View Single Post
  #7  
Old 12-24-2012, 10:30 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Phục Sinh - Chương 71 - 81

PHỤC SINH


Chương 71


Vì nhà lao ở xa, vả lại đã muộn, nên Nekhliudov thuê một chiếc xe ngựa để đi. Đến một dãy phố, anh xà ích, một người trung niên, mặt khôi ngô, trung hậu, vừa quay lại phía chàng vừa chỉ vào một toà nhà to lớn đang xây dựng.
- Họ xây toà nhà có đồ sộ không, ông trông kỳa? - Anh ta nói, làm như mình cũng có trách nhiệm trong việc xây dựng toà nhà và lấy thế làm hãnh diện.
Quả thật, toà nhà có đồ sộ, kiến trúc theo một kiểu kỳ dị và phức tạp. Một cái giàn giáo chắc chắn làm bằng dầm gỗ thông dài có những vành đai sắt giữ, vây quanh ngôi nhà; một bức tường ván gỗ ngăn nó với đường phố.
Tít trên thượng tầng giàn giáo, thợ thuyền đi đi, lại lại đông như đàn kiến, mình mẩy trắng xoá những vôi, kẻ đặt người đẽo những phiến đá, những người khác khiêng lệ những trành và thùng đẩy nặng, hoặc khiêng xuống trành hoặc những thùng không.
Một người to lớn, ăn mặc lịch sự chắc hẳn là viên kiến trúc sư, đứng ở dưới chân giàn giáo chỉ trỏ một cái gì đó trên cao cho người cai thầu người quận Vladimir đang kính cẩn chăm chú nghe. Qua cái cổng sắt ngay bên cạnh họ, liên tiếp hết xe tải đầy đẩy vào lại xe không đánh ra.
"Sao mà tất cả những người nầy - cả người làm lẫn người trông coi đốc thúc lại yên trí, coi là đương nhiên cái cảnh: trong khi ở nhà, vợ họ, bụng mang dạ chửa, phải nai lưng ra làm những công việc nặng nề quá sức, con cái họ, mũ đội khâu bằng hàng trăm thứ mụn rách, vặn oặt đôi chân quắt queo, miệng cười già héo, sắp chết đói đến nơi, thì họ ở đây xây dựng toà lâu đài ngu xuẩn và vô dụng nầy cho một kẻ không kém ngu xuẩn và vô dụng, cho một thằng nào đó trong chính cái bọn những quân chuyên bóc lột họ, làm cho họ phá sản". Nekhliudov vừa nhìn toà nhà vừa nghĩ ngợi.
- Đúng, một ngôi nhà ngu xuẩn - chàng bỗng nói to với ý nghĩ của mình.
- Ngu xuẩn là như thế nào? - Người xà ích giọng bực tức cãi lại Lạy Chúa, nhờ có nó mà thợ thuyền có công ăn việc làm. Nó chả có gì là ngu xuẩn cả.
- Nhưng công việc nầy không đem lại lợi ích gì cả.
- Nó có ích, người ta mới làm chứ, - người xà ích nói lại. Có nó mới có cơm ăn chứ.
Nekhliudov im lặng, nhất là vì tiếng bánh xe chạy rầm rầm át cả đi, không nói chuyện được. Khi đến gần nhà lao, chiếc xe rời đường lát đá rẽ xuống con đường đất; lúc nầy, nói chuyện cũng tiện, nên người xà ích lại ngoái đầu về phía Nekhliudov, vừa nói vừa chỉ vào một đám người nhà quê, vai vác cưa, rìu, lưng đeo túi dết và những tấm da cừu, đang đi lại phía hai người.
- Khiếp quá! Dạo nầy người ta cứ ùn ùn kéo nhau ra tỉnh.
- Có đông người hơn những năm trước không? -Nekhliudov hỏi.
Hơn nhiều lắm! Hiện nay xí nghiệp nào cũng đầy ứ người. Thật là khốn khổ! Bọn chủ coi thợ như rác. Đâu cũng đầy ăm ắp.
- Tại sao vậy?
- Số người thì cứ mỗi lúc một tăng, biết đẩy đi đâu cho được!
- Tăng lên thì đã làm sao? Tại sao họ không cứ ở làng có được không?
- Ở làng thì có việc gì mà làm? Ruộng đất họ không có?
Nekhliudov có cảm giác như bị ai động vào một chỗ đã đau trong mình. Hình như họ cố tình đánh vào chỗ đau của mình chỉ vì có đánh vào chỗ đó mới thật đau.
"Có thể nào ở đâu cũng thế cả không" - Nekhliudov nghĩ bụng và hỏi ngay người đánh xe:
- Làng anh tất cả có bao nhiêu ruộng đất, phần bản thân anh có bao nhiêu, và tại sao anh lại ra thành phố?
- Thưa ngài, tính theo đầu người, ruộng đất làng chúng tôi mỗi suất được một mẫu. Riêng gia đình tôi có bố tôi và một đứa em, còn một thằng đi lính. Hai bố con ở nhà cày cấy gì? Em tôi nó cũng đã muốn bỏ ra Moskva đấy!
- Thế không thể thuê được ruộng mà cày cấy à?
- Thuê ở đâu bây giờ? Những điền chủ cũ thì đã tiêu xài hết cả cơ nghiệp rồi. Trại ấp của họ đã về tay hết bọn con buôn. Đừng có hòng thuê gì được của bọn nầy, chúng làm lấy cả. Ở quê tôi, một tên Pháp đã tậu cả cái cơ nghiệp của điền chủ cũ. Hắn không cho ai thuê mướn gì cả. Có thế thôi!
- Tên người Pháp nào nhỉ?
Tên Pháp Dumas ấy mà. Có lẽ ngài cũng đã nghe nói đến hắn? Hắn chuyên làm tóc giả bán cho các nghệ nhân ở các nhà hát lớn. Công việc làm ăn rất bở. Hắn phát tài và tậu cả cái ấp của bà chủ cũ làng tôi. Bây giờ, chúng tôi nằm trong tay hắn, hắn muốn đè đầu cưỡi cổ chúng tôi thế nào mà chẳng được. Lạy Chúa! Bản thân hắn cũng là một con người tử tế, chỉ có con vợ hắn, một con mụ người Nga, thật đúng là đồ chó má! Lạy Chúa, phù hộ cho chúng tôi thoát khỏi tay nó! Nó vơ vét, cướp bóc của dân chúng: Thật là một tai hoạ… nhưng, nhà lao đây rồi. Phải đỗ xe ở đâu ạ? Gần cổng nhé? Chắc là họ không cho?


Chương 72


Lúc bấm chuông ở cổng chính, nghĩ không biết hôm nay gặp Maxlova, tâm trạng nàng sẽ thế nào, nghĩ đến vẻ bí ẩn ở con người nàng và ở tất cả những người bị giam trong nhà lao nói chung, Nekhliudov thấy hãi hùng, và lòng se lại. Chàng nói với người cai ngục ra mở cổng xin cho gặp Maxlova. Sau khi hỏi thăm, người nầy cho biết hiện nay Maxlova đã chuyển sang làm ở bệnh xá.
Chàng đến bệnh xá và được người gác ở đó, một ông già bé nhỏ, phúc hậu nghe chàng nói muốn đến thăm Maxlova liền để cho chàng vào và dẫn chàng đến khu trẻ em. Một bác sĩ còn ít tuổi, sặc mùi axit phenic ra hành lang tiếp Nekhliudov, và nghiêm nghị hỏi chàng muốn gì. Bác sĩ nầy vốn đối xử dễ dãi với bệnh nhân, vì thế thường có chuyện va chạm với ban giám đốc nhà lao và ngay cả với viên bác sĩ trưởng. Sợ Nekhliudov đến yêu cầu một điều gì bất hợp pháp chăng, và hơn nữa, cũng muốn tỏ ra mình là người không thiên vị ai, ông ta cố làm ra vẻ nghiêm khắc.
- Đây là khu trẻ em không có người phụ nữ nào cả.
- Tôi biết, nhưng có một tù nhân được chuyển đến đây làm hộ lý.
- Đúng, có hai người, vậy ông muốn gì?
- Tôi có họ hàng với một người tên là Maxlova, giờ tôi muốn gặp. Tôi sắp đi Petersburg để đệ đơn kháng án của cô ấy lên Khu mật viện, nên tôi muốn trao cho cô ấy cái nầy, một tấm ảnh thường thôi.
Nekhliudov nói và rút ở trong túi ra chiếc phong bì.
- Cái nầy thì được, - bác sĩ dịu giọng nói và, quay lại, bảo một bà lão đeo tạp dề trắng đi gọi Maxlova.
- Mời ông ngồi xuống đây, hay mời ông sang bên phòng khách.
- Xin cảm ơn bác sĩ, - Nekhliudov nói, và nhận thấy bác sĩ tỏ ra niềm nở với mình, chàng hỏi xem bệnh xá đây mọi người có được hài lòng về việc làm của Maxlova không.
- Cũng được, hoàn toàn cô ta trước kia như thế, mà bây giờ làm được như thế là khá? Nhưng, kỳa cô ta đây roi.
Từ phía trong cửa, Maxlova theo sau bà hộ lý già bước vào. Nàng đeo một chiếc tạp dề trắng ra ngoài cái áo vải kẻ sọc; đầu đội một chiếc khăn bịt kín tóc. Nhìn thấy Nekhliudov nàng đỏ bừng mặt, ngập ngừng đứng lại rồi chau mày, mắt nhìn trở xuống, nàng rảo đi trên tấm thảm trải dọc theo hành lang; tiến lại phía chàng.
Thoạt tiên, nàng không muốn, nhưng rồi nàng lại đưa tay cho Nekhliudov bắt, và càng đỏ mặt hơn. Không gặp lại Maxlova từ hôm nàng xin lỗi về sự nóng nảy của mình, Nekhliudov hy vọng nàng vẫn ở trong tâm trạng hôm đó. Nhưng Nekhliudov thấy nàng khác hẳn, trên gương mặt nàng có một cái gì mới lạ, một vẻ lầm lỳ, rụt rè và hình như có ác cảm đối với chàng. Chàng nhắc lại với nàng điều đã nói với bác sĩ: chàng sắp đi Petersburg và giờ đây đến để đưa lại cho nàng chiếc phong bì với tấm ảnh lượm được ở Panovo mang về.
- Tôi tìm thấy cái nầy ở Panovo, một tấm ảnh cũ. Có lẽ cô xem nó cũng thích. Cô hãy cầm lấy.
Maxlova rướn đôi lông mày, đưa cặp mắt hơi hiếng chăm chú nhìn Nekhliudov, tỏ vẻ ngạc nhiên, như muốn hỏi tại sao chàng lại làm thế, và lẳng lặng không nói một lời nàng luồn bỏ chiếc phong bì vào bên trong tạp dề.
- Tôi có đến thăm bà dì cô ở đấy.
- Ồ, ông đã đến thăm bà ấy à, - nàng nói giọng lãnh đạm.
- Ở đây cô có dễ chịu không? - Nekhliudov hỏi.
- Được tốt thôi!
- Công việc không nặng nhọc quá chứ?
- Không, có gì đâu. Tôi còn chưa quen.
- Tôi rất mừng cho cô. Dù sao cũng còn hơn ở đấy.
- Ở đấy là ở đâu? - Nàng nói, đôi má bỗng nhiên đỏ tía lên.
- Ở bên nhà lao ấy mà - Nekhliudov vội nói thêm.
- Hơn về cái gì? - nàng hỏi.
- Ở đây mọi người tốt hơn. Không như những người ở bên ấy.
- Ở đấy có rất nhiều người tốt, - nàng nói.
- Tôi đã vận động cho gia đình nhà bà Melsov và tôi hy vọng hai mẹ con bà ấy sẽ được tha.
- Lạy Chúa phù hộ! Một bà cụ tốt quá chừng! - Nàng nhắc lại ý kiến của mình về bà Melsov, miệng hơi mỉm cười.
Hôm nay tôi đi Petersburg. Việc của cô sắp được thẩm xét lại và tôi hy vọng sẽ phá được án.
- Phá được hay không thì bây giờ đằng nào cũng thế thôi, - nàng nói.
- Tại sao lại "bây giờ"?
- Chẳng tại sao cả, - nàng vừa nói vừa thoáng đưa qua một con mắt dò hỏi lên nhìn Nekhliudov.
Chàng hiểu rằng bằng lời nói và cái nhìn đó; nàng muốn biết chàng vẫn giữ vững ý định kết hôn với nàng hay thấy nàng cự tuyệt mà đã thay đổi ý định.
- Tôi không hiểu tại sao cô lại bảo đằng nào cũng thế. Đối với tôi thì mới thực sự đằng nào cũng vẫn thế, cô được trắng án hay không, trường hợp nào, tôi cũng vẫn sẵn sàng làm đúng lời tôi đã nói, - chàng nói, giọng cương quyết.
Nàng ngẩng đầu lên, đôi mắt đen hơi hiếng nhìn chăm chú vào mặt chàng rồi nhìn ra phía trước, gương mặt nàng tươi sáng hẳn lên vì vui sướng. Song lời nàng nói khác hẳn ý tứ biểu lộ trong khóe mắt.
- Tốt hơn là ông đừng nói đến chuyện đó, - nàng nói.
- Tôi nói để cô biết cho.
- Về vấn đề đó thì đã nói hết cả rồi, chẳng còn gì mà nói cả nữa, - nàng cố nén một nụ cười.
Có tiếng ồn ào, tiếp theo là tiếng một đứa trẻ khóc vang lên trong phòng bệnh nhân.
- Hình như người ta gọi tôi, - Maxlova vừa nói vừa đưa mắt lo lắng nhìn quanh.
- Thôi, thế xin chào cô.
Nàng vờ không trông thấy bàn tay chàng đưa ra, quay mặt đi, tìm cách che giấu nỗi mừng của lòng mình và thoăn thoắt bước đi trên tấm thảm dọc hành lang.
"Nàng có điều gì? Nàng nghĩ thế nào? Nàng có những cảm xúc gì? Nàng muốn thử lòng ta hay thực là nàng không thể tha thứ cho ta được? Nàng không thể nói hay không muốn cho ta biết những ý nghĩ và cảm xúc của mình? Đối với ta lòng nàng đã dịu hay vẫn giận hờn?" - Nekhliudov tự hỏi và không tài nào trả lời được. Chàng chỉ biết có một điều: nàng đã thay đổi; trong tâm hồn nàng đang có một chuyển biến quan trọng, sự chuyển biến đó chẳng những đã khiến chàng hoà hợp với nàng mà còn hoà hợp với Đấng Thượng đế thiêng liêng mà nhân danh Người, sự chuyển biến kia đang thực hiện. Và sự hoà hợp đó khiến lòng chàng tràn ngập hân hoan và xúc động.
Trở về phòng làm việc, một gian buồng nhỏ trong kê tám chiếc giường trẻ em. Maxlova theo lệnh người nữ hộ lý bắt tay vào dọn giường. Nhưng vì tay cầm khăn trải giường, người nhoài về phía trước nên nàng trượt chân và suýt ngã. Một thằng bé đầu quấn băng, đang ở thời kỳ trở lại bình phục, mắt vẫn chăm chú nhìn nàng từ nãy, thấy thế bật cười. Maxlova không nhịn lâu được, cũng ngồi xuống thành giường và cười phá lên, tiếng cười dễ lây, lan sang lũ trẻ, mấy đứa khác cũng phá ra cười ha hả, người nữ hộ lý thì nghiêm khắc mắng nàng:
- Chị làm sao mà cười rú lên thế? Chị tưởng như vẫn ở chỗ ngày trước của chị đấy hẳn! Đi lấy cơm đi!
Maxlova nín cười, nàng lấy bát đĩa và bước đi đến chỗ lĩnh cơm; nhưng bắt gặp cái nhìn của thằng bé đầu quấn băng mà người ta đã cấm không cho cười, nàng lại phì cười. Ngày hôm đó, mấy lần, hễ gặp lúc vắng vẻ, ngồi một mình, nàng lại kéo tấm ảnh nhô lên khỏi phong bì một chút để ngắm nghía. Chỉ đến chiều tối, khi công việc đã xong, còn một mình trong căn buồng ở chung với một hộ lý khác, nàng mới kéo hẳn tấm ảnh ra khỏi phong bì và ngồi lặng giờ lâu đưa mắt âu yếm nhìn từng chi tiết những khuôn mặt, những bộ quần áo, những bậc tam cấp những bụi cây; trên nền những bụi cây đó nói lên khuôn mặt của Nekhliudov; nàng nhìn lâu tấm ảnh đã ố vàng. Nàng ngắm nghía không chán mắt, nhất là hình ảnh chính mình, hình ảnh khuôn mặt nàng trẻ, đẹp, với những món tóc xoăn xoã quanh vầng trán. Nàng mải mê ngắm đến nỗi không thấy bạn cùng phòng đi vào.
- Cái gì đấy? Anh ta đã cho cậu cái nầy đấy à? - Người nữ hộ lý to lớn, hiền hậu bước vào, vừa cúi xuống tấm ảnh, vừa hỏi nàng. - Có phải cậu đấy không?
- Còn ai nữa? - Maxlova vừa nói vừa nhìn bạn mỉm cười.
- Thế đây là ai? Anneta chứ gì! Và đây là mẹ anh ta?
- Cô anh ta đấy. Thế cậu không nhận ra đây là mình à? - Maxlova hỏi.
- Nhận ra thế nào được? Không tài nào? Gương mặt cậu bây giờ nom khác hẳn. Chắc ít nhất cũng phải mười năm rồi.
- Không phải kể năm mà là cả một đời người, - Maxlova nói, vẻ tươi tỉnh trên gương mặt nầy bỗng biến mất, mắt nàng buồn thiu và một nếp nhăn hằn sâu giữa hai hàng lông mày.
- Dù sao đi nữa thì cuộc sống ở đấy cũng không vất vả.
- Không vất vả, - Maxlova nhắc lại, đôi mắt nhắm nghiền, đầu lắc lắc. - Tệ hơn là ở tù khổ sai.
- Tại sao thế?
- Là vì cứ tám giờ tối đến bốn giờ sáng và ngày nào cũng thế.
- Nhưng tại sao các cậu không bỏ mà đi?
- Bỏ đi? Cũng muốn đấy, nhưng không được. Thôi, nói đến làm gì! - Maxlova vùng đứng dậy, ném tấm ảnh vào trong ngăn kéo chiếc bàn con, và cố cầm những giọt nước mắt uất hận, nàng chạy ra ngoài hành lang, kéo dập cánh cửa lại.
Trong khi nhìn tấm ảnh, nàng cảm thấy mình trẻ lại như hồi chụp ảnh và mơ màng nghĩ đến hạnh phúc lúc bấy giờ, cũng như giờ đây, nàng có thể hưởng cùng Nekhliudov. Nhưng những lời người bạn gái đã nhắc nàng nhớ lại con người nàng hiện nay và con người nàng trước kia, hồi ở "đấy", nhớ lại tốt cả những nỗi ghê tởm của cuộc sống đó, nỗi ghê tởm mà trước kia nàng chỉ cảm thấy một cách mơ hồ, không bao giờ dám để cho mình nhận thấy rõ ràng.
Chỉ bây giờ nàng mới nhớ lại như hiện lên trước mắt, tất cả những đêm kinh khủng đó, nhất là cái đêm hội giả trang nàng đợi một anh sinh viên đã hứa chuộc nàng ra khỏi tay mụ đầu. Nàng nhớ lại lúc ấy nàng vận chiếc áo lụa hồng, hoen ố vết rượu, hở phơi ngực, với một chiếc nơ hồng trong mớ tóc rối, người mệt rã rời, lại say chuếnh choáng; vào lúc hai giờ sáng, khi đã tiễn khách ra về, giữa hai điệu nhảy, nàng ngồi xuống bên cạnh người nữ nhạc công dương cầm - người đàn bà nầy gầy giơ xương, mặt sần sùi những mụn và than thở về cuộc sống vất vả nặng nề của mình - người nữ nhạc công cũng cảm thấy cảnh huống mình nặng trĩu chán chường; lúc ấy Klara chợt tới, và cả ba người liền quyết định phải thoát ra khỏi cuộc sống ấy. Họ tưởng đêm ấy thế là xong và đã đứng dậy ra về; bỗng trong lối cửa ra vào, lại có tiếng lè nhè của khách làng chơi say rượu. Người nhạc công vĩ cầm bắt đầu dạo nhạc, đệm theo một bài hát ca vui nhộn, mở đầu cho một điệu vũ nhảy đôi nhiều lượt. Một thằng cha người nhỏ bé áo chẽn và thắt cravat trắng, mồ hôi nhễ nhại, hơi rượu sặc sụa, miệng luôn luôn nấc, đã ôm lấy người nàng; một thằng khác to lớn, râu rậm, cũng bận áo chẽn (họ vừa đi nhảy ở đâu về) đã ôm lấy Klara và giờ lâu, họ đã quay, đã nhảy, đã la hét, đã nốc rượu… Và một năm trời đã qua đi như thế, rồi hai năm, ba năm.
Làm gì mà con người chẳng khác hẳn. Mà nguyên nhân gây ra tất cả những nông nỗi đó là hắn. Bỗng tất cả những nỗi cay đắng, lòng căm giận Nekhliudov trước kia lại vụt trỗi dậy trong lòng, nàng muốn chửi rủa, mắng nhiếc hắn một phen. Giờ đây, nàng tiếc vừa rồi đã để lỡ cơ hội không nói một lần nữa cho hắn biết là nàng đã hiểu rõ tâm địa của hắn, nàng sẽ không lùi bước trước hắn nữa đâu, nàng sẽ không cho phép hắn lợi dụng tâm hồn nàng như xưa kia bắn đã lợi đụng thể xác nàng, cũng không cho phép hắn dùng nàng làm đối tượng để hắn ban ân huệ.
Và nàng muốn uống rượu để dập tắt cái cảm giác đau thương, xót xa cho thân phận mình, và lòng căm giận vô ích với con người ấy. Nếu ở trong nhà giam thì chắc chắn nàng sẽ không giữ được lời hứa; nhưng ở bệnh xá đây không thể tìm đâu ra rượu ngoài cách hỏi xin người y tá, mà Maxlova sợ anh chàng nầy, vì hắn vẫn thường cứ xoắn lấy nàng. Vả lại nàng đã chán ngấy tất cả những quan hệ với bọn đàn ông rồi. Ngồi trên chiếc ghế dài ngoài hành lang một lúc, nàng trở về buồng và không trả lời người bạn gái hỏi, nàng cứ ngồi khóc rất lâu, thương xót cho cuộc đời tan nát của mình.


Chương 73


Nekhliudov có ba việc phải làm ở Petersburg: đệ đơn kháng án của Maxlova lên Khu mật viện, đệ sớ thỉnh nguyện của Fedoxia Biriukov lên Ban Khiếu tố, và đến sở Hiến binh xin trả tự do cho Suxtova và xin cho một bà mẹ được phép vào thăm con trai, bị giam ở pháo đài, theo lời yêu cầu của Bogodukhovxkaia. Đối với chàng hai việc sau nầy chỉ là một. Còn vụ thứ tư là những tín đồ tông phái bị bức phải lìa bỏ gia đình đày đi Kapkaz vì đã đọc và bình luận kinh Phúc âm. Nekhliudov tự hứa với mình nhiều hơn là với họ, sẽ hết sức làm sáng tỏ vụ nầy.
Từ sau buổi đến thăm Maxlenikov lần cuối cùng, và nhất là từ sau lần về thăm nông thôn, Nekhliudov tuy chưa quyết định hẳn ra sao, nhưng chàng đã cảm thấy ghê tởm hết sức cái xã hội mà chàng sống cho tới ngày nay, cái xã hội đã che đậy kín đáo tất cả nỗi khổ đau mà hàng triệu con người phải chịu đựng để đảm bảo cho một thiểu số sống an nhàn, sung sướng, cái xã hội con người không thấy và không thể nào thấy được những nỗi khổ đó cũng như tính chất tàn bạo và tội lỗi của cuộc sống bản thân họ. Từ nay chàng không thể giao dịch, tới lui với những con người trong cái xã hội đó mà không thấy ngượng, không thấy phải tự trách mình được. Tuy vậy, những thói cũ, những quan hệ bằng hữu, họ hàng, và nhất là ý thức thực hiện điều mà chàng đang quan tâm nhất lúc bấy giờ là giúp đỡ Maxlova, giúp đỡ tất cả những người bất hạnh kia, chàng phải cầu cạnh sự che chở và giúp đỡ của những kẻ chẳng những chàng không: thấy kính trọng mà còn thấy đáng giận và đáng khinh.
Lúc đến Petersburg, Nekhliudov lại ở nhà bà bá tước dì chàng, vợ viên cựu bộ trưởng Tsacky. Chàng bỗng thấy mình lại rơi vào giữa cái xã hội thượng lưu giờ đây trở nên xa lạ đối với chàng. Tuy rất khó chịu, nhưng chàng không thể làm khác được. Không đến ở nhà bà dì mà ở khách sạn thì bà ta sẽ mếch lòng, nhất là bà ta lại có nhiều người quen thuộc trong hàng ngũ các quan to, do đó sẽ có thể giúp đỡ rất nhiều cho tất cả những công việc vận động của chàng.
- Nầy, người ta đồn đại về anh nhiều lắm đấy? Đủ thứ chuyện kỳ lạ? - Nữ bá tước Katerina Ivanovna hỏi ngay và bảo dọn cà phê cho Nekhliudov khi chàng vừa bước chân đến. - Anh đóng một vai Howard(1) cứu giúp người tù tội lui tới các trại giam sửa chữa những việc sai trái đấy ư?
- Có đâu ạ cháu không hề nghĩ tới thế.
- Sao? Việc đó tốt chứ! Chỉ có điều, hình như trong đó còn có một chuyện lãng mạn gì nữa. Nào, hãy kể cho dì nghe đi.
Nekhliudov kể tất cả sự thật về mối tình dan díu của chàng với Maxlova.
- Ờ, ờ, dì nhớ? Bà Elena, mẹ anh, lúc còn sống có nói cho dì biết về chuyện ấy, lúc anh còn đang ở đằng nhà các bà cô anh; có phải các bà ấy muốn gả cô con gái nuôi của họ cho anh không? (Nữ bá tước Katerina Ivanovna vẫn khinh rẻ các bà cô của Nekhliudov). Vậy là về chuyện cô gái ấy đấy phải không? Con bé vẫn xinh đẹp chứ?
Nữ bá tước Katerina Ivanovna đã sáu mươi tuổi, một con người đầy sinh lực, vui tính, cương nghị và hay nói; người bà cao lớn, to béo, môi trên điểm một hàng ria đen sẫm. Nekhliudov rất quý mến bà ngay từ hồi còn thơ ấu, chàng đã thích tiêm nhiễm được cái tính tình cương nghị và vui vẻ của bà.
- Không phải đâu, dì ạ, tất cả chuyện đó đã qua rồi. Giờ đây, cháu chỉ muốn giúp đỡ cô ấy thôi, trước hết là vì cô ấy đã bị kết tội oan, mà cái đó là đó lỗi ở cháu, cũng như tất cả số phận của cô ấy cũng do lỗi tại cháu mà ra. Cháu thấy có nghĩa vụ phải làm tất cả những điều có thể làm được đệ giúp đỡ cô ấy mà.
- Nhưng dì nghe thấy người ta nói anh định lấy nó cơ đấy?
- Vâng, cháu muốn lấy, nhưng cô ta từ chối.
Trán nhô ra phía trước, cặp mắt nhìn xuống, bà Katerina Ivanovna nín lặng nhìn cháu, kinh ngạc. Thốt nhiên vẻ mặt bà tươi hẳn lên.
Nầy thế là nó khôn ngoan hơn anh đấy! Chà! Anh thật là thằng ngốc! Thế anh đã định lấy nó thật à?
- Vâng, đương nhiên là phải thế à.
- Sau khi nó đã bị như thế rồi, anh vẫn định cứ lấy nó à?
- Lại càng phải lấy chứ ạ! Chẳng phải chính cháu là kẻ đã gây ra tất cả nông nỗi ấy cho cô ta hay sao?
- Không, anh ơi, anh chỉ là một thằng ngốc, - bà vừa nói vừa cố nhịn không mỉm cười, - một thằng ngốc kinh khủng, nhưng chính vì thế mà ta mến anh, chính vì anh là thằng ngốc kinh khủng, - bà ta nhắc lại, vẻ thích thú hiện rõ ra mặt, vì đã tìm được một danh từ, đối với bà, diễn tả được thật đầy đủ cái trạng thái tinh thẩn và đạo đức của đứa cháu bà. - Thôi, nầy anh, thật là may, và việc đó đến vừa đúng lúc. - Bà nói tiếp. - Bà Alin mở một nhà thật tuyệt cho các cô Madeleine(2). Dì có đến đó một lần. Bọn chúng thật tởm quá. Về nhà, dì phải tắm gội kỳ cọ khắp người không biết bao nhiêu lượt. Nhưng Alin thì dốc cả thể xác lẫn tâm hồn vào công việc ấy. Ta sẽ giao con bé của cháu cho cô ta. Nếu có một người làm nó trở thành người lương thiện được thì người đó chính là Alin.
- Nhưng cô ấy bị kết án khổ sai. Cháu đến đây cũng chỉ cốt vận động phá được cái án đó thôi. Đây là việc thứ nhất xin phiền dì giúp cho?
- À ra thế. Thế hồ sơ của nó ở đâu?
- Ở Khu mật viện ạ.
- Ở Khu mật viện? Dì có người em họ thân là Levusca ở Khu mật viện, nhưng nó ở trong cái phân ban của bọn vô tích sự, cái bọn chuyên trách về huân chương còn những ngài Khu mật thực sự là Khu mật, dì chẳng quen ai cả. Người ta chỉ thấy những người ở đâu đâu; có những người Đức: Ghê, Phê, Đê… tất cả một bảng chữ cái, hay là đủ những thứ Ivanov, Ximonov, Nikitin, hoặc để thay đổi cho khỏi đơn điệu thì có những Ivanenko, Ximonenko, Nikitenko… Những con người ở một giới khác hẳn. Nhưng thôi có hề chi điều đó? Dì sẽ nói với ông chú, ông ấy có quen biết, ông ấy thì quen đủ hạng người. Dì sẽ nói với ông ấy. Còn cháu sẽ trình bày sự việc, vì ông ấy không bao giờ hiểu dì cả bất cứ dì nói điều gì, ông ấy cũng bảo là không hiểu đấy là do thành kiến. Dì thì ai cũng hiểu, chỉ trừ có ông ấy.
Đúng lúc đó, một người hầu mặc quấn nịt bưng vào một khay bạc trên có một lá thư.
- Nầy đây, một lá thư của Alin. Như vậy anh có dịp nghe cả Kizvete nói chuyện.
- Kizvete là ai ạ?
- Kizvete à? Chiều nay anh lại đây, anh sẽ biết Kizvete là ai. Ông ấy nói hay đến nỗi bọn phạm nhân chai đá nhất cũng quỳ xuống khóc và ăn năn hối lỗi.
Nữ bá tước Katerina Ivanovna là một tín đồ nhiệt thành của học thuyết coi tinh tuý của đạo Cơ đốc là ở đức tin vào sự chuộc tội, tuy rằng điều đó xem ra thật là kỳ quái và không phù hợp mấy với tính tình của bà. Bà hay đi dự các cuộc họp truyền bá học thuyết ấy, rất thịnh hành thời bấy giờ, và cũng hay hội họp "thiện nam tín nữ" tại chính nhà bà.Tuy rằng theo học thuyết đó thì không phải bỏ tất cả các nghi thức lễ bái, các thần thượng mà còn bỏ cả các lễ ban phước nữa, vậy mà ở tất cả các phong nhà bà: và ngay cả trên đầu giường bà cũng vẫn có treo thần tượng; và bà giũ trọn tất cả những điều răn của nhà thờ mà không hề thấy mâu thuẫn trong việc làm của mình…
- Nếu cô Madeleine nhà anh mà được nghe ông ta nói chuyện, thì nó sẽ thay đổi ngay cho mà xem. Còn anh thì chiều nay thế nào cũng đến nhé. Anh sẽ được nghe ông ta nói. Thật là một con người phi thường.
- Những chuyện đó cháu không thích, dì ạ.
- Dì thì bảo là anh sẽ thích. Thế nào anh cũng phải đến đây. Thế ngoài ra, anh còn muốn dì giúp anh việc gì nữa nào, hãy nói hết cả đi?
- Cháu còn một việc về một người bị phạt giam trong pháo đài.
- Trong pháo đài à? Việc ấy dì có thể viết một câu giới thiệu cháu với nam tước Krichxmut. Ông ấy là một người trung hậu. À mà chính cháu cũng quen mà. Trước kia ông ấy là bạn của cha cháu đấy. Ông ta mê thuật chiêu hồn lắm đấy. Cái đó không hề gì, ông ấy là người tốt. Anh có việc gì ở đó?
- Cháu muốn xin phép cho một bà cụ được vào thăm con trai bị giam ở đó. Nhưng người ta bảo với cháu là ông Krichxmut không có quyền cho phép mà ông Secvianxky!
- Secvianxky? Dì không ưa cái lão nầy, nhưng lão ta là chồng cô Mariet. Có thể nhờ cô ấy được. Thế nào cô ấy cũng giúp dì. Cô ấy tử tế lắm.
- Cháu còn muốn xin cho một người phụ nữ đã bị giam từ bao nhiêu tháng nay rồi mà không biết lý do vì sao cả.
- Không phải thế đâu, bản thân họ biết rõ tại sao họ bị giam chứ! Chúng nó biết rõ lắm. Những con tóc ngắn ấy đáng kiếp lắm.
- Họ có đáng kiếp hay không, cái đó chưa biết. Nhưng họ đang đau khổ. Dì là người theo đạo Cơ đốc và tin kinh Phúc âm thế mà dì lại tỏ ra không có chút từ tâm nào.
- Hai cái đó không liên quan gì đến nhau, kinh Phúc âm là kinh Phúc âm, còn cái đáng ghê tởm vẫn đáng ghê tởm. Nếu dì vờ yêu thương những quân theo chủ nghĩa hư vô, nhất là những quân theo chủ nghĩa hư vô lại cắt tóc ngắn, trong khi dì không thể chịu được chúng thì còn tệ hơn nữa.
- Thế tại sao dì lại không thể chịu được họ?
- Sau chuyện xảy ra ngày mồng một tháng Ba(3), anh còn hỏi dì tại sao à?
- Nhưng không phải tất cả họ đều đã tham gia vào vụ mồng một tháng Ba.
- Mặc! Tại sao chúng nó lại dúng tay vào những việc không phải của chúng. Những chuyện đó không phải là của đàn bà.
- Nhưng như Mariet chẳng hạn thì dì lại thừa nhận là cô ấy có thể đảm đang được những việc nầy việc nọ? - Nekhliudov nói.
- Mariet? Mariet là Mariet. Còn bọn chúng thì có trời biết chúng là loại người gì; cái giống rởm đời ấy, chúng muốn lên mặt dạy đời.
- Không phải là dạy đời mà chỉ là giúp mọi người thôi.
- Không cần đến những ngữ ấy người ta mới biết được cần giúp ai và không cần giúp ai…
- Nhưng hiện nay nhân dân đang khổ cực? Cháu vừa ở nhà quê ra. Có nên để cho nông dân phải làm kiệt sức mà ăn chẳng đủ no, trong khi chúng ta sống một cách xa hoa ghê gớm như vậy? - Nekhliudov tiếp tục nói, thấy bà dì rộng lượng chàng dần dần thổ lộ hết những ý nghĩ của mình.
- Vậy anh muốn gì nào? Muốn tao nhịn đói mà làm chứ gì?
- Không, cháu không muốn dì phải nhịn đói, - Nekhliudov không nén được nụ cười - Cháu chỉ muốn người ta ai cũng làm và ai cũng có ăn.
Bà đi lại ngạc nhiên nhìn cháu, trán nhô ra phía trước, cặp mắt nhìn xuống.
- Anh ơi, đời anh rồi chẳng ra gì đâu?
- Tại sao ạ?
Vừa lúc đó, một người cao lớn vai rộng, bước vào trong phòng. Đó là tướng Tsacky, cựu bộ trưởng, chồng nữ bá tước.
- A! Dmitri, chào anh - ông ta vừa nói vừa chìa cái má mới cạo ra cho Nekhliudov hôn. - Anh đến từ bao giờ?
Và ông lặng lẽ ra hôn lên trán vợ.
- Đừng có tưởng, anh ấy ghê lắm nhá! - Nữ bá tước vừa nói vừa quay về phía chồng. - Anh ấy nhất định bắt tôi phải giặt giũ lấy quần áo và ăn khoai mà sống thôi. Thật là ngu kinh khủng.
- Ừ thật là kinh khủng. - Chồng bà trả lời.
- Thôi, ông đi mà nói chuyện với anh ấy, để tôi viết mấy bức thư.
Nekhliudov vừa bước sang phòng bên cạnh phòng khách, thì bà dì đã hỏi sang:
- Thế có phải viết thư cho cô Mariet không?
- Vâng, xin dì viết cho.
- Vậy dì sẽ để trống, tuỳ anh muốn nói gì về con tóc ngắn thì điền vào đấy, để cô ấy ra lệnh cho chồng phải làm: ông ta sẽ làm thôi. Đừng có cho dì là độc ác nhé; tất cả cái lũ được cháu bênh vực ấy đều đáng ghét lắm, nhưng dì cũng không muốn làm hại gì chúng cả. Lạy Chúa, hãy ban phước lành cho chúng. Thôi, bây giờ cháu đi đi, nhưng chiều nay nhớ phải đến, thế nào cũng phải đến đấy. Anh sẽ nghe Kizvete và dì cháu mình sẽ cùng cầu kinh. Chỉ cần cháu đừng cưỡng lại là bổ ích cho cháu rất nhiều. Dì biết lắm, bà Elena và anh vẫn rất lạc hậu về các vấn đề nầy. Thôi, tạm biệt!
Chú thích:
(1) Howard John Howard (1726-1790), một nhà từ thiện người Anh đấu tranh cho sự giảm nhẹ chế độ lao tù
(2) Saint Marie Madeleine, một phụ nữ có tội đã được Chúa Jesus cảm hoá, cải tà quy chính (Theo kinh thánh)
(3) Ngày 1 tháng Ba là ngày Nga hoàng Alekxandr II bị giết. Vua nầy đã bị Uỷ ban Đảng "Tự do nhân dân" lên án tử hình (Theo chú thích của bản dịch Pháp văn của Edourad Bcaux)



Chương 74


Bá tước cựu bộ trưởng Ivan Mikhailovich là một người có niềm tin sắt đá.
Từ hồi niên thiếu, lão đã tin rằng nếu bản tính trời sinh ra là chim ăn sâu, thân nó có lông vũ và nó biết bay lượn trên trời, thì lão cũng thế, bản tính trời sinh ra lão là ăn những món ăn ngon nhất do đầu bếp lương cao nhất nấu, là mặc quần áo lịch sự nhất và thích hợp nhất, là cưỡi những con ngựa chạy nhanh nhất và chắc chắn nhất, và những cái đó nhất thiết lúc nào lão cần đến đều phải có ngay. Ngoài ra, lão còn cho rằng lão càng lĩnh được nhiều tiền bao nhiêu ở Ngân khố nhà nước, càng đeo nhiều huân chương (kể cả huy hiệu mặt đá nữa), càng hay gặp gỡ chuyện trò bao nhiêu với những nhân vật cao sang thuộc cả hai giới nam nữ, thì lại càng tốt cho lão bấy nhiêu. So với những điều tin cơ bản đó của lão tất cả những cái khác đều vô nghĩa và không đáng kể. Dẫu rằng những cái khác đó như thế nào đi chăng nữa, lão vẫn hoàn toàn dửng dưng. Suốt bốn mươi năm trời ở Petersburg, Ivan Mikhailovich đã sống và hành động theo đúng niềm tin đó, và tới đoạn cuối cùng của quãng thời gian bốn mươi năm ấy, lão đã ngoi lên được tới chiếc ghế bộ trưởng.
Những đức tính chủ yếu đã đưa lão lên tới địa vị đó là: thứ nhất, lão hiểu được ý nghĩa của các công văn, những điều luật và cũng thảo được, tuy lời văn còn lủng củng những văn kiện dễ, không phạm lỗi chính tả; thứ hai, nom lão đặc biệt bệ vệ và, tuỳ trường hợp, lão có thể tỏ ra không những kiêu hãnh mà còn có vẻ cao xa, vĩ đại khó mà đến gần được, hoặc tỏ ra khúm núm xun xoe (tới mức hèn hạ, vô liêm sỉ); thứ ba, bất chấp mọi nguyên lý và quy tắc chung, cả về mặt đạo đức cá nhân cũng như về mặt chính quyền, sở dĩ như vậy là để có thể tuỳ lúc, tuỳ việc cần thiết mà tán thành hay phản đối bất cứ ai.
Khi hành động như vậy, lão hết sức chú ý giữ thể diện và tránh, trong lời ăn tiếng nói, những điều tự mâu thuẫn với mình một cách quá rõ rệt, còn về những việc làm của lão, dù bản thân nó có trái với luân thường đạo lý hay không, hoặc hậu quả của những việc làm đó có đem lại cho toàn thể nước Nga hay toàn thể nhân loại một hạnh phúc cực kỳ to lớn hay một tai hoạ cực kỳ ghê gớm thì lão cũng chẳng cần biết đến.
Khi lão được cử giữ chức bộ trưởng, không phải chỉ cái số đông những nhân viên tuỳ thuộc, những bộ hạ hoặc những người thân cận của lão, mà tất cả mọi người nói chung, và chính bản thân lão nữa, đều yên trí tin rằng lão là một chính khách rất sáng suốt. Nhưng sau một thời gian, thấy lảo chẳng xây dựng được cái gì, chẳng thi thố được điều gì, và theo quy luật đấu tranh sinh tồn, khi những viên chức khác cũng có khả năng thạo và hiểu được những công văn giấy tờ như lão, cũng oai vệ và cũng sống vô nguyên tắc như lão, đã cài bẫy gạt được lão ra khỏi cái ghế bộ trưởng, và lão phải về hưu thì mọi người thấy rõ rằng không những lão ta chẳng phải là người đặc biệt sáng suốt, uyên thâm gì, mà chỉ là người rất thiển cận, học thức ít ỏi, tuy có rất nhiều tự tin; những kiến thức của lão không vượt quá những bài xã luận của mấy tờ báo bảo thủ tầm thường nhất. Bấy giờ người ta mới thấy là lão chẳng có gì khác với những viên chức cũng ít học và nhiều tự tin khác tranh chân của lão. Và chính lão cũng hiểu rõ thế. Nhưng cái đó không hề lay chuyển được mảy may niềm tin của lão về việc hàng năm phải lĩnh những món tiền kếch sù của công quỹ và những tấm huân chương mới để tô điểm cho bộ lễ phục. Niềm tin đó của lão mãnh liệt đến nỗi không ai dám có can đảm chối lão điều gì. Mỗi năm lão lĩnh hàng mấy vạn "rúp" vừa tiền hưu bổng, vừa tiền phụ cấp làm uỷ viên những cơ quan tối cao của nhà nước và chủ tịch nhiều uỷ ban, hội đồng, và ngoài ra lão còn được cái quyền - mà lão coi là rất quý - hàng năm; đính những cấp hiệu kim tuyến mới lên cầu vai, lên nẹp quần, và cái quyền đeo lên ngực bộ lễ phục, những tấm bội tinh, những huy chương tráng men. Vì thế cho nên bá tước Ivan Mikhailovich có những quan hệ rất là rộng rãi.
Lão nghe Nekhliudov nói với cái vẻ như xưa kia lão nghe các bản báo cáo công việc của những viên trưởng phòng và để kết luận, lão nói, sẽ viết cho chàng hai lá thư giới thiệu: một lá gửi cho ông nghị Von, trong phán ban phá án.
Lão nói:
- Về ông nầy, người ta đơn đại nhiều chuyện lắm đấy nhưng dù sao, ông ta vẫn là người rất mực thước, ông ta chịu ơn chú và thế nào cũng hết sức giúp anh.
Lá thứ thứ hai gửi cho nhân vật có thế lực trong Ban Khiếu tố. Câu chuyện của Fedoxia Biriukov, qua lời Nekhliudov kể, có vẻ làm cho lão rất chú ý; và khi biết chàng định đệ sớ kêu lên Hoàng hậu, lão bảo quả là một việc rất thương tâm và có dịp, thế nào lão cũng tâu lên bề trên. Tuy nhiên, lão không thể hứa hẹn gì được. Cứ để cho họ tiến hành điều tra đi? Theo lão nghĩ, nếu có dịp, nếu lão được triệu tập đến họp với các vị cận thần trong cung Hoàng hậu, vào thứ năm sắp tới chẳng hạn, thì có lẽ lão sẽ nói về chuyện đó.
Được hai lá thư của bá tước và lá thiếp của bà dì viết cho Mariet, Nekhliudov tức thì đi đến ngay những nơi đó.
Trước tiên chàng đến nhà Mariet, người mà chàng quen biết từ lúc nàng còn là một thiếu nữ. Xuất thân từ một gia đình quý tộc không giàu có lắm, nàng đã lấy một người chồng làm nên sự nghiệp; chàng nghe người ta đồn đại nhiều về người nầy rất nhiều điều không tốt, nhất là hắn nhẫn tâm tàn ác với hàng trăm hàng nghìn chính trị phạm, nhiệm vụ đặc biệt của hắn là hành hạ những người nầy. Đối với Nekhliudov, bao giờ chàng cũng thấy khổ tâm khi phải đứng về phía những kẻ đi áp bức, như vậy hoá ra thừa nhận những hành động của chúng là hợp pháp, bằng cái việc cầu xin những kẻ đã quen tàn ác đến mức không biết mình là tàn ác nữa hãy nới tay, đặc biệt đối với một vài người nào đó. Trong những trường hợp như vậy, chàng cảm thấy bứt rứt, bực dọc với chính bản thân mình và cứ phân vân lưỡng lự không biết có nên yêu cầu họ giúp hay không? Nhưng rồi bây giờ chàng lại quyết định là nên. Đến chơi nhà vợ chồng Mariet, chàng sẽ ngượng nghịu, sẽ thấy hổ thẹn, khó chịu, nhưng trái lại, nhờ vậy mà may ra người phụ nữ bất hạnh, đang đau khổ trong ngục lại có thể được thả ra và cùng thân quyến khỏi phải đau khổ.
Ngoài cái cảm giác thấy mình ở vào tình thế giả dối của một anh chàng đi cầu cạnh những kẻ mà mình không còn coi là người cùng giới, chàng còn có cảm giác là vào trong giới những con người ấy, chàng lại rơi vào vết xe cũ đã quen và bất giác đã lại dùng cái giọng khinh bạc, bất nhân quen thuộc của giới đó. Ở nhà bà dì, chàng đã có cảm giác đó; sáng hôm sau khi nói chuyện với bà về những vấn đề hết sức nghiêm túc chàng đã dùng giọng bông đùa.
Nói chung, thành phố Petersburg, nơi đã lâu chàng không bước chân tới, đã gây cho chàng một cảm giác quen thuộc: kích động về thể xác, uỷ mị về tinh thần. Tất cả ở đấy đều sạch sẽ, tiện lợi làm sao, tất cả được sắp đặt khéo léo làm sao, và nhất là về con người thì hầu như không đòi hỏi một tí gì về đạo đức, cho nên cuộc sống có vẻ đặc biệt nhẹ nhàng, dung dị.
Một anh xà ích bảnh bao, sạch sẽ, lễ độ, đánh xe đưa chàng đi qua trước mặt những viên cảnh sát cũng bảnh bao, sạch sẽ và lễ độ, trên một đường phố mới tưới nước sạch bóng, hai bên nhà cửa lộng lẫy, sạch sẽ, tới một toà nhà bên con sông đào; nơi Mariet ở. Trước thềm nhà một cặp ngựa nòi Anh thắng sẵn vào xe đang đứng đợi gã xà ích mình mặc áo dấu, tay cầm roi, dáng dấp tựa một người Anh với bộ ria mép chìa ra đến nửa má, ngồi trên ghế, vẻ khinh người ra mặt.
Một anh gác cổng trong bộ đồng phục cực kỳ sạch sẽ ra mở cửa trước, nơi đã có một anh đầy tớ mặc áo dấu có đính lon còn sạch sẽ gấp bội, với bộ ria mép chải chuốt cẩn thận và anh lính gác thường trực mặc bộ quân phục mới, súng cắm lưỡi lê.
- Tướng quân hôm nay không tiếp khách, cả phu nhân cũng không tiếp. Các ngài sắp đi ra.
Nekhliudov đưa bức thư của nữ bá tước Katerina Ivanovna và rút lấy trong ví một tấm danh thiếp, đến gần một chiếc bàn nhỏ, trên có quyển sổ để ghi tên những người đến thăm. Chàng bắt đầu viết là rất tiếc không gặp được ai thì, bỗng nhiên, thấy anh đầy tớ chạy về phía cầu thang, và anh gác cổng chạy về phía bậc thềm, mồm hô to: "Tiến lại", trong khi đó, anh lính gác thường trực quay người lại đứng nghiêm, hai tay để dọc theo đường khâu ống quần, mắt nhìn theo một người đàn bà nhỏ nhắn, mảnh mai, đang thoăn thoắt xuống thang gác, dáng điệu không có gì là tương xứng với cái địa vị quan trọng của bà ta.
Mariet đội một chiếc mũ to vành có điểm một cái lông chim, ngoài chiếc áo dài đen khoác một cái áo choàng ngắn, cùng màu, đi bao tay đen; chiếc mạng mỏng tang che kín khuôn mặt.
Trông thấy Nekhliudov, nàng vén mạng lên, để lộ một khuôn mặt rất xinh tươi, với cặp mắt long lanh. Nàng chăm chú nhìn chàng, vẻ dò hỏi:
- A! Công tước Dmitri Ivanovich? - Nàng vui vẻ kêu lên, giọng lanh lảnh dễ thương. - Tôi không nhận ra ông nữa.
- Ồ bà còn nhớ cả tên tôi cơ à?
- Chứ sao! Hai chị em tôi trước kia còn phải lòng ông nữa là đằng khác, - nàng nói bằng tiếng Pháp, - nhưng, trời ơi, giờ đây ông khác trước nhiều quá! Thật đáng tiếc, tôi có việc cấn phải đi ngay bây giờ. Nhưng mà ta hãy lên gác cái đã - nàng đứng dừng lại nói, vẻ tần ngẩn do dự, rồi đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ trên tường.
- Không, không thể được. Tôi phải đến nhà bà Kamenxkaia dự tang lễ. Bà ta đau khổ quá.
Bà Kamenxkaia là ai vậy?
- Sao? Ông không biết chuyện gì à. Con trai bà ta bị giết trong một cuộc thách đấu, anh ta đấu súng với Pozen. Nhà con một, thật thảm quá. Bà mẹ đau khổ đến tuyệt vọng.
- Vâng, tôi có nghe thấy nói…
- Thôi, tôi phải đi thôi, nhưng ngày mai hoặc tối nay, thế nào ông cũng đến chơi nhé, - nàng nói và nhẹ nhàng thoăn thoắt bước ra cửa.
- Tối nay thì tôi không thể đến được, - chàng vừa trả lời vừa đi theo ra đến bậc thềm, - nhưng tôi có việc phải nhờ bà, - chàng vừa nói thêm vừa nhìn đôi ngựa hồng đứng đợi kề trước bậc thềm.
- Việc gì thế?
Dì tôi có mấy chữ gửi cho bà đây. Bà xem trong đó sẽ rõ.
Nekhliudov nói và đưa cho Mariet một chiếc phong bì hẹp khổ, có đóng con dấu riêng thật to.
- Tôi biết, nữ bá tước Katernia Ivanovna ngỡ rằng đối với nhà tôi, tôi có thể ảnh hưởng nào đó trong công việc của ông ấy. Bà ấy lầm rồi. Tôi không thể làm gì được và cũng không muốn nhúng vào công việc của nhà tôi. Nhưng vì bá tước phu nhân, vì ông thì nhất định tôi sẵn sàng đi trái lại nguyên tắc đó. Chuyện gì vậy? Nàng vừa nói vừa lấy bàn tay đi găng đen dò tìm miệng túi mãi chẳng thấy.
- Một thiếu nữ bị giam trong pháo đài, cô ta ốm và thực ra chẳng có tội tình gì cả.
- Tên cô ta là gì?
- Suxtova. Lida Suxtova. Có ghi trong thư.
- Được rồi. Tôi sẽ cố gắng, - nàng vừa nói vừa nhẹ nhàng bước lên cỗ xe ngựa bốn bánh có mui, lót đệm rất êm, cánh gà xe sơn bóng loang loáng dưới ánh mặt trời.
Nàng ngồi xuống và giương dù ra. Anh đầy tớ trèo lên ghế, ra hiệu bảo người xà ích cho xe đi. Cỗ xe chuyển bánh, nhưng ngay lúc đó, Mariet lại lấy mũi dù khẽ chạm vào anh xà ích, hai con ngựa Anh da mịn tuyệt đẹp dưới sức ghì mạnh của hàm thiếc cúi gằm đầu xuống và đứng đừng lại, giậm giậm chân.
- Ông nhớ tới chơi nhé, nhưng lần nầy đừng có mục đích vụ lợi cơ! - nàng mỉm cười, biết rõ mãnh lực nụ cười của mình. Và cũng như khi đã biểu diễn xong một tiết mục thì hạ màn, nàng lại buông cái mạng che mặt xuống.
- Nào ta đi thôi, - và nàng lại lấy mũi dù khẽ chạm vào người xà ích.
Nekhliudov cất mũ chào. Hai con ngựa nòi, miệng thở phì phì bước đi, bốn cặp móng nhỏ nện xuống mặt đường lát đá; cỗ xe băng đi nhẹ nhàng, bánh xe cao su mới, thỉnh thoảng gặp những quãng đường mấp mô lại nẩy lên nhè nhẹ.


Chương 75


Nghĩ tới nụ cười trao đổi với Mariet, Nekhliudov lắc đầu:
"Chưa kịp ngoái cổ lại là đã sa ngay vào cuộc sống đó rồi". Chàng nghĩ vậy, lòng cảm thấy bứt rứt không yên và hoài nghi, cái cảm giác vẫn đến mỗi lần chàng thấy cần cầu cạnh đến những người mình không quý trọng.
Sau khi đã tính toán đến đâu trước, đến đâu sau để tránh khỏi phải đi quanh trở lại vô ích, trước hết chàng tới Khu mật viện. Được vào Văn phòng, chàng thấy trong một gian vô cùng lộng lẫy, có rất đông viên chức người nào cũng cực kỳ hoà nhã, y phục cực kỳ tể chỉnh. Người ta cho chàng biết đơn kháng án của Maxlova đã chuyển tới và được đưa lên, để xét và báo cáo, ngay với chính viên khu mật Von là người mà chàng đã viết thư giới thiệu. Một người thư ký văn phòng nói với Nekhliudov:
- Vụ Maxlova ít có hy vọng được đưa ra phiên toà tuần nầy, trừ phi ngài có yêu cầu đặc biệt thì cũng có thể được đem ra xét vào thứ tư nầy.
Ở Văn phòng, trong khi chờ người ta cho biết thêm, Nekhliudov lại nghe mọi người ở đây bàn tán về cuộc đấu súng, những chi tiết về chàng thanh niên Kamenxky thiệt mạng. Lần đầu tiên chàng được nghe đầy đủ câu chuyện mà tất cả Petersburg đang quan tâm bàn tán. Câu chuyện xảy ra ở quán rượu nọ, có một đám sĩ quan đến ăn sò và nốc rượu như mọi ngày. Một gã trong bọn họ nói bóng gió châm chọc đến trung đoàn của Kamenxky.
Kamenxky mắng gã kia là đồ vu khống, và liền bị gã tát cho một cái. Ngày hôm sau, hai người đưa nhau đi đấu súng, và Kamenxky bị một viên đạn vào bụng, hai giờ sau thì chết. Kẻ sát nhân và những người làm chứng liền bị giam giữ, nhưng người ta nói, giam thì giam chỉ hai tuần lễ nữa bọn kia sẽ được thả ra.
Rời Văn phòng Khu mật viện, Nekhliudov đi đến Ban Khiếu tố để gặp một viên chức có thế lực, nam tước Vorobiev; nhà ông ta ở là một phòng tráng lệ trong một toà nhà của Nhà nước. Người gác cửa và người hầu xẵng giọng bảo Nekhliudov là không thể gặp Nam tước ngoài những ngày tiếp khách; hôm nay Nam tước bận vào bệ kiến Hoàng đế và ngày mai lại còn dâng biểu tường trình.
Nekhliudov đưa bức thư giới thiệu, rồi lên xe đi đến nhà viên Khu mật viện.
Nekhliudov đến vào lúc Von vừa ăn xong và được lão tiếp theo thói quen, để cho dễ tiêu hoá, lão vừa hút xì gà vừa đi đi lại trong phòng làm việc.
Vladimir Vaxilievich Von quả thực là một người rất mực thước. Lão đặt đức tính nầy lên trên hết và nhìn tất cả mọi người từ trên vị trí cao cả của mình. Lão không thể không hết sức coi trọng đức tính nọ, vì chính nhờ nó mà lão đã làm nên sự nghiệp huy hoàng hằng mơ ước; nghĩa là nhờ lấy được vợ giàu, lão đã vớ được một cái gia tài đem lại mỗi năm cho lão mười tám nghìn rúp lợi tức và nhờ công phu khó nhọc của bản thân, lão đã kiếm được chức Khu mật. Lão không những chỉ tự cho mình là người rất mực thước mà còn là một người chính trực hào hùng; lão hiểu chính trực đây là không ăn hối lộ của tư nhân.
Nhưng lão lại thấy chẳng có gì bất chính khi đi nài xin tất cả mọi thứ tiền phụ cấp đi đường, phụ cấp di chuyển, tiền thù lao của công quỹ và đem hết tài khuyển mã ra thực hiện bất cứ điều gì chính phủ yêu cầu ở lão để đền đáp lại. Tàn sát, giam cầm, đày ải hàng trăm người vô tội làm cho họ khuynh gia bại sản chỉ vì họ thiết tha gắn bó với dân tộc họ, với tôn giáo của ông cha họ, như lão đã làm trong thời gian giữ chức tỉnh trưởng một tỉnh trên đất nước Ba Lan, lão không những không coi việc làm đó là bất chính mà còn cho đó là một hành động cao thượng, anh dũng, một hành động yêu nước nữa, cũng như lão coi việc lão tước đoạt hết tài sản của người vợ rất yêu lão và cả của cô em vợ, là chẳng có gì là bất chính.
Trái lại, theo lão, đấy là phương pháp rất hợp lý để thu xếp công việc gia đình.
Gia đình Vladimir Vaxilievich gồm có vợ lão, một người nhu nhược, cô em vợ - gia tài cô nầy bị lão chiếm đoạt bằng cách bán hết điền sản của cô ta đi, lấy tiền gửi vào một ngân hàng đứng tên lão - và sau hết, là người con gái, một thiếu nữ dịu dàng, e lệ, xấu xí, sống một đời cô quạnh buồn nản: ít lâu nầy, để khuây khoả, cô thường đi dự những buổi họp đạo Tin lành ở nhà bà Alin và nhà nữ bá tước Katerina Ivanovna.
Con trai của Vladimir Vaxilievich là một thằng cũng hiền lành, mới mười lăm tuổi đã để râu và bắt đầu uống rượu, ăn chơi trác táng cho đến hai mươi tuổi thì bị bố đuổi đi vì học chẳng tốt nghiệp trường nào cả, lại chơi bời với bọn hư thân mất nết mắc nợ bừa bãi, làm tổn thương đến danh giá của bố. Lão đã một lần trả nợ cho nó hai trăm ba mươi rúp, rồi một lần thứ hai sáu trăm; lần nầy: lão báo trước cho nó đấy là lần cuối cùng và nếu nó cứ chứng nào tật ấy thì lão sẽ đuổi cổ nó ra khỏi nhà và sẽ từ nó, không bố con gì nữa. Không những nó không sửa mình, lại còn vay nợ thêm một nghìn rúp nữa và ngang nhiên bảo thẳng với bố rằng nó sống trong gia đình không khác nào như bị tù khổ sai. Thế là Vladimir Vaxilievich tuyên bố cho nó biết nó muốn đi đâu thì đi, nó không phải là con lão nữa. Từ đó, Vladimir Vaxilievich coi mình như không có con trai và cả nhà, không ai dám hé răng nói với lão về thằng con ấy nữa. Còn lão thì lão tin tưởng chắc chắn là mình đã thu xếp công việc gia đình một cách tốt đẹp nhất.
Khi Nekhliudov bước vào, Von dừng lại không đi bách bộ nữa, mỉm cười chào, một nụ cười hoà nhã đáng yêu.
Tuy có thoáng lẫn giễu cợt: đó là cách của lão vô tình biểu lộ cho ta đây là người mực thước và hơn đời. Lão đọc bức thư của Nekhliudov đưa cho lão.
- Xin mời ông ngồi và ông cho phép tôi được tiếp tục đi đi lại lại thế nầy! - lão vừa nói vừa thọc hai tay vào túi áo ngoài bước nhẹ nhàng mềm mại, theo những đường chéo nhau trong văn phòng lớn bài trí rất trang nghiêm - Tôi rất hân hạnh được biết ông: và được làm vui lòng bà tước Ivan Ivanovich, - lão nhả ra một làn khói thơm xanh và nói tiếp, rồi thận trọng cầm điếu xì gà ra tay để cho tàn thuốc còn nguyên.
Nekhliudov nói:
- Tôi chỉ đến xin ngài xét vụ nầy càng sớm càng hay để nếu bị cáo có phải đi Siberi, thì có thể đi cho sớm.
- Vâng, vâng, đáp những chuyến tàu đầu tiên đi Nizni, tôi biết. - Von nói, miệng mỉm một nụ cười hạ cố, bao giờ lão cũng biết ngay trước điều người ta muốn nói với lão.
- Bị cáo tên gì nhỉ?
Maxlova…
Von lại gần bàn liếc nhanh một tờ giấy để kẹp chung với nhiều giấy má khác trong một mảnh bìa.
- Đúng, đúng Maxlova. Được, tôi sẽ nói với các bạn đồng sự. Thứ tư tới, chúng tôi sẽ xét vụ nầy.
- Tôi có thể đánh điện báo cho trạng sư của tôi biết được không?
- A? Ông có thuê trạng sư? Để làm gì? Nếu ông muốn, sao lại không được?
- Nhưng lý lẽ để phá án có thể không đủ, - Nekhliudov nói, - Nhưng nghiên cứu qua hồ sơ cũng thấy rõ vì hiểu lầm mà người ta đã kết tội.
- Vâng, vâng, có thể là như vậy, nhưng việc của Khu mật viện không phải là thẩm xét thực chất vụ án, - Vladimir Vaxilievich vừa trả lời vừa chăm chú nhìn chỗ tàn thuốc. - Khu mật viện chỉ có trách nhiệm theo dõi xem người ta đã hiểu và thi hành luật pháp có đúng không thôi.
- Nhưng tôi nghĩ đây là một trường hợp đặc biệt.
- Tôi biết, tôi biết, tất cả mọi trường hợp đều đặc biệt. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì phải làm, thế thôi.
Cái tàn thuốc vẫn còn giữ nguyên, nhưng vết rạn đã làm nó lâm vào thế hiểm nguy.
- Ít khi ông tới Petersburg lắm nhỉ? - Von nói, vừa cố tìm cách cầm điều xì gà sao cho tàn thuốc khỏi rơi. Tuy nhiên cái tàn thuốc vẫn cứ nghiêng sang một bên, và Von, rất cẩn thận, đưa nó lại chỗ cái gạt để gạt nó rơi xuống và vụn ra. - Câu chuyện cậu Kamenxky thực là kinh khủng? - Lão nói - một thanh niên tuấn tú. Nhà con một. Nhất là tình cảnh của bà mẹ! - Lão nhắc lại từng lời những điều mà nhân dân Petersburg đang bàn tán về chuyện đó.
Sau khi chuyện trò qua loa về nữ bá tước Katerina Ivanovna và về việc bà say mê theo đạo mới, điều nầy lão chẳng chê trách mà cũng chẳng tán thành, song lão thấy hiển nhiên không cần thiết, và lão bấm chuông gọi người nhà.
Nekhliudov xin cáo từ.
- Nếu hôm nào ông thấy tiện, mời ông lại xơi cơm, - Von nói, đưa tay ra bắt, - vào thứ tư tới chẳng hạn. Hôm đó tôi sẽ trả lời ông dứt khoát.
Đã muộn, Nekhliudov lên xe trở về nhà bà dì.


Chương 76


Nữ bá tước Katerina Ivanovna ăn bữa chiều vào lúc bảy rưỡi, cách thức hầu dọn ăn uống hoàn toàn mới lạ đối với Nekhliudov. Khi bày món ăn lên bàn xong gia nhân lui ra, để người ta tự lấy thức ăn cho mình. Để tránh cho các bà khỏi khó nhọc, và lấy tư cách con người của phái khỏe, các ông, anh dũng đảm đương lấy cái gánh nặng tiếp và mời các bà ăn uống. Ăn xong mỗi món, bá tước phu nhân lại ấn nút chuông điện lắp ở bàn, mấy người hầu lặng lẽ bước vào, nhanh nhẹn dọn dẹp, thay đĩa và mang vào món tiếp theo. Các món ăn toàn là những món mỹ vị và rượu cũng thuộc loại thượng hảo hạng.
Một đầu bếp người Pháp làm việc với hai người phụ mặc toàn đồ trắng trong bếp rộng rãi sáng trưng.
Ngồi ăn có sáu người: hai vợ chồng bá tước, cậu con trai, một sĩ quan vệ binh trẻ tuổi, vẻ mặt cau có, ngồi ăn tì khuỷu tay lên bàn, Nekhliudov, một cô người Pháp chuyên đọc sách cho gia đình và viên quản lý của bá tước ở nhà quê ra.
Ở đây mọi người chuyện trò cũng xoay quanh câu chuyện đấu súng. Người ta bàn tán với nhau về ý kiến của đức Hoàng thượng đối với việc nầy. Được biết đức Hoàng thượng đau xót cho số phận người mẹ thì ai nấy đều đau xót cho số phận người mẹ, nhưng cũng được biết là đức Hoàng thượng tuy có lòng thương xót, nhưng cũng không muốn tỏ ra quá nghiêm khắc đối với kẻ sát nhân đã bảo vệ danh dự quân nhân, thì tất cả mọi người đều tỏ ra khoan dung với kẻ sát nhân đã bảo vệ danh dự quân nhân. Chỉ có nữ bá tước Katerina Ivanovna vốn tính hay bộp chộp, ăn nói tự do là lên án kẻ sát nhân.
- Chúng nốc rượu vào rồi giết chết những thanh niên con nhà gia giáo. Không bao giờ tôi tha thứ cho những kẻ đó bà bá tước nói.
- Ấy cái đó tôi không hiểu ra làm sao đấy, - ông bá tước nói.
- Tôi biết, ông thì không bao giờ hiểu những điều tôi nói, - bá tước phu nhân đáp lại, và quay lại nói với Nekhliudov. - Tất cả ai người ta đều hiểu dì, chỉ trừ có chú anh. Dì nói là dì thương hại cho người mẹ, và không muốn để hung thủ sau khi đã giết người, lại được hả hê.
Người con trai của nữ bá tước cho tới lúc đó vẫn im lặng, bỗng lên tiếng bênh vực cho hung thủ. Hắn sỗ sàng bác những ý kiến của mẹ, nói rằng viên sĩ quan không thể nào không hành động như vậy, nếu hành động khác đi y sẽ bị hội đồng sĩ quan trục xuất khỏi trung đoàn.
Nekhliudov ngồi nghe nhưng không đúng vào câu chuyện, bản thân là một cựu sĩ quan, nên Nekhliudov hiểu rõ, nhưng chàng không thừa nhận những lý lẽ của anh thanh niên Tsacky; nhưng đồng thời Nekhliudov bất giác đem so sánh số phận tên sĩ quan giết người kia với số phận người thanh niên đẹp trai chàng đã gặp trong nhà lao, bị kết án khổ sai vì đã giết người trong một cuộc ẩu đả. Cả hai đều đã giết người vì say rượu. Một người là nông dân, đã giết người trong một phút quá giận thì phải lìa vợ, lìa gia đình, họ hàng thân thích, chân mang xiềng, đầu cạo trọc, đi đày khổ sai, trong khi đó tên sĩ quan nầy thì chỉ bị giữ lại, ngồi trong một căn buồng đẹp, được ăn ngon, uống tốt rồi đọc sách và ngày một ngày hai sẽ được thả ra, lại sẽ tiếp tục sống như xưa và thậm chí còn vì chuyện nầy mà được mọi người đặc biệt chú ý nữa.
Nekhliudov nghĩ sao nói vậy. Mới đầu bá tước phu nhân có vẻ như đồng ý với cháu, nhưng về sau bà cũng im lặng như mọi người khác, khiến Nekhliudov có cảm giác chàng đã phạm một điều gì như một sự thất lễ.
Buổi tối, chỉ sau bữa ăn một lát, trong phòng khách lớn, mấy chiếc ghế có tựa lưng cao chạm trổ, khác hẳn ngày thường được xếp thành hàng như để sửa soạn cho một cuộc hội nghị; một chiếc ghế bành đặt bên một cái bàn nhỏ trên có một bình nước cho người nói chuyện, mọi người bắt đầu tụ tập lại để nghe người khách lạ Kizvete thuyết pháp.
Những cỗ xe ngựa lộng lẫy đỗ trước bậc thềm nhà.
Trong phòng khách trang trí cực kỳ xa hoa, các bà ăn vận toàn hàng tơ lụa, nhung, đăng ten, với những món tóc giả, thân hình bó lẳn, độn thêm cho thon dáng; cùng ngồi có mấy ông quân nhân, viên chức nhà nước và năm người bình dân khác là hai người gác cổng, một chủ hiệu tạp hoá, một người đày tớ và một anh xà ích.
Kizvete, người khỏe mạnh, tóc hoa râm, nói tiếng Anh, và một thiếu nữ gầy đeo kính kẹp mũi, dịch rất đúng và rất nhanh.
Theo ý diễn giả tội lỗi của chúng ta rất lớn, sự trừng phạt cũng rất nặng và không thể nào tránh khỏi, và sống trong sự chờ đợi sự trừng phạt đó thực không thể sống nói.
- Thưa các anh, các chị thân mến, trong lúc nầy đây, chúng ta hãy nghĩ đến bản thân chúng ta, đến cuộc sống chúng ta, đến cách hành động và sinh sống của chúng ta, nó đã làm cho Đức Chúa, đầy tình thương phải phật lòng biết bao, và làm tăng thêm biết bao nỗi đau đớn của Chúa Cơ đốc, và chúng ta sẽ hiểu rằng không có con đường cứu vớt nào cho chúng ta và tất cả chúng ta đều sẽ phải đi đến chỗ chìm đắm. Một sự chìm đắm khủng khiếp, những nỗi giầy vò vô tận đang chờ đón chúng ta! - hắn nói, giọng run run đẩy nước mắt. - Làm thế nào để cứu chúng ta được bây giờ? Thưa các anh, các chị, làm thế nào để cứu chúng ta thoát khỏi ngọn lửa ghê sợ ấy? Nó đã đốt cháy nhà chúng ta rồi và chẳng có lối nào thoát được.
Hắn im lặng một phút. Những giọt nước mắt thực sự lăn dài trên má. Từ tám năm nay, lần nào cũng vậy, cứ đến đoạn thuyết pháp nầy, đoạn hắn thích thú hơn cả, là cổ họng hắn lại như tắc lại, hắn thấy cay cay trong sống mũi, nước mắt hắn giàn giụa trào ra, những giọt nước mắt làm cho nỗi xúc động của hắn càng tăng thêm. Có những tiếng nức nở ở trong phòng. Bá tước phu nhân Katerina Ivanovna ngồi cạnh chiếc bàn mặt khảm, ngả đầu trên hai bàn tay; đôi vai béo núc của bà rung giật lên. Anh xà ích ngẩn mặt ra, sợ hãi, nhìn chăm chăm vào diễn giả người Đức, tưởng như hắn sắp bị cái càng xe của anh đâm phải mà vẫn không buồn tránh sang bên.
Phần đông các thính giả đều ở những tư thế giống như nữ bá tước. Cô con gái của lão Vôn, trông rất giống bố, ăn vận theo kiểu mới, quỳ sụp xuống, giấu mặt vào lòng bàn tay.
Bỗng nhiên diễn giả ngẩng đầu lên và trên gương mặt hắn bừng sáng nụ cười giống như nụ cười của các diễn viên kịch dùng để diễn tả nỗi vui mừng. Bằng một giọng dịu dàng và êm ái, hắn lại nói:
- Nhưng mà có cách giải thoát. Nó ở kia kỳa, dễ dàng và vui vẻ. Nó chính là máu của người con độc nhất của Chúa Trời đã đổ ra vì chúng ta. Những đau khổ Người phải chịu và máu của Người sẽ cứu chúng ta. Thưa các anh, các chị, - hắn nói, và giọng lại thấm nước mắt, - chúng ta hãy cảm ơn Chúa, đã hy sinh con người độc nhất để chuộc tội cho loài người. Giọt máu thiêng liêng của Người.


Chương 77


Ngày hôm sau, Nekhliudov vừa mới mặc quần áo xong, sắp sửa xuống gác thì một người đày tớ mang lên cho chàng tấm thiếp của viên trạng sư ở Moskva. Ông ta đến Petersburg có việc riêng, và nhân thể sẽ dự cuộc thẩm xét vụ án Maxlova nếu vụ ấy được đưa ra xét trong những ngày sắp tới. Điện của Nekhliudov gửi đi lúc ông ta đã ở trên đường rồi nên không bắt được. Khi được Nekhliudov cho biết về ngày giờ ấn định của phiên toà và tên tuổi các viên Khu mật, ông ta mỉm cười.
- Đúng cả ba cái điển hình Khu mật; Vôn - một viên chức kiểu Petersburg; Xkorovonikov - nhà pháp luật học uyên bác và Bê - nhà pháp luật học thực dụng và do đó cũng là người linh hoạt nhất. Hy vọng của chúng ta phải đặt vào tay nầy hơn cả. Thế còn Ban Khiếu tố thì sao?
- Tôi đang tính đến nhà nam tước Vorobiev đây, vì hôm qua tôi chưa gặp ông ta.
- Ông có biết tại sao lại có danh hiệu "Nam tước" Vorobiev không? - Viên trạng sư hỏi để trả lời cái giọng nhấn mạnh hơi mỉa mai của Nekhliudov khi chàng đọc cái tước vị ngoại lai "Nam tước" gán ghép với một cái tên rất Nga - Chính đức Hoàng đế Pol đã phong cái tước vị đó cho ông nội ông ta trước kia, có lẽ ông nầy lúc ấy làm hầu phòng của ngài, để thưởng về công lao to lớn: "Hãy làm như ý trẫm muốn, hãy phong cho hắn làm Nam tước". Và thế là từ đấy có Nam tước Vorobiev, con người rất hãnh diện với tước vị đó. Một tay cáo già có một không hai đấy.
- Chính tôi đang định đến nhà ông ta đây.
- Thế thì tốt lắm, chúng ta cùng đi. Tôi sẽ đưa ông đến.
Ra đến phòng tiền đình, lúc hai người sắp đi, người đày tớ đưa cho Nekhliudov một lá thư của Mariet:
"Để làm vui lòng ông, tôi đã hành động hoàn toàn trái ngược với những nguyên tắc tự mình đề ra, tôi đã nói với nhà tôi tha cho người phụ nữ được ông che chở. Như thế là người ấy có thể được thả ngay. Nhà tôi đã viết giấy cho ông tư lệnh. Vậy ông hãy đến thăm tôi một cách không vụ lợi nhé. Tôi đợi ông M."
Ông thấy thế nào? - Nekhliudov nói với viên trạng sư Thật là kinh khủng! Một phụ nữ bị giam cầm cố bảy tháng trời nay, bây giờ té ra chẳng có tội tình gì. Và chỉ cần một tiếng thôi là chị ta được thả ra.
- Bao giờ mà chả thế. Song ít ra thì ông cũng đã đạt được điều mình muốn.
- Vâng, nhưng sự thành công làm cho tôi phải đau lòng. Ông thử nghĩ xem tình cảnh ở đó thế nào? Tại sao người ta lại bắt giam cô ta.
- Vâng, nhưng tốt hơn hết là chúng ta dừng đi sâu quá vào vấn đề ấy làm gì. Thôi, tôi đưa ông đi nhé! - Viên trạng sư nói khi hai người đã ra đến trước thềm; cỗ xe ngựa lộng lẫy viên trạng sư thuê, tiến sát lại bậc thềm.
- Ông định đến thăm nam tước Vorobiev phải không?
Viên trạng sư nói địa chỉ cho người xà ích biết, tức thì cặp tuấn mã chạy vun vút mang Nekhliudov đến trước cửa nhà nam tước Vorobiev. Lúc nầy lão có nhà. Trong gian phòng đầu tiên, một viên chức trẻ, mặc đồng phục, cổ dài ngoẵng như cổ bò, hầu lộ hẳn ra, bước đi nhẹ nhàng một cách khác thường đang tiếp hai người phụ nữ.
- Xin ngài cho biết quý danh là gì ạ? Anh viên chức trẻ tuổi, lộ hầu, bước đi thật nhẹ nhàng rời chỗ các bà, lại gần Nekhliudov, hỏi.
Nekhliudov nói tên.
- Nam tước vừa nhắc tới ngài. Xin ngài vui lòng đợi cho một chút. - Anh ta đi vào qua một lần cửa trong. Lúc ra, anh ta đưa một người đàn bà mặc tang phục khóc sướt mướt đi ra. Người đàn bà đưa những ngón tay dài, gầy guộc kéo cái mạng đã nhầu nát xuống mặt để che giấu hai hàng nước mắt.
- Xin mời ngài vào ạ, - anh viên chức trẻ tuổi quay lại phía Nekhliudov nói nhẹ nhàng bước lại cửa văn phòng, mở cửa và đứng dậy.
Bước vào phòng, Nekhliudov thấy ngay trước mặt mình một người đàn ông tấm thước, thân hình mập mạp, tóc cắt ngắn, mặc lễ phục, ngồi trong một chiếc ghế bành, trước mặt là một cái bàn giấy lớn, cặp mắt vui vẻ nhìn ra phía trước.
Trông thấy Nekhliudov, khuôn mặt hiền từ của lão với nước da đỏ thắm làm nổi bật hẳn đôi ria mép và chòm râu trắng xoá, sáng lên nụ cười thân ái.
- Rất sung sướng được gặp ông. Lệnh đường công tước phu nhân với chúng tôi là bạn cố hữu. Tôi biết ông từ lúc ông còn nhỏ và về sau nầy ông là sĩ quan. Nào, ông hãy ngồi xuống, và nói cho tôi biết xem tôi có thể giúp ông được việc gì. Phải, - ông ta vừa nói vừa gật gù cái đầu bạc trắng, tóc cắt ngắn, lắng nghe Nekhliudov kể chuyện của Fedoxia. - Ông cứ nói đi, tôi hiểu lắm. Phải, câu chuyện rất thương tâm. Ông đã đệ sớ xin ân xá chưa?
- Chúng tôi đã thảo rồi ạ. - Nekhliudov vừa nói vừa lấy ở trong túi ra lá sớ ân xá. - Song, chúng tôi muốn thưa trước với cụ, mong rằng việc nầy sẽ được đặc biệt chiếu cố đến cho.
- Ông đã làm rất đúng. Tôi nhất định sẽ đích thân tâu lại việc nầy.
Lão Nam tước vừa nói vừa cố làm cho bộ mặt vui tươi của lão cũng tỏ tình thương xót.
- Thương tâm lắm. Rõ ràng con bé còn trẻ người non dạ, thằng chồng nó ăn ở cục cằn, thô lỗ với nó nên nó ghét; nhưng lâu dần hai đứa lại thương yêu nhau… Được, tôi tâu rõ việc nầy.
- Bá tước Ivan Mikhailovich có nói là Bá tước cũng sẽ tâu xin với Hoàng hậu.
Chàng vừa thốt ra mấy tiếng đó thì vẻ mặt của Nam tước thay đổi ngay. Lão bảo.
- Thôi, ông hãy cứ đưa lá sớ cho Văn phòng, về phần tôi, tôi sẽ hết sức mình làm đến đâu thì làm.
Giữa lúc đó, anh thư ký trẻ tuổi bước vào, điệu bộ ra vẻ muốn phô trương cái dáng đi của mình.
- Bà lúc nãy yêu cầu được thưa với ngài một vài lời nữa ạ.
- Thế thì cho bà ấy vào… Nầy ông bạn thân, chúng tôi phải chứng kiến biết bao nhiêu là nước mắt. Ôi? Giá mà có thể lau sạch được tất cả: Sức được đến đâu thì làm đến đấy thôi.
Người đàn bà bước vào.
- Tôi đã quên không yêu cầu ngài hãy ngăn cấm không cho phép hắn đem con gái tôi đi, nếu không thì hắn…
- Vâng, thì tôi đã nói với bà rằng thế nào tôi cũng sẽ làm.
- Thưa nam tước, ngài hãy vì Chúa mà cứu vớt lấy một người mẹ.
Người đàn bà cầm lấy tay lão và hôn.
- Nhất định mọi việc sẽ đâu vào đấy.
Khi người đàn bà đi khỏi, Nekhliudov cũng đứng dậy cáo từ
- Chúng tôi sẽ gắng làm hết sức mình. Chúng tôi sẽ tự hỏi bộ Tư pháp. Sau khi họ trả lời, xem có thể được đến đâu, chúng tôi sẽ cố gắng làm đến đó.
Nekhliudov trở ra và đi qua Văn phòng. Cũng như ở Khu mật viện, ở đây, trong một căn phòng lộng lẫy chàng thấy một đám viên chức sang trọng, sạch sẽ, lịch thiệp, từ quần áo cho đến lời ăn tiếng nói thảy đều sang trọng, những con người đứng đắn, nghiêm trang.
Nekhliudov bất giác nghĩ: "Sao mà họ đông thế! Đông kinh khủng! Và trông họ mới béo tốt làm sao, người nào người nấy, áo quần, chân tay mới sạch sẽ làm sao! Giầy dép cứ bóng loáng lên! Ai đã làm ra tất cả những thứ nầy cho họ? Đời sống của họ sung sướng biết chừng nào, không những chỉ so với tù nhân ngay cả so với nông dân nữa!".


Chương 78


Số phận những người tù ở Petersburg hay dở đều nằm trong tay một viên tướng già, con cháu một dòng Nam tước người Đức. Lão được thưởng nhiều huân chương nhưng không đeo chiếc nào trừ cái huân chương chữ thập trắng, nhỏ, đính ở khuy áo; lão là người có công lao với tổ quốc nhưng về già sinh ra lẫn cẫn, như mọi người vẫn thường nói về lão. Hồi lão nhận chức ở Kapkaz, lão đã được thưởng tấm huân chương nầy; đặc biệt vinh dự cho lão vì đã có công chỉ huy một đám người nông dân Nga, cắt tóc ngắn, mặc quân phục, trang bị súng trường, có lắp lưỡi lê đi tàn sát hơn mười ngàn người bảo vệ tự do, nhà cửa và gia đình họ. Về sau lão làm quan ở Ba Lan(1), ở đấy lão lại bắt người nông dân Nga, làm nhiều tội đại ác khác, do đó lại được thưởng huân chương và bộ quân phục của lão cũng được thêu kim tuyến. Lão cũng làm quan ở một vài nơi nữa và nay già nua, mệt mỏi lão được lĩnh cái chức vị nầy để được ở nhà tốt, lương bổng hậu và danh giá. Lão thi hành hết sức nghiêm chỉnh những mệnh lệnh của thượng cấp và đặc biệt coi trọng việc thi hành những mệnh lệnh đó. Đối với; lão cho rằng tất cả mọi việc trên đời đều có thể từ những mệnh lệnh của thượng cấp. Nhiệm vụ của lão là giam giữ những tù nhân chính trị, cả nam và nữ, mỗi người một xà lim, làm thế nào để trong vòng mười năm trời, một nửa số tù nhân phải chết, một số hoá điên hoặc chết vì bệnh lao, một số tự tử bằng cách tuyệt thực, hoặc lấy mảnh chai rạch đứt mạch máu, hoặc thắt cổ, hoặc tự thiêu.
Viên tướng già không phải không biết tất cả những chuyện đó vì nó xảy ra ở ngay trước mắt lão, có điều là lương tâm lão không hề bị cắn rứt vì lão coi nó cũng như những tai hoạ do dông bão, lụt lội v.v… gây ra. Những điều bất hạnh đó là kết quả việc thực hiện những chỉ thị "từ trên", nhân danh đức Hoàng đế truyền xuống. Những chỉ thị đó nhất thiết phải được thi hành và không ai lại phí công lưu tâm đến kết quả của nó. Viên tướng già nầy không cho phép mình được nghĩ đến những vấn đề đó; lão cho rằng nghĩa vụ yêu nước của lão, phận sự quân nhân của lão là phải gạt bỏ những ý nghĩ đó đi, vì chúng có thể dẫn tới một hành động nhu nhược nào đấy trong việc thi hành những nhiệm vụ mà lão coi là tối quan trọng.
Theo đúng chức trách, mỗi tuần một lần, lão đi kiểm tra một lượt các phòng giam, hỏi xem các tù nhân có yêu cầu gì không. Tù nhân trình bầy cho lão các điều thỉnh cầu Lão bình tĩnh lắng nghe, không nói một lời và cũng không bao giờ cho biết kết quả và về những yêu cầu đó, vì lẽ chúng đều không hợp lệ.
Lúc xe của Nekhliudov đến gần nhà tướng già thì từ những quả chuông thanh thanh của chiếc đồng hồ trên tháp vang lên bản thánh ca "Hãy ca ngợi Chúa" rồi điểm hai tiếng. Những tiếng chuông đó nhắc nhở Nekhliudov nhớ lại một vài đoạn trong những tập bút ký của những "đảng viên tháng Chạp" viết về âm hưởng những tiếng chuông thật êm dịu nầy, cứ từng giờ lại vang dội trong tâm hồn những người tù chung thân.
Lúc nầy viên tướng già ngồi trước mặt cái bàn tròn khảm đá trong căn phòng khách tối với một hoạ sĩ trẻ tuổi anh em với tên bộ hạ của lão. Hai người đang cùng xoay một chiếc đĩa nhỏ đặt trên một tờ giấy. Những ngón tay mảnh dẻ, yếu đuối, nhớp ướt của hoạ sĩ trẻ lồng vào những ngón tay thô cứng, xương xẩu, răn reo của viên tướng già, và những bàn tay chập lại với nhau như thế, đặt trên một cái đĩa nhỏ, cứ xoay cái đĩa trên một tờ giấy có viết tất cả những chữ trong bảng chữ cái. Chiếc đĩa trả lời câu hỏi của viên tướng, muốn biết sau khi chết linh hồn người ta làm thế nào để nhận được nhau.
Khi một tên thuộc hạ làm nhiệm vụ hầu phòng mang vào tấm thiếp của Nekhliudov, thì linh hồn Jeandra đang nói qua chiếc đĩa. Lúc trước, hồn đã đọc đánh vần từng chữ, câu: "Chúng sẽ nhận ra nhau…" và những chữ đó đã được ghi lại. Lúc tên thuộc hạ vào thì chiếc đĩa đã đứng yên trên chữ "n" rồi chữ "o" và đến chữ "c" thì nó dừng lại, ngập ngừng lúc thiên về bên nọ, lúc thiên về bên kia. Nó còn ngần ngừ về chữ sau, vì theo ý viên tướng phải là một chữ "L", nghĩa là Jeandra theo đúng như ý viên tướng - phải nói rằng những linh hồn sẽ nhận ra được sau khi đã được giải tội, hoặc một điều gì tương tự như vậy. Trái lại, nhà hoạ sĩ trẻ tuổi thì lại nghĩ là chữ "B" nghĩa là hồn nói rằng chúng sẽ nhận ra được nhau nhờ cái ánh sáng phát ra từ bản thể siêu thăng của chúng.
Viên tướng cau đôi mày rậm trắng xoá, chăm chú nhìn vào những bàn tay và tưởng tượng như trông thấy chiếc đĩa tự nó di chuyển, liền kéo nó về chữ "L", trong khi đó thì nhà hoạ sĩ trẻ xanh xao, mớ tóc thưa vắt ra đằng sau tai, đôi mắt xanh lờ đờ nhìn vào một góc phòng tối, bực tức mấp máy đôi môi, đưa chiếc đĩa về chữ "B". Bực mình vì bị quấy nhiễu, viên tướng cau mặt lại và sau một phút im lặng, lão cầm lấy tấm thiếp, đeo chiếc kính kẹp mũi lên, khẽ bật ra một tiếng rên vì đau lưng, lão đứng dậy vươn thẳng cả cái thân hình to lớn lên, nắn bóp những ngón tay tê cứng.
- Mời ông ta vào văn phòng.
- Thưa đại nhân, ngài cho phép tôi hoàn thành một mình, - nhà hoạ sĩ trẻ tuổi vừa nói vừa đứng dậy. Tôi cảm thấy có linh khí đến nơi rồi.
- Được anh cứ kết thúc một mình, - viên tướng nói, giọng cương quyết và nghiêm khắc; lão cất đôi chân cứng thẳng, bước những bước dài, đều đặn và mạnh mẽ, đi về phía văn phòng.
- Rất sung sướng được gặp anh. - Những lời khả ái đó lão nói với một giọng thô lỗ, cục cằn; và chỉ chiếc ghế bành cạnh bàn giấy, lão mời Nekhliudov ngồi. - Anh đến Petersburg lâu chưa?
Nekhliudov nói là chàng chỉ vừa mới đến.
- Lệnh đường công tước phu nhân vẫn mạnh khỏe chứ?
- Thưa, mẹ tôi đã tạ thế.
- Anh thứ lỗi cho. Tôi lấy làm buồn. Thằng con tôi nói là nó có gặp anh.
Người con trai của viên tướng cũng đi theo cái nghề của bố. Tốt nghiệp xong trường Quân sự cao cấp, hắn vào cục Tình báo và tỏ ra hãnh diện với những nhiệm vụ được giao phó. Hiện hắn phụ trách tiểu ban đặc vụ.
- Ờ phải, trước tôi đã cũng làm việc với lệnh tôn. Chúng tôi là bạn đồng niên, và là bạn thân với nhau. Còn anh, anh đang giữ một chức vụ gì đấy chứ?
- Thưa không ạ, tôi ở nhà.
Viên tướng già gật gật đầu một cái, vẻ không tán thành.
- Thưa tướng quân, tôi có một việc đến để yêu cầu ngài.
- Rất hân hạnh. Tôi có thể giúp anh việc gì?
- Nếu như lời yêu cầu của tôi có không đúng chỗ thì cũng xin ngài tha lỗi cho. Song tôi buộc lòng phải trình bày với ngài.
- Việc gì thế?
- Trong số những tù nhân của ngài có một người tên là Gurkeich. Mẹ anh ta muốn xin phép được vào thăm anh ta, hoặc không thì ít nhất cũng được phép gửi cho anh ta vài quyển sách.
Viên tướng không tỏ ra một tí gì gọi là tán thành hay phản đối lời yêu cầu đó, lão chỉ cúi nghiêng đầu và nhắm mắt lại làm như đang suy nghĩ. Thực ra, lão chẳng suy nghĩ gì hết và cũng chẳng để ý cả đến lời yêu cầu của Nekhliudov, vì lão biết chắc chắn là sẽ chiểu theo pháp luật để trả lời chàng. Lão chỉ có việc để cho đầu óc thảnh thơi; không nghĩ ngợi gì hết. Sau đó một lát lão nói:
- Cái đó anh thấy đấy, không thuộc quyền hạn của tôi Còn việc vào thăm tù thì đã có điều lệ quy định theo sắc chỉ của nhà vua. Tất cả những gì mà điều lệ đã quy định thì được. Còn về sách đọc, thì ở đấy chúng tôi đã có một thư viện và chúng tôi vẫn cho tù nhân mượn những sách được phép đọc.
- Thưa đúng thế, nhưng anh ta còn cần những sách khoa học; anh ta muốn nghiên cứu.
- Đừng có tin lời họ. - Viên tướng nín lặng một lát. - Không phải để nghiên cứu đâu, mà chỉ là để gây phiền nhiễu mà thôi.
- Sao lại thế ạ. Dù sao họ cũng phải có việc gì để qua thì giờ trong cảnh khổ cực chứ? - Nekhliudov nói.
- Bọn chúng luôn mồm kêu ca. Chúng tôi thừa biết - Lão nói về những tù nhân như là nói đến một loại người hết sức xấu xa ở đây, chúng đã có những tiện nghi ít khi thấy có ở trong những chốn giam cầm khác, - viên tướng nói tiếp.
Như để biện bạch cho mình, lão liền kể lể ra đủ thử những tiện nghi dành cho tù nhân được hưởng, tưởng chừng như mục đích chủ yếu của cái nhà tù nầy là tổ chức cho tù nhân nơi ăn chốn ở dễ chịu vậy.
- Trước kia, quả có phần khắc nghiệt thật, nhưng bây giờ thì bọn chúng được đối đãi hết sức tử tế. Một bữa ba món ăn, bữa nào cũng có món thịt, thịt băm hoặc sườn. Ngày chủ nhật, được thêm một món nữa, món ăn ngọt. Lạy Chúa thương cho tất cả mọi người Nga ai cũng được ăn uống như vậy!
Cũng như các cụ già khác, khi viên tướng đã lao vào nói về vấn đề quen thuộc, thì lão nhắc đi nhắc lại những điều mà lão đã nói không biết bao nhiêu lần để chứng minh các tù nhân thường yêu sách vô lý và họ toàn là những người vong ân bội nghĩa.
- Còn về sách đọc, - lão nói, - chúng tôi để cho họ mượn đọc những tác phẩm tôn giáo, cùng các báo chí cũ.
Chúng tôi có cả một thư viện sách tốt. Nhưng họ đọc ít lắm. Mới đầu, có vẻ như họ cũng thích, nhưng rồi sau sách bỏ nằm đó, những quyển mới thì đến quá nửa số trang chưa đọc, quyển cũ để nguyên, một trang cũng chẳng giở tới. Chúng tôi đã có thử, - viên tướng nói, trên mặt thoáng hiện như một nụ cười xa thẳm, - Chúng tôi cho kẹp vào giữa sách những mảnh bìa con đánh dấu, nhưng dấu đặt ở đâu vẫn nằm nguyên đó. Còn viết lách, không ai cấm. Họ được phát bảng đá và phấn, như vậy là có thể viết để tiêu khiển rồi. Họ có thể xoá đi viết lại. Nhưng họ cũng chẳng viết. Rồi họ thoắt trở nên yên lặng hẳn. Chỉ có buổi đầu là họ băn khoăn lo lắng, - viên tướng nói, lão không ngờ đến ý nghĩa khủng khiếp bao hàm trong lời nói của mình.
Nekhliudov lắng nghe cái giọng khàn khàn già nua ngắm nhìn những cánh tay cẳng chân cứng nhẳng, hai con mắt lờ đờ, hết tinh thẩn dưới hàng lông mày xám màu tro, đôi má chảy xệ và nhẵn nhụi được chiếc cổ áo cứng của bộ quân phục đỡ lên, nhìn tấm huân chương chữ thập trắng mà con người đó rất lấy làm vênh vang, cái huân chương đã có được vì cái công đặc biệt tàn sát không biết cơ man nào là sinh linh. Chàng biết rằng trả lời và giải thích cho một con người như vậy về ý nghĩa những lời nói của chính hắn ta là vô ích, tuy nhiên, chàng cũng cố gắng nói với lão về một việc khác, về người nữ tù nhân Suxtova mà theo như chàng được biết sáng nay thì đã có lệnh tha rồi.
- Suxtova? Suxtova… Tôi không thể nhớ hết được các tên, họ đông quá thể, - lão nói như trách sao họ lại đến thế. Rồi bấm chuông ra lệnh đòi viên thư ký đến.
Trong khi người ta đi tìm viên thư ký thì lão khuyên Nekhliudov nên ra làm việc. Lão nói rằng những người chính trực, dòng dõi trâm anh - lão tự cho mình cũng ở trong hạng người đó - rất cần thiết cho Nga hoàng, - và để câu nói được bóng bẩy văn hoa, lão thêm "và cho Tổ quốc".
Viên thư ký, một người gẩy gò, khô cằn, với đôi mắt tinh nhanh luôn luôn sợ sệt vào báo cáo là Suxtova bị giam trong một lầu đặc biệt và chưa một lệnh nào về cô ta gửi tới.
- Khi nào nhận được lệnh, chúng tôi sẽ thả cô ta ra ngay… Chúng tôi chẳng giữ làm gì họ ở đây thì có quý báu gì cho chúng tôi. - viên tướng nói với một nụ cười vui vẻ gượng gạo chỉ làm cho khuôn mặt già cỗi của lão càng rúm ró khó coi.
Nekhliudov vừa đứng dậy, vừa cố hết sức nén không để lộ cái cảm giác kinh tởm xen lẫn thương hại đối với lão già khủng khiếp đó. Còn lão lại nghĩ là đối với đứa con nông nổi và rõ ràng là đang lầm lạc của một người bạn đồng liêu lão không nên tỏ ra quá nghiêm khắc mà phải khuyên bảo nó lấy một câu khi tiễn nó về.
- Chào anh nhé. Đừng có giận tôi về những lời tôi vừa nói. Chính vì yêu anh tôi mới nói. Đừng có đi lại với những kẻ bị giam giữ ở đây làm gì. Không có đứa nào oan cả đâu. Toàn là những quân đốn mạt. Chúng tôi biết rõ chúng lắm, - lão nói với một cái giọng không cho ai được phép nghi ngờ một chút nào. Và đúng là lão không nghi ngờ gì hết, không phải vì sự thật là như vậy mà bởi vì nếu khác đi thì lão sẽ phải thừa nhận rằng lão không phải là một vị anh hùng cao quý, xứng đáng hưởng nốt cuộc đời cao đẹp như bây giờ, mà lại là một thằng vô lại, đã bán lương tâm mình và còn đang tiếp tục bán nữa khi về già.
- Tốt hơn cả là anh lại ra làm việc đi thôi, - lão nói tiếp. - Những người chính trực là cần cho nhà vua - lão nói thêm: và cho Tổ quốc. Nếu tôi, nếu những người khác, cũng như anh cũng không ra phụng sự việc nước, thì còn ai nữa? Chúng ta chỉ biết chỉ trích các chế độ hiện hành, nhưng chúng ta lại không muốn giúp đỡ chính phủ.
Nekhliudov thở thật dài một cái, cúi rạp mình xuống nắm bàn tay xương xẩu của lão già chìa ra với dáng điệu kẻ cả, và ra khỏi phòng.
Viên tướng lắc đầu tỏ vẻ không tán thành, rồi vừa xoa lưng vừa quay về phòng khách; nhà hoạ sĩ đang đợi lão anh chàng đã ghi xong cầu trả lời của Jeandar. Lão đeo chiếc kính đẹp mũi lên và đọc: "Nhận ra được nhau bằng ánh sáng phát ra từ bản thể siêu thăng của chúng".
- Chà! - Lão vừa nói vừa nhắm mắt lại, vẻ tán thưởng. - Nhưng làm thế nào mà nhận ra được nếu ánh sáng của bản thể nào cũng giống nhau? - Lão lại lồng những ngón tay của lão với những ngón tay của nhà hoạ sĩ, và ngồi xuống chiếc bàn tròn.
Người xà ích của Nekhliudov đánh xe ra khỏi cổng toà pháo đài.
- Đây sao mà buồn thế, thưa ngài, - anh ta vừa nói vừa ngoái lại phía Nekhliudov - Suýt nữa thì tôi định bỏ đi không đợi ngài nữa.
- Phải, buồn thật, - Nekhliudov gật đầu nói. Chàng hít một hơi dài hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng ngực. Lòng yên tĩnh trở lại, chàng đưa mắt nhìn theo mấy đám mây xám lững lờ trôi trên nền trời và những lớp sóng bạc trên mặt sông Neva nhấp nhô cuốn theo sau những con thuyền và những chiếc tàu đang chạy.
Chú thích:
(1) Ba Lan xưa là thuộc địa của Nga. Năm 1830 nhân dân khởi nghĩa chống nền thống trị của Nga hoàng. Nga hoàng đã phái quân đến tàn sát.



Chương 79


Ngày hôm sau vụ Maxlova được đưa ra thẩm xét.
Nekhliudov đến Khu mật viện và gặp viên trạng sư trước cái cổng trang nghiêm của toà lâu đài có nhiều cỗ xe sang trọng đứng. Khi trèo lên hết bậc chiếc cầu thang oai nghi, lộng lẫy, lên đến tầng gác thứ hai, viên trạng sư vốn thông thuộc đường lối, liền rẽ về bên tay trái, đến một cái cửa trên có kẻ chữ đề ngày tháng ban hành Pháp điển. Sau khi cởi áo ngoài treo ở phòng thứ nhất, một gian phòng dài, hẹp ngang và được người canh cửa cho biết là các quan Khu mật đã đến đông đủ, người cuối cùng cũng vừa mới đi qua đây xong, Fanarin, trong bộ lễ phục đuôi én, cravat và sơ mi trắng, vui vẻ, mạnh dạn bước vào phòng bên cạnh, trong đó, về bên tay phải, có một cái tủ lớn và một cái bàn, bên tay trái là một chiếc cầu thang xoáy chôn ốc, vừa lúc đó có một viên chức bận thường phục, rất lịch sự, nách cắp cặp đang đi xuống.
Trong phòng, ai cũng phải chú ý đến một ông già người nhỏ nhắn, hình đung như một vị trưởng lão, tóc dài bạc trắng, mặc vét tông và quần màu xám, bên cạnh đó có một nhân viên trẻ tuổi cung kính đứng hầu.
Ông già tóc bạc đó đi lại phía chiếc tủ và biến vào trong đó.
Fanari nhận ra một bạn đồng sự cũng áo đuôi én và cravat trắng hai người trò chuyện rất sôi nổi. Còn Nekhliudov đứng quan sát đám cử toạ gồm mười lăm người, trong đó có hai phụ nữ - một người còn trẻ đeo kính kẹp mũi một người tóc đã hoa râm. Vụ án đem ra thẩm xét đầu tiên là một vụ vu khống trên báo chí đã thu hút được một số công chúng đông hơn mọi khi, phần lớn là người trong giới báo chí.
Viên mõ toà một gã đẹp trai, mặt mũi hồng hào, y phục sang trọng, tay cẩm một tờ giấy lại gần Fanarin và xem ông ta đến cãi cho vụ nào. Sau khi được biết Fanarin là trạng sư của Maxlova, hắn ghi vào sổ mấy chữ gì đó.
Vừa lúc đó cánh cửa tủ mở ra và ông già có dáng điệu một vị trưởng lão kia bước ra ngoài, lúc nầy không bận vét tông nữa mà lại mặc một bộ quần áo có đính những giải kim tuyến với những tấm huy chương bằng kim khí lấp lánh trên ngực khiến nom lão giống như một con chim vậy. Bộ quần áo đáng tức cười nọ như cũng làm cho chính lão cảm thấy ngượng nghịu, nên khi rời khỏi văn phòng lão vội vã bước nhanh hơn thường lệ đi vào cửa phía bên kia.
- Ông Bê đó, một người đáng kính hơn cả, - viên trạng sư nói với Nekhliudov và sau khi đã giới thiệu chàng với ban đồng sự, y bắt đầu nói về vụ án sắp đem ra xét xử mà y coi là rất đáng chú ý.
Chẳng mấy mà phiên họp khai mạc, Nekhliudov cùng đám công chúng vào công đường. Tất cả mọi người trong đó có cả Fanarin ngồi phía sau hàng lan can trên dãy ghế dành cho công chúng, Chỉ có một viên trạng sư người Petersburg là đến ngồi vào sau một cái bàn ở phía trước hàng lan can.
Phòng họp của Toà án tối cao nhỏ hơn trang trí giản dị hơn toàn án khu, chỉ khác ở màu sắc tấm thảm trải trên bàn các viên Khu mật đáng lẽ là dạ xanh thì nó lại bằng nhung màu anh dào thêu kim tuyến. Song người ta cũng thấy ở đây những biểu trưng muôn thuở của những nơi xử án: tấm gương, bức tượng và chân dung Hoàng đế.
Cũng trịnh trọng như vậy viên mõ toà xướng: "Toà thăng đường!". Cũng như thường lệ tất cả mọi người đều đứng lên và các viên Khu mật bận lễ phục tiến vào và ngồi xuống những chiếc ghế bành có lưng tựa cao và tỳ khuỷu tay lên bàn, cố làm ra vẻ tự nhiên.
Có bốn viên Khu mật: Chủ tịch Nikitin, mặt mày nhẵn nhụi, cặp mắt sắc như thép trên khuôn mặt nhỏ hẹp; Vôn, môi mím chặt, hai bàn tay trắng trẻo, nhỏ nhắn đang lần giở tập hồ sơ, rồi đến Xkorovonikov, nhà pháp luật học uyên bác, một người to béo nặng nề, mặt rỗ hoa; người thứ tư là B, có một vẻ vị trưởng lão và là người bước vào cuối cùng.
Cùng vào với các viên Khu mật là viên lục sự viên phó chưởng lý một người còn trẻ tuổi, tầm thước, mày râu nhẵn nhụi, da ngăm ngăm hai con mắt đen láy, u buồn. Mặc dầu anh ta lúc ấy mặc bộ y phục kỳ dị và đã sáu năm nay không gặp nhau, Nekhliudov vẫn nhận ra anh ta là một trong những người bạn thân nhất của chàng từ thuở còn là sinh viên.
- Viên phó chưởng lý tên là Xelenin phải không? - Chàng hỏi trạng sư Fanarin.
- Vâng, làm sao ạ?
- Tôi quen thân ông ta, một con người rất tốt.
- Và là một ông phó chưởng lý cừ khôi nữa. Ấy, lẽ ra trước đây ông yêu cầu ông nầy giúp mới phải.
- Nhưng ông ta dù thế nào cũng chỉ làm theo lương tâm - Nekhliudov trả lời.
Chàng nhớ lại mối quan hệ mật thiết giữa chàng với Xelenin trước kia, nhớ lại tình bạn giữa hai người cùng đức tính đáng yêu của bạn, một con người trong sạch, thực thà, ngay thẳng với những ý nghĩa tốt đẹp nhất của hai chữ ngay thẳng.
- Vả lại bây giờ cũng đã quá muộn rồi, - Fanarin nói khẽ, y còn chú ý nghe bản báo cáo khai mạc của cuộc thẩm án.
Vụ án bắt đầu là việc chống lại một bản án của Toà thượng thẩm đã phê chuẩn phán quyết của toà án khu.
Nekhliudov lắng nghe, cố nắm lấy ý nghĩa của sự việc đang diễn ra. Nhưng cũng như ở toà án khu, cái khó khăn cho chàng là cuộc thảo luận không đi vào cái chính mà lại đi vào những việc râu ria của sự kiện. Nguyên do có một bài báo đã vạch trần những hành động lừa đảo của viên giám đốc một công ty hữu hạn. Xem ra thì việc quan trọng duy nhất là điều tra xem có thật viên giám đốc đã ăn cắp của những người đã tín nhiệm hắn hay không, và sau đó có hành động thế nào để chấm dứt những việc đó. Nhưng không ai bàn về chuyện đó cả.
Người ta chỉ bàn xét xem theo pháp luật thì nhà báo có quyền hay không đăng bài báo trên, và một khi đã đăng thì xem tính chất của nhà báo là thế nào: phỉ báng hay vu khống và xem xét trong vu khống có bao hàm cả phí báng, hoặc trong phỉ báng có bao hàm cả vu khống không, và còn bao nhiêu chuyện khó hiểu khác nữa đối với những người thường về những điều khoản nầy, quyết định nọ của một cấp thẩm án nào đó.
Nekhliudov chỉ biết rằng Vôn, uỷ viên báo cáo vụ án, mới ngày hôm trước còn cố hết sức bảo cho chàng biết rằng Khu mật viện không thể xét đến thực chất của vụ án đem ra thẩm, thì bây giờ lại hăng hái ngả hẳn về phía chống lại phán quyết của toà Thượng thẩm, và Xelenin, ngược hẳn lại với cái tính lạnh lùng đạc biệt của ông, đã phát biểu ý kiến đối lập lại với một nhiệt tình sôi nổi thật không ngờ.
Cái nhiệt tình đó, mà Nekhliudov phải lấy làm lạ khi thấy ở một con người bao giờ cũng tự nhủ được mình như Xelenin, là do chỗ ông ta đã biết viên giám đốc công ty nọ vốn là con người gian giảo trong những vấn đề tiền bạc, và vừa mới đây ông lại ngẫu nhiên được biết là trước hôm vụ án được đưa ra thẩm xét, chính lão Vôn đã dự bữa tiệc linh đình do tên giám đốc thết. Cho nên, khi Vôn trình bày sự việc với thái độ thiên vị rõ rệt, mặc dầu đã che đậy cực kỳ khôn ngoan.
Xelenin đã thấy nóng tiết và đã bày tỏ quan điểm của mình với một thái độ bực dọc quá đáng đối với một những trường hợp bình thường như váy. Rõ ràng là lời phản đối của Xelenin đã làm mếch lòng Vôn: lão nầy đỏ mặt lên vẻ cau có bực dọc lặng lẽ huơ tay, tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi với một vẻ rất nghiêm trang và sượng mặt, lão cùng với các Khu mật viện khác lui vào trong phòng luận án.
- Ông đến đây vì vụ nào? - Người mõ toà lại hỏi Fanarin một lần nữa, sau khi các viên Khu mật đã đi khỏi.
- Tôi đã nói với ông rồi, tôi đến về vụ Maxlova.
- Vâng đúng, vụ đó đưa ra thẩm xét hôm nay nhưng mà…
- Sao kia?
- Ông cũng biết đấy, vụ nầy xử kín, cho nên vị tất các quan Khu mật đã ra khỏi phòng sau khi tuyên bố án quyết vụ vừa qua, nhưng tôi sẽ báo…
- Ông nói gì vậy?
- Tôi sẽ báo cáo, tôi sẽ báo cáo - Và viên mõ toà lại ghi một điều gì đó vào mảnh giấy của hắn.
Quả thật, các viên Khu mật có ý định sau khi tuyên bố án quyết về vụ phỉ báng, sẽ không ra khỏi phòng luận án và sẽ vừa uống trà, hút thuốc và giải quyết nốt mấy vụ khác, trong đó có vụ Maxlova.


Chương 80


Các viên khu mật vừa ngồi vào bàn thảo luận, Vôn đã đứng phắt dậy, và, rất hăng hái, trình bày những lý do tại sao phải phá án.
Viên chủ tịch, một người vốn xấu tính, đặc biệt hôm nay lại đang cơn cáu kỷnh. Ngay từ khi nghe báo cáo trong buổi họp, lão đã có ý kiến của mình về vụ án rồi, và bây giờ ngồi đó, mặc lão Vôn nói gì, lão chẳng hề nghe.
Tâm tư lão còn đang chìm đắm trong những câu chuyện riêng. Lão đang nhớ lại một đoạn trong tập nhật ký chiều hôm qua lão đã ghi về trường hợp Vilianov được bổ nhiệm tay trên lão vào một chức vụ quan trọng mà lão vẫn thêm khát từ lâu. Chủ tịch Nikitin thành thật tin chắc rằng những nhận xét của lão về viên chức hạng nhất và hạng nhì, mà lão có dịp tiếp xúc trong thời gian làm việc là một tư liệu quan trọng cho các sử gia sau nầy. Trong chương sách lão viết chiều qua, lão đã công kích kịch liệt lúc viên chức đó về tội, - theo như lão nói, - đã ngăn cản không để lão cứu vớt nước Nga mà những kẻ cầm quyền hiện nầy đang lôi kéo vào vực thẳm tiêu vong. Thực chất của vấn đề chỉ là họ đã ngăn trở không để lão được lĩnh số lương cao hơn. Và giờ đây lão đang ngẫm nghĩ sự việc đó sẽ có ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ, đối với những thế hệ tương lai.
- Ờ đương nhiên là thế. - Lão chẳng nghe gì hết và trả lời Vôn hỏi.
Vẻ buồn rầu, Bê vừa nghe vừa vẽ những tràng hoa trên một mảnh giấy trước mặt. Ông ta là người theo phái tự do có bản lĩnh. Với một niềm thành tín, ông giữ gìn truyền thống của những năm 60; thảng hoặc đôi khi, ông có phải đi chệch ra ngoài con đường chí công vô tư bất di bất dịch, thì bao giờ cũng là chệch về phía tự do.
Cho nên, trong trường hợp nầy, không kể cái tên giám đốc ăn cắp đứng ra kiện vì bị phỉ báng kia là một đứa xấu xa, mà Bê còn tán thành bác đơn của hắn vì buộc nhà báo vào một tội vu khống là phạm đến quyền tự do báo chí. Khi Vôn trình bày xong, Bê bỏ bút xuống, không vẽ hoa nữa, ông bắt đầu nói bằng một giọng buồn buồn, ông ta buồn vì phải chứng minh những sự thật quá rõ ràng. Tiếng ông dịu dàng, dễ nghe, dùng vài câu đơn giản đầy sức thuyết phục, ông chứng minh rằng đơn khiếu nại không có căn cứ, rồi cúi đầu bạc xuống, ông vẽ tiếp tràng hoa.
Ngồi trước mặt Vôn, Xkorovonikov từ nãy luôn luôn lấy những ngón tay "chuối mắn" nhét râu, ria vào miệng nhai. Bê vừa dứt lời, lão liền ngừng miệng nhai, cất tiếng oang oang như lệnh vỡ, tuyên bố rằng dù có biết chắc viên giám đốc công ty kia là một tên đại lưu manh nữa, lão cũng sẽ đồng ý phá án nếu có cơ sở luật pháp để phá.
Nhưng tiếc vì thiếu cơ sở đó, nên lão cũng tán thành quan điểm của Ivan Xemionovich (tức là Bê). Lão lấy làm hài lòng vì bằng việc đó lão đã châm chọc được Vôn.
Viên chủ tịch cũng đồng ý với Xkorovonikov và đơn xin phá án bị bác.
Vôn bực lắm, nhất là lão cảm thấy mình dường như bị bắt quả tang là đã cố thiên vị và thiếu công tâm. Cho nên, lão làm ra vẻ hững hờ, không chú ý đến vụ đó nữa, và lão mở hồ sơ Maxlova vờ chăm chú nghiên cứu. Trong khi đó, các viên khu mật bấm chuông gọi lấy nước trà và bắt đầu bàn tán về câu chuyện đang làm sôi nổi dư luận cả Petersburg cùng với cuộc đấu súng của Kamenxky, câu chuyện vụ trưởng một vụ kia bị bắt quả tang có hành động vi phạm điều luật số 995.
- Tồi tàn quá? - Bê nói, vẻ kinh tởm.
- Thì có hại gì đâu cơ chứ? Tôi sẽ đưa ông xem trong số sách vở của chúng ta chủ trương của một nhà văn Đức đề nghị thẳng rằng hôn nhân giữa nam giới với nhau là có thể có được và không bị coi là trọng tội, - Xkorovonikov vừa nói vừa rít mạnh một hơi điếu thuốc nhầu nát, kẹp vào khe giữa hai ngón tay, sát lòng bàn tay, và cười ha hả.
- Không thể có như thế được - Bê nói.
- Tôi sẽ đưa ông xem. - Xkorovonikov tiếp lời và kể ra tên cuốn sách với cả ngày tháng và nơi xuất bản nữa.
- Người ta đồn rằng hình như hắn được giữ chức thị trưởng một thành phố nào đó ở Siberi thì phải. - Nikitin nói.
- Tuyệt đấy! Đức tổng giám mục sẽ mang thánh giá đi đón hắn. Có lẽ cũng lại đề cử một vị tổng giám mục loại như hắn mới được. Tôi có thể tiến cử cho họ một ông. - Xkorovonikov lại nói, và ném xong một mẩu thuốc còn lại vào một cái đĩa, lão đưa tất cả các sợi râu, ria nắm được vào trong miệng và bắt đầu nhai.
Lúc bấy giờ người mõ toà bước vào, báo cáo là viên trạng sư và Nekhliudov muốn được nghe dự thẩm vụ Maxlova.
- Vụ án nầy là cả một thiên tiểu thuyết, - Vôn nói và kể lại tất cả những điều lão biết về quan hệ giữa Nekhliudov và Maxlova.
Khi đã trao đổi ít nhiều về câu chuyện đó rồi hút thuốc và uống trà xong, các viên khu mật trở lại phòng xử án. Họ tuyên bố quyết nghị của toà về vụ trước và chuyển sang xét vụ Maxlova.
Giọng nhỏ nhẹ, Vôn trình bày rất chi tiết đơn kháng án của Maxlova. Và lần nầy trong cách trình bày không thật vô tư, lão lại để ý muốn phá án.
Viên chủ tịch quay lại phía Fanarin:
- Ông có nói gì thêm không ạ?
Fanarin đứng dậy, tấm ngực rộng trắng ưỡn ra rồi từng điểm một, với lời lẽ cực kỳ chính xác và nghiêm trang, y chứng minh rằng toà án, trong những lý do đưa ra, có tới sáu điểm đã hiểu sai ý nghĩa đúng đắn của luật pháp. Ngoài ra, y còn mạnh dạn đề cập, dù chỉ là vắn tắt tới bản chất của vụ án với tính chất bất công quá rõ rệt của phán quyết.
Bằng những lời lẽ vắn tắt nhưng chắc nịch, bằng giọng nói, viên trạng sư muốn xin lỗi về việc đã phải nhấn mạnh vào một điểm mà các quân khu mật cao minh am tường luật pháp hẳn đã nhìn thấy và hiểu sâu hơn y nhiều lắm. Nếu như y có nhấn mạnh, thì đấy chỉ là do trách nhiệm của nghề nghiệp thôi thúc mà thôi.
Fanarin cãi xong thì dường như không còn có thể nghi ngờ gì nữa về quyết định huỷ án của Khu mật viện. Và y đã chấm dứt với nụ cười chiến thắng. Thoáng nhìn thấy nụ cười đó, Nekhliudov tin là công việc sẽ kết thúc thắng lợi. Song, nhìn sang các viên khu mật, chàng nhận ra rằng chỉ có một mình Fanarin mỉm cười chiến thắng mà thôi. Các Khu mật viện và viên phó chưởng lý không những không ai mỉm cười, không ai tỏ vẻ chiến thắng, mà vẻ mặt họ còn là vẻ mặt của những người đang chán ngấy, dường như muốn nói: "Cứ nói đi, chúng tôi đã nghe nhiều bạn đồng nghiệp của anh nói trước anh rồi, vô ích".
Khi viên trạng sư cãi xong, và thế là không còn gì bắt họ phải nghe một cách vô ích nữa, tất cả họ mới tỏ vẻ hài lòng; viên chủ tịch quay lại mời viên phó chưởng lý phát biểu, Xelenin bằng lời lẽ ngắn gọn, nhưng rõ ràng chính xác tuyên bố rằng những lý do đưa ra để xin phá án không đầy đủ và đề nghị cứ giữ nguyên án cũ không thay đổi. Sau đó các viên Khu mật đứng dậy và lui vào thảo luận. Họ chia làm hai phe. Vôn đứng về phe phá án; Bê đã hiểu rõ vấn đề cũng tỏ ra nhiệt anh đứng về phía nầy; ông ta đã nắm vững và bằng những nét sinh động, phác lại quang cảnh phiên toà và sự sai lầm của các hội viên bồi thẩm cho các bạn đồng sự hay, Nikitin vốn xưa nay là người thường khe khắt, lại cứng rắn về hình thức nên đứng về phía chống lại. Lời phát biểu của Xkorovonikov sẽ quyết định. Lão nầy tuyên bố không đồng ý phá án vì lão cho việc Nekhliudov viện những lý do đạo đức, định lấy người con gái kia làm vợ là một hành động khả ố tột bực. Xkorovonikov là người theo chủ nghĩa duy vật và học thuyết Darwin. Theo lão, bất cứ biểu hiện nào của đạo đức trừu tượng, hoặc tồi tệ hơn nữa, của lòng thành tín tôn giáo, không những chỉ là một điều ngu xuẩn dáng khinh bỉ mà còn là một điều ô nhục cho con người nữa. Tất cả những chuyện chạy vạy cho con gái điếm ấy và sự có mặt ở ngay Khu víện nầy của người viên trạng sư danh tiếng biện hộ cho nó, và sự có mặt của chính Nekhliudov nữa, đã làm cho lão tởm lợm đến cao độ. Bởi thế cho nên, nhét râu vào miệng và nhăn mặt lại, lão làm ra bộ rất thản nhiên không hay biết gì hết về việc nầy, lão chỉ biết rằng lý do đưa ra xin phá án không đẩy đủ và vì thế lão tuyên bố đồng ý với viên chánh án không phê chuẩn đơn kháng án.
Đơn kháng án bị bác.


Chương 81


- Kinh khủng thật? - Nekhliudov khi trở về phòng đợi nói với viên trạng sư đang sắp xếp giấy tờ vào cặp. - Một trường hợp rõ như ban ngày như vậy mà họ cứ bám lấy hình thức để bác đơn. Kinh khủng thật!
- Việc đã hỏng ngay từ toà dưới rồi! - Viên trạng sư trả lời - Cả Xelenin cũng đồng ý bác!
- Kinh khủng thật! Kinh khủng thật! - Nekhliudov nhắc lại. - Làm thế nào bây giờ?
- Ta đệ một lá sớ lên Hoàng thượng. Trong thời gian còn ở đây có thể tự tay đệ sớ. Tớ sẽ thảo giúp.
Lúc ấy, viên khu mật Vôn, dáng người nhỏ bé, mặc bộ lễ phục lóng lánh đầy sao, vào phòng và lại gần Nekhliudov.
- Công tước ạ đành chịu thôi. Không có đủ lý do để bác án, - lão nói. Rồi nhún vai nhỏ hẹp, lim dim mắt lại, lão đi ra.
Lão Vôn vừa đi khỏi thì Xelenin bước vào; anh ta vừa được bạn đồng sự cho biết Nekhliudov, người bạn cố tri, cũng có mặt ở đây.
- Mình không ngờ lại gặp cậu ở đây, - Xelenin nói, miệng mỉm cười, nhưng cặp mắt vẫn giữ một vẻ buồn man mác. - Mình không biết cậu đến Petersburg.
- Còn mình, thì cũng không biết cậu làm chưởng lý.
- Phó chưởng lý. - Xelenin chữa lại. Sao cậu lại đến Khu mật viện? - Anh ta vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào bạn. - Mình có nghe cậu tới Petersburg nhưng không biết cậu đến đây có việc gì?
- Mình đến đây hy vọng tìm thấy công lý và cứu được một phụ nữ bị kết tội oan.
- Người phụ nữ nào?
- Người mà án vừa được các ông quyết định đó.
- À vụ Maxlova. - Xelenin nhớ lại và nói. - Đơn kháng án không có chút căn cứ nào hết.
- Vấn đề không phải là đơn kháng án mà là một phụ nữ vô tội lại phải chịu tội oan.
Xelenin bật ra một tiếng thở dài.
- Rất có thể, nhưng…
- Không phải là có thể, mà là đích xác như vậy.
- Sao cậu biết?
- Vì mình ở trong đoàn bồi thẩm, mình biết rõ sai lầm bọn mình đã phạm phải.
Xelenin suy nghĩ.
- Đáng lẽ cậu phải nêu ra ngay từ hồi bấy giờ.
- Thì mình cũng đã nêu.
- Phải ghi nó vào biên bản. Và nếu lại kèm nó vào lá đơn kháng án thì…
Xelenin lúc nào cũng bận rộn, lại ít giao du nên khỏng biết gì về câu chuyện của Nekhliudov. Nekhliudov nhận thấy thế, nên không thể kể lại mối quan hệ với Maxlova cho bạn biết.
- Đúng thế, nhưng bây giờ nhìn lại thì vẫn thấy rõ ràng nguyên phán là vô lý, - Nekhliudov nói.
- Khu mật viện không có thẩm quyền để tuyên bố như thế. Nếu như Khu mật viện tự cho mình quyền thủ tiêu nguyên phán của các toà án theo nhận xét riêng của mình về sự công bằng của những phán quyết đó, thì không những Khu mật viện mất hết chỗ dựa, mà còn có nguy cơ là phá hoại công lý hơn là bảo vệ nó. - Xelenin đáp, anh ta nhớ lại vụ án mà các viên Khu mật vừa thẩm xét xong. - Ấy là chưa kể rằng những quyết nghị của các hội viên bồi thẩm cũng sẽ vì thế mà mất hết ý nghĩa.
- Mình chỉ biết có một điều: người phụ nữ đó hoàn toàn vô tội và không còn hy vọng gì được cứu khỏi oan uổng. Toà án tối cao vừa phê chuẩn một việc tối bất công.
- Không phải phê chuẩn, bởi vì toà án tối cao không xét và cũng không thể xét đến nội dung vấn đề được, - Xelenin nháy mắt nói. - Chắc cậu ở đằng nhà bà dì hẳn? - Anh ta nói thêm để chuyển sang chuyện khác. - Chiều qua, bà cụ có cho mình biết rằng cậu tới đây và có mời mình cùng với cậu đến dự một buổi họp mặt để nghe nhà truyền giáo nước ngoài nào đó nói chuyện. - Anh ta hơi mỉm cười và nói.
- Mình có đến dự rồi, nhưng ngán quá nên phải bỏ đi. - Nekhliudov nói, giọng bực mình vì Xelenin lại xoay câu chuyện sang hướng khác.
- Sao lại ngán? Dàu sao thì đấy cũng là một cách biểu hiện tình cảm tôn giáo mặc dầu có tính chất một chiều, tính chất tông phái. - Xelenin nói.
- Đó là một trò ngu ngốc kỳ quặc, - Nekhliudov nói.
- Chả phải thế. Có điều là chúng ta còn biết quá ít về giáo lý của Toà thánh chúng ta, cho nên ngay cả những giáo lý cơ bản ta cũng cho là cái gì mới lạ, vừa được khám phá ra. - Xelenin nói, như là vội vã cho người bạn cũ biết những quan điểm mới hiện nay của mình.
Nekhliudov nhìn Xelenin, vẻ chăm chú lẫn ngạc nhiên.
Xelenin nhìn trở xuống; cặp mắt không những đượm buồn rầu mà còn có vẻ thù ghét nữa.
- Vậy là cậu tin ở giáo lý Toà thánh phải không? - Nekhliudov hỏi.
- Hẳn là mình tin. - Xelenin trả lời, đôi mắt lờ đờ, buồn nản nhìn thẳng vào mắt Nekhliudov.
Nekhliudov bật ra tiếng thở dài.
- Thật là lạ? - Chàng nói.
- Thôi, sau nầy chúng mình sẽ trò chuyện với nhau nhiều… Tôi đến ngay đây. - Anh ta quay lại nói với người mõ toà đã kính cẩn lại gần từ lúc nãy. - Thế nào chúng mình cũng còn phải gặp lại nhau. - Anh ta thở dài nói tiếp - Mình sẽ đến tìm cậu được chứ? Còn mình, cậu cứ đến tìm là gặp mình vào lúc cơm chiều, hồi bảy giờ, nhà mình ở phố Nadetdinxkai, - và anh ta nói số nhà. - Ừ, từ lần trước chúng ta gặp nhau đến giờ, kể cũng lâu lắm rồi nhỉ! - Rồi Xelenin bước đi, miệng khẽ nhếch mép cười.
- Nếu có điều kiện mình sẽ lại đằng cậu. - Nekhliudov trả lời; và đột nhiên chàng cảm thấy cái con người ngày xưa gần gũi và thân thiết với chàng như vậy, sau giây lát chuyện trò, bây giờ lại hoá ra lạ lùng, xa cách, khó hiểu, nếu không phải là có ác cảm nữa.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn