền đang tin. Ông không tin rằng bánh có thể hoá ra thịt và những lời kể lể lôi thôi kia đem được ích lợi gì cho linh hồn, ông cũng không tin là ông cũng đã ăn một miếng thịt Chúa thật, - điều đó, ông không thể tin được, nhưng ông tin rằng cần phải tin vào sự tín ngưỡng ấy; cái đã khiến ông ta thêm vững tin vào sự tín ngưỡng ấy là trong mười tám năm trời làm việc thờ cúng theo sự tín ngưỡng ấy, ông đã thu được hoa lợi đủ để nuôi sống gia đình, cho con trai vào trường trung học và con gái vào trường nhà dòng.
Thầy phụ lễ cũng tin như vậy và còn tin mãnh liệt hơn cả linh mục vì thầy đã hoàn toàn quên sạch cả mọi giáo lý của điều tín ngưỡng ấy, thầy chỉ biết rằng ban thánh thể lễ cầu nguyện cho người chết, lễ sáng sớm có ca khánh chúc, lễ có ca Tê Đê om thuần và lễ có ca Tê Đê om kèm cả xưng tụng Đức Mẹ, tất cả các loại lễ ấy đều có giá cả nhất định và những tín đồ Cơ đốc chân chính đều vui lòng trả. Cho nên thầy càng rống lên những câu "hãy thương xót, hãy thương xót", hát và đọc những điều đã được quy định: coi việc mình làm là cần thiết, như những người khác yên tâm bán củi, bán bột, bán khoai. Những giám mục và cai ngục tuy chưa bao giờ biết, chưa bao giờ nghĩ đến cái giáo lý của sự tín ngưỡng đó, ngay đến cả ý nghĩa của các nghi lễ đó, song họ vẫn cứ tin rằng nhất định họ phải tin điều ấy, bởi vì các quan trên và bản thân nhà vua cũng tin điều ấy. Hơn nữa, dù chỉ lờ mờ thôi (vì họ không tự giải thích được ra sao), họ vẫn cảm thấy rằng niềm tin ấy bảo vệ cho chức nghiệp tàn bạo của họ. Nếu không có niềm tin ấy thì chẳng những họ thấy khó khăn mà có lẽ còn thấy không thể nào đem hết sức ra hành hạ người khác như bây giờ họ đang yên tâm làm, với lương tâm mảy may không bị cắn rứt. Viên giám mục là người bản chất tốt quá đến nỗi ông ta không thể nào sống được như ông ta đang sống dựa vào niềm tin ấy: Và vì thế ông ta đứng thẳng không nhúc nhích, chăm chỉ cúi đầu và làm dấu, cố gắng xúc động khi nghe hát bài "Các vị tiểu thiên sứ". Đến khi bắt đầu làm phép cho các con trẻ nhỏ, ông ta bước lên phía trước tự mình lấy tay nhấc một em bé lên và ẵm nó cho người ta làm phép.
Trong bọn tù nhân chỉ có một số ít thấy rõ tất cả những trò lừa dối đang diễn ra đó và cười thầm trong bụng, còn đại đa số tin rằng có một sức mạnh huyền bí trong những bức tượng thánh mạ vàng, những cây nến, chiếc chén, chiếc áo lễ, cây thánh giá, những lời khó hiểu "Jesus rất hiền từ" và "hãy thương xót": nhắc đi nhắc lại; họ tin rằng nhờ có sức mạnh huyền bí ấy, họ có thể kiếm được nhiều điều thuận lợi trong cả kiếp nầy lẫn kiếp sau. Mặc dù đa số trong bọn họ đã nhiều lần thử dùng đèn nến khấn vái mong kiếm lấy những thuận lợi cho cuộc đời đang sống mà vẫn không được, - những lời cầu nguyện đã không thành sự thật - nhưng người nào cũng vẫn tin rằng sự thất bại đó chỉ là ngẫu nhiên, và cái tổ chức nầy đã được bao nhiêu nhà thông thái và các đức giám mục hoan nghênh thì phải là một tổ chức rất quan trọng, rất cần thiết, nếu không phải cho kiếp nầy thì cho kiếp sau.
Maxlova cũng tin như vậy. Cũng như mọi người khác, trong buổi lễ nàng cảm thấy một cảm giác vừa thành kính vừa buồn nản. Lúc đầu, nàng đứng giữa đám đông, sau bức vách ngăn, và không nhìn thấy ai khác ngoài các bạn gái. Đến khi những nữ tù nhân tham gia buổi lễ tiến lên phía trước, nàng cùng Fedoxia cũng tiến lên.
Nàng nhìn thấy giám ngục và sau lưng ông ta, lọt vào giữa viên cai ngục, một người nông dân có chòm râu thưa nhạt, mớ tóc hung hung. Đó là chồng Fedoxia; đang đăm đăm nhìn vợ. Trong lúc bài hát ca ngợi Chúa được cử lên, Maxlova mải nhìn anh ta và thì thầm với Fedoxia nên nàng chỉ làm dấu và cúi đầu theo như mọi người mà thôi.
Chương 41
Nekhliudov đi ra khỏi nhà từ sớm. Trên đường phố vẫn còn có một người nhà quê đang vừa đi vừa rao giọng nghe lạ tai.
"Sữa đây! Sữa đây! Ai mua sữa ra mua!"
Chiều hôm qua, trời đổ một trận mưa ấm áp đầu tiên của mùa xuân. Khắp nơi, chỗ nào đường không lát là cỏ mọc lên xanh rờn. Những cây phong trong vườn phủ một lớp tơ xanh; anh đào, bạch dương đã nở tung những chùm lá dài thơm ngát. Ở các nhà và các cửa hàng, người ta đang lau chùi những khung cửa kính. Ở chợ giời, nơi xe Nekhliudov chạy ngang qua, một đám đông dày đặc, chen chúc nhau bê những chiếc lều dựng thành hàng: có những người ăn mặc rách rưới, giầy ống cắp nách, quần và áo gi-lê vắt vai, đang đi đi lại lại.
Trước cửa những tiệm rượu đã đông nghịt thợ thuyền được nghỉ, không phải đến xưởng làm; đàn ông áo quần sạch sẽ và giầy ống bóng loáng; đàn bà chít khăn lụa màu sặc sỡ, mặc áo choàng có đính những hạt thuỷ tinh.
Cảnh binh súng lục đeo bằng những sợi dây màu vàng: đứng im ở góc phố chờ những chuyện vi cảnh xảy ra để giải trí cho đỡ buồn. Trong những lối đi ở các đại lộ trên bồn cỏ xanh còn ướt trẻ con chơi đùa chạy nhẩy với những con chó, còn các chị vú nuôi ngồi túm năm tụm ba trên các ghế dài, chuyện trò vui vẻ.
Trên các đường phố, - phía bên trái râm mát còn ấm ướt giữa mặt đường đã khô ráo, - xe cộ không ngớt qua lại rộn rịp: xe bò nặng nề kêu rít ầm ĩ, xe ngựa lọc sọc: tàu điện leng keng. Trong không trung vang dội những tiếng chuông trầm bổng kêu gọi mọi người tới dự buổi lễ giống như buổi lễ đang cử hành trong nhà lao. Dân chúng ăn mặc đẹp đẽ, người nào đi về phía khu nhà thờ người ấy.
Người đánh xe chỉ đưa Nekhliudov tới chỗ rẽ vào nhà tù chứ không vào tận nơi.
Một số người, có cả đàn ông đàn bà, phần lớn mang theo gói bọc, đang đứng ở chỗ ngoặt đó, cách nhà tù khoảng một trăm bước. Bên phải là những ngôi nhà gỗ lụp sụp bên tlái là một toà nhà hai tầng có biển treo.
Còn chính ngôi nhà tù đồ sộ xây dựng bằng đá thì đứng sừng sững ở phía trước. Những người đến thăm chưa được tới gần. Tên lính gác vác súng đi đi lại lại, quát mắng những ai định đi vòng qua mặt.
Trước cổng dãy nhà gỗ, bên phải, một viên cai ngục mặc đồng phục có đính lon, tay cầm cuốn sổ, ngồi trên ghế dài đối diện với người lính gác. Người tới thăm phải đến nói tên người mình muốn gặp cho hắn ghi.
Nekhliudov cũng đến nói tên Ekaterina Maxlova. Viên cai ghi vào sổ.
- Tại sao vẫn chưa cho vào? - Nekhliudov hỏi.
- Còn đang buổi lễ. Lễ xong, sẽ cho vào.
Nekhliudov quay ra chỗ đám người đứng chờ. Một người quần áo rách rưới mũ nhầu nát giầy thủng, chân không bí tất, mặt chằng chịt những vết sẹo đỏ hỏn, tách khỏi đám đông đi về phía nhà tù.
- Thằng kia? Đi đâu? - Tên lính gác cầm súng quát.
- Làm gì mà rống lên thế? - Anh chàng rách rưới thản nhiên trả lời và quay trở lại. - Không cho vào thì tao đợi? Chứ sao lại quát? Như ông tướng ấy!
Đám đông cười biểu đồng tình.
Người đến thăm phần lớn ăn mặc xềnh xoàng, có người còn rách rưới, nhưng cũng có mấy người đàn ông, đàn bà trông bề ngoài có vẻ sang trọng. Đứng cạnh Nekhliudov là một người hồng hào, ăn bận tươm tất, mày râu nhẵn nhụi, xách một bọc, chắc hẳn là bọc quần áo. Nekhliudov hỏi anh ta có phải hôm nay mới đến đây lần đầu không. Anh mang bọc trả lời là chủ nhật nào cũng tới đây, rồi hai người nói chuyện với nhau. Anh ta là người gác cổng nhà ngân hàng, đến đây thăm người anh bị tù về một tội giả mạo. Con người chất phác ấy kể hết chuyện cho Nekhliudov nghe. Khi anh ta định hỏi chuyện lại thì cả hai người chợt chú ý đến một chiếc xe độc mã bánh cao su, đóng một con ngựa ô ta đẹp, đang đi tới; trên xe có một sinh viên cùng với một tiểu thư đeo mạng. Anh sinh viên tay ôm một bọc lớn, lại gần Nekhliudov và hỏi xem có thể và phải làm gì để phân phát cho tù nhân số bánh "kalasơ" anh ta mang đến.
- Đây là ý muốn của người yêu của tôi. Cô ấy đây. Cha mẹ cô ấy khuyên chúng tôi mang đến cho tù nhân chỗ bánh nầy.
- Tôi cũng mới tới đây lần đầu nên không rõ. Ông có thể hỏi người kia xem, - Nekhliudov vừa nói vừa chỉ viên cai ngục đeo lon vẫn ngồi với cuốn ổ tay ở phía bên phải.
Giữa lúc Nekhliudov nói chuyện với anh sinh viên thì hai cánh cổng sắt to nhà tù, có khoét một lỗ hổng ở giữa mở ra. Một sĩ quan mặc quân phục đi ra cùng với một cai ngục khác. Tên cai cầm sổ tuyên bố bắt đầu cho người vào thăm. Tên lính gác đứng né sang một bên và tất cả mọi người xô vào phía cổng, dường như sợ trễ, người nào cũng bước thật nhanh, có người lon ton chạy.
Một tên cai ngục đứng bên cổng lần lượt đếm to những người bước qua: "Mười sáu, mười bảy" v.v… Một tên khác đứng bên trong vỗ vào từng người đếm lại trước khi để họ đi vào trong nữa, như vậy để khi khách ra sẽ kiểm tra lại, khỏi bỏ sót người nào chưa ra và khỏi để lọt một người tù nào ra ngoài. Tên nầy không để ý xem người đi qua mặt mình là ai, hắn vỗ vào lưng Nekhliudov. Khi bàn tay nắn đụng vào chàng, Nekhliudov thấy mình bị xúc phạm; nhưng chàng lại sực nhớ mình tới đây để làm gì và chàng lấy làm ngượng về cái cảm giác bực tức cho là mình bị xúc phạm đó.
Ngay sau cửa là một gian phòng rộng: trần xây cuốn có những cửa sổ nhỏ chăng lưới sắt. Trong gian phòng gọi là phòng công cộng nầy, Nekhliudov hoàn toàn không ngờ đâu lại thấy trong một cái hốc khoét vào tường có một cây thánh giá to mang hình Chúa đóng đanh câu rút "Cái ấy để làm gì nhỉ?" - chàng suy nghĩ; trong tư tưởng, chàng đã vô tình gắn hình ảnh Chúa Cứu thế với những người tự do chứ không phải với những người tù tội.
Nekhliudov bước chậm rãi để nhường cho những người đang vội vượt lên trước. Chàng có nhiều cảm giác lẫn lộn, vừa thấy ghê tởm đối với những kẻ gian ác bị giam ở đây, vừa thấy thương hại những người vô tội như cậu thanh niên hôm qua và kẻ cùng bị giam lẫn với họ, lại thấy ngại ngần và bồi hồi cảm động về cuộc gặp mặt sắp tới ở lối ra cuối gian phòng thứ nhất nầy, đứng bên cửa ra vào có một tên cai ngục đang nói gì đó, nhưng Nekhliudov mải suy nghĩ không chú ý đến lời hắn nói, cứ tiếp tục đi theo sau đám đông vào thăm nghĩa là đi về phía khu tù đàn ông chứ không phải về phía khu đàn bà mà chàng cần tới.
Nhường cho những người vội đi lên trước, chàng là người cuối cùng vào gian phòng dành cho việc thăm hỏi.
Điều đầu tiên làm chàng sửng sốt khi mở cửa bước vào là tiếng inh ỏi của hàng trăm thứ giọng hoà lẫn thành một thứ tiếng ồn ào, ầm ĩ. Chỉ tới khi đến gần đám người đang bám chặt lấy tấm lưới sắt ngăn gian phòng ra làm đôi y như đàn ruồi bâu trên miếng đường, Nekhliudov mới hiểu tại sao lại thế. Gian phòng có mấy cửa sổ trên bức tường phía sau; phòng được ngăn ra làm hai phần không phải bằng một tấm mà bằng hai tấm lưới sắt căng suốt từ trên trần xuống đến mặt đất. Bọn cai ngục đi đi lại lại trong khoảng giữa hai tấm lưới sắt. Một bên là tù nhân, một bên kia là khách vào thăm giữa họ là hai tấm lưới cách nhau ba arsin, thành thử không nói đến việc trao đổi cho nhau cái gì, mà chỉ nhìn mặt nhau cho rõ cũng không thể được, nhất là với những người cận thị.
Nói chuyện khó lắm, phải hết sức gào to lên thì bên kia lưới mới nghe rõ. cả hai bên, mọi người đều phải áp sát mặt vào lưới vợ, chồng, cha, mẹ, con cái, họ cố nhìn mặt nhau và cố nói sao cho người thân của mình ở bên kia nghe thấy nên tiếng họ át lẫn nhau, ai cũng cố hét cho tiếng mình át được tiếng người khác. Chính vì thế mà hoá ra ầm ĩ, inh ỏi làm cho Nekhliudov sửng sốt khi mới bước vào. Không làm sao mà nghe ra được những điều họ nói. Chỉ có thể nhìn mặt họ mà đoán xem họ nói gì và quan hệ giữa họ với nhau là thế nào. Gần Nekhliudov là một bà cụ già đội khăn vuông, áp mình vào lưới, cằm run run đang gào gì đó với một thanh niên xanh xao, nửa đầu cạo trọc. Người tù nầy, nhíu mày, nhăn trán, chăm chú nghe. Bên cạnh bà cụ, một thanh niên mặt áo chẽn, tay để lên tai lắng nghe một người tù trông rất giống anh ta nét mặt nom đau khổ, râu đã điểm bạc; người thanh niên vừa nghe vừa lắc đầu. Cách đấy một chút là một người đàn ông rách rưới, đang vung đôi tay, miệng hò hét và cười to. Bên cạnh là một chị phụ nữ ngồi xệp xuống sàn, đầu đội một chiếc khăn len đẹp, tay ẵm một đứa con nhỏ. Chị khóc nức nở, chắc hẳn là lần đầu tiên chị được gặp người đàn ông tóc bạc, mặc áo tu, đầu cạo trọc chân đeo xiềng, đứng bên kia lưới. Đứng ngay sau người đàn bà ấy là người gác cổng nhà ngân hàng ban nãy đã nói chuyện với Nekhliudov. Anh ta đang gân cổ gào một câu gì đó với một người tù trán hói, mắt sáng long lanh đứng ở phía bên kia.
Khi Nekhliudov thấy rằng mình cũng sẽ phải nói chuyện trong những điều kiện như thế thì chàng nổi lòng công phẫn đối với những kẻ đã có thể bày ra và cho ban hành một chế độ như vậy. Chàng lấy làm lạ rằng một tình trạng ghê rợn, chà đạp lên tình cảm con người như thế mà không thấy một ai tỏ ra phẫn uất cả. Từ lính tráng, giám mục đến cả những người thân thuộc tới thăm và cả các tù nhân đều như thừa nhận cái cách nói chuyện với nhau như thế là đương nhiên, là cần thiết.
Nekhliudov nán lại trong phòng nầy năm phút, lòng trĩu nặng một nỗi buồn kỳ lạ, thấy mình bất lực và không thể hoà hợp được với cái xã hội xung quanh, chàng thấy một cảm giác buồn nôn giống như khi bị say sóng.
Chương 42
Nhưng dù sao cũng phải làm cho xong cái việc mà mình đến đây để làm chứ - Chàng nói để tự khích lệ. - Bây giờ phải làm gì đây?"
Chàng bèn đưa mắt tìm một viên cai sếp vào đó. Thấy một người mảnh khảnh, thấp bé, để ria mép, đeo lon sĩ quan đang đi lững thững phía sau mọi người chàng hỏi:
- Thưa ông, ông có thể cho biết, - chàng cố gắng nói hết sức từ tốn, - Tù đàn bà ở đâu và nơi dành để gặp họ là ở đâu ạ?
- Ông cần vào khu phụ nữ ạ?
- Vâng, tôi muốn gặp một nữ tù nhân, - Nekhliudov trả lời, vẫn cố giữ giọng cho đặc biệt từ tốn như trước.
- Đáng lẽ ra ông phải báo ngay từ lúc ở phòng ngoài chứ. Vậy ông cần gặp người nào?
- Tôi cần gặp Ekaterina Maxlova.
- Tù chính trị ạ? - Viên phó giám ngục hỏi.
- Không, người ấy chỉ là…
- Xử rồi phải không?
- Vâng, toà xử cô ấy đã ba ngày rồi, - Nekhliudov trả lời ngọt ngào, sợ lỡ ra làm phật ý viên phó giám ngục đang có thái độ tốt với mình.
- Nếu vào khu phụ nữ thì mời ông đi theo lối nầy, - viên phó giám ngục nói; thấy bề ngoài Nekhliudov, cũng nể. - Xidorov? - Y quay lại nói với một hạ sĩ quan có ria mép, ngực đeo huy chương, - anh dẫn ông nầy sang bên phụ nữ.
- Xin tuân lệnh. -
Đúng lúc ấy, cạnh lưới sắt có tiếng khóc nức nở nghe thật đau lòng.
Nekhliudov thấy cảnh tượng đó lạ lùng, và lạ lùng nhất là chàng phải cảm tạ, phải mang ơn viên phó giám ngục và viên quản ngục, những kẻ đang làm những việc tàn nhẫn trong cái nhà tù nầy.
Quản ngục dẫn Nekhliudov từ phòng thăm hỏi đàn ông ra hành lang và mở ngay cửa đối diện dẫn chàng vào phòng thăm hỏi tù đàn bà.
Cũng như phòng thăm hỏi tù đàn ông, phòng nầy được ngăn ra làm hai phần bằng hai tấm lưới sắt, nhưng nhỏ hơn nhiều. Ở đây tù ít hơn, người đến thăm cũng ít hơn, nhưng tiếng gào thì cũng ầm ĩ chẳng kém gì bên đàn ông. Nhà chức trách cũng đi đi lại lại giữa hai tấm lưới như ở bên kia, nhưng ở đây là một mụ cai ngục mặc bộ đồng phục có nẹp xanh, lon đính trên ống tay áo và cũng có đai thắt lưng. Và cũng như ở bên kia, mọi người bám sát vào lưới ở cả hai phía. Bên người vào thăm phần lớn là dân thành phố, quần áo nhiều kiểu khác nhau, còn bên kia là các nữ tù nhân, người thì mặc quần áo trắng nhà tù, người thì mặc quần áo riêng của mình.
Suốt dọc tấm lưới, chỗ nào cũng có người chen chân đứng. Một số kiễng chân nói to qua đầu người khác cho bên kia nghe rõ, có người thì ngồi xuống sàn nói chuyện.
Trong các tù nhân đàn bà. Có một người có tiếng kêu the thé và hình dáng khiến người ta dễ nhận thấy nhất, là một nữ tù nhân người di-gan gầy gò, tóc rối bù, chiếc khăn trên đầu đã tụt xuống để hở bộ tóc quăn. Chị ta đứng gần giữa phòng, cạnh cái cột, đôi tay chỉ trỏ thoăn thoắt, miệng kêu the thé, nói gì với một người di-gan đàn ông mặc áo lễ dài màu xanh, đai thắt lưng bó lẳn mình. Bên cạnh người nầy là một người lính ngồi đưới đất nói chuyện với một nữ tù nhân. Rồi đến một người nông dân trẻ tuổi, mặt đỏ gay, chòm râu thưa, chân đi dép cỏ, nước mắt chạy quanh chỉ chực khóc. Anh ta nói chuyện với một nữ tù nhân xinh đẹp, tóc vàng, đôi mắt xanh biếc nhìn anh ta chăm chú. Đó là hai vợ chồng Fedoxia. Rối đến một người đàn ông rách rưới đang đứng nói chuyện với một người đàn bà mặt to, đầu tóc rối bù.
Sau đến hai người đàn bà, một người đàn ông, rồi lại một người đàn bà nữa. Một người đứng đối điện với một nữ tù nhân. Trong số nầy không thấy có Maxlova. Nhưng còn một người đàn bà nữa đứng đằng sau. Nekhliudov đoán đó là nàng, và chàng bỗng thấy tim mình đập mạnh, hơi thở như nghẹn lại. Phút quyết định đã tới. Chàng đến sát lưới và nhận ra Maxlova. Nàng đứng đằng sau Fedoxia và đang mỉm cười nghe bạn nói. Nàng không mặc áo khoác như bôm trước, mà mặc áo cánh trắng có thắt lưng bó chẽn, phần trên ngực nở phình ra. Cũng như hôm ở toà, nàng để mái tóc đen quăn lộ ra dưới vành khăn.
"Bây giờ là lúc quyết định, - Nekhliudov nghĩ bụng. - Gọi cô ta thế nào đây? Hay là để tự cô ta đi lại phía mình?".
Nhưng Maxlova không lại. Nàng đang đợi Krala và không hề nghĩ rằng người đàn ông kia lại có thể đến gặp mình.
- Ông cần gặp ai? - Mục cai ngục đang đi giữa hai tấm lưới bước đến gần Nekhliudov hỏi.
- Katerina Maxlova, - Nekhliudov khó khăn lắm mới thốt ra được mấy tiếng ấy.
- Maxlova, có người đến gặp mầy, - mục cai ngục gọi to.
Chương 43
Maxlova quay lại và ngẩng đầu, rướn ngực, vẫn với cái vẻ đon đả mà Nekhliudov đã quen thuộc, bước đến gần tấm lưới. Nàng len vào giữa hai tù nhân, nhìn Nekhliudov chằm chằm, vừa ngạc nhiên vừa dò hỏi vì vẫn chưa nhận ra chàng.
Tuy vậy, thấy chàng ăn mặc có vẻ người giàu có, nàng mỉm cười.
- Ông đến tìm tôi ạ? - Nàng vừa nói vừa đưa khuôn mặt tươi cười có mặt mắt hơi hiếng áp sát vào tấm lưới.
- Tôi muốn gặp… - Nekhliudov không biết nên gọi "cô, hay "em", rồi quyết dùng tiếng "cô". Chàng nói tiếng không to hơn lúc bình thường: - Tôi muốn gặp cô… tôi…
- Chị đừng đánh trống lảng, - một người rách rưới đứng bên cạnh chàng gào to. – Chị có lấy hay không?
- Đã bảo anh là hắn đang ngắc ngoải, còn gì nữa? - một người ở bên kia lưới gào lại.
Maxlova không nghe rõ Nekhliudov nói gì, nhưng vẻ mặt chàng khi nói bỗng làm nàng nhớ ra. Nhưng nàng vẫn chưa tin mắt mình. Tuy nhiên, nụ cười trên môi nàng biến hẳn và vầng trán bỗng nhăn lại, đau khổ.
- Tôi không nghe ông nói gì cả, - nàng gào to, cau mày lại và trán mỗi lúc một nhăn thêm.
- Tôi đến đây…
"Đúng, mình đang làm cái việc cần phải làm, mình nhận tội" - Nekhliudov suy nghĩ. Vừa nghĩ tới điều đó, nước mắt chàng đã trào ra và trôi xuống họng. Chàng bám chặt lấy tấm lưới, chàng ngừng nói, cố gắng giữ cho khỏi oà lên khóc.
- Tôi bảo nầy: tại sao cô lại cứ dây vào cái việc không đáng dây ấy? - Có tiếng gào to ở phía bên nầy.
- Thề có trời đất, tôi có biết gì đâu, - người nữ tù nhân gào lên ở phía bên kia.
Nhìn thấy vẻ xúc động của Nekhliudov, Maxlova nhận ra chàng.
- Trông ông có giống nhưng tôi không nhận ra ai, - nàng kêu lên, không nhìn vào mặt chàng nữa và sắc mặt nàng bỗng đỏ bừng lên rồi đổi u uất.
- Tôi đến đây để xin em tha thứ cho, - chàng kêu to không ra âm điệu gì, như khi đọc một bài học thuộc lòng.
Kêu xong mấy tiếng đó, chàng cảm thấy hổ thẹn và bất giác ngoảnh đầu lại. Nhưng vừa lúc ấy thì chàng lại chợt nghĩ rằng nếu thấy hổ thẹn thì càng hay vì chàng cần phải chịu sự hổ thẹn. Và chàng tiếp tục kêu to:
- Hãy tha thứ cho tôi, tôi có tội rất nặng với…
Nàng đứng yên không nhúc nhích và đôi mắt hơi hiếng vẫn không rời Nekhliudov.
Nekhliudov không thể nói được nữa, rời khỏi tấm lưới đi ra, cố ghìm những tiếng nức nở đang làm cho lồng ngực chàng rung chuyển.
Viên phó giám ngục, người lúc nãy chỉ lối cho Nekhliudov sang khu phụ nữ, chắc là có chú ý đến chàng nên cũng đến đây. Thấy Nekhliudov không đứng cạnh tấm lưới, y hỏi tại sao chàng không nói chuyện với người chàng cần gặp. Nekhliudov xỉ mũi: giấu xúc động, cố gắng lấy vẻ bình tĩnh trả lời:
- Tôi chịu không thể nói qua tấm lưới ấy được. Không nghe thấy gì cả.
Viên phó giám ngục nghĩ ngợi một lát rồi nói:
Được có thể cho dẫn nữ tù nhân ấy ra đây một lúc.
- Maria Karlovna! - Y gọi mụ cai ngục. - Dẫn Maxlova ra ngoài nầy.
Một lát sau, Maxlova ở cửa bên kia đi ra. Bước nhẹ nhàng tới sát Nekhliudov, nàng đứng lại và không ngầng đầu nàng ngước mắt nhìn chàng. Làn tóc đen cũng như ba hôm trước xổ ra thành vòng búp nhỏ; gương mặt ốm yếu trắng bệch và hơi xì xị nhưng trông vẫn dễ thương và rất bình tĩnh. Chỉ có đôi mắt hơi hiếng đen láy dưới đôi mi mòng mọng là sáng long lanh lạ thường.
- Ông có thể nói chuyện ở đây được, - viên phó giám ngục nói rồi bỏ đi.
Nekhliudov bước lại gần chiếc ghế dài kê cạnh tường.
Maxlova nhìn theo viên phó giám ngục, vẻ dò hỏi xem ý tứ rồi nhún vai như tỏ ý ngạc nhiên, nàng bước theo Nekhliudov đến cạnh chiếc ghế, thu vạt váy lại và ngồi xuống bên chàng.
- Tôi biết răng cô khó mà tha thứ cho tôi được, - Nekhliudov bắt đầu nói. Nhưng chàng lại ngừng lại, cảm thấy nước mắt đưa lên nghẹn lời, - nhưng nếu như không thể sửa chữa lại được quá khứ thì bây giờ tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được. Cô hãy nói cho tôi biết…
- Sao anh lại tìm thấy tôi? - Không trả lời Nekhliudov, nàng hỏi lại, chốc chốc lại đưa đôi mắt hiếng nhìn chàng.
"Lạy Chúa! Hãy giúp con. Hãy bảo con phải làm gì bây giờ" - Nekhliudov tự nhủ, mắt nhìn gương mặt nàng đã khác trước quá nhiều, bây giờ đã xấu đi.
- Hôm kia, tôi làm bồi thẩm, - chàng nói, - Hôm ấy toà xử cô. Hôm ấy cô không nhận ra tôi phải không?
- Không, tôi không nhận ra. Tôi còn thì giờ nào để nhận ra ai nữa. Mà tôi cũng chẳng nhìn, - nàng nói.
- Cô có sinh được một đứa con phải không? - Nekhliudov hỏi và cảm thấy mặt mình đỏ bừng lên.
- Ơn Chúa, nó chết ngay từ hồi ấy, - nàng trả lời gọn lỏn, tàn nhẫn, quay mặt đi, không nhìn chàng nữa.
- Sao kia, tại sao nó chết?
- Hồi ấy chính tôi cũng ốm suýt chết, - nàng nói, mắt vẫn nhìn xuống.
- Các cô tôi sao lại để cô đi?
- Ai lại chứa một đứa hầu phòng có con kè kè bên cạnh bao giờ? Họ biết tôi có chửa là họ đuổi tôi đi ngay. Mà nhắc lại làm gì nữa, tôi chả còn nhớ gì cả, tôi quên hết rồi. Chuyện đã qua rồi mà!
- Không, chưa qua đâu. Tôi không thể để như vậy được. Tôi muốn giờ đây ít ra cũng chuộc lại tội lỗi của mình.
- Không có gì phải chuộc cả. Chuyện đã qua là đã qua, - nàng nói, và giờ đây là một điều chàng không sao ngờ tới được, nàng bỗng ngước nhìn chàng và nhoẻn một nụ cười mơn trớn, vô duyên thiểu não.
Maxlova không hề ngờ gặp lại Nekhliudov, nhất là ở đây giữa lúc nầy, vì thế thấy chàng, phút đầu nàng sửng sốt và bắt buộc phải nhớ lại tất cả những điều mà từ lâu nàng không hề nhớ tới. Thoạt đầu, nàng lờ mờ nhớ lại cả cái thế giới môi mẻ kỳ điệu đầy tình cảm và thơ mộng mà một chàng trai trẻ, xinh đẹp yêu nàng và được nàng yêu lại đã mở ra cho nàng; rồi nhớ tới sự tàn nhẫn khó hiểu của con người ấy cùng biết bao nỗi tủi nhục đau khổ bắt nguồn từ niềm hạnh phúc thần tiên kia và đã kế tiếp xảy đến. Và nàng thấy đau lòng. Nhưng vì không đủ sức hiểu được chuyện đó, nàng đành lại xử sự như nàng vẫn xử sự mọi khi: xua đuổi những kỷ niệm đau buồn ấy đi, cố gắng dìm chúng trong đám sương mù dầy đặc của cuộc đời truỵ lạc. Giờ đây, nàng đang làm đúng như thế.
Thoạt tiên, nàng đem con người hiện đang ngồi trước mặt nàng ghép lại với chàng trai trẻ xưa kia nàng đã yêu Nhưng rồi thấy điều đó đau lòng quá, nàng lại thôi.
Bây giờ người đàn ông ăn mặc sang trọng, chải chuốt, có bộ râu xức nước hoa nầy đổi với nàng không phải Nekhliudov mà nàng đã yêu, ông ta chỉ là một trong những tay "khách làng chơi" khi họ cần họ vẫn thường lợi dụng những con người như nàng, và đồng thời, những con người như nàng cũng vẫn lợi dụng họ cách nào càng có lợi cho mình nhiều càng tốt. Chính vì thế nàng nhoẻn cười mơn trớn với Nekhliudov. Nàng nín lặng nghĩ xem cớ thể lợi dụng được gì ở chàng đây.
- Thôi, mọi việc thế là đã xong cả, - nàng nói. - Và giờ đây tôi bị kết án khổ sai.
Và môi nàng run lên khi nói đến hai tiếng khủng khiếp nầy.
- Tôi biết rằng cô không có tội gì. Tôi tin chắc như vậy! - Nekhliudov nói.
- Dĩ nhiên là tôi không có tội gì. Tôi đâu phải là quân trộm cướp. Ở chỗ tôi người ta bảo mọi sự đều do thầy cãi, nàng nói tiếp. - Nghe bảo cần phải đệ đơn chống án. Nhưng nghe nói họ đòi đắt tiền lắm.
- Đúng, nhất đinh phải đệ đơn, - Nekhliudov nói. Tôi đã tìm trạng sư rồi.
- Đừng nên tiếc tiền, phải tìm tay thật giỏi! - nàng nói.
- Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được.
Hai người im lặng.
Nàng lại mỉm cười như ban nãy. Rồi đột nhiên nàng nói:
- Tôi muốn xin anh… ít tiền, nếu anh có thể cho được. Ít thôi… mười rúp thôi, không cần hơn.
- Được, được! - Nekhliudov lúng túng nói và rút ví tiền ra.
Nàng liếc nhanh về phía viên phó giám ngục đang đi đi lạl lại trong gian phòng.
- Có hắn ta thì anh đừng đưa, đợi cho hắn đi ra xa đã. Không thì họ lấy mất.
Viên phó giám ngục vừa quay lưng đi thì Nekhliudov rút ví ra, nhưng chàng chưa kịp đừa tờ giấy bạc mười rúp thì y đã quay mặt lại. Chàng nắm chặt tờ giấy bạc trong lòng bàn tay.
Đây quả là một con người đã chết rồi. - Chàng nghĩ bụng, mắt nhìn kỹ gương mặt xưa kia đáng yêu nay đã trở thành ra dơ dáy, xì xị, đôi mắt hiếng đen lóe lên một ánh bất lương vừa theo dõi viên phó giám ngục, vừa nhìn bàn tay nắm tờ giấy bạc. Và Nekhliudov đã thấy có một phút ngập ngừng. Thằng người quyến rũ đêm trước, giờ đây lại lên tiếng trong tâm Nekhliudov; nó lại nói với chàng và như mọi khi, cố tìm cách làm chàng xa rời việc phải làm và đưa chàng quay về suy tính tới hậu quả của việc mình làm, nghĩ tới những điều có lợi. Nó bảo rằng: "Anh không cải tạo nổi người đàn bà nầy đâu, chỉ đeo thêm vào cổ một tảng đá, nó sẽ dìm chết anh và sẽ không cho anh làm gì có ích cho đời cả: Hãy đưa tiền cho nó đi, đưa tất cả những gì anh có, rồi giã từ nó, đừng bao giờ dính dáng tới nó nữa!".
Nhưng ngay lúc đó, chàng cảm thấy giờ đây, chính phút nầy đây, trong tâm hồn mình đang diễn ra cái gì hết sức quan trọng. Chàng cảm thấy giữa phút nầy, tâm hồn chàng đang được đặt trên một cán cân, chỉ cần cố nhích đi một chút là cán cân sẽ nghiêng hẳn về một bên.
Và chàng thực hiện sự cố gắng ấy, chàng thầm cầu cứu Chúa và hôm qua chàng cảm thấy Người đã ngự trong tâm hồn mình; quả nhiên Chúa hưởng ứng ngay lời chàng cầu nguyện. Chàng quyết định nói ngay hết cả với nàng.
- Katiusa Anh đến gặp em để xin em tha thứ mà em vẫn chưa trả lời. Em đã tha thứ cho anh chưa, hoặc liệu sau nầy lúc nào em sẽ tha thứ cho anh, - chàng nói, cách xưng hô bỗng đổi sang thân mật.
Maxlova không nghe Nekhliudov nói, mắt vẫn mải lúc nhìn bàn tay chàng, lúc nhìn viên phó giám ngục.
Khi viên nầy quay đi, nàng đưa nhanh tay, nắm luôn tờ giấy bạc và gài ngay vào thắt lưng.
- Anh nói lạ, - Maxlova nói với một nụ cười mà chàng thấy có ngụ vẻ khinh bỉ. - Nekhliudov cảm thấy trong lòng Maxlova vẫn có một cái gì thực sự thù địch đối với chàng, nó bảo vệ cho con người nàng hiện nay và nó ngăn chặn không cho chàng đi sâu vào trái tim nàng.
Nhưng, lạ thay, cái đó chẳng những không đẩy chàng ra mà lại như có một sức hút mới mãnh liệt kéo riết chàng lại gần nàng. Chàng cảm thấy mình có bổn phận phải thức tỉnh tâm hồn nàng. Việc tuy rất khó nhưng chính cái khó ấy đã lôi cuốn chàng. Chàng cảm thấy giờ đây với nàng? Chàng có một cảm giác trước đây chưa từng có đối với nàng cũng như đối với bất cứ một người nào khác, một cảm giác không mảy may vị kỷ: chàng không muốn đòi hỏi gì ở nàng mà chỉ muốn mỗi một điều là nàng sẽ thay đổi, sẽ trút bỏ con người hiện nay và tỉnh ngộ, trở lại con người trước kia.
- Katiusa, sao em lại nói thế? Là vì anh biết em, anh còn nhớ em hồi đó, ở Panovo…
- Nhắc lại chuyện cũ làm gì, - nàng lạnh lùng nói.
- Anh nhớ lại chuyện cũ, để chuộc lại lỗi lầm xưa, Katiusa ạ, - chàng mở đầu rồi định nói thêm là chàng sẵn sàng lấy nàng làm vợ, nhưng lại vấp phải tia mắt nàng và đọc thấy trong tia mắt đó có cái gì thật rùng rợn, thật thô bỉ và ghê tởm, nên chàng không nói được nữa.
Lúc đó người vào thăm đã lục tục ra về… Viên phó giám ngục lại gần Nekhliudov, nhắn chàng là giờ vào thăm đã hết. Maxlova đứng dậy, ngoan ngoãn, chờ lệnh trở về nhà giam.
- Thôi tạm biệt, tôi còn muốn nói với cô nhiều, nhưng như cô thấy đấy, hôm nay chưa nói được, - Nekhliudov nói và chia tay. - Tôi sẽ còn trở lại.
- Tôi thấy hình như anh đã nói cả rồi…
Maxlova đưa tay nhưng không nắm.
- Không, tôi sẽ gắng gặp cỏ nữa, ở nơi nào ta có thể nói chuyện bình tĩnh với nhau, bấy giờ tôi sẽ nói một điều rất quan trọng mà tôi thấy cần phải nói với cô. - Nekhliudov nói.
- Vậy thì anh cứ đến! - Nàng nói, miệng mỉm cười, một nụ cười nàng thường vẫn dành cho những người đàn ông mà nàng muốn lấy lòng.
- Tôi quý cô hơn cả em ruột, - Nekhliudov nói.
- Anh nói lạ? - Nàng lắc đầu, đi vào phía sau tấm lưới.
Chương 44
Trong buổi gặp nhau lần thứ nhất, Nekhliudov cứ đinh ninh là khi Katiusa thấy mặt chàng, biết được ý chàng định giúp đỡ mình và thấy chàng hối hận thì nàng sẽ sung sướng sẽ cảm động và sẽ trở lại thành cô gái Katiusa ngày xưa. Nhưng chàng kinh sợ biết bao khi thấy không còn đâu là Katiusa nữa mà chỉ có Maxlova thôi: Điều nầy khiến chàng hết sức kinh ngạc.
Điều làm chàng ngạc nhiên nhất là Maxlova không hề hổ thẹn về cái hoàn cảnh của mình, mà hình như còn lấy thế làm tự mãn, gần như hãnh diện nửa. Đây không nói đến hoàn cảnh tù nhân (về hoàn cảnh nầy thì nàng có hổ thẹn) mà là hoàn cảnh làm đĩ nhưng xét cho cùng thì không thể nào khác được: Muốn hành động, bất cứ ai trong chúng ta cũng phải coi trọng công việc của mình là quan trọng và tốt đẹp. Chính vì thế, dù cho ở hoàn cảnh thấp kém thế nào đi nứa, con người cũng nhất định phải tự tạo cho mình một cách nhìn đời để có thể thấy việc mình làm là quan trọng và tốt đẹp. Thường người ta cứ tưởng lẩm rằng kẻ trộm cắp, quân giết người, tên mật thám, ả gái điếm, đều tự biết nghề của họ là xấu xa và phải lấy làm hổ thẹn. Thật ra thì không phải thế. Những người bị số phận và tội lỗi hãm vào một hoàn cảnh nào đó, - hoàn cảnh nầy dù có xấu xa mấy đi nữa, - họ cũng vẫn tự tạo ra cho mình một cách nhìn đời, nói chung khiến họ thấy hoàn cảnh của họ là tốt đẹp và chính đáng. Để bào chữa cách nhìn đó, tự nhiên họ đứng vào phía những người thừa nhận cách nhìn của họ về cuộc đời và về hoàn cảnh riêng của họ trong xã hội.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy những tên trộm cắp khoe khoang mánh khóe tài tình của chúng, những ả gái điếm khoe khoang cảnh truỵ lạc của họ, những quân giết người khoe khoang tính hung ác của chúng. Nhưng chúng ta ngạc nhiên như vậy chỉ vì cái giới của những con người ấy có hạn và nhất là vì chúng ta sống ở ngoài giới đó. Ấy thế mà phải chăng cũng có một hiện tượng như vậy đã diễn ra trong tầng lớp những người giàu có khoe khoang tài sản của họ tức là của cải họ đã ăn cướp được; trong tầng lớp các ngài chỉ huy chiến tranh khoe khoang các trận họ đã chiến thắng tức là các cuộc tàn sát; trong tầng lớp những kẻ thống trị khoe khoang oai quyền của họ nghĩa là sự bạo ngược? Nếu chúng ta không nhận thấy bọn họ có một quan niệm đồi bại về cuộc đời và về thiện ác để bào chữa cho hành vi của hò thì đó chỉ vì giới những người có cùng một quan niệm đồi bại như thế rộng lớn hơn và chính bản thân chúng ta đây cũng đứng vào giới những người đó.
Ở Maxlova cũng có một cách nhìn đối với cuộc đời của nàng và vị trí của nàng trong xã hội như vậy. Là gái điếm, bị kết án khổ sai, nhưng nàng vẫn tự tạo cho mình một cách nhìn đời để chẳng những thấy mình là phải mà còn hãnh diện được với mọi người về hoàn cảnh của mình nữa.
Theo cách nhìn đời đó thì đối với tất cả mọi người, không trừ một ai - già, trẻ, học sinh, tướng tá, có học, vô học - hạnh phúc lớn nhất là được quan hệ xác thịt với những người đàn bà có nhan sắc. Và vì thế nên bọn đàn ông mặc dầu họ giả vờ bận bịu công kia việc nọ, thực ra tất cả đều chỉ mong ước có mỗi một điều ấy. Còn nàng, một người đàn bà có nhan sắc, nàng có thể thoả mãn hay không thoả mãn mong ước ấy của họ, vì thế nàng là một con người quan trọng và cần thiết. Toàn bộ cuộc sống trước kia và hiện nay của nàng đã xác nhận rằng cách nhìn ấy là đúng.
Trong suốt mười năm trời, bất kỳ ở đâu, nàng cũng nhận thấy từ người đầu tiên là Nekhliudov, rồi lão cẩm già cho tới cuối cùng là những tên cai ngục mánh lới, ở đâu bọn đàn ông cũng cần đến nàng. Chính vì thế tất cả thế giới trước con mắt nàng chỉ là một tập hợp những con người bị lòng dâm thôi thúc. Họ rình nàng từ tứ phía và tìm đủ mọi cách lừa bịp, cưỡng ép, mua chuộc, mưu mẹo để cố chiếm được nàng.
Maxlova hiểu cuộc đời là như vậy. Nhờ vậy nàng không những không phải là người thấp kém nhất mà còn là người rất trọng yếu nữa. Và Maxlova quý giá cách nhìn đời ấy hơn tất cả mọi thứ ở trên đời. Nàng không sao không quý cách nhìn đó được vì nếu mất nó, nàng sẽ mất cái ý nghĩa quan trọng của mình trong cuộc đời mà nó đã mang lại cho nàng. Và muốn khỏi mất cái ý nghĩa ấy của mình trong cuộc đời, tự nhiên theo bản tính nàng bám lấy giới những người cùng có một lối nhìn đời như nàng. Khi cảm thấy Nekhliudov muốn đưa mình sang thế giới khác, nàng phản đối ngay vì nàng thấy trước rằng cái thế giới mà Nekhliudov muốn đưa nàng tới sẽ làm cho nàng mất cái vị trí hiện nay trong đời, cái vị trí đã đem lại cho nàng lòng tự trọng và niềm tin. Vì lẽ đó, nàng xua đuổi ra khỏi tâm trí cả những kỷ niệm về thời niên thiếu và về những quan hệ đầu tiên tới Nekhliudov.
Những kỷ niệm đó không phù hợp với cách nhìn đời của nàng hiện nay và vì thế nàng đã xoá hẳn chúng trong trí nhớ, hoặc là nàng vùi chúng ở một góc kín trong tâm hồn để không bao giờ đụng tới; nàng đã lấp kín, trát kín những kỷ niệm đó như những con ong đã lấp kín, trát kín những tổ côn trùng nào có thể đến phá hoại tổ của chúng. Chính vì thế, ngày nay nàng coi Nekhliudov không còn là chàng trai trẻ xưa kia nàng đã yêu bằng cả một mối tình trong trắng mà chỉ là một trang công tử giàu sang nàng có thể và cần phải lợi dụng, một người nàng chỉ có thể giao dịch như đối với tất cả bọn đàn ông khác.
"Hỏng! Hôm nay ta chưa nói được điều chủ yếu, - Nekhliudov suy nghĩ khi đi ra theo dòng người. - Ta chưa nói được với nàng là ta sẽ lấy nàng làm vợ. Ta chưa nói được nhưng rồi ta sẽ nói", - chàng nghĩ.
Mấy tên cai ngục đứng ở cửa lại đưa tay ra vỗ vào mỗi người để đếm những khách vào thăm đang đi trở ra, để phòng khỏi có tù lọt ra ngoài hoặc có người ở lại bên trong nhà giam. Việc bị người ta chen lấn, vỗ vào lưng bây giờ chẳng những không còn làm Nekhliudov thấy bị xúc phạm, mà chàng cũng không để ý đến nữa.
Chương 45
Nekhliudov muốn thay đổi cuộc sống bên ngoài của mình, cho thuê căn nhà ở rộng hơn, thải hết đầy tớ rồi đến ở khách sạn. Nhưng bà Agrafena Petrovna nói rõ cho chàng thấy là từ nay đến mùa đông càng không có thể thay đổi chút gì trong cách sống được: vì mùa hè không có ai thuê nhà, vả lại dù sao cũng vẫn cần có chỗ để ở và chứa giữ đồ đạc. Thế là bao nhiêu cố gắng của Nekhliudov định thay đổi lối sống (chàng muốn sống giản dị kiểu sinh viên) đều không thực hiện được. Không những mọi thứ vẫn nguyên như cũ; mà công việc trong nhà lại còn bắt đầu tăng lên: nào là phơi phóng cho hả hơi, nào treo lên dây và đập cho hết bụi đủ các thứ đồ len dạ và đồ lông thú. Tham gia vào công việc nầy có anh gác cổng với người giúp việc anh ta, có chị nấu bếp và cả Korney, người hầu phòng của chàng nữa. Đầu tiên họ lôi ra và treo lên dây những bộ quân phục, những quần áo bằng lông thú kỳ dị chẳng thấy ai dùng đến bao giờ. Sau đó khuân đến các tấm thảm và bàn ghế ra, anh gác cổng và người giúp việc, tay áo xắn để lộ những cánh tay trần lực lưỡng, lấy sức đập nhịp nhàng; mùi băng phiến toả ra sặc khắp các phòng. Đi ngang qua sân hay đứng trong cửa sổ nhìn ra, Nekhliudov ngạc nhiên khi thấy sao có quá nhiều thứ đến thế, mà nào có dùng vào việc gì đâu. Những thứ nầy chỉ có mỗi một công dụng và một ý nghĩ – Nekhliudov nghĩ, - là để cho Agrafena Petrovna, korney, anh gác cổng với người giúp việc anh ta và chị nấu bếp có dịp vận động một chút cho khỏe.
Việc Maxlova chưa giải quyết xong thì cũng chưa cần thay đổi lối sống bây giờ, - Nekhliudov nghĩ. - Mà thay đổi cũng khó lắm. Sự thể tự nó khắc thay đổi khi nàng được tha hay bị đi đầy và ta sẽ đi theo nàng.
Đến ngày hẹn, Nekhliudov tới nhà Fanarin. Viên luật sư nầy ở một toà biệt thự riêng của mình, một toà biệt thự rất lộng lẫy, có nhiều cây to, cửa sổ căng những tấm màn kỳ lạ và nói chung có nhiều đồ bầy biện rất sang, thường chỉ thấy ở những nhà mới nổi lên giầu có một cách bất ngờ, chứng tỏ chủ nhân đã kiếm tiền như bỡn, nghĩa là không khó nhọc gì. Vào đến trong nhà, Nekhliudov thấy ở phòng đợi những khách đang chờ lượt, giống như ở những phòng khám bệnh của thầy thuốc.
Họ ngồi ủ dột cạnh những chiếc bàn trên có đặt nhiều hoạ báo để khách xem cho đỡ buồn. Người giúp việc của luật sư ngồi ngay đấy, trước mặt một chiếc bàn giấy cao; nhìn thấy Nekhliudov; người ấy bèn đến chào và nói xin sẽ vào thưa ngay với chủ. Nhưng anh ta chưa kịp bước tới cửa phòng giấy thì cửa đã mở ra và nghe thấy tiếng nói to và vui vẻ của Fanarin trò chuyện với một người đứng tuổi, thấp bé, mặt đỏ, ria mép rậm, mặc một bộ quần áo mới tinh. Cả hai bộ mặt đều lộ vẻ hể hả thường thấy ở những người vừa mới làm xong một việc hời, nhưng không được lương thiện lắm.
- Thưa ông, chính lỗi ở ông đấy, Fanarin mỉm cười nói.
- Cũng muốn lên thiên đường đấy, nhưng còn vướng tội lỗi.
- Thôi, thôi, ai còn lạ gì nữa.
Và cả hai đều cười gượng gạo.
- A, công tước, xin mời, - nhìn thấy Nekhliudov, Fanarin nói và, sau khi gật đầu một lần nữa chào người thương gia đang đi ra, y dẫn chàng vào phòng làm việc bày biện theo một kiểu trang nghiêm. - Mời công tước cứ hút thuốc, - viên luật sư vừa nói vừa ngồi xuống đối diện với Nekhliudov và cố nén nụ cười thoả thích vì thành quả của công việc vừa làm xong.
- Cảm ơn, tôi đến về việc Maxlova.
- Vâng, vâng, xin sẵn sàng ạ. Gớm, những tay giàu sụ nầy quả là láu cá thật! - Y nói. - Công tước có thấy thằng cha vừa đi ra đấy không? Vốn của hắn có tới mười hai triệu: Thế mà hắn nói: còn "vướng". Hừ, giá có có móc được của công tước một tờ hai mươi lăm rúp thôi, thì có phải dùng răng mà rứt lấy hắn cũng chẳng từ.
Hắn ta nói còn "vướng", còn anh ta thì nói: tờ hai mươi lăm rúp, - Nekhliudov nghĩ. Chàng cảm thấy một sự ghê tởm không thể ghìm được đối với con người nói năng suồng sã nầy; y muốn tỏ ra y với Nekhliudov là về một cánh, còn những người khách đến trước và những người khác là ở một cánh.
- Thằng cha làm tôi chối quá lắm, thật là một thằng đểu cáng. Xin lỗi! Tôi phải nói cho hả, - viên luật sư nói như muốn thanh minh tại sao y lại nói lạc sang chuyện khác - Thôi, đến việc của công tước: Tôi đã đọc hồ sơ rất cẩn thận à "không tán thành nội dung của nó" như lời Turgenev đã nói, có nghĩa là thằng cha luật sư ấy tồi quá, hắn đã bỏ lỡ hết những lý lẽ để bác án.
- Vậy thế ông quyết định ra sao?
- Đợi tôi một phút. Anh nói cho hắn ta biết, - viên luật sư bảo người giúp việc vừa vào, - là tôi đã nói thế nào thì cứ thế, được thì tốt, không được thì cũng không cần.
- Nhưng ông ta không chịu.
- Thế thì thôi, không cần, - viên luật sư nói và vẻ mặt của y hả hê, hiền từ bỗng trở thành bực bội, độc ác.
- Đấy thế mà cứ bảo nghề luật sư hái ra tiền, - y nói, lấy lại vẻ mặt tươi tỉnh. - Tôi cứu cho một con nợ thoát khỏi một cái án hoàn toàn vô lý, thế là bây giở tất cả bọn họ cứ đổ xô đến nhờ tôi. Và mỗi một vụ như thế là phải tốn bao tâm huyết. Như một nhà văn nào đã nói, bọn chúng tôi cũng để lại xương máu trong lọ mực. Còn vụ của công tước, hay nói đúng hơn, vụ án mà công tước quan tâm, - y nói tiếp, - vụ đó đã tiến hành bậy bạ quá đi mất, thật khó mà tìm ra được những lý vững để bác án, nhưng dù sao cũng cứ thử xin bác án xem. Và đây tôi đã thảo như thế nầy.
Nói đến đó, y cầm một tờ giấy đã viết kín chữ, đọc lướt nhanh những đoạn về thủ tục không có gì đáng chú ý rồi lấy vẻ trịnh trọng, đọc những đoạn khác:
"Kính trình toà Phá án vân vân và vân vân, đơn khiếu nại. Theo quyết định của bản án vân vân và vân vân, thị Maxlova gì đó bị xét là phạm tội mưu sát bằng thuốc độc người lái buôn Xmienkov và dựa trên điều 1454 Luật Hình, đã bị kết án tội khổ sai vân vân".
Y dừng lại; rõ ràng là tuy đã quá quen công việc, y vẫn thấy thích thú nghe tác phẩm của mình.
"Bản phán quyết nầy là kết quả trực tiếp của sự vi phạm và sai lầm rất trầm trọng trong thủ tục tố tụng, - y đọc tiếp, vẻ quan trọng. - do đó nó cần được huỷ bỏ. Một là ông chánh án đã ngắt ngay từ đầu việc đọc biên bản phân chất phủ tạng Xmienkov trong khi toà thẩm xét" - đó là một nhé
- Nhưng đấy là viên công tố yêu cầu tuyên đọc đấy chứ! - Nekhliudov ngạc nhiên nói.
- Mặc, bên bị có quyền đòi hỏi chính điều đó.
- Nhưng điều đó không có ai cần đến cả.
- Dù sao đó cũng vẫn là một cớ để xin bác án. "Hai là; người biện hộ cho Maxlova, - y đọc tiếp, - trong lúc nói đã bị ông chánh án ngắt lời khi người ấy vì muốn nêu rõ tính nết của Maxlova, đã trình bày những nguyên nhân sâu xa đưa bị can đến chỗ sa ngã, lấy lý do là lời biện hộ không trực tiếp liên quan đến vụ án: Nhưng thực ra trong các vụ án hình, như Khu mật viện đã nhiều lần chỉ rõ, việc trình bày tường tận tính nết và nói chung tình trạng tâm lý của bị can có một ý nghĩa quan trọng bậc nhất, dù chỉ để giải quyết đúng vấn đề định mức độ phạm pháp" - hai nhé, - viên luật sư liếc mắt nhìn Nekhliudov nói.
- Khốn nhưng viên trạng sư nói tồi lắm đến nỗi không sao hiểu được hắn nói gì, - Nekhliudov nói, càng ngạc nhiên hơn.
Fanarin cười, nói:
- Kể ra thì cậu ấy hết sức ngu xuẩn, đương nhiên là hắn chẳng nói được một điều gì lọt tai cả, nhưng dù sao cũng vẫn là một cớ. Thôi, sau nữa "Ba là trong lời trình bày tóm tắt, ông chánh án đã vi phạm khoản 1 Điều 801 Luật hình sự tố tụng: ông đã không giải thích cho các bồi thẩm biết sự phạm pháp phải dựa trên những yếu tố tư pháp nào; cũng không nói cho các bồi thẩm biết là sau khi công nhận sự kiện Maxlova đầu độc Xmienkov thì vẫn có quyền không công nhận thị phạm tội hình mà chỉ phạm phải hành vi khinh suất dẫn đến cái chết của người lái buôn, mà Maxlova không ngờ tới". Đấy, mấu chốt là ở đấy.
- Và kể ra chính chúng tôi hôm đó cũng có thể hiểu được điều nầy. Đó là lỗi của chúng tôi.
"Và sau hết, bốn là, - viên luật sư đọc tiếp, - hình thức trình bày lời đáp của các bồi thẩm cho câu hỏi của toà về mức phạm tội của Maxlova có một mâu thuẫn rõ rệt, Maxlova đã bị khép vào tội dụng tâm đầu độc Xmienkov với một mục đích hoàn toàn vụ lợi, đó là động cơ duy nhất của vụ sảt nhân. Nhưng qua câu trả lời thì các bồi thẩm lại phủ nhận mục đích đánh cắp và phủ nhận việc Maxlova có tham gia vào việc đánh cắp. Như thế rõ ràng là họ muốn phủ nhận cả dụng tâm sát nhân của bị cáo. Và chỉ tại lời trình bày tóm tắt của chánh án không nêu rõ được điều đó một cách thích đáng trong câu trả lời củá họ. Chính vì thế mà câu trả lời của các bồi thẩm đòi hỏi tuyệt đối phải áp dụng điều 808 và 816 của Luật hình sự tố tụng, nghĩa là đáng lẽ chánh án phải nói cho các bồi thẩm biết sai lầm của họ và yêu cầu họ họp một lần nữa để trả lời lại câu hỏi về sự phạm pháp của bị cáo". Fanarin đọc xong đoạn.
- Vậy tại sao ông chánh án không làm thế?
- Chính tôi cũng muốn biết tại sao, - Fanarin cười, nói.
- Như vậy Khu mật viện sẽ sửa lại chăng?
- Cái đó còn tuỳ ở mấy ông già lẩm cẩm(1) sẽ họp để phúc tra vụ nầy.
- Những ông già lẩm cẩm nào?
- Ở viện dưỡng lão ấy!. Như thế đấy. Chúng tôi viết tiếp "Một bản án như vậy không cho toà án có quyền, - y đọc tiếp nhanh, - xử Maxlova tội khổ sai. Và việc áp dụng ở đây khoản 3, điều 771 Luật hình sự tố tụng đối với bị cáo là một sự vi phạm thô bạo những nguyên tắc cơ bản về thủ tục xử án hình của chúng ta. Dựa trên những điều đã trình bày, tôi xin đề nghi chính thức vân vân và vân vân huỷ bỏ theo điều 909 và 910, điều 912 và điều 928 trong Luật hình sự tố tụng vân vân và vân vân, chuyển hồ sơ vụ án nầy sang bộ phận khác cũng của toà án đó để xét lại". Đó những gì có thể làm được đều đã làm cả. Nhưng tôi thú thật, cũng ít hy vọng có kết quả. Mà tất cả đều phụ thuộc vào thành phần tư pháp ở Khu mật viện gồm những ai. Nếu công tước có quen thuộc ai ở đấy thì chịu khó xoay xở xem…
- Tôi có quen một vài người.
- Mà cũng nên làm gấp lên, chứ không họ đi chữa bệnh trĩ mất thì lại phải đợi ba tháng nữa. Nhưng có kết quả thì chỉ còn có cách dâng lên Hoàng thượng xin ân xá thôi. Cái nầy cũng tuỳ theo công việc chạy chọt. Đến trường hợp ấy tôi cũng sẽ sẵn sàng giúp đỡ công tước nghĩa là không phải giúp vận động ngầm và giúp thảo bản sớ.
- Cảm ơn ông, thế còn tiền thù lao, thì…
- Người giúp việc của tôi sẽ trao công tước đơn kháng án đã chép lại và sẽ nói với công tước.
- Tôi còn muốn hỏi ông: ông chưởng lý đã cho tôi giấy vào nhà tù gặp người ấy. Nhưng ở đấy người ta lại bảo tôi là còn cần xin giấy phép của ông tỉnh trưởng mới được gặp ngoài ngày giờ và chỗ đã quy định. Có cần phải thế không?
- Tôi cho là cần đấy. Nhưng bây giờ tỉnh trưởng đi vắng. Có ông phó thay. Nhưng lão nầy đẩn độn lắm, công tước gặp chưa chắc đã ăn thua gì đâu.
- Có phải Maxlenikov không?
- Đúng lão ấy đấy.
- Tôi có quen ông ta, - Nekhliudov nói và đứng dậy đi ra.
Vừa lúc ấy một người đàn bà nhỏ bé, mặt vàng bủng, gầy nhom, mũi hếch, xấu xí lạ thường, bước thoăn thoắt như bay vào phòng. Đó là vợ viên luật sư. Rõ ràng là mụ không hề buồn một chút nào về vẻ xấu xí của mụ. Mụ không những chỉ ăn bận diêm dúa một cách độc đáo quá quắt quấn vào người nào gấm, nào lụa, đủ màu vàng, xanh lòe loẹt, mà mụ còn thuê uốn quăn bộ tóc thưa của mình một cách hết sức cầu kỳ nữa. Mụ lao vào phòng đợi như một kẻ chiến thẳng, cùng đi có một người cao lênh khênh, vẻ mặt hoan hỉ, nước da xám xịt, mặc lễ phục có ve lụa và đeo cravat trắng. Đó là một văn sĩ, Nekhliudov có biết mặt anh chàng nầy.
- Anaton, mụ ra mở cửa, nói luôn một lèo, - mình về phòng em đi. Anh Xemion Ivanovich hứa đọc thơ của anh ấy cho vợ chồng mình nghe. Còn mình, thế nào cũng phải đọc bản tiểu luận của mình về Garsin(2) đấy.
Nekhliudov cáo từ định đi ra, nhưng mụ vợ viên luật sư thì thầm với chồng mấy câu rồi quay ngay lại nói với chàng:
- Thưa công tước, tôi đã biết công tước và nghĩ không cần phải ai giới thiệu nữa. Xin mời công tước đến dự buổi bình văn của chúng tôi sáng nay, công tước sẽ thấy rất thú vị. Anh Anaton đọc thì thật là tuyệt.
- Công tước thấy không, tôi bận một trăm thứ việc, - Anaton nói, giơ hai tay, mỉm cười trỏ vào vợ, ý muốn nói không thể nào từ chối lời yêu cầu của một giai nhân như vậy được.
Bằng vẻ mặt buồn rầu, nghiêm nghị, nhưng với một thái độ hết sức lịch thiệp, Nekhliudov cảm ơn bà luật sư đã có nhã ý mời chàng, nhưng tỏ ý lấy làm tiếc không thể nhận lời được, rồi chàng ra phòng ngoài.
Chàng vừa ra khỏi thì mụ vợ viên luật sư nói:
- Cao đạo gớm!
Ở phòng đợi, người giúp việc luật sư trao cho Nekhliudov bản đơn kháng án đã làm xong và khi chàng hỏi về tiền nhuận bút thì anh ta bảo rằng Anaton Petrovich đã định là một ngàn rúp và trình bày thêm rằng thường thì Anaton Petrovich không nhận làm những việc như thế, nhưng vì nể chàng mà giúp thôi.
- Ai phải ký vào bản nầy? - Nekhliudov hỏi.
Chính bị cáo, nếu có khó khăn thì luật sư Anaton Petrovich sẽ ký thay sau khi được bị cáo uỷ quyền.
Không, tôi sẽ đến tận nơi và lấy chữ ký của bị cáo, - Nekhliudov nói, lòng sung sướng thấy được có dịp gặp Maxlova trước ngày ấn định.
Chú thích:
(1) Fanarin dùng các từ "ông già lẩm cẩm" và "viện dưỡng lão" để chỉ các quan Khu mật và Khu mật viện. (ND).
(2) Garsin (1865-1888), văn sĩ Nga