View Single Post
  #2  
Old 12-24-2012, 12:22 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Phục Sinh - Chương 82 - 90

PHỤC SINH


Chương 82


Nekhliudov quen biết Xelenin hồi anh nầy còn là sinh viên; lúc ấy anh ta là một người con hiếu hạnh, một người bạn trung thực, và ở vào tuổi anh, anh còn là một người lịch sự học vấn vững vàng, rất thiệp đời, đẹp trai và bao giờ cũng phong nhã, đồng thời lại là một người rất mực thật thà, ngay thẳng. Anh học giỏi, một cách thoải mái không phải có cố gắng đặc biệt gì, cũng không mảy may làm ra bộ thông thái, đã được thưởng nhiều huy chương vàng về những bài luận văn của mình.
Anh coi mục đích cuộc đời thanh niên của anh là phục vụ loài người, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng việc làm. Muốn đạt mục đích ấy, anh thấy không có cách gì khác là vào làm việc trong cơ quan nhà nước. Cho nên sau khi tốt nghiệp anh cân nhắc có hệ thống lần lượt tất cả các ngành hoạt động xem ngành nào anh có thể đem cống hiến tất cả sức mình, và anh đã quyết định vào làm việc tại Vụ Hai của Văn phòng riêng bộ Tư pháp là cơ quan có nhiệm vụ thảo ra luật pháp. Nhưng, mặc dầu anh đã làm chu đáo và rất đúng đắn tất cả mọi việc người ta yêu cầu anh làm, trong công việc, anh vẫn không thấy thoả lòng mong ước giúp ích cho đời và cũng chẳng làm sao đấy lên được trong lòng cái ý thức là mình đã làm tròn nhiệm vụ. Thêm vào sự không thoả mãn ấy, anh thường bị va chạm với cấp trên trực tiếp, một kẻ nhỏ nhen, huênh hoảng, khoác lác, cho nên anh đã xin chuyển sang Khu mật viện. Ở đây, anh thấy dễ chịu hơn, nhưng cảm giác bất đắc chí vẫn không ngừng theo đuổi anh.
Anh luôn luôn cảm thấy tất cả không phải như anh mong ước và không đúng như sự việc phải thế. Trong khi anh làm việc ở Khu mật viện, họ hàng thân thích đã chạy chọt cho anh được chân ngự tiền thị tụng, thế rồi anh phải thắng bộ lễ phục thêu và một cái tạp dề xinh xinh bằng vải trắng, đi cỗ xe ngựa sang trọng đến cảm tạ đủ thứ người đã tác thành cho anh lên đến chức nô bộc đó. Anh đã cố gắng hết sức mà không thể nào tìm ra được một sự hợp lý cho sự tồn tại của cái chức vị đó và cảm thấy nó còn "không phải thế" hơn cả lúc ở Khu mật viện.
Nhưng anh vẫn không thể khước từ sự bổ nhiệm đó, sợ làm phật lòng những người tin rằng chạy chọt cho anh được như vậy là làm cho anh rất thoả thích, mặt khác thì sự bổ nhiệm đó cũng vuốt ve, mơn trớn cái phần thấp hèn trong bản chất con người anh. Anh thấy khoái trí khi ngắm mình trong gương vận bộ lễ phục thêu kim tuyến, cũng như khi thấy do được chức vị đó mà có người tôn trọng mình.
Đến chuyện hôn nhân của anh, cũng thế. Theo quan điểm của thiên hạ thì quả là người ta đã gây dựng cho anh lấy được một đám rất sang. Anh lấy vợ trước hết là vì nếu chối từ thì sẽ làm phật ý và đau lòng cả vị hôn thê đang mong muốn lấy anh và cả những người đứng ra gây dựng mối lái cho anh; sau nữa là vì anh thấy vinh hạnh và hài lòng khi lấy được một thiếu nữ xinh xắn, dòng dõi trâm anh thế phiệt.
Nhưng chẳng bao lâu cuộc hôn nhân nầy lại cũng "không phải thế" hơn cả cái việc làm ở Khu mật viện lẫn cái chức vị của anh ở chốn triều đình. Sau khi đẻ đứa con đầu lòng, vợ anh quyết định không đẻ thêm nữa và cô bắt đầu sống cuộc đời ăn diện xa hoa của giới thượng lưu mà, dù muốn hay không, anh cũng vẫn phải tham gia.
Vợ anh không phải là người nhan sắc đặc biệt, nhưng được cái ăn ở thuỷ chung với chồng. Không kể rằng sống như vậy là đầu độc cuộc đời của chồng, mà bản thân cô ta cũng chỉ thêm chuốc lấy biết bao khó nhọc; mệt mỏi, chẳng được tích sự gì, vậy mà cô ta cứ ra công theo đuổi cuộc sống đó. Tất cả những cố gắng của anh nhằm thay đổi lối sống ấy đều vỡ tan tành như va vào bức tường đá khi nó đụng phải cái lòng tin tưởng của vợ anh được các bạn bè thân thích cô ta ủng hộ, cho rằng cuộc sống là phải như vậy.
Đứa con, - một đứa con gái tóc xoăn buông xuống thành từng búp vàng óng, bắp chân để trẩn - là một đứa trẻ hoàn toàn xa lạ đối với bố, chủ yếu là vì nó được giáo dục khác hẳn ý anh mong muốn. Hai vợ chồng thường là không hiểu nhau, thậm chí còn không muốn hiểu nhau là đằng khác. Giữa hai người là một cuộc đấu tranh ngấm ngầm, lặng lẽ giấu giếm không để cho người ngoài hay biết, và cố kỳm chế để giữ gìn thể diện, làm cho đời sống rất nặng nề đối với anh. Nó thật còn "không phải thế" hơn cả công việc của anh ở Khu mật viện và cái chức vị của anh ở chốn triều đình.
Nhưng "không phải thế" hơn tất cả là cái thái độ của anh đối với tôn giáo. Như tất cả những người cùng giới và cùng thời đại với anh, nhờ có sự phát triển của trí tuệ, anh đã dễ dàng thoát khỏi những ràng buộc của mê tín dị đoan, trong đó anh đã được nuôi dạy từ bé; và bản thân anh cũng không biết là mình đã được giải thoát khỏi từ lúc nào. Vốn là người nghiêm chỉnh và trung thực, lúc còn trẻ - hồi anh còn chơi thân với Nekhliudov - anh đã chẳng hề giấu giếm việc anh đã thoát khỏi vòng mê tín của quốc giáo. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, anh được thăng quan tiến chức, và nhất là từ khi sức phản động của phái bảo thủ nổi lên trọng xã hội thời bấy giờ, cái tự do tinh thần kia đã cản đường đi của anh, ngoài những áp lực của gia đình, đặc biệt là khi cha anh qua đời phải làm lễ cầu hồn cho ông cụ, mà mẹ anh lại muốn thấy anh ăn chay; là điều mà dư luận chung cũng có phần đòi hỏi nữa, - ngoài tất cả những điều đó ra, chức nghiệp của anh còn bắt anh luôn luôn dự hết những buổi cầu kinh nọ đến những buổi lễ khánh thành, lễ tạ ơn kia v.v… không có mấy ngày là anh không phải đi dự một vài đám lễ như vậy, muốn tránh cũng không sao thoát được.
Đi dự các cuộc lễ bái đó, anh phải hoặc giả vờ tin những điều thực tế mình không tin - mà tính ngay thẳng của anh không cho phép anh giả vờ thế được! - Hoặc phải coi những hình thức bề ngoài đó là giả dối và phải thu xếp đời sống thế nào để khỏi phải dự vào những trò giả dối ấy. Nhưng cách giải quyết thứ hai nầy, tưởng chừng như giản dị, thật ra phải cố gắng lắm mới được: ngoài việc phải đấu tranh thường xuyên với những người thân thuộc, lại còn phải thay đổi tất cả cuộc sống của mình, phải bỏ cả chức nghiệp và hy sinh ý nguyện giúp ích cho đời là điều mà anh thấy rằng với chức vụ hiện nay anh đã thực hiện được rồi và hy vọng trong tương lai sẽ còn giúp đời được nhiều hơn nữa. Muốn biến đổi được như vậy thì phải tin sắt đá là con đường anh đi là đúng. Nói chung phàm ở thời đại chúng ta, tất cả những ai có tư tưởng lành mạnh, lại biết ít nhiều về nguồn gốc tôn giáo nói chung và, đặc biệt hơn, lại am hiểu ngọn nguồn và sự phân biệt của đạo Cơ đốc, cũng đều tin như anh. Anh thừa biết khi không thừa nhận giáo lý của Toà thánh là anh hành động đúng. Nhưng, do cuộc sống hàng ngày ép buộc anh, một con người ngay thẳng, đã phải tự cho phép mình giả dối đôi chút, tự nhủ muốn khẳng định được cái vô lý là vô lý thì trước hết phải nghiên cứu nó đã. Sự dối trá đó cũng nhỏ thôi, nhưng nó đưa anh đến một sự dối trá lớn hơn, trong đó hiện nay anh đang sa lầy.
Anh vốn sinh ra và được nuôi dạy trong chính giáo, người chung quanh đòi hỏi anh phải theo nó; không thừa nhận nó thì anh không thể tiếp tục giúp ích cho đời; nên ngay từ trước khi tự đặt cho mình câu hỏi: chính giáo có đúng không, thì cấu trả lời anh đã có sẵn rồi. Vì thế, để cho sáng tỏ vấn đề, anh không tìm đọc Vonte, Sopenhao, Spencer, hay Côngtơ, mà lại tìm đọc những trước tác triết học của Hegen, những tác phẩm tôn giáo của Vine, của Khomiakov, và tất nhiên, anh tìm thấy ở đó những điều cần thiết: một cái gì đó giống như sự an ủi tinh thần và lời biện bạch cho những giáo lý anh đã được nuôi dạy, những điều mà lý trí anh từ lâu vẫn không thừa nhận, nhưng không có nó thì đời anh sẽ đầy những chuyện không vui, còn thừa nhận nó thì tức khắc, mọi chuyện không vui sẽ tan biến hết. Anh đã thấm sâu mọi luận điệu nguỵ biện quen thuộc: nào là trí tuệ của một con người đơn độc không thể nào nhận thấy được chân lý; chân lý chỉ được soi tỏ cho mọi người cùng thấy; nào là phương pháp duy nhất để nhận thấy chân lý là phép Thiên Khải mà phép Thiên Khải lại do Toà thánh nắm giữ v.v… Từ đấy, anh mới yên tâm, không còn băn khoăn gì về điều giả dối anh đang làm, yên tâm tới dự tất cả những buổi cầu kinh, những lễ cầu hôn, đi dự các lễ sớm, xưng tội, ăn chay, làm dấu trước tượng thánh, và tiếp tục làm việc nhà nước để có cái cảm giác là mình đã làm được việc hữu ích cho đời và để được an ủi trong cuộc sống gia đình buồn tẻ. Anh nghĩ rằng anh có đức tin, nhưng từng thớ thịt trong anh vẫn cảm thấy rằng, cái đức tin đó còn "không phải thế" hơn bất kỳ việc nào khác.
Và chính vì thế mà cặp mắt anh nhìn lúc nào cũng buồn thăm thẳm. Chính vì thế mà khi mới gặp lại Nekhliudov, con người anh đã biết lòng anh chưa có những điều dối trá ngày nay. Xelenin lại thấy con người của mình ngày xưa, và nhất là sau khi anh vội vã nói ý với bạn về quan điểm hiện nay của anh đối với tôn giáo, anh cảm thấy mãnh liệt hơn bao giờ hết tất cả những điều đó đều "không phải thế", và vì vậy anh thấy buồn tê tái.
Chiều nay, Nekhliudov cũng cảm thấy thế sau phút sung sướng ban đầu được gặp lại bạn cũ. Và chính vì thế, mặc dầu họ hẹn gặp nhau, nhưng cả hai, chẳng ai nghĩ đến chuyện tìm gặp nhau cả, và trong suốt thời gian Nekhliudov ở Petersburg, hai người không hề gặp lại nhau.


Chương 83


Ra khỏi Khu mật viện, Nekhliudov và viên trạng sư cùng bước trên vỉa hè. Viên trạng sư bảo anh đánh xe cho xe đi theo, rồi kể với Nekhliudov câu chuyện về viên thủ trưởng một Vụ kia mà các quan Khu mật đã bàn tán với nhau. Ông ta cho chàng biết câu chuyện bị phát giác ra làm sao, vì sao mà nhẽ ra, chiểu theo luật pháp, nhân vật kia bị phạt tù khổ sai mà lại được cử đi giữ một chức thị trưởng ở Siberi. Kể xong câu chuyện với tất cả những chi tiết ghê tởm của nó, viên trạng sư còn đặc biệt thích thú kể thêm những mẩu chuyện về những nhân vật cao cấp đã bỏ túi khoản tiền đã quyên để xây dựng cái đài kỷ niệm vĩnh viễn bỏ dở mà lúc sáng hai người đi qua; chuyện cô nhân tình của một ngài nọ đã kiếm chác bao nhiêu triệu ở sở Giao dịch chứng khoán như thế nào; một ngài khác đã bán vợ và một ngài khác nữa đã mua lại như thế nào. Rồi ông ta lại bắt đầu một câu chuyện khác về những khóe lừa đảo,:và đủ các hành vi phạm pháp của bọn quan chức cao cấp, lại còn ngự trên những chiếc ghế chủ tịch ở nhiều cơ quan nhà nước. Những câu chuyện như vậy nhiều không sao kể xiết; nó khiến cho viên trạng sư rất thích thú và giúp, y chứng minh rằng những mánh khóe mà y, với cương vị một trạng sư, vẫn dùng để kiếm tiền là hoàn toàn chính đáng và trong sạch, so với những mánh khóe xoay tiền của các quan chức cao cấp ở Petersburg. Bởi vậy, y hết sức ngạc nhiên khi thấy Nekhliudov, không đợi y kể nốt câu chuyện cuối cùng về những phạm pháp của bọn quan chức, đã cáo từ và nhảy lên một chiếc xe ngựa về nhà.
Một nỗi buồn xâm chiếm Nekhliudov. Chàng buồn chủ yếu vì Khu mật viện bác bỏ lá đơn kháng án, xác nhận hình phạt vô 1ý đối với Maxlova vô tội, và cũng vì việc bác lá đơn nầy sẽ khiến cho chàng càng gặp khó khăn trong việc đem số phận mình gắn bó với số phận nàng. Nỗi buồn của chàng càng tăng thêm sau khi nghe viên trạng sư thuật lại một cách lý thú, những chuyện đồi bại ghê tởm đang lan tràn khắp nơi. Thêm vào đấy, chàng không thể nào quên được đôi mắt ác cảm, lạnh lùng, thù địch của Xelenin, đôi mắt xưa kia trìu mến, thân yêu, thật thà, ngay thẳng.
Khi chàng về đến nhà, người gác cổng trao lại chàng một bức thư và nói với vẻ dè bỉu là của một mụ nào đấy - đó là lời anh ta nói - đã viết tại vọng gác để đấy. Đấy là mấy dòng của bà cụ đẻ ra Suxtova. Trong thư, bà cụ nói đến để cảm ơn vị ân nhân đã cứu vớt con gái bà và yêu cầu còn khẩn khoản xin chàng đến gặp mẹ con bà tại nhà riêng, trên đảo Vaxili, đường 5. Bà nói rằng Vera Efemovna, xin chàng thế nào cũng đến; chàng đừng có ngại phải nghe quá nhiều những lời cảm tạ. Mẹ con bà sẽ không nói đến chuyện đó, mà chỉ lấy làm sung sướng được gặp chàng thôi. Nếu có thể được, liệu sáng mai chàng có thể đến được không?
Một lá thư khác, thư của người bạn cũ, tên là Bogatirev giữ chức sĩ quan hầu cận của Hoàng đế, Nekhliudov đã yêu cầu anh ta dâng hộ lên Hoàng đế lá sớ thỉnh cầu tự tay chàng thảo, nhân danh những tín đồ tông phái. Qua những hàng chữ rộng và chắc, Bogatirev cho chàng biết anh ta sẽ dâng lá sớ đến tận tay Nhà vua như đã hứa với chàng, nhưng anh ta lại nghĩ rằng, trước tiên, Nekhliudov nên đến thăm một nhân vật có nhiều thẩm quyền đối với vụ đó và nói với người ấy thì hơn.
Hãy còn bị cái ấn tượng xấu của mấy ngày gần đây ở Petersburg ám ảnh, Nekhliudov cảm thấy mình không có hy vọng đạt được kết quả gì. Những chương trình hành động của chàng phác ra ở Moskva giống hệt những ước mơ của tuổi niên thiếu, nó không khỏi tan vỡ khi va chạm với thực tế cuộc đời. Nhưng dẫu sao, còn đang ở Petersburg, chàng thấy mình có bổn phận phải thực hiện tất cả những điều mình đã dự định làm, nên quyết định ngày mai, sau khi đã tới thăm Bogatirev, sẽ đến gặp nhân vật có quyền sinh sát đối với vụ tín đồ tông phái.
Chàng rút lá sớ trong cặp ra và đang đọc lại thì một người hầu của bà Katerina Ivanovna, theo lệnh của nữ bá tước, vào mời chàng lên nhà dùng trà.
Nekhliudov trả lời chàng sẽ lên ngay và, xếp giấy má vào cặp xong, chàng lên phòng bà dì. Qua khung cửa sổ, chàng thoáng trông thấy đôi ngựa màu hồng của Mariet; chàng bỗng thấy sung sướng và vụt thấy muốn mỉm một nụ cười.
Mariet đội mũ, nhưng không mặc áo đen mà vận một chiếc áo dài sặc sỡ, màu sáng sủa, nàng ngồi gần chiếc ghế bành của nữ bá tước đang ngồi, tay cầm chén trà, miệng ríu rít nói huyên thuyên, cặp mắt đẹp mỉm cười long lanh.
Lúc Nekhliudov bước vào phòng, Mariet vừa nói một câu thật hài hước, một thứ hài hước không trang nhã - chỉ nghe kiểu cười là Nekhliudov hiểu - đến nỗi bà bá tước phúc hậu, có ria mép, phải cười rũ ra, cả cái thân hình to béo của bà rung lên, còn Mariet, vẻ đặc biệt ranh mãnh, khẽ nhếch mép cười, bộ mặt quả quyết và vui tươi nghiêng sang một bên, lặng lẽ ngó bà bá tước.
Qua vài lời loáng thoáng nghe thấy Nekhliudov biết hai người đang nói đến cái tin thứ nhì của Petersburg bấy giờ, câu chuyện viên thị trưởng mới của Siberi; và Mariet đã nói pha một câu thật buồn cười chính về chuyện đó, đến nỗi bá tước không tài nào nín được.
- Mày làm tao đến chết mất! - Bà bá tước vừa nói vừa ho sặc sụa.
Chào hai người xong, Nekhliudov ngồi xuống. Chàng chỉ vừa có ý mắng cái tính nông nổi của Mariet, thì cô ta đã nhận thấy cái vẻ nghiêm trang hơi khó chịu ở chàng và lập tức để làm vừa ý chàng (từ hôm gặp Nekhliudov là cô đã có ý muốn ấy) - không những chỉ thay đổi vẻ mặt mà cả tình cảm bên trong nữa. Cô ta liền tỏ ra nghiêm trang, vẻ không hài lòng với cuộc đời chính mình và như đang băn khoăn tìm kiếm, theo đuổi một cái gì. Không phải cô ta giả vờ làm như thế, mà thực tâm cô ta đã tạo nên cho mình một tâm trạng như tâm trạng của Nekhliudov lúc bấy giờ, tuy rằng dùng lời lẽ để nói tâm trạng đó thế nào thì cô ta không nói được.
Mariet hỏi thăm công việc của Nekhliudov kết quả ra sao. Chàng cho cô ta biết việc thất bại ở Khu mật vìện và chàng kể lại cả cuộc gặp gỡ Xelenin.
- Chà, một tâm hồn mới trong sạch làm sao Đúng là một trang "hiệp sĩ hiên ngang, chính trực". Một tâm hồn thật là trong sạch. - Mariet và nữ Bá tước cùng nói một lúc, hai người dùng cái danh từ mà giới thượng lưu Petersburg vẫn dùng để nói về Xelenin.
- Vợ anh ta là người thế nào? - Nekhliudov hỏi.
- Chị ấy à? Tôi chẳng muốn nhận xét phê phán gì chị ấy đâu nhưng đúng ra là chị ấy không hiểu chồng. Có thể nào mà anh ta cũng bác đơn phá án? - Mariet hỏi, vẻ thương hại chân thành. - Đáng sợ thật! Tôi thương cô ta quá? - Cô thờ dài, nói tiếp.
Nekhliudov cau mày, và để câu chuyện sang hướng khác, chàng bắt đầu nói về Suxtova; nhờ có Mariet can thiệp, Suxtova bị giam giữ trông pháo đài đã được tha.
Chàng cảm ơn Mariet đã nói giúp và đang định nói với cô ta là cứ nghĩ đến nông nỗi người phụ nữ đó và cả gia đình đã đau khổ chỉ vì chẳng có một ai nhớ tới họ là đủ ghê rợn biết chừng nào; nhưng Mariet đã ngắt lời chàng và tỏ vẻ tức giận, nói:
- Anh đừng nhắc lại chuyện ấy nữa. Khi nhà tôi vừa mới bảo rằng người phụ nữ ấy có thể được tha, tức thì cái ý nghĩ nầy đã làm tôi hết sức kinh ngạc: tại sao bắt giam cô ta khi cô ta không có tội tình gì? Thật là ngang ngược, ngang ngược quá? - Nàng nói trước cái điều Nekhliudov đang muốn nói ra.
Nhận thấy Mariet đang làm duyên với cháu mình, nữ bá tước Katerina Ivanovna vui thích lắm. Khi hai người lặng im, không nói gì, nữ Bá tước bảo Nekhliudov:
- Dì bảo anh cái nầy. Tối mai anh lại đằng nhà cô Alin nhé. Ông Kizvete cũng sẽ có mặt ở đấy. Và cả cô nữa, cô cũng sẽ đến nhé. - Nữ bá tước quay lại nói với Mariet.
- Ông ta đã để ý đến anh đấy, - bà ta nói tiếp với Nekhliudov. Ông ta nói với dì rằng tất cả những điều mà anh đã nói với dì - chả dì có nhắc lại với ông ta - là một triệu chứng rất tốt, và có chắc chắn anh sẽ đạt tới chân lý của Chúa Cứu Thế. Thế nào anh cũng phải đến nhé! Cô cũng bảo anh ấy một tiếng, khuyên anh ấy đến, cô Mariet, và cả cô cũng đến nhé!
- Thưa nữ bá tước, một là con không có quyền khuyên nhủ công tước, - Mariet trả lời và đưa mắt nhìn Nekhliudov, cái nhìn gây nên giữa hai người một sự đồng tình hoàn toàn về thái độ đối với những lời nói của nữ Bá tước nói riêng, và với kinh Phúc âm, nói chung. - Hai là, bà cũng biết cho rằng con không thích lắm…
- Phải, bao giờ cô cũng đi ngược lại những người khác và chỉ làm theo ý mình thôi.
- Chỉ làm theo ý của con? Con tin y như một phụ nữ quê mùa, chất phác vậy. - Mariet mỉm cười, trả lời. - Vả lại ngày mai con bận đi xem kịch ở hí vìện Pháp…
- À anh đã xem cái cô… tên cô ta là gì nhỉ? - Nữ bá tước Katerina Ivanovna nói.
Mariet nói nhỏ tên nữ tài tử Pháp nổi tiếng.
- Thế nào anh cũng phải đi xem nhé, một nữ tài tử tuyệt vời đấy!
- Thưa dì, vậy đi xem ai trước ạ? Nhà truyền giáo hay nữ tài tử? - Nekhliudov mỉm cười hỏi.
- Thôi dì xin anh, đừng có bắt bẻ dì từng lời.
Nekhliudov nói:
- Cháu nghĩ trước tiên phải gặp nhà truyền giáo đã, nếu không, đến khi nghe giảng sẽ chẳng còn thấy gì là hay nữa.
Mariet nói:
- Không, tốt hơn là xem nữ tài tử trước, rồi sám hối sau.
- Thôi đi, các người đừng có giễu ta nữa. Nhà truyền giáo là nhà truyền giáo, còn kịch là kịch. Để cứu vớt linh hồn, chẳng cần phải tạo một bộ mặt chảy dài ra hàng thước và khóc sướt mướt làm gì. Cứ có đức tin là cuộc đời sẽ tươi vui ngay.
- Dì ạ! Dì giảng đạo còn hay hơn bất cứ nhà truyền giáo nào khác.
- À nầy, anh có biết… - Mariet nói sau một giây lát suy nghĩ, - thôi, mời anh mai đến gặp tôi ở khoang tôi ngồi trong nhà hát nhé.
- Tôi e rằng tôi sẽ không thể…
Câu chuyện bị ngừng lại vì một người hầu vào báo có khách: viên thư ký của hội cứu tế mà nữ Bá tước là chủ tịch.
- Ồ! Đây là con người chân chất nhất trần đời. Tôi ra ngoài nầy tiếp họ, một lát sẽ trở lại. Uống trà đi, Mariet! - nữ Bá tước vừa nói vừa bước đi nhanh thoăn thoắt.
Mariet rút chiếc bao tay, để lộ ra một bàn tay rắn chắc, mảnh dẻ, ngón tay vô danh đeo đầy nhẫn.
- Anh uống chứ! - Cô ta vừa hỏi Nekhliudov vừa cầm bình trà bằng bạc đặt trên chiếc bếp cồn để đun nước, ngón tay út choãi tách riêng hẳn ra, trông rất ngộ. Nét mặt cô ta lúc nầy trở nên rất nghiêm nghị và buồn rầu.
- Có những người tôi rất tôn trọng ý kiến. Nhưng mỗi khi nghĩ đến việc họ lầm con người tôi với địa vị tôi, bao giờ tôi cũng thấy khổ tâm vô cùng.
Khi nói đến những lời cuối nầy, cô ta như muốn khóc.
Tuy rằng những lời đó, xét cho kỹ, thì chẳng có nghĩa gì cả, hoặc hoạ chăng chỉ có một ý nghĩa rất mơ hồ, nhưng hình như đối với Nekhliudov nó lại mang ý nghĩa sâu sắc lạ lùng, lại rất tử tế, rất thành thực, nhất là chàng bị đôi mắt long lanh phụ họạ với lời nói của con người trẻ đẹp ăn vận sang trọng ấy lôi cuốn.
Chàng lặng lẽ ngắm nghía Mariet, ngắm nghía khuôn mặt nàng không rời mắt.
- Anh tưởng tôi không hiểu anh và những điều thấm kín trong lòng anh phải không? Những việc anh làm, mọi người đều biết cả. Cái trò giấu đầu hở đuôi ấy ai còn lạ? Tôi khâm phục và tán thành việc làm của anh.
- Thật ư, có gì đáng phục đâu, tôi làm đã được mấy ư?
- Không cần gì. Tôi hiểu tình cảm của anh và cũng hiểu cả cô ấy… - Cô ta bỏ dở dang câu đang nói khi nhận thấy chàng tỏ vẻ không bằng lòng. - Nhưng tôi cũng hiểu rằng khi nhìn thấy bao nhiêu nỗi đau đớn ê chề, tất cả những sự khủng khiếp trong nhà tù, - Mariet nói tiếp.
Mariet con người chỉ mong muốn có một điều là lôi cuốn chàng lại gần mình; dựa vào khiếu riêng rất thính của phụ nữ, cô ta đã đoán được cái gì là quan trọng, là quý giá đối với chàng.
- Anh muốn cứu giúp những ai đang chịu đau đớn ê chề vì kẻ khác gây nên, vì kẻ khác nhẫn tâm hãm hại. Tôi hiểu rằng vì thế người ta có thể hy sinh tính mệnh và tôi cũng sẵn sàng hy sinh cuộc đời của tôi vì những việc làm đó. Nhưng người ta ở đời đều có số cả…
Thế chị cũng không hài lòng về số phận của mình à.
- Tôi ấy à? - Nàng nói, như kinh ngạc về chàng lại có thể đặt một câu hỏi như vậy được. - Tôi, tôi phải hài lòng chứ và hiện nay tôi đang hài lòng. Nhưng lương tâm có lúc như một con sâu tỉnh dậy.
- Đừng có để cho nó lại ngủ thiếp đi mất, phải nghe thấy tiếng nói đó. - Nekhliudov nói, và thế là chàng đã sa hẳn vào bẫy.
Sau nầy, nhiều lúc Nekhliudov nhớ lại buổi trò chuyện hôm đó mà thấy làm thẹn; nhớ lại những lời Mariet nói, những lời cũng không giả dối lắm, mà chỉ là lựa cho hợp ý chàng, nhớ lại những nỗi khủng khiếp trong nhà giam và những cảm tưởng của mình về tình hình ở nông thôn.
Khi nữ Bá tước trở lại, thì hai người chuyện trò với nhau không phải chỉ như đôi bạn cũ mà là những đôi bạn rất thân, chỉ có họ hiểu nhau giữa đám người không hiểu họ.
Ho nói về sự bất công của chính quyền, về nỗi khổ của những người bất hạnh, về sự khốn cùng của dân chúng. Nhưng thực ra, bên dưới thanh âm của những lời nói, mắt họ không ngừng đưa hỏi lẫn nhau: "Mình có thể yêu được ta không?" và trả lời "có thể được" và dục tính, nép dưới những hình thức bất ngờ nhất và tươi thắm nhất, đã kéo hai người lại với nhau.
Bước ra về, Mariet hứa sẵn sàng giúp chàng tất cả những gì có thể được và yêu cầu chàng chiều hôm sau thế nào cũng tới khoang cô ta ngồi trong nhà hát, dù chỉ một lát thôi, vì cô cần nói chuyện với chàng điều quan trọng.
- Chả biết đến bao giờ em mới lại được gặp anh nhỉ? Cô ta thở dài và nói thêm, và thận trọng lồng lại chiếc bao tay vào bàn tay đeo đẩy nhẫn. - Vậy anh hãy nói đi: anh sẽ đến nhé.
Nekhliudov nhận lời.
Đêm đó, khi chỉ còn một mình ở trong phòng chàng nằm xuống, tắt nến và trằn trọc mãi mới ngủ được. Chàng nhớ đến Maxlova, đến quyết định của Khu mật vìện, đến việc chàng quyết định dù thế nào cũng sẽ theo nàng đi Siberi, đến việc chàng tự ý thủ tiêu quyền lợi về ruộng đất và như để đáp lại những ý nghĩ ấy, thình lình chàng thấy hiện lên khuôn mặt của Mariet, thấy tiếng thở dài và cặp mắt cô ta liếc nhìn khi nói với chàng: "Chả biết đến bao giờ em mới lại được gặp anh?", thấy nụ cười của cô ta rõ mồn một, đến nỗi tưởng như nhìn thấy cô ta đứng trước mặt, và bất giác chàng cũng mỉm cười và tự hỏi: "Mình đi Siberi như thế liệu có đúng không?
Và những câu trả lời cho những câu hỏi nầy trong cảnh đêm trăng sáng của Petersburg, nhìn qua bức rèm cửa buông xuống nửa vời, còn thật mơ hồ. Tất cả đều rối tinh trong đầu óc chàng. Chàng nhớ lại tâm trạng cùng những ý nghĩ đó đã mất hết sức mạnh thuyết phục trước kia rồi.
Và nếu như tất cả những điều ấy chỉ là do mình bịa dặt và nếu như mình không đủ sức để sống như vậy, mình sẽ hối hận vì đã chọn con dường làm điều phải chàng tự nói với mình và không tìm được câu trả lời, Nekhliudov cảm thấy nỗi buồn và thất vọng từ lâu chàng không hể thấy, và chàng thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề, như trước kia sau những canh bạc thua đau.


Chương 84


Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, cảm giác đầu tiên của Nekhliudov là thấy hôm trước mình đã làm một điều xấu xa nào đó.
Chàng bên hồi tưởng lại tất cả: điều xấu xa không có, hành động tồi tệ cũng không, nhưng chàng đã có những ý nghĩ xấu xa, những ý nghĩ cho rằng tất cả những ý định hiện tại - cưới Katiusa làm vợ, trao ruộng đất lại cho nông dân - chỉ là những chuyện hão huyền, những điều chàng không tài nào kham nổi; cho rằng tất cả đều giả tạo, trái với tự nhiên và chàng phải sống cuộc sống như trước kia chàng đã sống.
Chàng không hành động xấu xa, nhưng lại mắc một cái tệ hơn hành dộng nhiều, đó là những ý nghĩ gây mầm cho mọi hành động xấu xa. Một hành vi có thể không bị lặp lại và gây ân hận hối cải; còn những ý nghĩ xấu xa lại đẻ ra mọi hành động xấu.
Một hành động xấu xa chỉ dọn đường cho những hành động xấu sẽ kéo con người ta đi vào con đường đó không sao kéo lại được.
Kiểm điểm lại những ý nghĩ hôm qua, Nekhliudov lấy làm ngạc nhiên rằng mình lại có thể tin vào những ý nghĩ ấy, dù chỉ trong giây lát, những việc chàng định làm, dù có mới lạ, có khó khăn đến thế nào đi nữa, chàng cũng biết rằng, hiện nay, đấy là cách sống duy nhất khả dĩ dành cho mình, còn quay trở lại cuộc sống trước kia, dù dễ dàng quen thuộc đến đâu nữa, con đường đó sẽ dẫn chàng đến chỗ chết. Chuyện cám dỗ ngày hôm qua, bây giờ chàng thấy nó giống hệt chuyện một người ngủ đã chán mắt, không thấy buồn ngủ nữa, nhưng vẫn còn ráng ườn ra trên giường một chút, tuy biết rằng đã đến lúc phải dậy để bắt tay vào công việc quan trọng, thú vị đàng chờ đợi mình.
Ngày hôm đó, ngày cuối cùng chàng ở lại Petersburg, sáng sớm Nekhliudov đi tới đảo Vaxili, thăm Suxtova.
Căn nhà của Suxtova ở gác ba. Theo lời chỉ dẫn của người gác cửa, Nekhliudov lần theo một lối tối om, leo lên một cầu thang dựng đứng, và bước vào một gian bếp đang đun, mùi xào nấu thơm lừng. Một người đàn bà có tuổi, đeo tạp dề, hai tay xắn lên, mắt đeo kính, đứng gần lò đang quấy một xoong gì đang bốc khói.
- Ông hỏi ai? - Bà cụ ngước mắt nhìn chàng bên trên cặp kính, nghiêm giọng hỏi.
Nekhliudov vừa nói tên mình xong thì gương mặt bà cụ lộ ngay vẻ vui mừng vừa sợ hãi.
- A? Công tước! - Bà cụ vừa reo lên vừa chùi hai tay vào tạp dề. - Nhưng sao ngài lại lên cầu thang lối cổng sau thế nầy? Ngài ân nhân của chúng tôi. Tôi là mẹ đẻ ra cháu nó đấy. Suýt nữa thì chúng giết chết con bé! Ngài thật là cứu tinh của mẹ con chúng tôi, - bà cụ vừa nói vừa nắm lấy tay chàng, cố nâng lên để hôn. - Hôm qua tôi đến chỗ ngài ở; cô em gái tôi nó cứ ân cần nhắc đi nhắc lại với tôi mãi. Dì nó hiện có ở đây ạ. Mời ngài đi lối nầy, lối nầy, xin ngài đi theo tôi. - Bà cụ vừa nói vừa đưa Nekhliudov đi qua một cái cửa nhỏ, rồi qua một hành lang tối om, vừa đi bà vừa sửa lại lúc thì cái váy xắn cao, lúc thì mớ tóc - Cô em tôi đổi tên là Kornilova chắc ngài cũng nghe nói đến nó? - Bà cụ vừa thì thào vừa dừng lại trước một cái cửa. - Dì nó có dính dáng vào một vụ chính trị. Một người phụ nữ rất đỗi thông minh.
Bà cụ mở cửa mời Nekhliudov vào một căn phòng nhỏ; một thiếu nữ đang ngồi trên chiếc đi văng, trước một cái bàn; thiếu nữ lùn, béo, vận chiếc áo cánh bằng vải kẻ sọc, mái tóc vàng uốn thành những búp ôm lấy khuôn mặt tròn xanh xao và nom giống mặt bà mẹ. Một thanh niên lún phún ria và chòm râu cằm đen, mình mặc sơ mi Nga thêu cổ, ngồi cúi gập người xuống trong chiếc ghế bành đối diện hai người đang nói chuyện hào hứng, say sưa quá đến nỗi Nekhliudov đã vào trong phòng rồi họ mới quay lại.
- Lydia! Đây là công tước Nekhliudov, chính người…
Cô thiếu nữ xanh xao vùng đứng dậy, sửa một món tóc vừa xoã ra trước tai và đưa đôi mắt to xám nhìn đăm đăm vào khách, vẻ sợ sệt.
- Vậy ra cô chính là người phụ nữ nguy hiểm mà chị Vera Efemovna đã nhờ tôi can thiệp xin ân xá phải không? - Nekhliudov mỉm cười đưa tay ra bắt.
- Vâng, chính tôi đây ạ, Lydia nói. Cô có nụ cười hồn hậu như đứa trẻ, và khi cười, cô để những hàm răng trắng bóng. - Dì tôi rất muốn được gặp ngài đấy. Dì ơi! - Cô ta quay về phía một cái cửa và gọi, giọng dịu dàng, dễ thương.
- Chị Vera Efemovna đã rất buồn vì cô bị bắt đấy, - Nekhliudov nói.
- Mời ông ngồi đây; hay là ngồi kia ạ, - Lydia ngắt lời, chỉ một chiếc ghế bành có đệm, đôi chỗ đã hỏng, mà người thanh niên lúc nãy ngồi vừa đứng dậy, đi ra xa. - Đây là anh Zakharov, anh họ tôi, - cô ta nói thêm khi thấy Nekhliudov chăm chú nhìn anh nầy.
Người thanh niên cũng mỉm cười hồn hậu như cô em họ và bắt tay Nekhliudov. Khi chàng ngồi xuống chiếc ghế bành, anh ta cũng xách từ cửa sổ một chiếc ghế dựa đến ngồi bên. Từ gian bên cạnh, một cậu học sinh tóc vàng chừng mười sáu tuổi đi ra chẳng nói chẳng rằng trèo lên ngồi trên bệ của sổ.
- Bà Vera Efremovna là bạn thân của dì tôi, nhưng tôi chỉ hơi biết bà ấy thôi ạ. - Lydia nói.
Lúc ấy một người phụ nữ mặc áo choàng trắng, ngang lưng thắt một chiếc dây lưng da, vẻ mặt thông minh và có duyên, từ phòng bên bước vào.
- Chào ông! Xin cảm ơn ông đã quá bộ lại thăm chúng tôi. Vừa ngồi xuống chiếc đi văng gần Lydia bà ta nói ngay. - Thưa ông, chị Voroxka có khỏe không ạ? Ông đã gặp chị ấy phải không ạ! Không biết bị thế, chị ấy chịu đựng ra sao?
- Chị ấy chẳng phàn nàn gì hết và bảo thấy thanh thản lắm.
- Voroxka là như vậy! Tôi biết rõ chị ấy lắm - người dì Lydia vừa nói vừa mỉm cười, lắc đầu. - Phải biết rõ chị ấy mới được. Một con người cao thượng, tất cả vì người khác, không một chút vì mình.
- Thực tế, chị ấy không đòi hỏi gì hết cho riêng mình mà chỉ lo lắng về cô cháu gái bà; cái chính làm chị ấy khổ tâm, theo như lời chị ấy nói, là cô cháu bà bị bắt oan.
- Đúng đấy, người dì nói, - câu chuyện ghê quá đi Thật ra, tại tôi mà cháu phải chịu khổ đấy.
- Ấy, chẳng phải thế đâu, dì ạ! Lydia nói. - Ngay cả không vì dì, cháu vẫn nhận giữ những giấy má cơ mà.
- Dì biết rõ hơn cháu, để dì nói - người dì nói tiếp. - ông biết không, - bà ta đã quay về phía Nekhliudov, - nguyên nhân tất cả câu chuyện là do có một người đến nhờ tôi giữ hộ ít giấy má trong một thời gian, và vì tôi hồi đó không có chỗ ở, nên tôi đem đến gửi nhà cháu nó đây. Và thế là đêm ấy cảnh sát đến khám nhà; chúng tìm thấy chỗ giấy má ấy và bắt cháu đưa đi, giam giữ cho tới bây giờ, lại còn bắt nó phải khai ra ai đã đưa chỗ giấy má ấy cho nó.
- Và cháu đã không khai! - Lydia vội vã nói, vừa rứt mạnh một búp tóc chẳng làm gì cô cả.
- Đúng, đúng, dì có bảo là cháu đã khai đâu. - người dì đáp lại.
- Còn Mitin bị chúng bắt, cái đó không phải lỗi tại cháu! - người thiếu nữ vừa nói vừa đỏ mặt và lấm lét nhìn chung quanh.
- Đừng có nói chuyện ấy nữa, Lydia con. - Người mẹ ngắt lời.
- Tại sao lại không ạ? Con muốn kể lại. - Lydia nói, cô không mỉm cười nữa, nhưng mặt đỏ bừng, cô không vuốt cho mượt mà cuộn cuộn tóc vào ngón tay, mắt vẫn lấm lét nhìn quanh như lúc nãy.
- Con đã quên hôm qua, khi con mới nói đến chuyện ấy thì thế nào à?
- Không, con không quên… Để mặc con, mẹ. Cháu không nói gì cả, cháu chỉ im lặng khi chúng hỏi cháu hai lần về dì và Mitin cháu chẳng nói nửa lời và bảo thẳng cho chúng biết cháu sẽ không trả lời chúng đâu. Bấy giờ tên… Petrov…
- Petrov là một tên mật thám, một tên sen đầm và một tên vô lại nổi tiếng. - Người dì ngắt lời, giải thích những lời nói của cháu với Nekhliudov.
- Bấy giờ cái tên Petrov, - người thiếu nữ nói tiếp, vẻ kích thích vội vã, - mới dỗ dành bảo cháu: "Tất cả những gì cô nói ra với tôi đều không thể làm hại ai cả, ngược lại cô mà khai ra sẽ có thể làm cho nhiều người vô tội, những người mà có thể chúng tôi đã hành hạ oan uổng được "thoát nạn". Mặc, cháu cứ nói là cháu sẽ không nói gì hết. Bấy giờ hắn bảo cháu: "Được, mày không khai cũng được, nhưng mà đừng có chối những điều tao nói". Hắn bắt đầu kể một lô tên và cả tên Mitin nữa…
- Thôi đừng nói đến chuyện đó! Người dì nói.
- À! Dì mặc cháu, - cô ta tiếp tục kéo món tóc và nhìn chung quanh; - đột nhiên, ngày hôm sau, cháu được tin có người gõ tường báo hiệu cho biết Mitin bị bắt. Cháu bụng bảo dạ: "Mày đã phản bội anh ấy rồi!" Và cái ý nghĩ ấy làm cháu đau đớn quá chừng, đau đớn quá chừng đến nỗi suýt phát điên lên.
- Về sau đã có chứng cớ rõ ràng là cháu chẳng dính dâng đến chuyện anh ấy bị bắt kia mà, - người dì nói.
- Vâng, nhưng mà lúc ấy cháu có biết đâu thế. Cháu cứ nghĩ: mình đã phản bội anh ấy. Cháu cứ đi đi lại lại trong khoảng bốn bức tường, không lúc nào hết nghĩ ngợi. Cháu cứ nghĩ: mình phản bội anh ấy. Cháu nằm xuống, trùm kín cả đầu và thấy như có tiếng nói thì thầm vào tai, mày đã phản bội anh ấy, đã phản bội Mitin, Mitin bị phản bội. Cháu biết chắc đấy chỉ là một ảo giác, vậy mà cháu vẫn cứ nghe thấy câu ấy, rót vào tai không sao tránh được. Cháu muốn thử nhắm mắt nghỉ xem sao mà cũng không sao ngủ được. Cháu muốn thử không nghĩ ngợi gì: cũng không được. Thật, kinh quá đi mất? - Lydia nói, cứ mỗi lúc cô bé càng thêm bứt rứt bồn chồn, lúc vò cuộn món tóc vào ngón tay, lúc lại tháo ra, luôn luôn hốt hoảng, lấm lét nhìn xung quanh.
- Lydia con hãy bình tĩnh lại, con - bà mẹ vừa nói vừa lấy tay rờ vào vai con gái.
Nhưng Lydia không thể ngừng được.
- Và kinh khủng nhất là… - cô bắt đầu nói nhưng một tiếng nấc đã làm cổ nghẹn lại. Không nói hết câu, cô đứng dậy chạy vụt ra khỏi buồng, va cả người vào chiếc ghế bành. Bà mẹ chạy theo.
- Treo cổ những quân khốn nạn ấy lên? - Cậu học sinh ngồi trên bệ cửa sổ lẩm bẩm.
- Con nói gì cơ?… - bà mẹ Lydia hỏi.
- Con chỉ nói… ờ, chẳng nói gì hết… - Cậu trả lời, và cầm điếu thuốc để lăn trên bàn, châm lửa hút.


Chương 85


- Phải, đối với đám thanh niên giam cầm riêng mỗi người một xà lim như vậy là ghê rợn, - người dì lắc đầu và cũng cầm lấy một điếu thuốc châm lửa hút.
- Tôi nghĩ rằng nó ghê rợn với tất cả mọi người, - Nekhliudov trả lời.
- Không, không phải đối với tất cả mọi người, - người dì trả lời. - Đối với những nhà cách mạng chân chính thì, theo như lời người ta bảo tôi, ở tù là nghỉ ngơi, là tĩnh dưỡng. Đối với ai bị bọn cảnh sát truy lùng, thì cuộc sống luôn luôn bị đe doạ, đẩy lo lắng và thiếu thốn, đầy sợ hãi, sợ hãi cho mình, cho người khác, cho sự nghiệp. Một khi bị bắt thì hết cả những thứ đó, trên vai không còn có trách nhiệm gì nữa: anh hãy ngồi đây và nghỉ ngơi. Nhiều người nói với tôi rằng: khi bị bắt họ thấy vui mừng thực sự. Nhưng đối với những thanh niên, những người vô tội bắt đầu bao giờ chúng cũng bắt những người vô tội như cháu Lydia - thì lần va chạm đầu tiên thực là khủng khiếp. Không phải vì bị tước mất tự do, vì bị ngược đãi, vì bị không khí hôi hám, vì ăn uống khổ sở hay vì mất hết mọi thứ nói chung, tất cả những cái đó không đáng kể. Ngay cả như có bị thiếu thốn nặng nề gấp hơn hai lần đi nữa, vẫn có thể dễ dàng chịu đựng được nếu như không phải chịu cái va chạm về tinh thần khi mới bị bắt lần đầu.
Bà đã cảm thấy thế bao giờ chưa?
- Tôi ấy à? Tôi đã bị ngồi tù hai lần, - người dì Lydia vừa nói vừa mỉm cười, nụ cười buồn và dịu dàng. - Lần thứ nhất, tôi bị bắt oan. Năm ấy tôi hăm hai tuổi, đã có một cháu nhỏ và đang có mang. Dù bị mất tự do, dù phải xa con, xa chồng, cực khổ đến đâu, tất cả những nỗi khổ đó có thấm vào đâu so với cảm giác khi thấy rõ mình không còn là con người nữa, mà chỉ là một con vật. Tôi muốn có đôi lời từ biệt với đứa con gái nhỏ, họ ra lệnh bắt tôi lên xe. Tôi hỏi xem người ta đưa tôi đi đâu, họ trả lời đến đấy thì khắc biết. Tôi hỏi xem tôi bị kết tội gì, họ không trả lời. Hỏi cung xong, người ta lột bộ quần áo tôi vẫn mặc ra, bắt mặc bộ quần áo nhà tù có đánh số, họ dẫn tôi đến một cái vòm đá, mở cửa, đẩy tôi vào trong, họ khoá trái cửa lại rồi đi; chỉ còn một người lính gác mang súng lặng lẽ đi đi lại lại, thỉnh thoảng ghé mắt nhìn vào, qua cái lỗ nhỏ ở cánh cửa: lúc đó, tôi cảm thấy thật nặng nề, khủng khiếp. Tôi còn nhớ lúc bấy giờ có một điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là trong khi hỏi cung, tên sĩ quan hiến binh đã mời tôi hút thuốc. Hắn biết con người thích hút thuốc, vậy chắc hắn cũng biết con người thích tự do, thích ánh sáng và cũng biết mẹ yêu con và con yêu mẹ biết chừng nào chứ. Thế mà họ nhẫn tâm bắt tôi xa lìa tất cả mọi người thân yêu và nhốt lại như một con thú rừng. Không thể chịu đựng như vậy mà không bị hại gì nếu trước kia người ta tin ở Chúa, ở con người, tin rằng loài người thương yêu nhau, thì sau những chuyện đó, sẽ không còn tin nữa. Từ đấy, tôi không còn tin ở con người nữa và hoá ra nhẫn tâm. - Bà ta mỉm cười kết luận.
Qua cái cửa lúc ấy Lydia vừa chạy ra, bà mẹ cô trở vào cho biết Lydia vật vã bực dọc không trở lại đây được.
- Vì sao mới ít tuổi như thế mà cuộc đời đã có thể bị đập nát? - Bà dì nói tiếp. - Tôi hết sức đau xót vì đã vô tình gây nên nông nỗi nầy.
- Nếu Chúa thương thì về quê tĩnh dưỡng, cháu sẽ khỏi, chúng tôi sẽ cho cháu về ở với bố cháu, - bà mẹ nói.
- Không có ông thì chắc cháu chết mất, - người dì nói. - Chúng tôi rất cảm ơn ông. Tôi muốn gặp ông là để nhờ ông chuyển giúp bức thư nầy cho chị Efremovna, bà ta vừa nói vừa rút một lá thư ở trong túi ra. - Thư chưa dán, ông có thể đọc rồi hoặc huỷ bỏ đi hoặc chuyển giúp, tùy ý ông. Cũng chẳng có gì nguy hại đâu.
Nekhliudov cầm lấy lá thư, và sau khi hứa sẽ chuyển lá thư tới nơi, chàng đứng dậy cáo từ ra về.
Ra đến phố, không đọc thư, chàng dán nó lại và quyết định sẽ chuyển đến tay người nhận.


Chương 86


Nekhliudov còn phải nán ở lại Petersburg vì một việc cuối cùng, vụ án những tín đồ tông phái. Chàng có ý định nhờ người bạn đồng ngũ cũ là viên sĩ quan hầu cận Nhà vua, Bogatirev, đệ lá sớ của họ lên Hoàng đế.
Sớm hôm sau, chàng đến nhà Bogatirev, gặp lúc anh ta đang ở nhà, tuy định ăn sáng xong là ra đi. Bogatirev, người thấp, béo phục phịch, được trời cho một gân sức hiếm có, anh ta có thể vặn ngược lại một miếng sắt đóng móng ngựa - đồng thời, lại là người có phẩm chất tốt, ngay thật, thẳng thắn và có cả khuynh hướng tự do nữa. Mặc dù có những đức tính đó, anh ta vẫn là một cận thần của nhà vua: Anh ta yêu quý Đức vua và hoàng tộc và, không biết bằng cách lạ lùng nào mà sống trong giới cao sang như vậy, anh chỉ thấy cái hay, cải tốt của giới đó mà không dúng tay vào những cái xấu xa, nhơ bẩn của giới đó. Anh ta không bao giờ chê bai một ai; hoặc một việc gì. Anh ta hoặc nín thinh, hoặc bằng một giọng hùng dũng oang oang, gần như kêu rống lên những điều anh ta cho là cần nói và thường kèm theo một chuỗi cười ha hả ròn rã. Như vậy không phải là vì thủ đoạn xã giao, mà bản tính anh ta thế.
- A? Cậu lại đúng lúc quá. Điểm tâm chứ? Xuống đây. Món bít tết nầy tuyệt lắm. Mình bây giờ cũng bắt đầu và kết thúc bằng một món thật bổ. Hà! Hà? Hà? Hay là nầy, làm tí rượu vang vậy. - Anh ta kêu tướng lên và chỉ vào một cái bình rượu vang đỏ. - Mình đã nghĩ đến chuyện của cậu rồi. Mình sẽ đích thân đệ trình sớ đến tận tay Đức Vua cho chắc chắn. Chỉ có điều mình nghĩ, giá cậu đến gặp lão Toporov trước thì tốt hơn.
Nghe đến Toporov, Nekhliudov nhăn mặt.
- Việc nầy ở trong tay lão ta. Đằng nào thì lão ta cũng được vời đến để hỏi ý kiến. Có thể lão ta sẽ giúp cho cậu toại nguyện cũng nên.
- Cậu đã bảo thì mình đến vậy.
- Hay lắm. Nào cậu nói cho mình biết xem cậu thấy Petersburg như thế nào? - Bogatirev nói oang oang.
- Mình cảm thấy bị thôi miên đấy. - Nekhliudov nói.
Thôi miên à? - Bogatirev nhắc lại và phá ra cười. - Cậu không muốn ăn gì cả à?… Thôi tuỳ ý. - Anh ta cầm khăn mặt lau bộ ria. - Thế cậu đi thăm ông Toporov chứ? Nếu ông ta không bằng lòng giúp thì đưa lá sớ cho mình, ngay ngày mai, mình sẽ đệ lên, - và mồm oang oang như vậy anh ta đứng dậy, khoát tay làm dấu, cũng tự nhiên như anh ta lau mồm, đeo kiếm vây. - Và bây giờ thì tạm biệt, mình phải đi đây.
Ta cùng đi, Nekhliudov vừa nói vừa siết chặt bàn tay to, khỏe của Bogatirev, và chàng chia tay bạn trên bậc thềm. Bao giờ cũng thế, mỗi lần chia tay với Bogatirev, chàng cũng có cái cảm giác khoan khoái như thấy có cái gì lành mạnh, hồn nhiên, tươi mát.
Tuy chẳng có hy vọng gì với việc đến thăm Toporov, nhân vật có quyền định đoạt vụ án các tín đồ tông phái, Nekhliudov vẫn cứ đến.
Chức vụ của Toporov, ngay trong bản thân nó đã bao hàm một mâu thuẫn, chỉ có người nào ngu độn và mất lương tri, không còn biết đạo đức là gì nữa mới có thể không nhận thấy mà thôi. Toporov có hai nét tiêu cực nầy. Mâu thuẫn nội tại trong chức vụ của lão là: phải bằng những phương tiện vật chất, kể cả bạo lực, ủng hộ và bảo vệ Toà thánh vốn tự coi là do Chúa dựng nên mà bất chấp cả các cửa địa ngục, hoặc bất kỳ sức mạnh nào của người trần cũng không lay chuyển nổi.
Cái tổ chức do Chúa dựng nên và không gì lay chuyển nổi ấy lại phải dựa vào sự ủng hộ và bảo vệ của một tổ chức do người trần lập nên, đứng đầu là Toporov có một số viên chức giúp việc. Lão không nhìn thấy mâu thuẫn đó mà cũng không muốn nhìn thấy nó, bởi thế, lão chỉ một niềm lo sao ngăn cấm không để cho một linh mục nào, hoặc một mục sư nào, hay một tín đồ tông phái nào phá hoại Toà thánh, cái Toà thánh mà ngay cả cửa địa ngục không làm gì nổi. Như bất cứ kẻ nào đã mất hết tình cảm tôn giáo cơ bản, không biết gì đến bình đẳng và bác ái giữa con người, Toporov tin tưởng rằng quần chúng nhân dân là những sinh linh khác hẳn lão: họ có những nhu cầu rất cần thiết, mà đối với lão lại có thể bỏ đi được, không sao cả. Trong thâm tâm lão, lão không có tín ngưỡng gì hết và thấy như thế là tiện và dễ chịu: nhưng, sợ rằng quần chúng cũng lại noi gương lão chăng nên theo lời lão nói, lão coi mình có nghĩa vụ thiêng liêng phải giữ cho quần chúng nhân dân khỏi sa vào tình trạng đó.
Cũng như trong một quyển sách dạy khoa nấu nướng, có nói giống tôm được nấu khi còn tươi, lão tin một cách sâu sắc không phải theo nghĩa bóng như phải hiểu câu nói trên trong quyển sách dạy nấu ăn, mà theo nghĩa đen, - nên lão vẫn nghĩ và nói là quần chúng nhân dân ưa mê tín.
Lão đối với tôn giáo mà lão phải bảo vệ cũng như người nuôi gà đối với những xác chết thối dùng để làm thức ăn cho gà; xác thối thì kinh tởm đấy, nhưng gà thích ăn, vậy phải lấy nó mà nuôi gà: Tất cả những chuyện thờ cúng tượng thánh Đức mẹ nữ đồng trinh ở Iberi, ở Kazan, ở Xmolenxk, cố nhiên chỉ là sự sùng bái thô kệch; nhưng quần chúng thích thế và tin, cho nên phải duy trì những chuyện mê tín đó.
Toporov nghĩ vậy, lão không hiểu rằng sở dĩ quần chúng thích mê tín chính chỉ tại từ trước kia bao giờ cũng đã có và hiện nay cũng vẫn có những kẻ tàn nhẫn như lão Toporov, những kẻ có học thức, lại dùng học thức của chúng không phải việc đáng phải dùng như giúp nhân dân thoát ra ngoài vòng tối tăm ngu dốt, mà trái lại, để hãm chặt nhân dân vào vòng ngu dốt tối tăm.
Lúc Nekhliudov vào phòng khách, Toporov đang nói chuyện trong văn phòng với một bà bề trên của nhà tu kín, một bà quý phái hoạt bát, lanh lẹn, đang truyền bá và bảo vệ chính giáo ở những vùng miền Tây nước Nga trong đám những người phái Uniat(1) bị cưỡng bức quay về theo chính giáo.
Viên thư ký riêng đang làm việc trong phòng khách hỏi Nekhliudov xem chàng đến về vấn đề gì. Được biết chàng muốn đệ lên Hoàng đế một tờ sớ thỉnh nguyện của những tín đồ tông phái, anh ta bảo chàng cho xem trước, Nekhliudov trao tờ sớ cho người thư ký cầm vào văn phòng Toporov.
Chiếc mấn cao đội trùm đầu, tấm mạng che mặt bay lất phất và dải áo đen dài lượt thượt kéo lê phía sau, bà bề trên rời khỏi phòng làm việc đi ra; hai bàn tay bà trắng muốt, móng tay trau chuốt tinh vi, chắp trước ngực và cầm một chuỗi tràng hạt bằng hoàng ngọc. Nekhliudov ngồi chờ Toporov đọc sớ thỉnh nguyện và lắc đầu; lão bực bội, sửng sốt trước câu văn tờ sớ viết trong sáng, rắn rỏi.
Lão nghĩ: "Nếu muốn một mà sớ nầy tới tay Hoàng đế nó có thể đẻ ra nhiều vấn đề rất phiền và gây ra nhiều sự hiểu lầm, lão để tờ sớ xuống bàn, bấm chuông và ra lệnh mời Nekhliudov vào.
Lão nhớ lại vụ án những tín đồ tông phái nầy: lão đã nhận được một lá đơn xin ân xá của họ. Đây là những người đã lìa bỏ chính giáo; họ đã bị khiển trách và đưa ra toà, nhưng toà án đã tha bổng họ. Thế là đức tổng giám và viện thống đốc bên căn cứ ngay vào chỗ các cuộc hôn nhân của họ mang tính chất bất hợp pháp mà quyết định, bắt họ đi đày khiến vợ chồng con cái họ phải chia lìa mỗi người một ngả. Giờ đây chính những người cha người mẹ đó đòi được vợ chồng, con cái sum họp với nhau.
Toporov nhớ lại tình hình án nầy lúc nó mới đến tay lão, lão đã trù trừ không biết có nên chấm dứt ngay đi hay không. Nhưng lúc đó lão nghĩ phê chuẩn cái án đó, đày những con người thuộc gia đình nông dân đó đi mỗi người một ngả cũng chẳng có hại gì; còn như để họ ở lại nơi cũ thì có thể có tai hại cho những người khác trong vùng, những người nầy rồi cũng lìa chính giáo mất. Vả dĩ, sự kiện nầy cũng chứng tỏ nhiệt tâm của đức tổng giám mục, cho nên lão bỏ mặc cho câu chuyện muốn đến đâu thì đến.
Song giờ đây một người bênh vực như Nekhliudov là người có ít nhiều thế lực ở Petersburg, vụ án có thể được đệ trình lên Hoàng thượng như một hành động tàn bạo, hoặc rơi vào tay báo chí ngoại quốc. Vì vậy, lão quyết định ngay lập tức một cách giải quyết không ngờ.
- Chào ông, lão nói, làm ra vẻ một con người rất bận; lão cứ đứng mà tiếp Nekhliudov và đề cập ngay tới vấn đề. - Tôi biết chuyện nầy. Nhìn qua mấy tên người là tôi nhớ lại hết câu chuyện rủi ro. - Lão cầm tờ sớ thỉnh nguyện và đưa cho Nekhliudov. - Và xin rất cảm ơn ông đã nhắc tôi. Cái đó là do chính quyền địa phương họ nhiệt tâm quá đáng. - Nekhliudov lặng thinh và nhìn không chút thiện cảm cái vẻ bì bì của bộ mặt tai tái kia. - Tôi sẽ ra lệnh huỷ bỏ biện pháp ấy ngay để cho những người đó ai được về nhà nấy.
- Như vậy tôi không cần phải đệ sớ nầy lên nữa phải không ạ?
- Vâng không cần. Tôi đoan chắc với ông như vậy, - lão nói và nhấn mạnh đặc biệt vào chữ "tôi"; rõ ràng là lão tin rằng đức trung thực "của lão", lời nói "của lão" là những bảo đảm chắc chắn nhất. - Mà tốt hơn hết là tôi viết ngay bây giờ. Ông chịu khó ngồi chơi tạm một chút.
Lão lại gần bàn và bắt đầu viết. Nekhliudov không ngồi, đưa mắt nhìn cái trán hẹp và nói, cái bàn tay to, nổi gân xanh đang đưa nhanh ngòi bút, và lấy làm lạ rằng con người nầy, vốn dửng dưng với tất cả mọi sự, nay lại chú ý quá đáng tới việc nầy. Tại sao vậy?
- Đây! - Toporov vừa nói vừa dán phong thư lại. - Ông báo tin cho "khách hàng" của ông đi, lão nói thêm, môi chúm lại làm ra vẻ mỉm cười.
Nekhliudov cầm lấy chiếc phong bì và hỏi:
- Nhưng vì lẽ gì những người nầy đã phải chịu đau khổ.
Toporov ngẩng đầu lên và mỉm cười, dường như câu hỏi của Nekhliudov làm lão hài lòng.
- Cái đó tôi không thể nói với ông được. Điều duy nhất tôi có thể trả lời ông là những quyền lợi quốc gia, mà chúng tôi bảo vệ, rất đỗi quan trọng, nên đối với những vấn đề tín ngưỡng, nếu có lòng nhiệt thành quá đáng dù cũng không đáng sợ và không hại bằng cái thái độ hiện nầy đang phổ biến là dửng dưng quá đỗi đối với những vấn đề nầy.
- Nhưng cớ làm sao người tả lại lấy danh nghĩa tôn giáo để vi phạm đến ngay cả những yêu cầu cơ bản của đạo nhân nghĩa, làm tan nát nhiều gia đình như vậy?
Toporov vẫn mỉm cười, khoan dung, ra vẻ cho rằng những điều Nekhliudov nói thật dễ thương. Nekhliudov nói gì thì nói, từ trên địa vị cao cả chính quyền của lão, như lão nghĩ, vẫn chỉ thấy những lời nói đó dễ thương và thiên lệch.
- Cứ theo như quan điểm cá nhân thì sự thể có thể hình dung như vậy được đấy, nhưng theo quan điểm của Nhà nước, thì sự thể có khác ít nhiều. Thôi, xin kính chào ông. - Toporov vừa nói vừa cúi đầu chào và chìa tay ra bắt.
Nekhliudov lặng lẽ nắm lấy rồi vội vã đi ra, lòng ân hận là đã trót nắm lấy bàn tay ấy.
"Quyền lợi quốc gia?" - Chàng chắc lại những lời nói của Toporov. Chàng nghĩ, trong khi bước ra khỏi nhà Toporov. Và chàng ôn lại một lượt trong óc, tất cả những người ở dưới quyền các cơ quan có trách nhiệm phục hồi công lý bảo vệ tín ngưỡng và giáo dục quần chúng; từ người đàn bà quê mùa bị phạt vì đã bán rượu lậu, gã thanh niên vì tội trộm cắp, từ anh chàng vô gia cư đi lang thang, người đốt nhà vì đã cố ý phóng hoả, từ anh chủ ngân hàng vì đã biển thủ, cho tới cô gái bất hạnh Lydia nọ phải ngồi tù chỉ vì chúng muốn moi ở cô ta những lời khai cần thiết, rồi đến những tín đồ tông phái bị bắt vì đã chống lại chính giáo, cho tới những anh chàng Gurkevich vì đã mơ ước một hiến pháp, Nekhliudov thấy rõ mồn một như ban ngày rằng tất cả những con người đó đã bị bắt, hoặc bỏ tù hoặc bị đi đày, hoàn toàn không phải vì họ đã vi phạm công lý hoặc vi phạm pháp luật, mà chỉ vì họ làm trở ngại việc vơ vét của cải nhân dân của bọn viên chức, quan lại và bọn nhà giàu.
Và người đàn bà quê mùa buôn lậu, tên ăn cắp đi lang thang trong thành phố, cô bé Lydia với những bản tuyên ngôn, những tín đồ tông phái đả phá mê tín, Gurkevich đòi hỏi hiến pháp, - tất cả đều trở ngại cho công việc của chúng. Chính vì vậy mà Nekhliudov thấy thật rõ ràng tất cả bọn quan lại viên chức, bắt đầu từ ông chồng của bà dì chàng, từ những viên Khu mật, từ lão Toporov, cho đến những quan ngài nho nhỏ, thật sạch sẽ; thật tề chỉnh, ngồi trước bàn làm việc trong các bộ, họ chẳng hề bận lòng mảy may về chuyện những người vô tội phải chịu đau khổ, mà chỉ lo tìm cách trừ khử tất cả những người nào coi là nguy hiểm mà thôi.
Như thế thì ra không những người ta đã bỏ, không theo cái đạo lý: thà tha cho mười kẻ có tội để tránh không trừng phạt oan uổng một người vô tội, mà trái hẳn lại, để trừ khử được một phần tử thực sự nguy hiểm thì dù có phải trừng phạt oan cả mười người vô tội họ cũng cứ làm, cũng như là để cắt bỏ một bộ phận ung thối, người ta phải cắt ngay cả vào đến phần lành mạnh của cơ thể
Nekhliudov thấy cách giải thích tất cả những sự việc xảy ra theo lối như vậy thì dường như rất giản dị và rõ ràng, nhưng chính cái lối giản dị rõ ràng đó lại làm cho chàng do dự không dám thừa nhận cách giải thích ấy.
Không thể nào một hiện tượng phức tạp dường ấy lại có cách cắt nghĩa giản dị và kinh khủng như vậy được; không thể nào mà tất cả những lời đẹp đẽ về công lý, về lòng tốt, luật pháp, về tín ngưỡng, về Chúa v.v… lại chỉ là những lời nói suông để che đậy cho cái lòng tham lam bỉ ổi nhất và sự tàn bạo ghê tởm nhất.
Chú thích:
(1) Uniates: "phái liên hợp" là một tông phái công nhận quyền tối cao của Giáo hoàng nhưng vẫn giữ các nghi lễ tôn giáo cũ. (theo chú thích bản dịchHoa văn).



Chương 87


Đáng lẽ ra Nekhliudov đã đi khỏi Petersburg ngay chiều hôm đó, nhưng chàng đã hứa với Mariet là sẽ đến gặp cô ta ở nhà hát và tuy biết là không nên đến, song chàng vẫn tự dối mình mà đi, vìện cớ là đã hứa thì phải giữ lời.
"Ta có thể cưỡng lại được tất cả những sự quyến rũ nầy không?" - Chàng tự hỏi, không thành thực với mình lắm. - "Ta muốn thử một keo cuối cùng xem sao".
Thắng xong bộ lễ phục, chàng đến hí viện vào lúc đang diễn màn thứ hai của vở kịch bất hủ "Trà hoa nữ"(1), lúc người diễn viên ngoại quốc với một phong cách mới mẻ, đang biểu diễn cái chết của những người phụ nữ lao phổi.
Hí viện chật ních người, nhưng khi Nekhliudov hỏi, người ta liền chỉ cho chàng ngay cái khoang của Mariet ngồi với vẻ đặc biệt cung kính đối với con người hỏi đến chỗ của cô.
Một người hầu mặc áo dấu đứng ở ngoài hành lang, cúi chào chàng như một người quen thuộc và mở của cho chàng vào.
Tất cả những khoang đối diện đều chật người, kẻ trước ngồi, kẻ sau đứng, và những tấm lưng chen sát nhau, những cái đầu bạc phơ, hoa râm, hói, cái tóc chải bóng, cái tóc uốn quăn ngồi trên các hàng ghế tầng dưới đất: tất cả đang mải chăm chú ngắm người diễn viên, gầy như xác ve, mình vận hàng đăng ten và tơ lụa đang uốn éo thân mình và nói bằng một giọng kiểu cách đoạn độc thoại. Có một tiếng "suỵt" lúc cửa mở và hai luồng hơi, một nóng, một lạnh lướt qua trên mặt Nekhliudov.
Trong khoang có Mariet và một bà lạ mặt quàng vai chiếc khăn đỏ, đầu đội chiếc mũ to, nặng và hai người đàn ông: một là viên tướng, chồng Mariet, người cao, khó hiểu, mình vận bộ quân phục độn bông ngực phồng lên, còn người kia, tóc hoe vàng, đầu đã chớm hới, eằm cạo nhẵn, có lúm đồng tiền, hai bên má có hai chòm râu oai vệ Mariet duyên dáng, mảnh dẻ, thanh lịch, trong chiếc áo hở ngực để lộ đôi vai rắn chắc, với một nốt ruồi đen nhỏ điểm bên dưới cổ, nàng quay người lại, dùng chiếc quạt chỉ cho Nekhliudov chiếc ghế ở đằng sau nàng, với một nụ cười niềm nở, ân tlnh mà chàng cảm thấy rất có nhiều ý nghĩa.
Người chồng, với vẻ trầm tĩnh đã quen, đưa mắt nhìn Nekhliudov rồi nghiêng đầu chào. Bộ điệu con người, khóe mắt ông ta lúc nhìn trao đổi với vợ, tất cả nói lên rằng đấy là chủ nhân, là kẻ chiếm hữu một mỹ nhân.
Đoạn độc thoại kết thúc, nhà hát như sụp đổ dưới tiếng vỗ tay. Mariet đứng dậy, tay giữ vạt váy lụa kêu sột soạt đi vào mé khoang, giới thiệu Nekhliudov với chồng. Với nụ cười luôn nở trong khóe mắt, viên tướng nói lão rất sung sướng được biết chàng và rồi im lặng, cái im lặng khó hiểu.
- Đáng lẽ tôi phải đi ngay ngày hôm nay, nhưng đã trót hứa với bà. - Nekhliudov quay lại nói với Mariet.
- Nếu ông không muốn lại thăm tôi, - Mariet đáp lại hàm ý trong câu nói của chàng, - thì ít ra ông cũng đến mà xem một nữ diễn viên kiệt xuất. Trong lớp cuối cùng, cô ta có tuyệt không hả mình? - Cô quay hỏi chồng.
Người chồng gật đầu.
- Những cái đó không hề lầm tôi xúc động, - Nekhliudov nói. - Ngày hôm nay tôi chứng kiến biết bao chuyện đau khổ thực sự, nên…
- Mời ông hãy ngồi xuống đây kể cho tôi nghe.
Người chồng lắng tai nghe chuyện, nụ cười trong khóe mắt lão mỗi lúc thêm châm biếm.
- Tôi đã đến thăm người phụ nữ mới được thả ra sau một thời gian bị giam giữ quá lâu; con người ấy giờ đây hoàn toàn bại nhược:
- Người đàn bà mà tôi nói với mình ấy mà. - Mariet bảo chồng.
- Chị ta được tha, tôi rất mừng, - người chồng thản nhiên nói, vừa gật đầu vừa mỉm cười dưới bộ râu mép, nụ cười lần nầy Nekhliudov thấy rõ là mỉa mai. - Tôi đi hút thuốc đây.
Nekhliudov cứ ngồi nguyên, đợi Mariet nói cái điều gì đó mà cô ta đã hứa, nhưng cô ta không nói gì hết và cũng không có ý nói với chàng điều gì cả, mà chỉ bông đùa và nói về vở kịch mà cô tưởng Nekhliudov chắc phải chú ý đặc biệt. Chàng biết cô ta không có gì để nói với mình mà chỉ muốn phô bày với chàng cái thân hình cô ta trong tất cả cái lộng lẫy của bộ y phục dạ hội, với đôi vai để hở và cái nốt ruồi xinh xinh; điều chàng vừa khám phá ra nầy làm cho chàng vừa thấy thích mà vừa tởm.
Tấm màn mê hoặc trước kia che phủ tất cả những cái đó dù đấy chưa phải đã cuốn hẳn đi trước mặt Nekhliudov; song chàng cùng đã thấy mến cô, song chàng biết cô là một con người giả dối sống với một anh chồng xây dựng sự nghiệp trên xương máu và nước mắt của hàng trăm, hàng nghìn người bất hạnh, thế mà cô ta hoàn toàn dửng dưng được. Tất cả những lời cô ta nói ngày hôm qua đều là giả dối; điều cô ta muốn lúc ấy lại là làm sao cho chàng phải yêu cô ta, cái đó, lý do tại sao chàng và cô cũng đều không hiểu. Chàng thấy nó hấp dẫn lại vừa khả ố. Đã nhiều lần chàng sửa soạn chuẩn bị bỏ ra về, đã cẩm lấy mũ rồi lại ở lại.
Nhưng cuối cùng, khi người chồng trở lại, mùi thuốc lá nồng nặc trong bộ ria đen rậm, và hắn nhìn chàng bằng một con mắt, kẻ cả, khinh khỉnh, làm như không nhận ra chàng là ai, thì không để cho cánh cửa kịp đóng lại Nekhliudov bước ngay ra ngoài hành lang, lấy áo choàng và rời khỏi nhà hát. Lúc đi dọc đại lộ Nepxki về nhà, chàng bất giác để ý đến một người đàn bà cao lớn đẫy đà ăn mặc thanh lịch một cách khiêu khích, đang thung dung đi trước mặt chàng, trên vỉa hè rải nhựa rộng rãi. Cả gương mặt và toàn thân người ấy biểu hiện rõ cô ta cũng biết cái uy lực xấu xa của mình. Tất cả những người đi trở lại hoặc vượt đi lên trước đều ngoái cổ lại nhìn cô ta. Nekhliudov rảo bước đi nhanh hơn, khi vượt lên trước cũng bất giác quay lại nhìn vào mặt cô ta.
Bộ mặt chắc là có đánh phấn, rất xinh tươi và đôi mắt sáng hẳn lên khi cô ta mỉm cười với chàng. Lạ lùng thay, tức thì Nekhliudov nhớ ngay đến Mariet, vì chàng cảm thấy có cái gì cũng vừa hấp dẫn vừa ghê tởm như đã cảm thấy ở nhà hát lúc vừa qua. Vội vã vượt lên trước cô gái, Nekhliudov bực tức với chính mình, rẽ về đường Morxkaia, ra bến tàu; chàng đi đi lại lại ở đó khiến cho người cảnh sát rất đỗi ngạc nhiên, Cũng cái nụ cười giống như nụ cười của người đàn bà kia ở nhà hát khi người ta bước vào, và cả hai nụ cười đó cùng có một ý nghĩa giống nhau; chỉ có mỗi một điều khác là người nầy thì thẳng thắn nói trắng ra: "Nếu anh cần đến em thì em đây, hãy mang em đi? Nếu không thì anh đi đi". Còn người kia thì giả vờ không nghĩ đến chuyện đó làm ra bộ ta đây sống với những tình cảm cao thượng, tế nhị Về căn bản, thì cũng như nhau cả. Người đàn bà nầy ít ra cũng thẳng thắn, còn người kia giả dối. Hơn nữa, người nầy bị cảnh khốn quẫn xô đẩy vào bước đường ấy còn người kia thì đùa rỡn, tiêu khiển với cái tình dục mỹ miều, ghê tởm và khủng khiếp. Cô gái giang hồ nầy là một thứ nước bẩn thỉu, hôi thối để hiến cho những kẻ vì quá khát không còn thấy tởm nữa; còn con người ở nhà hát kia là một thứ thuốc độc, đụng vào chỗ nào là ngấm ngầm huỷ hoại cả chỗ đó.
Nekhliudov nhớ lại sự dan díu của chàng với vợ viên thống lĩnh quý tộc trước kia và bao nhiêu những kỷ niệm hổ thẹn lại lũ lượt hiện ra trước mắt.
"Ghê tởm thay cho cái thú tính trong con người, chàng suy nghĩ - nhưng chừng nào nó còn có cái dạng trần truồng từ trên đỉnh cao của đời sống tinh thần, chúng ta có thể nhận ra nó và khinh bỉ nó; bị sa ngã hay còn đứng vững thì ta vẫn là ta như trước. Nhưng khi cái thú tính đó náu hình dưới cái vỏ bề ngoài gọi là thơ mộng, thẩm mỹ và bắt ta phải thần phục nó thì lúc đó, cúi đầu sùng bái nó như một vị thần linh, ta nhập thân vào nó, không còn phân biệt được hay với dở. Lúc đó, quả thật là kinh khủng!".
Giờ đây, tất cả những điều đó, Nekhliudov thấy rõ mồn một như đang trông thấy những dinh thự, những tên lính gác, toà pháo đài, con sông, thuyền bè và Sở hối đoái kia vậy.
Và cũng như trên trái đất đêm hôm đó không có bóng tối nào êm đềm, thoải mái, mà chí có một ánh sáng đục lờ lờ buồn tẻ giả tạo không biết từ đâu tới, trong tâm hồn Nekhliudov cũng vậy, sự tối tãm êm ả của ngu muội cũng đã tiêu tan đi. Mọi sự đã rõ ràng minh bạch. Rõ ràng đến nỗi tất cả những gì trước kia được coi là quan trọng và tốt đẹp thì thực ra đều là nhỏ nhen, nhơ nhuốc; và tất cả cái hào nhoáng, cái xa hoa nầy chẳng qua chỉ để che giấu những tội ác cố hữu từ lâu đời, rất quen thuộc với tất cả mọi người; chẳng những cái tội ác đó đã không bị trừng phạt mà lại còn ở địa vị thắng thế và được tô điểm bằng tất cả những vẻ mỹ miều, mà con người có thể hình dung ra được.
Nekhliudov muốn quên tất cả những cái đó đi, muốn chẳng trông thấy nó nữa, nhưng đã muộn rồi, chàng không thể không trông thấy nó. Dẫu chàng không thấy được nguồn gốc phát sinh ra ánh sáng đã soi tỏ cho mình thấy tất cả điều đó, cũng như chàng không thấy được nguồn gốc cái ánh sáng toả khắp trên đô thành Petersburg, dẫu rằng cái ánh sáng đó đối với chàng có vẻ mờ nhạt, buồn tẻ và giả tạo, nhưng chàng không thể nào không thấy mọi vật dưới ánh sáng đó, và chàng cảm thấy lại vừa vui sướng lại vừa lo âu.
Chú thích:
(1) La dame aux Camelias



Chương 88


Vừa tới Moskva, Nekhliudov đến ngay bệnh xá nhà tù để báo tin buồn cho Maxlova, tức là tin Khu mật viện đã y án; và cũng đã báo cho nàng biết trước để chuẩn bị lên đường đi Siberi.
Về lá sớ đệ lên Nhà vua để xin ân xá mà viên trạng sư đã thảo giúp và chàng mang cho nàng ký, Nekhliudov thấy hy vọng mong manh lắm và, có điều lạ, giờ đây chàng không mong đạt kết quả nữa. Chàng đã làm quen với ý nghĩ đi Siberi, với ý nghĩ sẽ sống giữa đám người tù đày và khổ sai. Và chàng cũng lúng túng không hình dung được cách thu xếp thế nào cuộc đời mình và cuộc đời Maxlova nếu nàng được tha. Chàng nhớ lại câu nói của nhà văn Mỹ Thorcau(1) ở nước Mỹ hồi đó còn chế độ nô lệ. Thoreau nói: "Ở một nước mà chế độ nô lệ được luật pháp che chở và bảo vệ thì nơi duy nhất thích hợp cho người công dân ngay thẳng là nhà tù". Đấy cũng là ý nghĩ của Nekhliudov, nhất là sau chuyến đi Petersburg và sau khi chàng được mắt thấy tai nghe tất cả những điều ở đó.
"Phải, ở nước Nga, trong thời đại hiện nay, cái nơi duy nhất thích hợp với một con người ngay thẳng là nhà tù!". Chàng nghĩ thế và thậm chí chàng còn cảm thấy thế nữa, khi đến gần nhà lao và đi vào phía bên trong.
Người gác bệnh xá nhận ra chàng, vội báo tin ngay cho chàng hay rằng Maxlova không còn ở đây nữa.
- Vậy cô ấy ở đâu?
- Trả về nhà giam rồi ạ.
- Tại sao người ta lại trả về?
- Cái giống nó thế đấy ạ, thưa Công tước - Người gác vừa nói: vừa mỉm một nụ cười khinh bỉ. - Cô nàng lăng nhăng với một viên y sĩ, và đã bị bác sĩ chủ nhiệm đuổi. Nekhliudov không ngờ Maxlova và đời sống tinh thần của nàng lại gần gũi với chàng đến như vậy. Nghe tin đó, chàng sững sờ. Chàng có cảm giác như đột nhiên được tin bị một tai hoạ lớn. Chàng đau lòng không sao kể xiết.
Cảm giác đầu tiên của chàng khi được tin nầy là xấu hổ. Trước hết, chàng tự thấy mình là lố bịch vì đã hào hứng phấn khởi tưởng tượng ra sự thay đổi trong tâm trạng Maxlova. Thì ra tất cả những lời từ chối sự hy sinh của chàng, tất cả những lời nàng thống trách chàng, tất cả những giọt nước mắt của nàng, đấy chỉ là - theo như chàng nghĩ - những mánh khóe của một phụ nữ sa đoạ, chỉ hòng lợi dụng chàng đến hết mực mà thôi. Bây giờ hình như chàng thấy rằng trong buổi gặp Maxlova lần trước, chàng đã nhận thấy ở nàng có những dấu hiệu của sự truỵ lạc không thể cứu vãn được và đến hôm nay thì rõ hẳn. Tất cả những ý nghĩ ấy lướt qua óc chàng trong lúc chàng đội mũ lên đầu theo bản năng và đi ra khỏi bệnh xá.
"Nhưng mà làm thế nào bây giờ? - Chàng tự hỏi.
Mình có còn bị buộc chặt vào với nàng không? Phải chăng nhờ có việc nầy mà mình thoát nợ, không phải bận tâm đến nàng nữa không?".
Câu hỏi vừa đặt ra, chàng đã hiểu ngay rằng coi mình là thoát nạn và bỏ mặc nàng, thì không phải chàng trừng phạt nàng, như ý chàng muốn mà là trừng phạt chính mình vậy, nghĩ đến đó chàng thấy rùng mình ghê sợ.
"Không, việc đã xẩy ra không thay đổi được mà chỉ củng cố thêm quyết tâm của mình thêm vững. Nàng cứ việc làm theo lòng nàng muốn, nếu nàng muốn dan díu với viên y sĩ thì cứ dan díu, đấy là việc riêng của nàng… việc của mình là làm trọn vẹn những điều mà lương tâm đòi hỏi. - Chàng tự nghĩ. - Lương tâm đòi hỏi mình phải hy sinh tự do của mình để chuộc lại lỗi lầm của chính mình, và mình đã quyết định sẽ chung sống với nàng - mặc dù chỉ là hình thức - và mình sẽ đi theo nàng tới bất cứ đâu người ta sẽ đưa nàng đến; quyết định ấy không thay đổi", - chàng cứng cỏi tự nhủ mình như vậy và quả quyết bước ra khỏi bệnh xá, đi về phía chiếc cổng khổng lồ của nhà tù.
Tới nơi, chàng yêu cầu người gác ngục trực nhật báo với viên giám ngục rằng chàng muốn gặp Maxlova.
Người gác vốn biết chàng nên lấy tình quen biết, anh ta cho chàng hay một tin quan trọng về nhà lao: viên đại uý đã xin thôi việc, viên giám ngục mới đến thay là người rất khe khắt.
- Bây giờ thì nghiêm ngặt lắm. Thật không may. Hiện nay, ông ấy có ở đây, để tôi vào báo ngay.
Viên giám ngục mới có ở trong nhà giam thật, y ra gặp Nekhliudov ngay. Y là người cao lớn, xương xương, gò má cao, cử chỉ chậm chạp và bẳn tính.
- Chỉ được phép đến thăm vào những ngày đã quy định và ở phòng nói chuyện, - y nói, mắt chẳng nhìn gì đến Nekhliudov.
- Nhưng tôi phải đưa cho người bị giam ký một lá sớ đệ lên Nhà vua xin ân xá.
- Ông có thể đưa đây cho tôi.
- Tôi cần gặp người bị giam. Trước đây tôi vẫn được phép.
- Trước đây khác, - viên giám ngục vừa nói vừa liếc mắt nhìn Nekhliudov rất nhanh.
- Tôi có giấy phép của ông tỉnh trưởng, - Nekhliudov nhấn mạnh và rút ví ra.
- Xin phép ông cho tôi xem - viên giám ngục nói, mắt vẫn không nhìn Nekhliudov, chỉ đưa những ngón tay dài, khô đét, trắng bệch, ngón tay trỏ đeo nhẫn vàng, ra cầm lấy mảnh giấy và đọc chậm chạp. - Xin ông quá bộ vào phòng giấy…
Lần nầy, phòng giấy vắng, không có ai. Viên giám ngục ngồi vào trước bàn và bắt đầu giở xem đống giấy má để ở đó, rõ ràng y có ý định đích thân cứ ở lì có mặt lúc hai người nói chuyện với nhau. Khi Nekhliudov hỏi y xem có thể gặp được nữ tù nhân chính trị Bogodukhovxkaia không, thì y trả lời cộc lốc là không được.
- "Không được phép thăm tù chính trị", - y nói xong lại chúi mũi vào đống giấy má.
Mang bức thư gửi cho Vera Bogodukhovxkaia trong túi áo Nekhliudov cảm thấy mình là một kẻ phạm tội mà âm mưu hành động đã bị bại lộ và phá vỡ.
Khi Maxlova vào, viên giám ngục ngẩng đầu lên và, không nhìn ai trong hai người, chỉ nói cộc lốc: "Các người có thể nói chuyện", rồi lại tiếp tục đọc các giấy tờ.
Cũng như trước kia, nàng lại mặc váy và áo choàng trắng, đầu bịt khăn. Lúc đến gần Nekhliudov, trông thấy vẻ mặt chàng lạnh nhạt, lầm lầm, nàng đỏ bừng mặt và, hai tay cuộn cuộn vạt áo choàng, nàng cúi nhìn xuống.
Thấy vẻ mặt bối rối đó của Maxlova chàng càng tin điều người gác bệnh xá là nói đúng.
Nekhliudov cũng đã muốn nói chuyện của lần trước, nhưng chàng không thể đưa tay ra bắt tay nàng như ý chàng muốn: bây giờ chàng thấy kinh tởm.
Bằng một giọng đều đều chàng nói, không nhìn và cũng không cẩm tay nàng:
- Tôi mang đến cho cô một tin chẳng lành: Khu mật viện đã bác đơn kháng án.
- Tôi đã biết thế từ trước, - nàng trả lời, giọng nghe rất lạ, như bị nghẹt thở.
Giá như trước kia thì Nekhliudov đã hỏi tại sao nàng nói thế, nhưng bây giờ chàng chỉ đứng nhìn nàng.
Thấy vậy, chẳng những chàng không động lòng thương, mà trái lại còn thấy tức giận nữa.
Viên giám ngục đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng.
Mặc dầu kinh tởm, Nekhliudov lúc nầy thấy thương nàng, chàng thấy cần phải nói để nàng biết chàng lấy làm tiếc là Khu mật viện đã bác đơn kháng án.
- Cô đừng thất vọng, lá sớ đệ lên Nhà vua xin ân xá có thể có kết quả và hy vọng…
- Ồ không phải chuyện ấy đâu…, - nàng vừa nói vừa đưa đôi mắt ướt lệ hơi hiếng buồn rầu nhìn chàng.
- Nhưng có điều gì thế?
- Ông đã đến bệnh xá và chắc người ta đã nói với ông về tôi.
- Chà, có hề gì đâu? Đấy là việc của cô, - Nekhliudov chau mày lại, lạnh lùng trả lời.
Cái cảm giác đau buốt vì lòng tự ái bị xúc phạm đã dịu đi rồi, bây giờ lại bùng lên với một sức mạnh mới khi nghe nàng nhắc đến cái tên bệnh xá. "Mình, một trang nam nhi trong giới thượng lưu mà bất cứ thiếu nữ nào thuộc tầng lớp quý tộc cũng đều coi được sánh duyên với mình là một hạnh phúc, mình tự ý đề nghị xin lấy cô ta, vậy mà cô ta không chờ đợi được, lại đi dan díu với một viên y sĩ", vừa nghĩ vậy chàng vừa căm giận nhìn nàng.
- Đây cô ký vào lá sớ thỉnh nguyện. - Vừa nói, chàng vừa rút ở trong túi ra một phong bì và đặt lên bàn. Lấy đầu khăn bịt tóc lau nước mắt, nàng ngồi xuống bên bàn và hỏi phải viết gì và viết vào chỗ nào.
Chàng chỉ chỗ cho nàng ký, còn nàng thì ngồi xuống vừa lấy tay trái kéo tay áo bên phải lên; đứng đằng sau, Nekhliudov lặng lẽ nhìn lưng Maxlova cúi xuống trên mặt bàn, đôi lúc rung lên vì những cơn nức nở nghẹn ngào. Trong tâm trí chàng, hai tình cảm tốt và xấu đấu tranh với nhau: lòng tự ái bị xúc phạm với lòng thương nàng đau khổ. Và cuối cùng lòng thương đã thắng. Chàng không nhớ tình cảm nào có trước, bắt đầu là lòng thương xót nàng hay bắt đầu là sự nhớ lại con người mình, cũng đúng là những hành vi mà chàng đang chê trách ở nàng.
Chỉ biết là đột nhiên cùng một lúc, chàng cảm thấy mình là kẻ có tội, và thấy thương nàng.
Ký xong, Maxlova chùi ngón tay giây mực vào vạt áo và đứng lên nhìn chàng.
- Dù kết quả ra sao, dù có thế nào đi nữa thì quyết tâm của tôi cũng không thay đổi! - Chàng nói.
Ý nghĩ mình đã tha thứ cho nàng làm chàng thêm thương mến nàng; chàng những muốn an ủi nàng.
- Tôi đã nói thế nào thì sẽ làm như thế. Người ta đem cô đi đâu, tôi cũng sẽ ở bên cô.
- Chẳng ích gì! - Nàng vội ngắt lời chàng, tuy vẻ mặt sáng hẳn lên.
- Cô hãy nghĩ đến tất cả những thứ có thể cần đến trong lúc đi đường.
- Tôi nghĩ chẳng có gì đặc biệt. Xin cảm ơn ông.
Viên giám ngục lại gần, Nekhliudov chẳng đợi y nói, cáo từ lui ra; chàng thấy lòng mình vui thanh thản, yên tĩnh, và thấy thương yêu tất cả mọi người, cảm giác trước đây chàng chưa hề thấy. Ý nghĩ không một hành vi nào của Maxlova lại có thể làm phai nhạt tình yêu của chàng khiến chàng phấn khởi và thấy mình bước lên tới một đỉnh cao, từ trước tới nay chưa hề vươn tới được.
"Mặc nàng dan díu với viên y sĩ, đấy là việc của nàng. Việc của mình là yêu nàng không phải vì mình mà là vì nàng, và vì Chúa".
***
Chuyện dan díu với viên y sĩ đã làm cho Maxlova bị đuổi trả về nhà lao mà Nekhliudov đã tin là có, thật ra chỉ là thế nầy: theo lệnh người y tá trưởng, Maxlova đến phòng thuốc ở tận cuối hành lang kiếm trà bổ phổi; ở đấy nàng gặp tên y sĩ Uxtinov, một thằng cha cao lênh khênh; mặt sần sùi, đã từ lâu hắn vẫn chòng ghẹo nàng.
Để dứt thoát ra khỏi tay hắn, Maxlova đã đẩy mạnh hắn đến nỗi hắn va cả vào một cái giá, làm rơi vỡ mất hai chiếc lọ. Vừa hay lúc đó, bác sĩ chủ nhiệm đi qua ở ngoài hành lang. Nghe thấy tiếng thuỷ tinh đổ vỡ và trông thấy Maxlova mặt đỏ tía tai chạy ra, ông ta nghiêm nghị quát:
- Nầy, chị kia, nếu giở trò ra đây, tôi sẽ điều chị về sớm. Cái gì thế? - Ông gườm gườm nhìn tên y sĩ qua phía bên kia mục kỷnh hỏi.
Tên kia mỉm cười, bắt đầu bào chữa cho mình. Không để cho y nói hết, bác sĩ ngẩng đầu lên đến mức nhìn y qua mục kỷnh, và đi về phía các phòng. Ngay hôm đó, ông ta yêu cầu giám mục gửi sang cho một người hộ lý đứng đắn hơn để thay Maxlova. Đấy, cả câu chuyện "dan díu" của Maxlova với tên y sĩ chỉ có thế. Bị đuổi về với lý do là có chuyện tằng tịu với bọn đàn ông đã là một điều cực kỳ đau khổ cho Maxlova, vì từ lâu nàng đã thấy ghê tởm những quan hệ với nam giới và đặc biệt từ sau khi gặp lại Nekhliudov. Ý nghĩ bị mọi người - trong đó có cả tên y sĩ mặt sần sùi căn cứ vào quá khứ và hiện tại của nàng mà xét đoán, họ đều tự coi có quyền làm nhục nàng và lại lấy làm lạ khi bị nàng cự tuyệt, ý nghĩ đó khiến nàng thấy vô cùng tủi nhục, thương xót cho số phận mình và ứa hai hàng nước mắt. Giờ đây khi ra gặp Nekhliudov, nàng đã muốn minh oan với chàng về lời kết tội bất công kia mà chắc chàng đã nghe nói. Nhưng mới bắt đầu nói nàng đã cảm thấy chàng không tin mình và có biện bạch nỗi oan cũng chỉ cho chàng thêm nghi ngờ mà thôi; nước mắt dâng lên nghẹn cổ, nàng lặng thinh không nói.
Maxlova vẫn cứ tưởng và luôn luôn tự nhủ rằng nàng không tha thứ cho Nekhliudov và ghét chàng như nàng đã nói rõ trong buổi gặp mặt lẫn thứ hai. Nhưng thực ra nàng lại yêu chàng và yêu mãnh liệt, đến mức tình yêu đó đã thúc đẩy nàng làm tất cả những gì mà chàng muốn nàng làm: chừa hút thuốc, chừa uống rượu, không cười cợt làm duyên và đã phục vụ ở bệnh xá. Nàng làm những điều đó chỉ vì biết ý chàng muốn thế. Nếu như mỗi lần chàng năn nỉ nàng chấp nhận sự hy sinh của chàng, hãy lấy chàng mà nàng đã cương quyết từ chối thì đấy chỉ vì nàng ưa nhắc lại những lời kiêu hãnh nàng đã nói lần đầu tiên, mà cũng chủ yếu là vì nàng biết rằng cuộc hôn nhân đó sẽ chỉ làm cho chàng khổ sở mà thôi. Nàng một mực khăng khăng cương quyết từ chối không nhận sự hy sinh của chàng, nhưng nghĩ đến Nekhliudov lại khinh mình, tưởng mình vẫn như trước kia, không nhận thấy sự thay đổi đang biến diễn trong con người của mình, thì nàng thấy đau đớn xót xa. Điều chàng hiện nay có thể nghĩ rằng nàng đã làm một việc xấu xa ở bệnh xá còn làm nàng đau khổ hơn là cái tin nàng bị y án tù khổ sai.
Chú thích:
(1) Thoreau: nhà văn Mỹ (1817-1862)



Chương 89


Maxlova có thể ở trong đoàn tù đi chuyến đầu tiên, nên Nekhliudov cũng chuẩn bị lên đường. Nhưng những công việc phải giải quyết lại nhiều đến nỗi chàng cảm thấy mình sẽ không bao giờ thanh toán hết được, dù có bao nhiêu thì giờ đi nữa.
Tình trạng bây giờ thật là khác hẳn với trước kia.
Trước kia, chàng phải nghĩ và bày ra công việc mà nội dung bao giờ cũng chỉ nhằm phục vụ một đối tượng duy nhất, đó là Dmitri Ivanovich Nekhliudov; mặc dầu lúc đó việc gì cũng đều nhằm tập trung vào một thân Dmitri Ivanovich, thế mà chàng vẫn thấy chán ngấy. Bấy giờ mọi công việc chàng làm lại vì người khác chứ không phải vì Dmitri Ivanovich nữa, thì tất cả chàng đều thấy thích thú và hấp dẫn; và những việc như thế thì đầy rẫy không sao kể xiết.
Hơn nữa, trước kia, khi phải trông nom tới công việc của Dmitri Ivanovich, chàng bao giờ cũng thấy khó chịu, bực tức; còn giờ đây công việc làm vì người khác thì phần lớn lại khiến cho chàng vui thích.
Công việc chàng đang làm lúc nầy chia ra làm ba loại; do cái tính ngăn nắp hơi quá đáng, chàng đã chia ra như vậy và, đi theo cái cách chia đó, chàng cũng sắp xếp những giấy tờ về các loại công việc vào ba chiếc cặp.
Loại thứ nhất là về Maxlova và công việc giúp nàng. Hiện nay là việc vận động để xin ân xá, và chuẩn bị cho cuộc hành trình đi Siberi.
Loại thứ hai là việc xử lý điền sản của chàng ở Panovo, ruộng đất chàng đã trao trả cho nông dân, với điều kiện họ phải trả một số tiền chi dùng vào những công việc cần thiết chung cho hàng xã. Nhưng để cho việc đó có giá trị về mặt pháp luật, chàng còn phải thảo khế ước, một bức chúc thư và ký vào đấy. Ở Kuzminxkoie, tình trạng vẫn y nguyên như lúc chàng giải quyết; chàng phải thu tiền cho thuê ruộng đất, nhưng kỳ hạn thu, phần tiền dành cho việc chi tiêu cá nhân của riêng chàng và phần tiền trao cho nông dân sử dụng cần phải được tính rõ. Không biết rõ chuyến đi Siberi sắp tới sẽ phải chi tiêu nhiều ít như thế nào, nên chàng chưa quyết định bỏ hẳn quyền lợi tức đó được tuy chàng đã giảm nó đi một nửa.
Loại thứ ba là việc giúp đỡ những người bị giam; con số những người yêu cầu chàng càng nhiều.
Buổi đầu khi mới tiếp xúc với những người bị bắt và họ xin giúp, lập tức chàng can thiệp ngay, cố làm cho số phận họ bớt đau khổ. Về sau, con số những người xin giúp như vậy quá nhiều, chàng thấy mình bất lực, không thể giúp từng người một được, thành ra không chủ tâm mà chàng cũng phải thành lập tập hồ sơ thứ tư; tập nầy, thời gian về sau, chàng quan tâm hơn tất cả những tập khác.
Loại việc thứ tư nhằm giải đáp những vấn đề sau đây: cái tổ chức kỳ quái gọi là "Toà đại hình" có con đẻ là nhà tù mà chàng đã biết một phần những người trong đó và tất cả những nơi giam cầm khác, từ pháo đài Petropavlovxkaia đến đảo Sakhalin, là nơi hàng trăm, hàng ngàn nạn nhân bị bộ Hình luật mà chàng cho là kỳ quái kia đang chết dần chết mòn, cái tổ chức ấy là cái gì? Có nó để làm gì? Từ đâu sinh ra nó?
Nhờ có quan hệ riêng với những người bị bắt, nhờ có những lần hỏi chuyện viên trạng sư, hỏi chuyện linh mục nhà tù và viên giám mục và qua những bản danh sách tù nhân, Nekhliudov đi đến kết luận rằng những người bị bắt giam, những người gọi là tội phạm có thể chia làm năm loại.
Loại thứ nhất gồm những người bị oan, những nạn nhân của những sai lầm trong việc xét xử như Melsov kẻ bị coi là phạm tội đốt nhà, như Maxlova, và nhiều người khác. Theo như ý kiến nhận xét của linh mục thì loại người nầy không nhiều lắm, khoảng bảy phần trăm thôi, nhưng tình trạng của họ đặc biệt đáng chú ý.
Loại thứ hai là những người bị kết án vì đã có những hành động phạm pháp trong những trường hợp đặc biệt như tức giận, ghen tuông, say rượu, vv… - những hành động mà ngay cả những người xét xử và kết án họ, nếu ở trong những trường hợp tương tự, chắc sẽ phạm phải. Loại nầy, theo nhận xét của Nekhliudov thì gần quá năm mươi phần trăm tổng số tội nhân.
Loại thứ ba gồm những kẻ bị kết án về những việc mà theo nhận thức của bản thân họ, là những việc rất bình thường, thậm chí còn đáng hoan nghênh nữa là khác; nhưng vì theo sự hiểu biết của những kẻ không ở trong hoàn cảnh của họ, lại làm ra pháp luật, thì họ bị coi như phạm pháp. Đó là những người bán rượu lậu, những người cắt cỏ và nhặt củi trong những khu rừng của tư nhân hoặc của nhà nước. Có thể thêm vào đấy những tay thổ phỉ miền núi(2) và những người không tin đạo, ăn trộm của nhà thờ.
Loại thứ tư là những người bị liệt vào số người phạm pháp chỉ vì trình độ tri thức của họ hơn hẳn trình độ trung bình của xã hội như các tín đồ tông phái, những người Ba Lan, những người Chec-ket(2) nổi lên để bảo vệ nền độc lập của họ, và như những người tù chính trị, những người theo chủ nghĩa xã hội, cả những công nhân bãi công bị kết tội không phục tùng chính quyền. Tỷ số phần trăm của những người loại nầy (những người ưu tú trong xã hội), theo nhận xét của Nekhliudov - thì rất lớn.
Sau hết, loại thứ năm gồm những người bất hạnh; xã hội đối với họ có nhiều tội hơn là họ có lỗi đối với xã hội. Họ bị bỏ bơ vơ một mình, đần độn đi vì bị liên miên áp bức, bị sa vào bẫy cám dỗ, như gã thanh niên ăn cắp thảm chùi chân và hàng trăm người khác mà Nekhliudov thấy trong nhà tù hoặc còn ở bên ngoài. Nhưng điều kiện sinh sống của họ dường như nhất định phải đưa họ một cách có hệ thống đến những hành động gọi là phạm pháp.
Theo Nekhliudov thì thuộc về loại nầy có một số rất lớn những kẻ trộm cướp, sát nhân, trong đó có, gần đây chàng có tiếp xúc với vài người. Gần gũi họ nên biết họ hơn, chàng xếp vào hạng nầy cả những người hư hỏng, những kẻ truỵ lạc, những người mà trường phái phạm tội học mới gọi là "điển hình phạm tội"(3); sự tồn tại của họ trong xã hội là luận cứ chủ yếu chứng minh cho tính tất yếu của luật hình và sự trừng phạt theo quan niệm của Nekhliudov, những người bất bình thường ấy, những kẻ hư hỏng và truỵ lạc ấy, bản thân họ cũng là con người như những con người khác, họ có tội đối với xã hội ít hơn là xã hội có tội đối với họ; có điều là xã hội không có tội trực tiếp với họ bây giờ mà là từ trước kia đã từng có tội với cha mẹ họ, tổ tiên họ.
Trong số những người thuộc loại nầy, Nekhliudov chú ý đến một tay từng phạm tội ăn trộm nhiều lần tên là Okhotin. Là con đẻ hoang của một gái điếm, nuôi dưỡng trong một dạ lữ viện cho tới ba mươi tuổi, hắn chưa hề được gặp những người có đạo đức cao hơn một viên cảnh sát; ngay từ thời niên thiếu, hắn đã nhập bọn với một bầy trộm cắp, thêm vào đấy, hắn lại có biệt tài pha trò, nên tranh thủ được cảm tình của mọi người. Trong khi xin Nekhliudov giúp đỡ, hắn giễu cợt cả chính mình, cả quan toà, cả nhà lao và tất cả pháp luật, không những luật hình của người đời mà cả luật của Thượng đế nữa.
Một tay khác là Fedorov, một gã rất đẹp trai và đã cầm đầu đồ đảng giết một viên chức già và cướp của. Gã xuất thân là một nông dân, cha gã đã bị tước đoạt mất nhà cửa một cách phi pháp; rồi vào lính, gã bị bắt giam vì đã tư thông với nhân tình của một viên sĩ quan. Gã là người có bản chất dễ thương, sôi nổi, luôn luôn khao khát hưởng lạc chưa từng gặp gỡ những người vì một lý do nào đó đã tự kỳm hãm được dục vọng của mình và chưa bao giờ nghe nói đến một mục đích nào khác ở đời ngoài sự hưởng lạc ra. Nekhliudov thấy rõ cả hai người hai bản chất rất tốt nhưng đã bị bỏ rơi nên hư hỏng đi, khác nào cây bị bỏ hoang dại nền tàn tạ, héo hon chàng còn gặp một gã lưu manh và một người đàn bà bị người ta ghê tởm và có vẻ như độc ác; nhưng chàng cũng không sao nhận thấy ở họ có cái gì là "điển hình phạm tội" như trường phái Ý đã nói, chàng chỉ thấy ở họ những con người mà chính chàng cũng không ưa, y như một số kẻ chàng đã thấy ở bên ngoài nhà tù, quần áo tề chỉnh, mang ngù vai hoặc vận đồ thêu thùa đẹp đẽ.
Vậy là vấn đề tìm hiểu tại sao tất cả những con người rất khác nhau đó bị bắt giam trong khi những kẻ khác cũng như họ thì lại được thung dung tự do, thậm chí còn ngồi xét xử những người kia nữa, là nội dung tập hồ sơ thứ tư hiện đang làm cho Nekhliudov bận tâm suy nghĩ.
Hy vọng sẽ tìm ra được câu trả lời trong sách vở, chàng mua tất cả những tác phẩm đã xuất bản đề cập đến vấn đề ấy. Chàng tìm kiếm những tác phẩm của Lombroso, của Galofalo, của Feri, của Motsley, của Tarde(4) và chăm chú đọc. Nhưng càng đọc, chàng càng thất vọng. Chàng giống như những người tìm hiểu một khoa học không phải là để giành lấy một địa vị trong giới khoa học, cũng không phải nhằm mục đích biên soạn, biện luận hay giảng dạy, mà là đặt ra với khoa học những câu hỏi trực tiếp, giản đơn, có quan hệ đến đời sống. Khoa học đã giải đáp hàng ngàn câu hỏi thông thái, oái oăm về luật hình, nhưng không giải đáp gì về vấn đề chàng đang tìm tòi. Chàng hỏi một điều rất giản dị: tại sao và căn cứ vào quyền gì mà một số người đó lại bắt giam, lại hành hạ, lại đày ải, lại đánh đập, lại giết chóc những kẻ khác, trong khi họ cũng giống y những người bị họ hành hạ, đánh đập, giết chóc? Để trả lời câu hỏi đó, chàng chỉ thấy những lời bàn luận về các vấn đề như con người có ý chí tự do hay không? Liệu kích thước, hình dáng bộ xương sọ có thể dùng để xác định tính phạm tội của một con người hay không? Trong vấn đề phạm tội thì tính di truyền đóng vai trò gì? Có truỵ lạc bẩm sinh hay không? Đạo đức là gì? Điên rồ là gì? Thoái hoá là gì? Tính khí con người là gì? Rồi thì khí hậu, thức ăn, sự ngu muội, tính hay bắt chước, thôi miên, những sự đam mê, có ảnh hưởng như thế nào đến tội ác? Xã hội là gì? Trách nhiệm của xã hội là những gì? Vân vân và vân vân.
Những lý luận đó nhắc Nekhliudov nhớ đến câu trả lời của một đứa bé chàng đã có dịp hỏi khi nó đi học về. Chàng hỏi nó đã học đánh vần chưa? "Cháu học rồi ạ" - thằng bé trả lời. - Vậy cháu hãy đánh vần chữ "cẳng" xem nào? "Nhưng cẳng nào cơ ạ? Cẳng chó ấy ạ?" - Thãng bé trả lời với một vẻ ranh mãnh. Nekhliudov đã tìm được trong các pho sách khoa học những câu trả lời tương tự, dưới hình thức những vấn đề đặt ra hỏi lại để giải đáp câu hỏi duy nhất và cơ bản của chàng. Trong những tác phẩm đó có rất nhiều điều thông minh, trí tuệ uyên bác, thú vị, nhưng lời giải đáp câu hỏi chủ yếu: Dựa vào quyền gì mà có những kẻ trừng phạt được những kẻ khác? Thì lại không có. Chẳng những chỉ thiếu câu trả lời đó mà tất cả lý luận đưa ra lại đều giải thích và chứng minh sự trừng phạt là đúng, và tính tất yếu của nó được coi là một lẽ đương nhiên. Nekhliudov đọc nhiều lắm, nhưng rời rạc từng mảng, không có hệ thống. Chàng đổ tại mình nghiên cứu hời hợt cho nên không thể nào tìm ra được câu trả lời. Chàng hy vọng sau nầy sẽ tìm thấy. Vậy nên chàng không dám để cho mình tin vào sự chân xác của lời giải đáp ít lâu nay thường vẫn hiện ra luôn luôn trong đầu óc mình.
Chú thích:
(1) Thổ dân miền Kapkaz, tuy họ bị Nga hoàng chinh phục đã lâu, nhưng họ vẫn kết đảng cướp bóc bọn khách thương, cướp các đàn gia súc của người Nga, và lấy thế làm tự hào.
2. Một dân tộc miền núi phía bắc Kapkaz
(3) Trong bản dịch Pháp văn dùng danh từ: "criminels nés" (những kẻ phạm tội bẩm sinh)
(4) Tên các nhà phạm tội học Pháp, Đức, Ý, thế kỷ XIX



Chương 90


Ngày khởi hành của đoàn tù trong đó có Maxlova đã được định vào mồng năm tháng bảy; Nekhliudov chuẩn bị đi theo nàng cùng ngày hôm ấy.
Trước ngày khởi hành một ngày, hai vợ chồng người chị gái ra tỉnh để gặp chàng. Hơn em mười tuổi, Natalia Ivanovna Ragozinxkaia trước kia đã có ảnh hưởng lớn tới sự giáo dục của cậu em trai. Nàng rất yêu Nekhliudov hồi chàng còn nhỏ, và sau nầy, trước khi lấy chồng ít lâu, hai chị em - một phụ nữ hai mươi lăm tuổi và một cậu bé mười lăm đã rất tâm đầu ý hợp. Hồi ấy nàng yêu Nikolenka Yerteniev, bạn thân của Nekhliudov, và đã qua đời ngay ít lâu sau. Cả hai chị em, họ đều yêu Nikolenka, yêu ở anh ta cũng như ở bản thân hai người một cái gì tốt lành, một cái gì gắn bó con người lại với nhau.
Rồi từ sau đấy cả hai người đều hoá hư hỏng: em thì vì đi quân dịch và vì cuộc sống bừa bãi, chị thì vì kết hôn với một người mà nàng yêu với một tình yêu xác thịt; anh chàng nầy chẳng những không quan tâm đến tất cả những gì là quý giá và thiêng liêng đối với vợ và em vợ, mà còn không hiểu những cái đó là gì nữa. Hắn cho rằng lòng khao khát xưa kia của vợ hắn muốn vươn lên phẩm đức hoàn thiện, toàn mỹ, tận tuỵ phục vụ loài người chẳng qua chỉ là một sự đam mê do quá ư tự ái, muốn khoe mẽ chơi trội, hắn chỉ hiểu một lẽ duy nhất ấy mà thôi.
Ragozinxki là kẻ tài sản không mà danh vọng cũng không, nhưng là một viên chức có nhiều mánh lới. Hắn hoạt đầu len lỏi một cách tài tình giữa phái bảo thủ và phái tự đo để trục lợi hoặc ở phe nầy hoặc ở phe kia, tuỳ thời cơ thuận lợi đưa đến từng lúc, lại nhờ có một bản lĩnh đặc biệt là được phụ nữ ưa, hắn đã dành được một địa vị tương dối trội trong ngành tư pháp. Hồi ra nước ngoài, hắn không còn trẻ trung gì nữa, hắn đã làm quen được với Nekhliudov và khéo làm cho Natasa lúc đó cũng đã quá lứa yêu say mê hắn rồi kết hôn với hắn, mặc dầu mẹ nàng không đồng ý; bà mẹ cho cuộc hôn nhân ấy không được môn đăng hậu đối.
Nekhliudov ghét cay đắng người anh rể, mặc dầu chàng cố quên cái ác cảm đó đi và đã cố đấu tranh dìm nó xuống. Chàng sở dĩ có ác cảm với Ragozinxki vì hắn là người có những tình cảm tầm thường, tính khí hẹp hỏi, tự đắc và nhất là tại bà chị lại biểu lộ một tình yêu mãnh liệt ích kỷ, nhục dục, đối với một con người có bản chất thảm hại như thế, và để làm vừa lòng chồng, nàng còn bóp nghẹt cả cái phẩm chất tốt đẹp nhất ở con người mình trước kia.
Cứ nghĩ đến Natasa là vợ con người tự đắc, đầu hói bóng nhẵn, lông lá xồm xoàm ấy là Nekhliudov lại thấy đau lòng. Chàng không sao ngăn được lòng ghét bỏ ngay cả đối với những đứa con hắn. Và mỗi lần chàng được tin chị có mang là chàng lại cảm thấy thương hại khác nào như được tin nàng bị lây một căn bệnh xấu xa nào đó của cái con người xa lạ đối với chi em chàng.
Vợ chồng Ragozinxki đến Moskva, để hai đứa con, một trai và một gái, ở nhà, và đến ở trọ một căn buồng đẹp nhất của một khách sạn sang nhất thành phố. Vừa đến nơi, Natalia Ivanovna vội lại ngay nơi nhà cũ của mẹ ngày xưa, nhưng không thấy em; bà Agrafena Petrovna cho biết Nekhliudov đã dọn đến ở nhà trọ; nàng bèn đi xe đến. Một người bồi bẩn thỉu chạy ra gặp nàng trong lối hành lang hôi hám, tối om, giữa ban ngày cũng phải thắp đèn; người bồi cho biết Công tước đi vắng.
Natalia Ivanovna ngỏ ý muốn vào trong phòng của em để viết vài chữ để lại; người bồi dẫn nàng vào.
Xem xét tỉ mỉ hai gian phòng nhỏ, chỗ nào nàng cũng thấy rất sạch sẽ và rất gọn gàng, ngăn nắp; điều đó nàng chẳng thấy gì làm lạ vì đã biết tính em; nhưng điều khiến nàng phải ngạc nhiên là cách bày biện đơn giản, hoàn toàn mới lạ. Nàng nhận ra ở trên bàn làm việc cái chặn giấy quen thuộc, bên trên có hình đầu con chó bằng đồng mắt cua; những tập hồ sơ, giấy tờ những cuốn luật hình, một cuốn sách của Henry Georges bằng tiếng Anh, một cuốn sách của Tarde bằng tiếng Pháp, trong đó có gài con dao rọc giấy, lớn, cong cong, bằng ngà em nàng vẫn dùng xưa nay; tất cả được xếp đặt theo một trật tự ngăn nắp rất quen thuộc.
Ngồi xuống bên bàn nàng viết vào một mảnh giấy, yêu cầu em thế nào cũng đến thăm mình ngay ngày hôm đó rồi, lắc đầu ngạc nhiên về tất cả những cái vừa trông thấy, nàng trở về khách sạn.
Natalia chú ý đến hai vấn đề của em: việc lấy Katiusa mà nàng đã phong phanh nghe nói, vì trong cái tỉnh nhỏ nơi nàng ở, mọi người đều nói đến chuyện đó; và việc trao ruộng đất cho nông dân cũng không ai là không biết, nhiều kẻ còn cho đấy là một hành động có tính chất chính trị và nguy hiểm.
Về mặt nào đó mà nói, Natalia Ivanovna cũng tán thành việc Nekhliudov lấy Katiusa. Nàng mến phục cái ý chí cương quyết đó và thấy cái đó đúng là con người của hai chị em nàng trong những ngày tươi sáng trước khi nàng đi lấy chồng. Song đồng thời, nghĩ đến việc em giai sắp đi lấy một người đàn bà ghê tởm như thế, nàng lại không khỏi hoảng sợ. Cảm giác nầy mạnh hơn nên nàng quyết định cố gắng hết sức mình khuyên nhủ cho em thay đổi ý định, mặc dù cũng biết rằng việc đó rất khó khăn.
Còn đối với việc đem ruộng đất trao cho nông dân thì nàng không quan tâm lắm, nhưng chồng nàng ngược lại, lại tỏ vẻ tức tối và đòi nàng phải lấy thế là chị và can ngăn cậu em. Ignati Nikiforovich Ragozinxki quả quyết rằng hành động như thế là cực kỳ nông nổi, là khinh suốt là tự cao tự đại, hành động ấy chỉ có thể giải thích được nếu như có khả năng nào đó để giải thích - là do cái ý muốn chơi trội, muốn khoe khoang, muốn cho người ta nói đến mình mà thôi.
- Đem ruộng đất cho bọn nông dân, bắt chúng nó phải trả tiền cho chính bản thân chúng nó là nghĩa lý quái gì? Nếu quả thật cậu ấy muốn thế, thì sao lại không đem bán cho Nông khố ngân hàng? Ít ra như thế còn có chút ý nghĩa. Nói tóm lại cậu ấy hành động như vậy, là gần như điên rồ đấy. - Ignati Nikiforovich nói, hắn đã nghĩ đến chuyện hắn sẽ đứng ra giám hộ chỗ ruộng đất ấy và bắt vợ phải thảo luận đến nơi đến chốn với cậu em về cái quyết định kỳ dị kia.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn