View Single Post
  #13  
Old 12-24-2012, 12:53 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Phục Sinh - Chương 106 - 118

PHỤC SINH


Chương 106


Từ Nizni đến Perm, Nekhliudov chỉ gặp Katiusa được có hai lần. Một lần ở Nizni, vào lúc trước khi người ta chuyển tù nhân xuống một chiếc thuyền có chằng kín lưới thép, và một lần ở Perm, trong phòng giấy nhà tù.
Cả hai lần gặp đó, chàng thấy Katiusa không niềm nở hoà nhã. Khi chàng hỏi nàng có cần gì không, hay có được dễ chịu không, nàng chỉ ừ hữ, lúng túng, và chàng cảm thấy ở nàng vẫn có cái vẻ thù hằn trách móc trước đây nhiều lần. Thật ra, tâm trạng nàng lúc đó buồn bực chỉ vì đương bị bọn đàn ông cùng sống quấy rầy. Tâm trạng ấy làm cho Nekhliudov đau đớn. Chàng sợ trong hoàn cảnh khổ sở và đồi truỵ ở dọc đường, nàng có thể lại rơi vào tình trạng ngày trước, mâu thuẫn với chính mình và mất hết hy vọng ở cuộc đời; chính tâm trạng ấy trước kia đã làm cho nàng căm giận chàng và đâm ra hút thuốc, uống rượu thật nhiều để quên đi. Nhưng Nekhliudov không thể giúp Maxlova được gì vì suốt thời gian đầu đi đường, chàng không được gặp, mãi đến khi nàng chuyển sang sống cùng với tù chính trị chàng mới thấy mối lo sợ của chàng là không có căn cứ, và trái lại, cứ mỗi lần gặp nhau, chàng lại thấy ở nàng sự chuyển biến bên trong điều mà chàng hết sức mong đợi càng trở nên rõ rệt.
Lần đầu tiên gặp nhau ở Tomxk, nàng lại giống như trước khi khởi hành. Nàng không chau mày, cũng không tỏ vẻ ngượng ngùng khi trông thấy chàng, mà lại tiếp chàng một cách vui vẻ tự nhiên: nàng cảm ơn chàng đã giúp đỡ và đặc biệt tạo điều kiện cho nàng được sống với những người nàng đang sống hiện nay.
Sai hai tháng trời đi bộ với đoàn tù, sự chuyển biến bên trong của Maxlova biểu hiện ra hình dáng bên ngoài.
Nước da bị rám nắng, người gầy đi, trông già thêm mấy tuổi. Trên thái dương và quanh miệng đã điểm những nếp nhăn. Bây giờ, tóc không để buông xuống trán nữa, nàng lấy một chiếc khăn bịt đầu; trong cách ăn mặc, chải đầu tóc, cũng như trong cách đối xử với mọi người, không còn dấu vết làm duyên làm dáng như ngày trước.
Sự thay đổi nầy đã diễn ra và còn đương tiếp diễn ở con người nàng làm cho Nekhliudov rất đỗi vui mừng.
Chàng cảm thấy đối với nàng lúc nầy, chàng có một tình cảm mà trước kia chưa hề có. Tình cảm đó không giống một chút nào với tình yêu thơ mộng buổi ban đầu, lại càng không giống thứ tình yêu xác thịt về sai; thậm chí nó cũng không giống cả cái lòng thoả mãn vì đã làm tròn phận sự, trong đó không khỏi có lẫn chút lòng tự thán phục mình, và do đó sai khi toà tuyên án, chàng đã quyết định cưới nàng làm vợ. Tình cảm của chàng bây giờ chỉ đơn giản là tình thương xót và niềm xúc động mà chàng đã cảm thấy khi đến thăm nàng lần đầu tiên ở trong nhà giam và sai nầy khi nén được lòng khinh bỉ, chàng tha thứ cho nàng về câu chuyện dan díu tưởng tượng với viên y sĩ trong bệnh xá (nỗi oan nầy của nàng về sai đã tỏ rõ). Mối tình cảm của chàng bây giờ vẫn là tình cảm thương xót khi đó, chỉ có khác là trước kia tình cảm ấy có tròng chốc lát, còn bây giờ nó thành tình cảm thường xuyên. Bây giờ, dù nghĩ gì, làm gì chàng đều cảm thấy lòng tràn ngập một tình thương mến, không những chỉ riêng đối với Maxlova mà đối với tất cả mọi người.
Tình cảm đó hình như đã khơi ra trong tâm hồn Nekhliudov một nguồn yêu thương, trước kia bị ứ tắc lại bây giờ tràn ra, lan đến tất cả mọi người chàng gặp.
Suốt dọc đường, tình cảm trong con người Nekhliudov bị hết sức kích động khiến chàng bất giác chăm chú thiết tha đến tất cả mọi người, từ người đánh xe, người lính áp giải tù cho đến viên giám ngục và tỉnh trưởng mà chàng có việc phải tiếp xúc.
Bây giờ Maxlova chuyển sang sống với các tù chính trị, tất nhiên Nekhliudov lại quen biết nhiều người trong bọn họ: lần đầu tiên ở Ekaterinburg là nơi họ được khá tự do sống chung trong một phòng giam lớn, lần sai là trên đường đi, chàng làm quen với năm người tù nam và bốn nữ cùng nhóm với Maxlova. Do sống gần gũi với tù chính trị bị đi đày, quan niệm của Nekhliudov về họ thay đổi hẳn.
Từ ngày đầu phong trào cách mạng ở Nga, nhất là từ ngày 1 tháng 3(1), Nekhliudov thấy khinh ghét những người cách mạng. Chàng phẫn nộ trước hết vì thủ đoạn độc ác và ám muội họ đã dùng trong cuộc đấu tranh chống chính phủ, và nhất là những vụ ám sát tàn khốc họ đã làm; sai nữa, chàng cũng ghét cái vẻ tự cho mình là quan trọng, là nét chung nổi bật ở họ. Nhưng khi quen biết họ thân mật hơn và thấy được những nỗi đau khổ oan ức của họ do chính quyền gây ra thì chàng thấy họ không thể làm khác được.
Tuy các hình phạt mà gọi là tù thường phạm vẫn phải chịu cũng đã rất là vô lý và kinh khủng, nhưng dù sao trước và sai khi xử án cũng còn có cái vẻ công lý. Đối với tù chính trị thì cả đến cái vẻ đó, Nekhliudov thấy cũng không còn nữa, như trong trường hợp Suxtova, và sai nầy ở trường hợp nhiều người khác anh mới quen.
Những người nầy bị đối xử như cá mắc lưới, người ta kéo tuột cả họ lên bờ chọn bắt lấy những con lớn, còn những con nhỏ để chết khô, mặc xác. Có hàng mấy trăm người, không những hiển nhiên là vô tội, mà còn chẳng nguy hại gì cho Chính phủ đã bị bắt, bị giam, có khi hàng năm trong ngục; ở đó, họ mắc bệnh lao, phát điên hay tự tử, người ta giam họ chỉ vì không có cớ để thả họ ra; vả lại, người ta cho rằng cứ nhốt họ trong đấy để nắm họ sẵn trong tay để khi điều tra hay thẩm vấn một vấn đề nào đó có thể đem ra dùng làm nhân chứng. Ngay đến những kẻ cầm quyền cũng thấy số phận của những người vô tội đó thường là tuỳ thuộc ở tính dộc đoán, sự nhàn hạ, tính tình bất thường của viên sĩ quan hách dịch hoặc cảnh sát gã mật thám, viên chưởng lý hay thẩm phán, hay viên tỉnh trưởng, bộ trưởng. Có khi một viên chức nào đó thấy buồn hoặc muốn chơi trội, thế là hắn ra lệnh bắt bớ một loạt, rồi hoặc bỏ tù, hoặc thả ra, tuỳ theo ý thích của hắn, hay ý thích của cấp trên. Còn quan lại cấp cao hơn cũng vậy, tuỳ ở chỗ họ muốn tỏ ra xuất chúng hay vì quan hệ nào đó với một ngài bộ trưởng, họ đầy ải người sang tận đầu bên kia thế giới, hoặc giam vào ngục tối, hoặc phát vãng, hoặc xử khổ sai, xử tử hình, hoặc tha bổng theo yêu cầu của một bà nào đó.
Tù chính trị bị đối xử như trong chiến tranh và dĩ nhiên, những người nầy cũng trả miếng lại như vậy. Cũng như quân nhân thường sống trong một không khí mà dư luận không những che lấp cái bản chất độc ác của những hành vi họ làm mà còn nêu những hành vi đó lên thành những công trạng anh hùng, những người tù chính trị cũng vậy, họ sống trong không khí mà dư luận của giới họ cho rằng những hành động tàn nhẫn họ làm, dù có phải mất tự do, thiệt tính mệnh, mất mọi thứ quý báu đối với con người, đều là những hành động chẳng những không xấu xa, mà còn anh dũng. Cái đó khiến Nekhliudov giải thích được hiện tượng kỳ dị sai đây: có những người rất hiền lành, chẳng những không đủ sức gây đau đớn cho ai, mà cả đến nhìn người khác đau đớn cũng không chịu nổi, vậy mà họ cứ bình tĩnh chuẩn bị giết người và hầu hết, họ đều cho rằng trong những trường hợp nào đó giết người là hành động hợp pháp và công bằng để tự vệ và đạt tới mục đích cao cả vì lợi ích chung. Những người cách mạng coi sự nghiệp của họ là quan trọng và do đó tự coi mình là quan trọng; điều đó cũng thật tự nhiên vì chính phủ vẫn gán cho họ và hành động của họ là quan trọng và đối với họ, đã dùng những hình phạt thật là tàn khốc. Họ phải có một quan niệm thật cao cả về bản thân mới chịu đựng nổi những điều họ phải chịu đựng.
Sai khi Nekhliudov hiểu họ rõ hơn thì chàng tin chắc rằng các tù chính trị không phải là những kẻ cực kỳ gian ác như một số người vẫn tưởng, cũng không phải là những bậc anh hùng hoàn hảo mà chỉ là những người rất bình thường và bọn họ, như ở bất cứ đâu cũng vậy, cũng có người tốt người xấu, người trung bình. Có những người đi với cách mạng vì thành thực thấy nhiệm vụ của mình là phải chống lại những cái xấu xa đang hoành hành.
Cũng có những người làm cách mạng do động cơ vị kỷ, hiếu danh. Song, đa số do ham thích những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, muốn thưởng thức cái thú đùa rỡn với tính mệnh mình như Nekhliudov đã từng biết rõ trong thời gian đi chiến trận, đó là một thử tình cảm hết sức thông thưởng của thanh niên đầy nghị lực. Họ khác và hơn những người thường là ở chỗ yêu cầu về đạo đức của họ cao hơn. Họ thấy có nghĩa vụ, hoặc chẳng những phải tự kiềm chế mình, sống kham khổ, ăn ở thành thực, chí công vô tư, mà còn phải sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả tính mệnh mình cho sự nghiệp chung. V thế, trong bọn họ những người ở trên mức trung bình thì vượt lên rất cao, họ là mẫu mực đạo đức cao quý hiếm có; còn những người ở mức trung bình thì lại quá thấp, thường là những kẻ bịp đời, đạo đức giả, đồng thời lại hợm mình và tự cao tự đại. Thành ra đối với những người mới quen biết ấy, có một số Nekhliudov không những kính trọng mà còn chân thành yêu quý, còn đối với một số khác, chàng có thái độ quá cả lãnh đạm.
Chú thích:
(1) Ngày Alexander II bị ám sát (N.D)



Chương 107


Nekhliudov đặc biệt rất yêu quý Krinxov, một thanh niên mắc bệnh lao phổi, bị án khổ sai và ở cùng nhóm với Katiusa. Chàng làm quen với Krinxov khi ở thị trấn Ekaterinburg và sai đó, dọc đường còn gặp gỡ và nói chuyện với anh ta vài lần. Một lần vào mùa hạ, Nekhliudov ở với anh cả ngày ở trạm nghỉ; trong khi chuyện trò, Krinxov đã kể cho chàng nghe câu chuyện về cuộc đời của mình và đầu đuôi anh đã đi theo cách mạng ra làm sao. Quãng đời anh trước khi bị tù, chẳng có gì nhiều để kể. Cha anh là một điền chủ giàu có ở miền Nam nước Nga; ông cụ đã qua đời khi anh còn bé. Anh là con một, mẹ anh chăm nom nuôi dạy anh. - ở trung học cũng như đại học, anh học rất nhẹ nhàng; thi tốt nghiệp, anh đỗ đầu về toán.
Họ định giữ anh ở lại trường và cho anh đi học nước ngoài. Nhưng anh còn chần chừ chưa nhận. Anh đã yêu một cô gái, anh định cưới vợ và về làm việc ở cơ quan hành chính tổng. Cả hai đàng anh cùng muốn, còn chưa biết quyết định chọn đàng nào. Giữa lúc đó, có mấy người bạn cùng là sinh viên đến quyên anh tiền, nói để làm một việc ích chung. Anh biết việc ích chung ấy là cách mạng, một việc lúc đó anh chẳng ưa thích gì, nhưng vì tình bạn và vì sĩ diện, không muốn để anh em cho rằng mình sợ, anh đã đưa tiền cho họ. Những người nhận tiền sai bị bắt với cả tờ giấy chứng nhận tiền do Krinxov cấp. Anh liền bị bắt, lúc đầu giam ở đồn cảnh sát, sai tống sang nhà lao.
- Ở nhà lao tôi bị giam, - Krinxov kể tiếp (anh đương ngồi trên chiếc giường cao, chống khuỷu tay lên đầu gối, ngực thóp lại, thỉnh thoảng đưa đôi mắt đẹp, thông minh, dịu hiền nhìn Nekhliudov, đôi mắt long lanh, bừng bừng sáng trong cơn sốt). - Việc coi giữ cũng không nghiêm ngặt lắm, không những chúng tôi có thể đi dạo ở hành lang, cùng nhau trò chuyện, chia nhau thức ăn và thuốc lá; và thậm chí, buổi tối chúng tôi còn hát đồng ca với nhau. Tôi khá tốt giọng. Phải, giả thử không có mẹ tôi - bà cụ đau đớn héo hon vì tôi thì kể ra ở tù, còn rất thú vị nữa là khác. Trong tù, tôi làm quen với anh Petrov nổi tiếng và với mấy người khác nữa (về sau, bị giam trong pháo đài, Petrov đã dùng mảnh thuỷ tinh rạch cổ tự sát).
Nhưng bấy giờ tôi vẳn chưa ngả theo cách mạng. Tôi còn làm quen với hai người bị giam ở khám bên cạnh. Họ cùng bị bắt, trong người mang những bản tuyên ngôn Ba Lan, và bị đưa ra toà xử vì tôi mưu trốn trên đường áp giải ra ga xe lửa. Một người tên là Lozinxki(1), người Ba Lan, còn người kia là Rozovxki(2), người Do Thái. Phải, Rozovxki còn ít tuổi lắm. Anh ta bảo là đã mười bảy tuổi, nhưng trông thì chỉ độ mười lăm. Người nhỏ nhắn, gầy, nhanh nhẹn, mắt đen láy và, như tất cả những người Do Thái khác, anh ta rất có nhiều khiếu về âm nhạc. Anh ta đang vỡ tiếng, nhưng hát rất hay. Phải, tôi đã trông thấy hai người sáng hôm họ bị đưa ra toà xừ. Đến chiều trở về họ nói là bị xử tử hình. Thật chẳng ai ngờ. Tội của họ không có gì là nặng, họ chỉ định trốn, không hề làm ai bị thương. Vả lại xử tử một đứa trẻ như Rozovxki thì còn trời đất nào nữa? Và tất cả chúng tôi đều cho là họ chỉ tuyên án thế để doạ hai người, chứ án ấy thế nào cũng bị bác. Lúc đầu chúng tôi còn xôn xao, nhưng về sai cũng yên dần, và cuộc sống lại trôi đi như trước. Phải, thế rồi một buổi chiều, người gác đến cửa phòng giam tôi và bí mật bảo cho tôi biết là đã có thợ mộc đến, họ đang dựng giá treo cổ. Thoạt đầu tôi không hiểu: "Thế là cái gì? Giá treo cổ nào?". Nhưng người gác già rất đỗi bối rối nên nhìn lão, tôi hiểu ngay là để cho hai bạn của chúng tôi.
- Tôi muốn gõ vào tường báo cho các bạn tù biết tin nhưng lại sợ hai người nghe được. Các bạn tù cũng đều yên lặng.
Rõ ràng là mọi người đều đã biết. Ngoài hành lang và trong khám: chiều hôm ấy im lìm, lặng ngắt như chết.
Chúng tôi không gõ tường mà cũng không hát. Đến mười giờ, người gác lại đến và cho tôi biết tin là một tay đao phủ đã điều từ Moskva tới. Nói xong, lão ta đi. Tôi đang gọi lão lại thì bỗng thấy Rozovxki từ bên phòng của cậu ta gọi to sang bảo tôi: "Bên anh có chuyện gì thế? Anh gọi lão ta làm gì?" Tôi trả lời cho qua chuyện rằng lão ta đem cho tôi ít thuốc lá, nhưng chắc Rozovxki cũng đoán được nên hỏi lại tại sao hôm nay chúng tôi không hát, không gõ tường làm hiệu với nhau? Tôi không nhớ là tôi đã bảo gì cậu ta, chỉ biết là tôi lui nhanh vào để không phải nói chuyện với cậu ta nữa. Phải, thật là một đêm khủng khiếp. Suốt đêm, tôi lắng tai nghe từng tiếng động nhỏ. Bỗng nhiên, gần sáng, tôi nghe thấy mở cửa ở hành lang và có tiếng chân nhiều người đi. Tôi lại gần lỗ cửa phòng tôi. Trong hành lang có thắp một ngọn đèn.
Người đi đầu là viên giám ngục, một thằng to lớn, thường ngày ra vẻ hợm hĩnh và quyết đoán, nhưng bây giờ mặt nó tái mét, phờ phạc như hoảng hốt. Theo sau nó là thằng phó, mặt quằm quặm nhưng có vẻ quả quyết; và sau cùng là bọn lính gác. Chúng đi qua phòng tôi rồi dừng lại trước cửa phòng bên. Tôi nghe thấy tên phó giám ngục gọi bằng một giọng rất kỳ lạ: "Lozinxki, dậy mặc quần áo sạch vào!". Phải. Rồi tôi nghe tiếng cửa rít lên. Chúng đi vào. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng chân Lozinxki đi ra phía bên kia hành lang. Tôi chỉ trông thấy tên giám ngục đứng đó, mặt xám ngắt, tay mân mê hết cài vào lại cởi ra một chiếc khuy áo, hai vai co nhún lại. Phái, rồi thình lình như sợ hãi cái gì, hắn đứng tránh sang một bên. Thì ra Lozinxki đi ngang qua mặt hắn, đến gần của phòng tôi ông phải biết, anh ta là một thanh niên đẹp trai, đẹp theo kiểu người Ba Lan, trán rộng, thẳng đứng: tóc vàng xoăn, óng như tơ, đôi mắt xanh thẳm rất đẹp. Thật là một thanh niên đang thời tươi trẻ, khỏe khoắn. Anh ta đứng lại trước lỗ mắt cáo phòng tôi nên tôi nhìn được rất rõ gương mặt anh ta lúc ấy; một bộ mặt ghê sợ, tiều tuỵ tái nhợt: "Krinxov, anh có thuốc lá không?". Tôi định đưa, nhưng tên phó giám ngục như sợ để chậm đã vội lấy một điếu. Tên phó đánh diêm, anh hút thuốc, vẻ suy nghĩ.
Rồi như sực nhớ ra một điều gì, anh nói: "Thật là độc ác và bất công. Tôi không có tội gì cả. Tôi…". Mắt tôi nhìn cứ dán vào cái cổ họng trắng trẻo của anh, bên trong như có cái gì run bật lên. Anh nghẹn lời. Đúng, lúc ấy tôi nghe thấy Rozovxki hét lên, giọng Do Thái the thé.
Lozinxki vứt điếu thuốc đi và bước qua cửa. Rồi Rozovxki tới trước mắt cáo phòng tôi. Khuôn mặt ngây thơ có đôi mắt đen ướt của anh, bây giờ đỏ lên và nhớp mồ hôi. Anh cũng mặc bộ quần áo sạch. Quần rộng quá, anh phải lấy hai tay kéo xốc lên, toàn thân anh run lẩy bẩy. Anh kề sát bộ mặt thảm thương gần lỗ của phòng tôi: "Anatoli Petrovich, có đúng là bác sĩ cho tôi thuốc ho phải không? Tôi ốm rồi, phải uống ít thuốc ho nữa". Không ai trả lời, còn anh hết nhìn tôi lại nhìn tên giám ngục để hỏi. Câu nói như vậy nghĩa là thế nào, thật tôi không rõ. Phải.
Bỗng nhiên, tên phó giám ngục làm ra mặt nghiêm khắc quát lên, giọng the thé: "Nầy! Đùa gì thế? Đi đi!". Rozovxki hẳn không hiểu được cái gì đang chờ đợi mình; anh vội vã đi gần như chạy trong hành lang, vượt lên trước mọi người. Bỗng anh đứng sững lại và tôi nghe thấy có tiếng chân và tiếng xôn xao, xô sát; anh hét lên và khóc nức nở, tiếng mỗi lúc một xa, rồi tiếng cửa hành lang khép lại và mọi vật lại chìm trong yên lặng. Phải, họ đã treo cổ cả hai người, họ lấy dây thừng thắt cho cả hai tắc thở.
Một người gác khác đã chứng kiến buổi hành hình kể lại là Lozinxki không chống cự; còn Rozovxki giãy giụa chống lại một hồi lâu, thành ra họ phải lôi anh lên giá treo, đút đầu anh vào thòng lọng. Phải. Người gác nầy là một anh chàng hơi ngớ ngẩn. Anh ta nói: "Ngài ạ, người ta cứ bảo tôi là trông khiếp lắm, nhưng thực ra cũng không có gì đáng khiếp cả. Khi hai người bị treo cổ, họ chỉ nhún vai có hai lần, như thế nầy thôi! - anh ta so vai, đưa lên đưa xuống. - Rồi người đao phủ rút thêm tí nữa, cho nút thòng lọng thít chặt lại, và thế là xong; người bị treo cứng đờ ra, chẳng còn cựa quậy gì nữa".
Và Krinxov nhắc lại lời người gác: "Không có gì đáng khiếp cả" anh định mỉm cười, nhưng trái lại, anh đã oà lên khóc nức nở. Anh yên lặng một lúc lâu, hơi thở nặng nhọc, rồi nuốt những tiếng nức nở đương làm anh nghẹn ngào. Anh lấy lại bình tĩnh nói tiếp. "Từ đó, tôi theo cách mạng. Vâng". Và anh nói thêm ít câu để kết thúc câu chuyện.
Anh vào đảng Ý Dân, và đứng đầu nhóm phá hoại có nhiệm vụ khủng bố chính phủ, để họ phải tự ý nhường quyền cho nhân dân. Để làm nhiệm vụ, anh đi Petersburg, Kiev, Odessa và ra cả nước ngoài; ở đâu anh cũng thành công. Về sau anh bị một người tâm phúc phản bội. Chúng bắt anh, đưa ra toà xử và sai hai năm bị giam, anh bị kết án tử hình, sai giảm xuống thành khổ sai chung thân. Ở tù anh mắc bệnh lao. Và trong điều kiện hiện nay, anh khó mà sống được vài tháng nữa. Anh biết thế, nhưng không hối tiếc gì và còn nói nếu anh được sống thêm một cuộc đời nữa thì anh lại sẽ cứ đi theo con đường anh đã đi: tiêu diệt cái chế độ hiện hành đã gây ra tất cả những điều anh đã nhìn thấy.
Được nghe câu chuyện của Krinxov và sống gần gũi thân cận với anh, Nekhliudov hiểu được nhiều điều mà trước kia anh không hiểu.
Chú thích:
(1) Meletei Platonovich (1855-1880) nhà cách mạng bị treo cổ ở Kiev.
(2) Iosif Isskovitch (1660-1880) nhà cách mạng bị treo cổ ở Kiev (Theo chú thích trong bản dịch Pháp văn của E. Becaux)



Chương 108


Hôm tên sĩ quan áp giải có chuyện lôi thôi với tù nhân về đứa trẻ ở cổng trạm nghỉ thì Nekhliudov nghỉ đêm ở một quán cơm trọ trong làng. Vì dậy muộn, lại ngồi nán viết thư để khi đến thị xã lớn gần tới sẽ gửi bưu điện, thành ra chàng rời quán trọ trễ hơn mọi lần và không vượt được đoàn tù ở dọc đường như những lần trước; lần nầy, mãi đến nhá nhem tối, chàng mới tới cái làng ở gần trạm nghỉ của đoàn tù.
Chàng vào trọ trong một quán ăn, hong quần áo cho khô. Chủ quán là một người đàn bà goá, cổ trắng ngần, béo núc ních. Chàng uống trà trong một căn buồng sạch sẽ có treo nhiều tranh ảnh tượng Thánh. Dùng trà xong, chàng vội vàng đến khu trạm nghỉ hỏi viên sĩ quan để xin phép vào thăm tù nhân.
Ở sáu chặng nghỉ vừa qua, tuy rằng sĩ quan phụ trách thay đổi nhiều lần, nhưng không một người nào cho phép Nekhliudov vào trạm nghỉ, thành ra hơn một tuần nay chàng chưa gặp Katiusa. Sở dĩ họ khắt khe như vậy vì họ đang chờ đón một viên quan cao cấp phụ trách các trại giam sắp đi qua con đường nầy. Nay viên sĩ quan đó đã đi rồi, hắn không hề nhìn nhõi gì đến các trạm nghỉ, nên Nekhliudov hy vọng viên sĩ quan phụ trách đoàn tù sáng hôm nay sẽ cho phép chàng gặp tù nhân như trước kia.
Mụ chủ quán muốn cho Nekhliudov mượn một cỗ xe bốn bánh để đi đến trạm tù nghỉ ở bên kia làng, nhưng chàng lại thích đi bộ. Một anh làm công trẻ, vai to rộng như lực sĩ, chân đi đôi ủng to tướng mới đánh xi, nhận dẫn đường cho chàng. Trời sương mù mờ mịt tối đen đến nỗi anh dẫn đường chỉ đi trước có ba bước, Nekhliudov cũng không nhìn thấy trừ những khi có ánh sáng từ một cửa sổ nào đó chiếu ra - mà chỉ nghe thấy tiếng giầy anh ta giẫm lép nhép trên lớp bùn dày quánh.
Qua hết bãi đất rộng trước cửa nhà thờ và một phố dài có dãy cửa sổ sáng trưng, Nekhliudov theo người dẫn đường ra đến đầu làng, trời tối đen như mực. Nhưng chẳng mấy chốc qua bóng tối chàng đã nhận thấy cô những tia sáng leo lét trong sương mù. Đó là những ngọn đèn thắp quanh trạm nghỉ. Những vệt sáng đo đỏ, mỗi lúc một rõ hơn, rồi chàng nhìn thấy cả những cái cọc giậu cái bóng đen người lính gác đi đi lại lại, những cột quét sơn đen lẫn trắng và trạm canh.
Hai người tiến đến gần, người lính gác thét to câu hỏi thường lệ: "Ai đó!". Khi nhận thấy là hai người lạ, anh ta tỏ ra rất nghiêm, không cho cả hai người được đứng đợi bên hàng rào. Nhưng anh làm công dẫn đường không vì thể mà lúng túng, rụt rè.
"Nầy sao chú hắc thế? - Anh ta nói. - Làm ơn mời ông quản ra đây bọn mình có tí việc, bọn mình đứng đợi".
Người lính không trả lời, gọi to vào phía trong cửa và đứng yên nhìn anh làm công vai rộng đương lấy một cái que cạo bùn dính ở giầy Nekhliudov, dưới ánh đèn. Từ sau bức rào vọng ra tiếng ồn ào, có cả giọng đàn ông và đàn bà. Sau vài phút, có tiếng kẹt cửa mở, một viên quản khoác chiếc áo choàng trên vai từ trong bóng tối tiến ra phía ánh đến, và hỏi Nekhliudov muốn gì. Nekhliudov đứa tấm danh thiếp trong viết xin gặp có việc riêng và nhờ đưa cho viên sĩ quan. Người quản nầy không ngặt như người lính gác. Nhưng anh ta rất tò mò, cứ nhất định muốn biết Nekhliudov hỏi viên sĩ quan về việc gì, và chàng là ai. Rõ ràng hắn ta đã đánh hơi thấy một món có thể kiếm chác được và quyết không chịu bỏ lỡ cơ hội. Nekhliudov nói là chàng có việc riêng, sẽ không quên ơn và đề nghị chuyển hộ tấm thiếp cho viên sĩ quan.
Viên quản cầm giấy, gật đầu và quay lại.
Một lát sai cửa lại lạch cạch mở và thấy mấy người phụ nữ cắp rổ, cắp bị, cầm hộp đi ra; qua cửa, họ nói chuyện bô bô với nhau bằng tiếng địa phương Siberi.
Tất cả ăn mặc không phải theo lối thôn quê mà theo lối thành thị, có áo "măng tô", áo lông khoác ngoài, đầu bịt khăn vuông, váy xắn cao. Vẻ tò mò, họ chăm chắm nhìn Nekhliudov và anh dẫn đường đứng dưới ánh đèn. Khi một người trong bọn nhận ra anh làm công vai rộng thì tỏ vẻ vui mừng, mắng yêu anh ta bằng tiếng Siberi:
- Ông mãnh! Đến đây làm trò gì thế? Sao ma quỷ nó chẳng bắt ông mãnh đi!
- Tớ dẫn đường cho ông nầy, - anh làm công trả lời. - Còn đằng ấy mang gì lại đây thế
- Sữa, và đến sáng lại mang sữa đến nữa.
- Thế họ không giữ lại ngủ đêm à?
- Cái anh phải gió nầy, chỉ nói nhảm, - người phụ nữ vừa cười vừa trả lời, - nầy, cùng về với bọn nầy đi.
Người dẫn đường nói câu gì đó làm cho không những mấy người phụ nữ mà cả người lính gác cũng bật cười. Song anh ta quay sang Nekhliudov và nói:
- Thưa ngài, ngài nhớ đường về một mình được chứ ạ? Ngài không lạc chứ?
- Tôi nhớ đường rồi, không sao.
Qua nhà thờ rồi, ngài đi đến cái nhà thứ hai ở bên phải sai cái nhà hai tầng là đúng. Mà nầy, ngài cầm cái gậy của tôi. - Anh ta nói và đưa cho Nekhliudov cái gậy đương cầm trong tay; chiếc gậy cao quá đầu anh ta. Rồi với đôi giầy to tướng, anh lội bùn, cùng mấy phụ nữ biến vào trong bóng tối.
Tiếng anh ta xen với tiếng mấy người phụ nữ còn đang vọng lại từ trong sương mù thì cửa lại lạch cạch mở và viên quản ra mời Nekhliudov đi theo vào gặp viên sĩ quan.


Chương 109


Trạm nghỉ chân nầy xếp đặt giống như tất cả các trạm to, nhỏ khác trên dọc đường đi Siberi. Trong một cái sân, xung quanh là hàng rào chông nhọn bao bọc, có ba cái nhà một tầng. Cái lớn nhất, cửa có chấn song, thì để cho tù, một cái cho lính áp giải, còn cái thứ ba có bàn giấy và là chỗ ở cửa viên sĩ quan, ở cửa sổ cả ba nhà đều có ánh đèn chiếu ra, và bao giờ cũng vậy - nhất là lại ở đây nữa những ánh đèn khiến người ta có ảo tưởng là bên trong ấm cúng yên vui. Trước thềm nhà có đèn thắp và còn năm chiếc treo dọc trên tường chiếu ánh sáng xuống sân. Viên quản dẫn Nekhliudov đi theo con đường lát ván đến ngôi nhà nhỏ nhất; bước qua ba bậc lên thềm, hắn ta để chàng đi trước vào phòng đợi, đầy khói, trong đó có thắp một ngọn đèn con. Bên cạnh một chiếc bếp lò, một người lính mặc quần đen, sơ mi vải to, cổ đeo cravat, dương cúi xuống thổi lò đặt ấm nước. Anh ta chỉ đi có một chiếc giầy ống màu vàng; còn một chiếc dùng làm quạt để quạt lò. Thấy Nekhliudov, người lính bên bỏ đấy, lại đỡ cho chàng cái áo khoác rồi đi vào phòng bên.
- Bẩm quan, ông ta đã đến!
- Thì cho vào, - một giọng cáu kỷnh lọt ra.
- Mời ông vào qua cửa nầy, - người lính nói quay ngay trở lại tiếp tục quạt lò.
Ở buồng bên có thắp một ngọn đèn treo, trên mặt một cái bàn có phủ khăn, còn để thức ăn thừa và hai chai rượu; ngồi bên bàn là một sĩ quan có râu mép vàng hoe, mặt đỏ gay, mình mặc chiếc áo ngoài may kiểu nước Áo, bó chặt lấy hai vai và lồng ngực rộng. Căn phòng ấm áp, sực mùi nước hoa rất hắc, thứ nước hoa rẻ tiền. Thấy Nekhliudov, người sĩ quan nhổm dậy và nhìn chàng, mép hơi nhếch vẻ nửa giễu cợt, nửa nghi kỵ:
Ông cần gì? - Hắn ta hỏi. Và không đợi trả lời, hắn gọi to qua cửa - Bernov, mang nước vào đây! Đến bao giờ mới được?
- Được ngay đấy ạ.
- Tao sẽ cho mày được ngay một trận để mày nhớ! - Tên sĩ quan quát lên, mắt long lanh.
- Tôi mang vào ngay đây ạ, - người lính nói to, và mang ấm nước vào.
Nekhliudov đứng đợi trong khi người lính đặt ấm lên bàn. Sau khi đưa mắt - đôi mắt nhỏ và ác nhìn theo người lính đi ra, dường như muốn tìm xem nên đánh vào chỗ nào tốt nhất, tên sĩ quan pha trà rồi lấy ở trong hòm ra một bình rượu cognac nhỏ, hình vuông và mấy chiếc bánh bích quy Anbe. Hắn đặt tất cả lên bàn rồi quay lại nói với Nekhliudov:
- Tôi có thể giúp ông được việc gì?
- Tôi xin ông cho phép vào thăm một nữ tù nhân. - Nekhliudov nói, chàng vẫn đứng.
- Tù chính trị à? Thế thì điều luật không cho phép rồi, - viên sĩ quan nói.
- Người phụ nữ tôi xin gặp không phải là tù chính trị, Nekhliudov nói.
Nekhliudov ngồi xuống.
- Người đó không phải là tù chính trị, nhưng do tôi đề nghị, cấp trên đã cho phép đi với nhóm tù chính trị.
- Ô tôi đã rõ người sĩ quan ngắt lời, - một người nhỏ nhắn, tóc đen chứ gì? - Được, người ấy thì có thể được. Ông hút thuốc?
Người sĩ quan đẩy hộp thuốc lá về phía Nekhliudov rồi cẩn thận rót đầy hai cốc nước chè, đưa cho Nekhliudov một và nói:
- Mời ông.
- Cảm ơn. Tôi muốn gặp…
- Đêm còn dài. Ông còn khối thời giờ. Tôi sẽ bảo người dẫn cô ta lên đây gặp ông.
- Nhưng ngài có thể cho tôi đến gặp cô ta ở phòng giam có được không? Gọi cô ta lên làm gì cho mất công? - Nekhliudov nói.
- Vào chỗ tù chính trị ấy à? Thế thì không được.
- Tôi đã được phép vài lần đến đó rồi. Nếu ngài có ngại lỡ tôi có đưa cho họ cái gì, thì nói chuyện ở đây, tôi vẫn có thể nhờ cô ta chuyển cho họ được cơ mà.
- Ồ, không, sẽ có người khám cô ta chứ. - Viên sĩ quan nói vậy và cười, tiếng cười nghe thật khó chịu.
- Thế thì xin khám ngay tôi có được không.
- Không sao. Không cần phải thế, - viên sĩ quan nói, và mở nút, đưa bình rượu về phía Nekhliudov - Sống ở cái đất Siberi nầy, gặp một người có học thức thật thích quá ông đã rõ, công việc của chúng tôi buồn tẻ vô cùng; và nếu đã quen sống một cách khác rồi mà làm công việc nầy thì thật là khổ. Người ta cứ nghĩ sĩ quan áp giải là thô bạo, vô học; sao họ không nghĩ rằng chúng tôi cũng có thể sinh ra để làm những công việc hoàn toàn khác.
Nekhliudov thấy cái mặt đỏ lựng của hắn, cái mùi nước hoa ở con người hắn, cái nhẫn đeo và, đặc biệt, cái cười khả ố của hắn thật đáng ghét; nhưng hôm nay, cũng như trong suốt thời gian đi đường, chàng ở vào cái thế phải nghiêm túc, thận trọng, không được khinh suất hay tỏ ra khinh rẻ đối với bất cứ một ai, và thấy cần phải nói "tường tận" với mọi người, như chàng vẫn tự xác định thái độ cho mình. Nghe viên sĩ quan nói và cho rằng hắn đang nghĩ lấy làm khổ tâm phải hành hạ những con người trong tay mình, chàng nghiêm trang nói:
- Tôi nghĩ ở cương vị ông, cũng có thể tìm thấy niềm vui trong việc làm giảm bớt đau khổ cho người khác.
- Những người nầy, họ đau khổ gì? Ông không biết họ thế nào?
- Họ đâu phải là hạng người gì đặc biệt? - Nekhliudov nói, - chẳng qua cũng như những người khác thôi. Và trong số đó có những người vô tội.
- Vâng, họ thì đủ loại, và tất nhiên chúng tôi cũng thương hại họ. Người khác, họ hắc lắm. Tôi thì lúc nào có dịp là tôi tìm cách giảm bớt đau khổ cho họ ngay. Thà tôi chịu khổ còn hơn để họ khổ. Người khác hơi một tý là giở pháp luật, thậm chí còn bắn chết nữa, tôi thì thương…
- Xin mời ông… ông uống đi chứ, - hắn nói và rót trà thêm cho Nekhliudov. - À, mà người phụ nữ ông muốn gặp là ai thế? - Hắn hỏi.
- Một người đàn bà xấu số, phải rơi vào nhà chứa rồi bị kết tội oan là đã đầu độc giết người, nhưng thực ra chị ta là một người rất tốt. - Nekhliudov trả lời.
Viên sĩ quan lắc đầu:
- Đúng, có như thế đấy. Tôi có thể kể cho ông nghe về một cô tên là Emma, ở Kazan. Cô ta gốc tích là người Hungary nhưng có đôi mắt thực là Ba Tư, - viên sĩ quan nói tiếp, không nén nổi một nụ cười khi nhớ tới hình ảnh nầy. - Cô ta thật là sang, như một bà bá tước vậy…
Nekhliudov ngắt lời viên sĩ quan và trở lại câu chuyện đang nói dở:
- Tôi nghĩ là ông có thể làm giảm nhẹ đau khổ cho những người ở trong tay ông được; làm thế tôi chắc là ông sẽ thấy rất sung sướng, - Nekhliudov cố nói từng lời rành rọt, như khi nói chuyện với một người nước ngoài hay với một đứa trẻ.
Viên sĩ quan mắt long lanh, nhìn Nekhliudov, vẻ nóng ruột đợi cho chàng nói hết, để hắn có thể tiếp tục kể câu chuyện cô gái Hungary có đôi mắt Ba Tư, rõ ràng là hình ảnh cô gái đang hiện lên rõ rệt trong đầu óc hắn và choán hết tâm trí hắn.
- Phải, đúng như thế đó, - hắn nói. - Tôi rất thương họ. Nhưng tôi muốn kể ông nghe về cô Emma. Cô ta làm như thế nầy…
- Tôi không thích nghe những chuyện đó, - Nekhliudov nói, - và xin nói thật với ông là trước kia quả thực tôi khác, nhưng nay thì tôi rất ghét cái thứ quan hệ với phụ nữ như vậy.
Viên sĩ quan ngơ ngác nhìn Nekhliudov:
- Ông không dùng thêm trà nữa ư? - Hắn nói.
- Thôi, xin cảm ơn ông.
- Bernov! - Hắn gọi to, - dẫn ông nầy đến gặp Vakulov và bảo hắn để ông ấy đến phòng riêng của tù chính trị, ông ấy có thể ở lại đến giờ điểm danh.


Chương 110


Nekhliudov cùng người lính đi ra, ngoài sân sáng lờ mờ dưới ánh đến đỏ quạch.
- Đi đâu đây? Một người lính gác gặp hỏi.
- Đến buồng riêng, số 5.
- Không đi đằng nầy được. Cửa đằng nầy khoá, anh phải đi vòng thềm đằng kia.
- Sao thế?
- Quan quản đã khoá rồi. Ngài đi vào trong làng.
Người lính dẫn Nekhliudov men đường ván gỗ đến một cái bậc tam cấp khác. Hãy còn đi ở ngoài sân, Nekhliudov đã nghe thấy tiếng người nói lao xao và tiếng ồn ào ở bên trong như một tổ ong; nhưng khi lại gần và cửa mở ra thì tiếng lao xao đó tăng lên, ầm ĩ, những tiếng gọi, tiếng chửi, tiếng cười. Thỉnh thoảng lại thấy tiếng xích lạch cạch và mùi nồng nặc hôi thối quen thuộc, mùi cứt với hắc ín, bốc lên sặc sụa.
Bao giờ cũng vậy, tiếng nói rì rầm lẫn với tiếng xích và cái mùi hôi thối kinh khủng kia hợp lại cũng tạo nên một cảm giác nặng nề gây cho Nekhliudov một thứ ghê tởm về tinh thẩn đến phát buồn nôn. Hai cảm giác đó xen lẫn vào nhau, kích thích lẫn nhau.
Bước qua ngưỡng cửa, cái đầu tiên mà Nekhliudov trông thấy là một người đàn bà ngồi trên mép miệng một cái thùng phân to thối hoăng và đứng trước mặt chị ta là một người đàn ông, chiếc mũ bánh đa đội lệch trên cái đầu hói. Họ đương nói chuyện gì đó. Thấy Nekhliudov vào người đàn ông nháy mắt, nói:
- Đến vua cũng chẳng nhịn được nữa là!
Còn người đàn bà buông vạt áo và cúi đầu nhìn xuống.
Từ cửa vào có một đường hành lang chạy thẳng, hai bên cửa đi vào các xà lim. Xà lim đầu là một gian dành cho tù không vợ con, sau cùng đến hai xà lim nhỏ dành riêng cho những tù chính trị. Căn nhà xây để chứa một trăm rưởi người, nhưng bây giờ phải chứa đến bốn trăm rưởi thành ra chật chội quá, tù nhân không thể ở cả trong phòng, phải ra đầy ngoài hành lang. Người ngồi, kẻ nằm trên sàn, kẻ mang ấm không đi lấy nước, người đem ấm đầy nước sôi về, trong số những người nầy có Taratx.
- Anh ta cố chạy theo kịp Nekhliudov và ân cần chào hỏi.
Bộ mặt hiền lành của anh khác đi, vì có những vết thâm tím ở mũi và dưới mắt.
- Đã xảy ra chuyện gì thế, anh? - Nekhliudov hỏi.
- Vâng, vừa xảy ra một chuyện, - Taratx trả lời, mỉm cười.
- Đúng rồi, bọn chúng nó chỉ có đánh nhau thôi, - người lính gác nói, vẻ khinh bỉ.
- Chỉ vì một con mụ đàn bà, - một người tù đi sau nói chêm vào. - Hắn vừa choảng nhau với thằng Fetlka chột mắt đấy.
- Thế còn cô Fedoxia thế nào?
- Khỏe mạnh như thường. Tôi đang đem nước cho cô ấy pha chè đây. - Taratx trả lời và đi vào xà lim các người có gia đình.
Nekhliudov nhìn qua cửa. Phòng đầy đàn ông, đàn bà, người trên phản, kẻ dưới gầm. Từ quần áo ướt bốc hơi, hơi bốc đẩy phòng. Tiếng đàn bà léo nhéo chuyện trò không ngớt.
Cửa thứ hai là cửa vào xà lim những tù không có gia đình. Trong nầy, người còn đông hơn; tận ngưỡng cửa, và cả ngoài hành lang cũng chật ních những người, quần áo ướt át họ đương ồn ào tíu tít chia nhau cái gì hoặc phân xử chuyện gì đó. Người lính cho Nekhliudov biết là người cai tù đang lấy tiền ăn của tù trả cho tên trùm cờ bạc số tiền, ghi nợ dưới hình thức phiếu cắt ở các con bài ra, mà những người tù vay nó, hoặc đánh bạc thua nó.
Trông thấy viên sĩ quan và nhà quý tộc, những người đứng gần đó lặng im và đưa mắt nhìn theo, đầy ác cảm.
Trong số những người nầy, Nekhliudov nhận ra có Fedoxi, người tù khổ sai quen biết. Anh nầy vẫn giữ luôn bên cạnh mình một anh thanh niên tiều tuỵ, da xanh bủng, mặt nề xị, lông mày rướn cao, và một gã vô lại nữa trông thật gớm ghiếc, mặt rỗ như tổ ông bầu lại không có mũi. Thằng nầy khét tiếng vì lần chạy trốn vào rừng hoang, nghe nói như nó đã giết và ăn thịt đứa bạn cùng trốn. Nó đang đứng ở lối đi, một chiếc áo ướt vắt trên vai; nó nhìn Nekhliudov một cách ngạo nghễ, hỗn xược và cử đứng ở giữa hành lang không tránh; Nekhliudov đi men vòng bên cạnh.
Tuy Nekhliudov đã quen với những cảnh tượng nầy, tuy ba tháng nay, chàng đã trông thấy bốn trăm người tù có trong các trường hợp khác nhau: gặp hôm trời nóng bức, lúc đi trong đám bụi mù do chân đeo xích làm tung lên, khi nghỉ ở dọc đường, khi ở trạm, hoặc vào những lúc ấm trời họ ở ngoài sân, nơi những cảnh dâm ô công khai đã diễn ra một cách ghê rợn, thế mà bất cứ lúc nào tiếp xúc với họ và thấy họ chăm chú nhìn mình như bây giờ, chàng đều thấy bị giầy vò, thấy hổ thẹn, thấy mình có tội với họ. Điều khổ tâm nhất là lẫn với sự hổ thẹn, thấy mình có tội, còn có thêm cả cảm giác ghê tởm và sợ hãi nữa, một cảm giác không sao lấn át đi được. Chàng vẫn biết là sống ở trong tình trạng nầy, họ không thể nào khác được. Nhưng dẫu sao chàng vẫn không thể nào không ghê tởm.
Khi tiến gần tới phòng giam tù chính trị, chàng còn nghe thấy có kẻ nói, giọng khàn khàn "Tụi ăn bám thì yên trí lắm". "Những thằng quỉ sứ ấy thì lo gì. Ăn no phệ bụng còn ốm làm sao được?" Và đèo thêm là một câu chửi tục tĩu Có tiếng cười châm chọc, chế nhạo vang lên.


Chương 111


Khi đi qua khỏi phòng giam tù không gia đình, người hạ sĩ quan dẫn đường nói với Nekhliudov là đến giờ điểm danh anh ta sẽ đến tìm chàng, rồi quay trở ra. Người hạ sĩ quan vừa đi khỏi thì một người tù đi chân đất, tay nâng xích, tiến nhanh lại sát bên chàng, mùi mồ hôi chua toả ra nồng nặc. Người đó bí mật nói thầm:
- Ngài hãy che chở cho nó. Chúng đang xoắn chặt lấy và dụ dỗ thằng bé. Chúng đổ rượu cho nó uống say mềm, hôm nay khi điểm danh nó đã nhận tên là Karmanov rồi. Ngài hãy ra tay che chở nó, chúng tôi không ai dám vì bọn chúng nó mà biết sẽ giết chúng tôi. - Rồi len lét nhìn quanh, anh ta quay đi.
Việc đã xảy ra như thế nầy: tên tù khổ sai Karmanov đã dỗ ngon dỗ ngọt một anh trẻ tuổi có nét mặt hao hao giống hắn và bị án đi đày, để đổi cho hắn đi đày thay anh kia, còn anh kia đi tù khổ sai thay hắn.
Nekhliudov đã biết chuyện đánh tráo nầy: cách đây một tuần, chính cũng người tù nầy đã cho chàng biết chuyện. Chàng gật đầu tỏ ra là đã hiểu và sẽ làm trong phạm vi có thể được, rồi đi thẳng không nhìn ra xung quanh.
Nekhliudov biết người tù nầy từ khi ở Ekaterinburg; anh ta đã nhờ Nekhliudov xin giúp cho vợ được đi theo.
Chàng rất đỗi ngạc nhiên vì tội tình của anh ta. Anh ta là một nông dân hết sức bình thưởng, dáng người vừa phải, trạc ba mươi tuổi, bị án khổ sai vì tội giết người lấy của. Tên anh ta là Maka Devkin. Trường hợp anh ta phạm tội thật là ký dị. Khi kể cho Nekhliudov nghe, anh ta nói không phải chính anh ta, Maka, đã làm mà là "Nó", con quỷ. Câu chuyện như sau: có một khách bộ hành đến hỏi bố anh ta thuê một cái xe trượt với giá là hai rúp để đi đến một làng cách đó bốn mươi dặm. Bố anh ta bảo anh ta đánh xe đi. Maka bèn đóng ngựa vào xe, mặc quần áo rồi uống trà với người khách. Khi uống trà, người khách kể mình đi cưới vợ và có mang theo trong người năm trăm rúp là tiền đã kiếm ăn dành dụm được ở Moskva. Nghe xong, Maka ra sau, bỏ một cái rìu vào dưới đệm rơm trong xe. Anh ta nói: Và chính tôi cũng không rõ tại sao tôi đã lấy cái rìu. Lúc ấy Nó bảo tôi: "Cầm lấy cái rìu", thế là tôi cầm lấy. Chúng tôi lên xe và đi. Dọc đường xe đi vô sự. Tôi quên bẵng cái rìu đi. Và chúng tôi đến gần một làng chỉ còn độ sáu dặm nữa thôi. Từ đường nhỏ ra đường cái, phải qua một cái dốc, tôi xuống xe và đi sau xe, thế là "Nó" lại thì thào vào tai tôi: "Mày nghĩ gì thế. Xe lên hết dốc thì đến đường cái, sẽ gặp vô số người, rồi đến làng. Người ta sẽ mang tiền đi mất; nếu mày định làm thì làm ngay đi, đừng đợi nữa". Tôi cúi xuống xe như là để xếp lại rơm, và cái rìu hình như tự nó nhảy vào tay tôi. Người khách quay lại và hỏi: "Anh làm gì thế? Tôi giơ rìu định bổ một nhát, nhưng người đó nhanh nhẹn nhảy phắt ra, tóm chặt lấy tay tôi: "Mày làm gì, thằng kẻ cướp nầy?" và lẳng tôi xuống tuyết; tôi không chống lại, chịu thua ngay. Người ấy lấy dây lưng trói tay tôi lại, quẳng tôi lên xe và dẫn ngay đến đồn. Họ giam tôi lại và đem ra xử. Làng tôi người ta chứng nhận tôi là người lương thiện, từ trước không phạm một tội lỗi gì. Mấy người chủ tôi vẫn làm thuê cho cũng đều chứng nhận tôi là người tốt. Nhưng vì tôi không có tiền thuê thầy kiện nên tôi bị xử bốn năm tù khổ sai.
Chính người đó, vì muốn cứu một người làng, đã cho Nekhliudov biết một điều bí mật trong đám tù, tuy biết làm như vậy có thể nguy hại đến tính mạng mình, vì nếu bọn kia biết anh đã tố giác ra, chắc chắn chúng sẽ bóp cổ anh chết tươi.


Chương 112


Tù chính trị bị nhốt trong hai xà lim nhỏ. Cửa hai xà lim thông ra một phần hành lang có vách ngăn riêng hẳn ra. Khi Nekhliudov bước vào khoảng hành lang đó, trước tiên chàng trông thấy Ximonxon mặc một áo khoác ngắn bằng cao su, tay cầm một thanh củi thông đang ngồi xổm trước cái bếp hoả lò; cửa bếp lò rung rung vì hơi bốc mạnh.
Trông thấy Nekhliudov, anh vần ngồi xổm, ngước mắt nhìn dưới cặp lông mày rậm và đưa tay ra.
- Anh đến, tôi rất mừng. Tôi đang muốn gặp anh để nói một câu chuyện. - Anh ta nhìn thẳng vào mắt chàng nói, giọng đầy ý tứ.
- Chuyện gì thế - Nekhliudov hỏi.
- Để lát nữa. Bây giờ tôi còn bận.
Và Ximonxon lại quay về phía cái bếp lò; anh đương đốt theo lý thuyết của anh, làm thế nào để hao phí thật hết sức ít nhiệt.
Nekhliudov đang sắp bước vào cửa xà lim đầu tiên thì thấy Maxlova ở xà lim thứ hai đi ra, đang lom khom dùng chổi vun một đống to vừa rác vừa bụi về phía bếp.
Nàng mặc một chiếc áo ngắn trắng, váy xắn gọn, chẩn đi bít tất, đầu chít một khăn tay trắng kéo xuống tận mắt để che cho tóc khỏi bụi. Thấy Nekhliudov, nàng đứng lên, đỏ mặt và lúng túng; nàng buông chổi, chùi tay vào vạt áo và đứng ra trước mặt chàng.
- Cô đương quét dọn nhà cửa? - Chàng vừả hỏi vừa bắt tay nàng.
- Vâng, công việc cũ của tôi, - nàng nói và mỉm cười. - Bẩn ơi là bẩn! Bẩn không thể tưởng tượng được. Chúng tôi quét đi quét lại. Thế nào, cái chăn khô chưa? - Nàng quay về phía Ximonxon hỏi…
- Gần khô, - Ximonxon trả lời, nhìn nàng với một cái nhìn đặc biệt khiến Nekhliudov lấy làm lạ.
- Thế thì tôi lại lấy cất đi và đem hong mấy cái áo khoác… Bọn chúng tôi ở cả trong kia, - nàng vừa nói với Nekhliudov, vừa chỉ vào cái cửa thứ nhất, còn mình đi vào cái cửa thứ hai.
Nekhliudov mở cửa đi vào gian buồng nhỏ, ánh sáng yếu ớt. Một ngọn đèn con bằng sắt tây đặt ngay trên mặt phản. Phòng lạnh lẽo, sặc mùi bụi môi quét tung lên, mùi ẩm lẫn mùi khói thuốc lá. Ngọn đèn nhỏ chiếu tỏ những người ngồi gần, còn giường phản thì chìm trong bóng tối, trên tường in lô nhô những bóng đen lờ mờ.
Trừ hai người được cử phụ trách lo việc ăn uống là đi lấy nước nóng và lương thực, còn tất cả tù chính trị đều quây quần lại trong phòng nhỏ nầy. Có Vera Efemovna là người Nekhliudov đã quen biết, chị nom gầy và nước da vàng vọt hơn trước, đôi mắt to đầy lo lắng, tóc cắt ngắn, trên trán gân xanh nổi rõ. Chỉ mặc một chiếc áo màu xám, trước mặt là một tờ báo mở rộng, trong để gói thuốc lá; tay run run, chị ngồi cuốn thuốc.
- Ở đó có cả Emilie Ranxeva, một tù chính trị nữ mà Nekhliudov vẫn cho là một trong những người đáng mến nhất; chị ta trông nom việc ăn, ở và ngay trong những hoàn cảnh cực khổ nhất, chị ta cũng vẫn giữ cho nơi ở có vẻ ấm cúng, hấp dẫn. Chị ta ngồi bên cạnh ngọn đèn; tay áo xắn lên để lộ đôi bàn tay đẹp đẽ, khéo léo, đã rám nắng; chị đương xếp chén cốc lên một chiếc khăn bàn trải trên thảm. Chị Ranxeva còn trẻ, chị không đẹp, nét mặt thông minh, dịu dàng, đặc biệt là khi chị mỉm cười thì vẻ mặt hoá ra tươi tỉnh, lanh lợi và rất đáng yêu. Và lúc nầy với nụ cười đó, chị chào Nekhliudov.
- Thế mà chúng tôi ngỡ là anh đã về hẳn bên Nga rồi, -chị nói.
Ở đó còn có Maria Paplovna, đang ngồi trong một xó tối bận việc gi đó với một đứa con gái nhỏ có mái tóc vàng óng, đứa bé không ngớt thỏ thẻ với cái giọng trẻ con êm ái dễ thương.
- Anh đến thật tốt quá. Anh đã gặp Katiusa chưa? - Maria Paplovna hỏi chàng. - Chúng tôi có cô khách nầy đây nàng nói và chỉ vào đứa con gái nhỏ.
Ở đây có cả Anatoli Krinxov. Người anh dạo nầy gầy rộc đi, nước da tái nhợt, anh ngồi co trên giường, run rẩy, chân đi giầy da, tay khoanh lại, thu lu trong áo; anh ngồi ở cuối phản, đưa cặp mắt đang lên cơn sốt nhìn Nekhliudov. Chàng muốn đi lại gặp anh, nhưng bên phải cửa ra vào có một người đang đeo kính, tóc xoăn màu hung đỏ mình mặc một áo ngoài bằng vải nhựa, đang vừa lục lọi cái gì trong túi vừa nói chuyện với một cô xinh đẹp tên là Grabet. Đó là nhà cách mạng nổi tiếng Novotvorov.
Nekhliudov vội chào. Chàng đặc biệt vội vã chào như thế vì trong tất cả các nhà tù chính trị thuộc đoàn nầy, chỉ có anh nầy là chàng không ưa. Novotvorov nhìn Nekhliudov qua mục kỷnh với đôi mắt xanh lóe sáng và cau mày. Anh ta chìa bàn tay nhỏ nhắn cho Nekhliudov.
- Thế nào, anh đã làm một cuộc du ngoạn thú vị chứ? - Anh ta nói rõ ra vẻ mỉa mai.
- Vâng, có nhiều cái thú vị, - Nekhliudov trả lời, làm ra vẻ không nhận ra gỉọng mỉa mai mà chỉ thấy vẻ lịch sự rồi chàng đi lại gần Krinxov. Tuy bề ngoài Nekhliudov làm ra vẻ bình thản, nhưng thực ra thì hoàn toàn không phải thế. Mấy lời Novotvorov nói để lộ rõ ý định của anh ta muốn nói và làm một điều gì thực chướng khiến cho Nekhliudov mất hẳn tâm trạng ôn hoà thư thái; chàng bỗng thấy ngao ngán trong lòng.
- Sao, anh có mạnh không? - Chàng nói và nắm bàn tay run run và lạnh toát của Krinxov.
- Cũng bình thường, chỉ cái không làm thế nào cho ấm người lên được. Người tôi bị ướt sũng, - Krinxov nói, rồi vội rụt tay thu về ống tay áo. - ở đây rét quá lắm. Kính cửa sổ cũng bị vỡ. - Anh chỉ hai chỗ kính vỡ đằng sau chấn song sắt. - Còn anh thì sao? Sao đã lâu không thấy lại?
- Họ không cho tôi vào, nghiêm ngặt lắm. Mãi hôm nay mới gặp được người sĩ quan tử tế.
- Hừ, tử tế? - Krinxov nói. - Anh hãy hỏi chị Maria xem sáng nay hắn làm gì.
Maria Paplovna vẫn ngồi trong xó kể vọng ra câu chuyện đứa bé sáng hôm nay, lúc ở trạm nghỉ ra đi.
- Tôi nghĩ là nhất thiết ta phải kháng nghị tập thể. - Vera Efemovna nói, giọng kiên quyết; nhưng đồng thời chị vẫn nhìn, lúc người nầy, lúc người khác, vẻ do dự và sợ sệt Vladimir có phản đối, nhưng chưa đủ.
- Kháng nghị cái gì? - Krinxov cau mày giận dữ lẩm bẩm. Vẻ thiếu giản dị, giọng nói trông tự nhiên và sự bồn chồn của Vera làm anh khó chịu từ lâu. - ông tìm Katiusa à? - Anh quay về phía Nekhliudov nói. - Cô ấy làm luôn tay, hết quét dọn phòng đàn ông nầy của chúng tôi bây giờ lại đang quét dọn phòng phụ nữ. Chỉ có bọn chó là không quét hết được. Chúng nó ăn sống chúng tôi đấy. Còn Maria làm gì kia? - Anh hỏi, hất đầu về góc Maria Paplovna ngồi.
- Chị ấy đang chải đầu cho đứa con gái nuôi, - Ranxeva trả lời.
- Không khéo cô để chấy rơi sang chúng tôi đấy! - Krinxov nói.
- Ồ không. Tôi rất cẩn thận. Bây giờ con bé sạch sẽ lắm rồi. Chị trông nó, - Maria nói với Ranxeva, - để tôi lại giúp Katiusa và nhân tiện đem tấm chăn chiên về cho anh ấy.
Ranxeva vừa bế đứa bé vào lòng, áp hai tay bụ bẫm của nó đặt vào ngực mình, âu yếm như một người mẹ; nàng đặt nó lên đầu gối và đưa cho nó một miếng đường.
Khi Maria Paplovna ra khỏi thì có hai người đàn ông mang nước nóng và thức ăn vào.


Chương 113


Trong hai người, một người còn trẻ, gầy gò, thấp bé; anh ta mặc cái áo da cừu ngắn và đi giầy ống cao; bước đi nhanh nhẹn. Anh ta cầm hai ấm trà nóng đang bốc khói và cắp nách một chiếc bánh mì quấn trong một chiếc khăn.
- A, Công tước của chúng ta đã lại tới, - anh ta nói, vừa đặt ấm trà vào giữa bộ chén, vừa đưa chiếc bánh cho Ranxeva. - Chúng tôi vừa mua được những thức rất tuyệt, anh ta nói tiếp, đoạn cởi chiếc áo da cừu ra quẳng nó lên trên phản, qua đầu mấy người kia. - Marken mua được sữa và trứng. Tối nay ta sẽ làm tiệc chén cho thích. Mà chị Kirilovna (tức Ranxeva) đang trổ tài bày biện mỹ thuật ra rồi đấy? - Anh ta nói và nhìn Ranxeva mỉm cười. - Và bây giờ thì chị pha trà cho.
Từ tất cả diện mạo hình dáng anh chàng nầy, từ cử chỉ, tiếng nói, khóe mắt của anh ta đều toát ra niềm phấn khởi tươi vui, còn người thứ hai thì cũng thấp bé gẩy gò nhưng trái hẳn lại, có dáng buồn rầu chán nản; da mặt tai tái, gò má nhô cao trên đôi má hóp, anh nầy có đôi mắt xanh to đẹp, cách xa nhau và hai vành môi mỏng. Anh ta mặc áo khoác cũ và đi đôi ủng cao su. Anh ta mang hai bình sữa với hai chiếc làn đem lại đặt trước mặt Ranxeva, nghiêng mình chào Nekhliudov, đầu hơi cúi xuống nhưng mắt vẫn nhìn chàng chằm chằm. Anh ta miễn cưỡng đưa bàn tay ướt đẫm mồ hôi ra bắt tay Nekhliudov, đoạn từ từ bỏ thức ăn ở trong làn ra.
Cả hai người tù chính trị nầy đều xuất thân từ trong quần chúng. Người thứ nhất là Nabatov, một nông dân, còn người thứ hai, là Marken Kondratiev, một công nhân.
Đến năm ba mươi lăm tuổi, Marken mới tham gia, còn Nabatov thì năm mười sáu tuổi đã gia nhập phong trào cách mạng. Sau khi ở trường làng ra, nhờ có tài năng xuất sắc Nabatov được học ở trường trung học. Suốt trong thời kỳ nầy anh vừa học, vừa dạy học để lấy tiền sinh sống. Anh tốt nghiệp với huy chương vàng, nhưng không xin vào đại học vì ngay khi còn ở lớp bảy, anh đã định tâm sẽ trở về tầng lớp xuất thân của mình để giảng dạy cho những người anh em của mình là những người không được ai chăm sóc đến. Và anh đã làm đúng như vậy.
Nhưng anh bị bắt ngay vì đã đọc sách cho nông dân nghe và đã tổ chức một hợp tác xã tiêu thụ và sản xuất. Lần đầu anh bị giam tám tháng, rồi được thả ra, nhưng bị quản thúc bí mật. Vừa được thả ra, anh đi ngay sang một tỉnh khác, đến một làng khác; anh làm giáo viên và lại làm đúng những việc trước anh đã làm. Anh lại bị bắt và lần nầy bị giam mười bốn tháng; ở tù, chính kiến của anh càng thêm vững mạnh hơn trước.
Sau khi bị giam lần thứ hai, anh bị đày đi Perm; anh trốn, song lại bị bắt, bị giam bảy tháng rồi bị đày đến Arkhagen. Vì anh từ chối không chịu thề nguyện trung thành với Sa hoàng mới lên ngôi, nên bị đày đi Irkusk.
Như vậy, anh sống gần như nửa quãng đời trưởng thành trong cảnh tù đày. Tất cả những chuyện rủi ro đó không mảy may làm anh bực tức và nhụt mất nhuệ khí; trái lại nó càng làm cho ý trí của anh thêm mãnh liệt. Anh vốn là người nhanh nhẹn, ăn uống rất khỏe, lúc nào cũng hoạt bát, vui tươi, hăng hái. Không bao giờ hối tiếc về điều gì cả; không bao giờ nhìn trước quá xa, anh đem tất cả sức lực khôn khéo, kiến thức thực tế để hành động trong hiện tại. Khi tự do, anh hoạt động theo mục đích đã định, làm sao cho những người lao động, đặc biệt là nông dân, được học và doàn kết lại với nhau. Khi đi tù, anh cũng vẫn hoạt dộng cương quyết và tỏ ra thực tế trong việc tìm những biện pháp liên lạc với người của mình ở bên ngoài, và trong việc thu xếp đời sống trong tù không những cho bản thân mình mà còn cho cả anh em tù khác, sao cho được dễ chịu nhất, theo hoàn cảnh.
Trước hết, anh là con người đặt xã hội lên trên, một người của công xã. Anh không cần gì cho riêng mình, chỉ được một chút cũng đủ thoả mãn rồi, nhưng anh đòi hỏi rất nhiều cho tập thể anh em trong nhóm; và anh có thể đã mất cả sức lực và tinh thần ra làm việc cho tập thể, làm cả ngày lẫn đêm, không ăn không ngủ. Vì anh là nông dân, nên anh cần cù, tinh khôn, và khéo léo trong công việc làm. Anh là người bản tính ăn uống điều độ, lễ phép một cách tự nhiên, anh chẳng những tôn trọng tình cảm của người khác mà cả những ý kiến của họ nữa. Anh còn mẹ, một bà cụ nhà quê mù chữ và hay mê tín.
Nabatov chăm sóc, đỡ đần mẹ, những khi được tự do anh vẫn về thăm bà cụ. Khi ở nhà, anh chú ý đến cả những cái vặt vãnh trong đời sống của mẹ, giúp đỡ mẹ trong việc làm, lui tới chơi với các bạn bè cũ cũng con nhà nông, hút thuốc lá sừng bò và đấu quyền với họ, rồi giải thích cho họ biết họ đang bị lừa như thế nào và họ phải làm gì để thoát khỏi cảnh bị lừa dối. Khi anh nghĩ hoặc nói đến cách mạng sẽ mang lại gì cho nhân dân thì anh hình dung ngay là tầng lớp dân thường từ đó anh đã xuất thân vẫn sẽ sống trong những điều kiện gần giống như trước, chỉ khác ở chỗ là có đủ ruộng đất để cày và không còn có bọn quý tộc, quan lại nữa mà thôi. Theo anh, cách mạng không nên thay đổi những hình thức cơ bản của đời sống nhân dân, không nên phá đổ toàn bộ toà nhà, mà chỉ nên phân phối lại những gian bên trong của toà nhà cổ tráng lệ kiên cố, nguy nga mà anh rất đỗi yêu thích. Chính ở chỗ nầy, anh khác với Novotvorov và đồ đệ của anh nầy là Marken Kondratiev. Về mặt tôn giáo, Nabatov cũng là một người nông dân điển hình; anh không bao giờ nghĩ đến những vấn đề siêu hình, đến nguồn gốc của mọi nguồn gốc, đến kiếp sau nầy. Đối với anh, cũng như đối với Arago(1), Thượng đế chỉ là một giả thuyết mà anh chưa cần đến. Anh không quan tâm đến "Nguồn gốc của thế giới" và không cần biết Môidơ(2) đúng hay Darwin(3) đúng; đối với các bạn anh, đó cũng chỉ là một trò vui của trí óc như là chuyện sáng tạo ra thế giới trong sáu ngày vậy.
Anh không quan tâm đến vấn đề thế giới từ đâu mà ra, chính là vì luôn luôn anh còn bận nghĩ đến vấn đề làm sao sống cho tốt hơn ngay trên cõi đời nầy. Anh cũng không bao giờ nghĩ đến kiếp sau; cũng như mọi người nông dân, anh luôn luôn có một mềm tin chắc chắn và bình tĩnh, - niềm tin nầy được thừa hưởng của ông cha, là không có gì ngừng sống trong giới thực vật và động vật mà mọi vật luôn luôn thay đổi hình dạng; tỷ dụ như phân biến thành hạt lúa, hạt lúa thành con gà, nòng nọc, thành nhái, sâu thành bướm, hạt sồi thành cây sồi; người cũng vậy, người không chết mà chỉ biến hoá đi thôi. Anh tin thế nên luôn luôn coi thường cái chết, nhìn cái chết một cách vui vẻ. Anh gan dạ chịu đựng mọi gian khổ đưa đến cái chết, nhưng anh không thích, không biết nói gì về cái chết. Anh ưa thích làm việc, bao giờ cũng bận làm một công việc thực tế, và anh thúc đẩy bạn bè đi vào hướng đó.
Người tù chính trị kia là Marken Kondratiev, cũng xuất thân từ tầng lớp bình dân, nhưng tính cách khác hẳn. Mười lăm tuổi, anh đã đi làm và đã hút thuốc, uống rượu để xua tan cái cảm giác lờ mờ bị tủi nhục. Lần đầu tiên, anh cảm thấy tủi nhục là lần các trẻ trong xưởng được đến dự chia quà trong dịp lễ Giáng sinh do vợ người chủ xưởng tổ chức. Anh và các bạn anh được họ cho một cái còi một xu, một quả táo, một quả hồ đào nhuộm vàng và một quả dâu; còn quà của các con chủ thì như từ thiên đường gửi xuống, sau nầy anh biết là mỗi món quà đó đáng giá hơn năm mươi rúp. Khi anh mười hai tuổi, có một nữ đồng chí cách mạng nổi tiếng đến xưởng anh cùng làm; chị nầy nhận thấy anh có nhiều khả năng, liền đưa sách báo và tài liệu cho anh đọc, và thường nói chuyện với anh, giảng cho anh thấy rõ địa vị của anh, tại sao lại như vậy và phải làm thế nào cho nó khá hơn. Khi anh thấy rõ là có thể tự giải phóng cho mình và cho những người khác khỏi bị áp bức thì anh càng thấy tình trạng bất công đó tàn nhẫn ghê gớm hơn trước, và anh hết lòng mong muốn không những được giải phóng mà còn muốn trừng trị những kẻ đã gây ra và đang duy trì sự bất công hà khắc nầy. Người ta bảo anh muốn làm được như thế thì phải có tri thức. Anh chưa thấy rõ tri thức sẽ giúp anh thực hiện lý tưởng xã hội đó như thế nào, nhưng anh tin là tri thức đã cho anh thấy sự bất công của hoàn cảnh anh đang sống thì tri thức cũng lại sẽ sửa được sự bất công đó, vả lại, theo anh, tri thức nâng cao phẩm giá mình lên trên những người khác. Do đó, anh chừa hút thuốc, chừa uống rượu, để thì giờ vào việc học và, nhân được chuyển sang thành thủ kho, anh lại càng có nhiều thì giờ hơn để học. Nữ đồng chí cách mạng dạy anh học phải lấy làm ngạc nhiên khi thấy anh có năng khịếu đặc biệt tiếp thu tất cả mọi kiến thức. Trong hai năm học, anh đã nắm vững đại số, hình học và lịch sử (anh đặc biệt thích môn nầy) và anh đọc qua một lượt tất cả các sách văn nghệ và phê bình văn học, đặc biệt là các tác phẩm có tính chất xã hội.
Nữ đồng chí cách mạng bị bắt, và anh cũng bị bắt vì người ta khám thấy có sách cấm ở trong nhà anh. Hai người bị bỏ tù rồi bị đày đến tỉnh Volgorod. Đến đây, Kondratiev gặp Novotvorov, lại được đọc nhiều sách cách mạng nữa, anh nhớ tất cả, và chính kiến xã hội chủ nghĩa của anh lại càng được củng cố thêm. Sau khi đi đày về, anh lãnh đạo một cuộc bãi công lớn. Kết thúc bằng việc phá xưởng và giết chết người giám đốc. Anh lại bị bắt, bị tước quyền công dân và bị đi đày.
Đối với tôn giáo, anh cũng không thừa nhận như đối với cơ cấu kinh tế hiện hành. Khi thấy được rằng lòng tin đạo của mình trước kia, hồi còn nhỏ, là ngu xuẩn, anh đã rũ bỏ được niềm tin đó - lúc đầu có sợ hãi thật, nhưng về sau lại thấy vui thích. Và để trả thù cho bản thân mình và cả ông cha mình đã bị lừa bịp, anh không ngớt bài xích chế giễu một cách cay độc bọn cha cố và các tín điều.
Anh quen sống khổ hạnh và chi dùng rất ít: cũng như những người quen lao động từ tấm bé; anh có thân hình vạm vỡ; những công việc bằng chân tay, anh làm được nhiều, nhanh và khéo, nhưng anh rất quý những phút rảnh rang ở trong tù hay ở trạm nghỉ để tiếp tục học. Hiện nay anh đang nghiên cứu cuốn đầu của Marx, anh giấu cuốn sách cẩn thận trong bọc, coi như một vật rất quý. Đối với các bạn bè, anh tỏ ra dè dặt, lạnh nhạt, không vồn vã thân mật. Chỉ riêng có Novotvorov là anh gần gũi thân thiết; anh coi bất cứ ý kiến gì của Novotvorov về bất cứ vấn đề nào, cũng đều là những chân lý không thể bác đi được.
Anh cho là phụ nữ làm cản trở mọi hoạt động có ích nên anh rất khinh họ. Nhưng anh lại thương Maxlova và đối xử tử tế với nàng vì anh cho nàng là một điển hình của con người giai cấp dưới bị tầng lớp trên bóc lột. Cũng vì thế anh ghét Nekhliudov, ít khi nói chuyện với chàng, và không bao giờ bắt tay chàng; khi gặp nhau, Nekhliudov có đưa tay bắt, anh chỉ miễn cưỡng đưa tay ra để chàng nắm mà thôi.
Chú thích:
(1) Arago: một nhà thiên văn học và vật lý học người Pháp (1786-1853). Khi Laplace, một nhà toán học và thiên văn học có tiếng người Pháp (1749-1827) đem cuốn "Cơ học thiên thể" (Mécanique Céleste) của mình tặng Napoleon, Napoleon nói: "Thưa tiên sinh, tôi nghe nói tiên sinh sáng tác được bộ sách lớn nầy nói về hệ thống vũ trụ, vậy mà trong sách không có lấy một câu nói đến đấng sáng tạo ra vũ trụ?". Laplace bèn trả lời: "Thưa ngài, tôi không cần đến giải thuyết đó làm gì". Câu nói nầy, người đời sau cứ gán lầm cho Arago, không thấy rằng Arago lúc đó hãy còn nhỏ. (Theo bản dịch Hoa văn).
(2) Môixe: một nhân vật kiệt xuất trong Cựu ước, đã được Chúa trời truyền dạy cho người điều luật ở trên núi Xinai bèn làm ra bộ "Thánh luật thập điều" (Décalogue) (N.D)…
(3) Darwin: nhà sinh vật học duy nhất trứ danh người Anh (1809-1882) đã giải thích lịch sử giới tự nhiên, phản đối quan niệm tôn giáo, chứng minh người là do giống vượn người biến thành. Ông đã viết cuốn "Nguồn gốc muôn loài"



Chương 114


Lửa đã bốc cháy và lò đã ấm. Chè đã pha và rót vào các chén, cốc, lại thêm có sữa. Trên khăn bàn bày bánh mì mới, trứng luộc, bơ, thịt thủ và chân giò. Mọi người xúm quanh chỗ phản dùng làm bàn, ăn uống và trò chuyện. Ranxeva ngồi lên một cái hòm rồi rót trà. Những người khác đứng vây quanh chị, trừ Krinxov; anh đã cởi cái áo ngoài ướt, quấn người vào cái chăn khô, nằm nguyên chỗ của mình và nói chuyện với Nekhliudov.
Sau khi bị ướt và lạnh ở dọc đường, sau khi đã cất công dọn dẹp gòn gàng sạch sẽ ở một nơi khi mới đến còn bẩn thỉu bộn bề, sau khi đã ăn và uống chê nóng, tất cả mọi người đều thấy vui vẻ và sảng khoái.
Tiếng tù thường phạm giậm chân, kêu la, chửi tục ở xà lim bên cạnh lọt qua tường nhắc nhở họ nhớ đến cảnh xung quanh lại càng tăng thêm cái cảm giác ấm cúng ở đây. Như ở trên một hòn đảo giữa biển khơi, họ cảm thấy mình không bị dập vùi trong những nỗi nhục nhã, đau khổ đang vây quanh lấy họ, và vì vậy họ càng thêm phấn khởi say sưa. Họ nói với nhau về đủ mọi thứ chuyện, chỉ trừ có hoàn cảnh trước mắt và bước đường đang chờ đợi họ. Ngoài ra, các điều xưa nay vẫn thường xảy ra giữa thanh niên nam nữ, nhất là trong hoàn cảnh bó buộc phải sống với nhau như những người nầy, là giữa họ đã nẩy ra đủ thứ xu hướng đồng tình hoặc khác ý kiến nhau, cùng những lôi cuốn thu hút xen lẫn nhau. Hầu hết họ đều có chuyện yêu đương: Novotvorov yêu Grabet, một cô gái xinh xắn hay cười. Cô ta còn trẻ, nông nổi, đã có đi học, vốn không hề ảnh hưởng của thời đại nên đã dính lýu vào một chuyện nào đó và bị án đi đày. Nếu hồi còn tự do, cái thú chủ yếu của đời cô ta là thành công với nam giới thì khi bị thẩm vấn, khi ngồi tù và khi đi đầy cô cũng vẫn thế. Hiện giờ, trên đường đi đày, cô ta vẫn thích thú là được Novotvorov tơ tưởng đến, còn cô thì cũng yêu Novotvorov. Vera Efemovna cũng yêu tha thiết mà không khiến được người khác yêu mình, mặc dầu vẫn luôn luôn hy vọng là sẽ được yêu trả lại, cô ta khi thì thấy yêu Nabatov, lúc lại thấy yêu Novotvorov. Còn Krinxov cảm thấy đối với Maria Paplovna có một cái gì giống như tình yêu. Anh yêu Maria với mối tình của một người đàn ông, nhưng vì đã biết những ý nghĩ của nàng về ái tình, nên anh khéo giấu tình cảm của mình dưới hình thức tình bạn và lòng cảm kích trước sự săn sóc đặc biệt trìu mến của nàng. Còn giữa Nabatov và Ranxeva thì quan hệ yêu đương rất phức tạp. Cũng như Maria Paplovna là một cô gái trinh bạch, Ranxeva đối với chồng cũng là một người phụ nữ tiết hạnh. Hồi là một nữ sinh mười sáu tuổi nàng yêu Ranxev, một sinh viên trường Đại học Petersburg và sau, lấy anh, khi anh còn đang học; lúc đó nàng mới mười chín tuổi. Học đến năm thứ tư, chồng nàng tham gia vào hoạt động của sinh viên, rồi phải rời Petersburg đi làm cách mạng. Lúc đó, nàng đang học trường Thuốc cũng bỏ học đi theo chồng và tham gia cách mạng.
Nếu nàng không coi chồng là một người thông minh tài trí nhất đời, một người tốt nhất, thì đã không yêu anh, và nếu không yêu thì đã không lấy. Nhưng đã yêu và đã lấy anh là một người đàn ông mà nàng cho là tốt nhất, là thông minh tài trí nhất đời, người đó quan niệm về cuộc đời và mục đích cuộc đời thế nào, thì nàng cũng quan niệm như thế. Mới đầu, anh cho mục đích cuộc sống là học, thì nàng cũng cho học là mục đích của cuộc sống.
Khi anh hoạt động cách mạng thì nàng cũng đi theo cách mạng. Nàng có thể giải thích một cách rất rõ ràng là: không thể để duy trì cái chế độ hiện hành được và trách nhiệm của mọi người là phải đấu tranh chống lại chế độ đó phải đem sức ra xây dựng một chế độ chính tn và kinh tế khác, trong đó khả năng con người được phát triển tự do, v.v… Và nàng dường như tự mình nghĩ ra những ý kiến đó và cảm thấy thế, nhưng kỳ thực chỉ coi những ý nghĩ của chồng như những chân lý tuyệt đối và nàng chỉ tìm cách hoàn toàn nhất trí với chồng cho thật ý hợp tâm đầu với nhau; đó là điều kiện làm cho nàng thỏa mãn về mặt tinh thần. Phải xa chồng, xa con (mẹ nàng trông nom hộ đứa con) nàng rất đau khổ, nhưng nàng vẫn kiên quyết và bình thản chịu nỗi chia ly; nàng biết rằng nàng chịu đựng như vậy là vì chồng, vì sự nghiệp của chồng. Sự nghiệp đó tất nhiên là vì chính nghĩa vì chồng nàng phục vụ nó.
Nàng luôn luôn nghĩ đến chồng và cũng như trước kia, nàng không yêu ai khác, bây giờ đây cũng vậy, nàng không thể yêu một người nào khác, ngoài chồng nàng ra.
Nhưng tình yêu thành thực và trong trắng của Nabatov làm nàng cảm động và cũng nao lòng. Nabatov là người có đạo đức tính tình kiên nghị và là bạn của chồng nàng; anh cố gắng chỉ coi nàng như một cô em gái, nhưng trong cách đối xử với nàng vẫn lộ ra cái gì khác hơn và cái khác hơn đó làm hai người cùng sợ hãi, nhưng đồng thời cũng tô điểm cho cuộc đời gian lao của họ.
Thành ra trong nhóm chỉ có Maria Paplovna và Kondratiev là không dính dáng gì đến chuyện yêu đương.


Chương 115


Đợi mọi người ăn cơm uống nước xong để được nói chuyện riêng với Katiusa như mọi bận, Nekhliudov ngồi nói chuyện với Krinxov. Trong những câu chuyện chàng kể cho Krinxov nghe có câu chuyện Maka nói với chàng và đầu đuôi câu chuyện Maka phạm tội. Krinxov chăm chú nghe, đôi mắt long lanh nhìn Nekhliudov. Đột nhiên, anh nói: "Phải, tôi thường nghĩ đấy chúng ta cùng đi bên cạnh họ, nhưng "họ" là ai? Chính là những người vì họ chúng ta đấu tranh, thế mà chẳng những chúng ta không biết họ là ai, mà không muốn biết đến họ nữa. Và tệ nhất là họ lại căm ghét chúng ta và nhìn chúng ta thù địch. Có kinh khủng không?"
- Chẳng có gì là kinh khủng, - Novotvorov thoáng nghe câu chuyện, chêm vào. - Quẩn chúng thì bao giờ cũng chỉ tôn sùng uy quyền thôi, - tiếng anh nói sang sảng. - Bây giờ thì chính phủ có quyền, nên họ tôn sùng chính phủ và ghét chúng ta. Mai đây chúng ta nắm chính quyền thì họ lại sẽ tôn sùng chúng ta.
Lúc đó bên kia tường vọng sang một tràng tiếng chửi rủa, có tiếng xích loảng xoảng, tiếng xô đẩy đập huỳnh huỵch vào tường rồi tiếng người kêu la. Có người nào đó bị đánh và có tiếng kêu: "Cứu tôi với!".
- Đó lũ súc vật! Chúng ta với họ chung đụng thể nào được? - Novotvorov bình thản nói.
- Anh bảo họ là súc vật thế mà ông Nekhliudov đây vừa kể cho tôi nghe một việc như thế nầy đây, - Krinxov bực tức trả lời, và anh kể lại chuyện Maka đã mạo hiểm không sợ hy sinh tính mệnh để cứu người đồng hương như thế nào. - Hành động ấy đâu phải là hành động của một con vật mà là một hành động anh hùng.
- "Tình cảm chủ nghĩa!" Novotvorov trả lời mỉa mai. - Chúng ta khó mà hiểu được những cảm xúc của những con người đó và động cơ hành động của họ. Anh cho đó là do lòng cao thượng, nhưng có thể đó chỉ là lòng đố kỵ với người tù khổ sai kia thôi.
- Tại sao anh không bao giờ muốn nhìn thấy cái hay ở người khác? - Maria Paplovna bỗng nổi nóng lên nói (nàng gọi ai cũng bằng anh, chị).
- Nhìn thấy sao được những cái vốn dĩ không có.
- Sao lại không có? Thế người kia không liều mình, bất chấp cả cái chết thảm khốc đấy a?
- Tôi nghĩ rằng, - Novotvorov lại nói, - nếu chúng ta muốn hoàn thành tốt công việc, thì điều kiện thứ nhất là (Kondratiev đương đọc sách dưới ánh đèn, lúc nầy bỏ sách xuống chăm chú nghe những lời nói của thầy) chúng ta đừng có tưởng tượng hão huyền, mà phải nhìn thẳng vào thực chất của sự việc. Chúng ta phải mang hết sức ra làm việc cho quần chúng và không mong gì họ đền đáp lại. Quần chúng chỉ là đối tượng hoạt động của chúng ta chứ không thể cộng sự với chúng ta được chừng nào mà họ còn cứ ỳ ra đấy như hiện nay, - rồi anh tiếp tục nói như giảng bài. - Cho nên nếu ta trông vào sự giúp đỡ của họ khi họ chưa kinh qua một quá trình phát triển - cái quá trình mà hiện nay ta đương chuẩn bị cho họ - thì thật là ảo tưởng:
- Quá trình phát triển nào? - Krinxov đỏ mặt lên nói. - Chúng ta miệng nói là phản đối độc đoán và chuyên chế, nhưng thử hỏi đó có phải là một thứ chuyên chế ghê tởm nhất không.
- Chẳng có chuyên chế gì hết. Tôi chỉ nói là tôi biết con đường quần chúng phải đi qua, và tôi có thể chỉ cho họ thấy, - Novotvorov bình tĩnh trả lời.
- Nhưng làm thế nào mà anh tin chắc con đường anh chỉ cho họ là con đường đúng? Phải chăng tổ chức Tài phán của Giáo hội(1) và những án tử hình của cuộc Đại cách mạng(2) lại không phải là con đẻ của chuyên chế.
- Thế mà họ cũng dựa vào khoa học để biết được con đường duy nhất đúng đấy. Họ lầm không có nghĩa là tôi cũng lầm. Vả lại giữa những mộng ước viển vông của các nhà tư tưởng và những sự kiện có cơ sở vững chắc của khoa học kinh tế khác nhau nhiều lắm.
Tiếng nói của Novotvorov sang sảng trong buồng, một mình anh ta tiếp tục nói, những người khác đều im lặng.
- Lúc nào họ cũng tranh luận, - Maria Paplovna nói khi Novotvorov ngừng một phút.
- Thế còn chị, chị nghĩ thế nào - Nekhliudov hỏi Maria.
- Tôi nghĩ anh Anatoli (tức Krinxov) đúng, chúng ta không nên bắt quần chúng phải nhìn theo quan điểm của chúng ta.
- Còn cô, Katiusa, cô nghĩ thế nào? - Nekhliudov mỉm cười hỏi Maxlova, và đợi trả lời, trong bụng sợ nàng nói câu gì hớ.
- Tôi nghĩ là quần chúng bị lăng nhục, - nàng nói, mặt đỏ bừng, - tôi cho là người dân thường bị lăng nhục nhiều quá.
- Mikhailovna nói đúng, rất đúng, - Nabatov nói to - Dân chúng bị lăng nhục hết sức và nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho họ không còn bị lăng nhục nữa.
- Thật là một ý kiến lạ lùng về nhiệm vụ của cách mạng, - Novotvorov nói, vẻ bực tức, và lặng lẽ hút thuốc.
- Tôi không thể nói chuyện với hắn được. - Krinxov lẩm bẩm, rồi anh im lặng.
- Và tốt hơn hết là đừng nói, - Nekhliudov nói tiếp.
Chú thích:
(1) Tên chỉ các toà án do Giáo hội thành lập ở một số nước châu Âu thời trung cổ và cả thời cận đại để điều tra, truy nã, trừng trị một cách hết sức tàn nhẫn những người dị giáo. Tổ chức nầy đã vi phạm trắng trợn quyền tự do tín ngưỡng (N.D).
(2) Ý muốn chỉ cuộc cách mạng Pháp 1789 (N.D).



Chương 116


Tuy tất cả những người làm cách mạng đều rất trọng Novotvrov và tuy anh là người học rộng biết nhiều, Nekhliudov vẫn liệt anh ta vào loại những người cách mạng so với những người cách mạng ở dưới mức trung bình, về mặt đạo đức thì còn hết sức thấp hơn.
Khả năng trí tuệ của con người nầy con tử số trong một phân số - thì lớn đấy; nhưng quan niệm của anh ta về bản thân mình - con mẫu số - lại vô cùng lớn hơn, và từ lâu vượt quá xa những khả năng trí tuệ của anh về mặt tinh thần anh ta hoàn toàn trái ngược với Ximonxon. Ximonxon thuộc loại người có tính cách đàn ông là chủ yếu, hành động của họ xuốt phát từ lý trí, và do lý trí quyết định. Trái lại, Novotvorov thuộc về loại người có tính cách đàn bà, hoạt động lý trí của họ một phần nhằm đạt được những mục đích do tình cảm đề ra, một phần để biện bạch cho những hành động làm theo tình cảm.
Tuy Novotvorov có thể giải thích toàn bộ hoạt động cách mạng của anh ta bằng những lý lẽ hùng hồn làm cho người khác phải tin, nhưng đối với Nekhliudov thì cái gốc của những hoạt động đó chỉ là lòng hiếu thắng, lòng ham muốn địa vị hơn người. Hồi còn đi học, cái tài thâu nhận tư tưởng của người khác và truyền đạt nó lại được rõ ràng, trong giới học sinh và giáo viên ở các trường trung học, cao đẳng, đại học - là những nơi mà cái tài nầy được đánh giá cao - đã giúp anh ta chiếm được địa vị hơn người và anh ta đã mãn nguyện. Nhưng đến khi anh ta học xong và tất nghiệp rồi, cái địa vị cao đó không còn nữa, thì - theo như lời Krinxov là người không ưa anh kể lại thốt nhiên, anh ta thay: đổi hẳn quan niệm để lại chiếm một địa vị cao trong một giới khác, và từ một phần tử ôn hoà của phái tự do, anh ta trở thành một phần tử tích cực một đảng viên đảng Ý Dân. Vì trong bản chất anh ta thiếu những phẩm chất đạo dức và thẩm mỹ khiến con người biết phân vân, do dự, nên anh ta chiếm ngay được một địa vị trong giới cách mạng, thật thoả lòng tự ái: địa vị một lãnh tụ đảng. Một khi đã chọn một hướng đi nào, ạnh ta không bao giờ nghi ngờ, do dự và do đó tin chắc là mình không bao giờ lầm. Mọi việc đối với anh ta đều rất đỗi đơn giản, sáng sủa, chắc chắn. Dưới nhỡn quan hẹp hỏi, phiến diện của anh ta, cái gì cũng hết sức đơn giản, sáng sủa, và như anh ta vẫn nói, chỉ cần sao cho cô lô-gích là được. Tính tự tin trong anh ta lớn đến mức mà người khác phải hoặc chán ghét, hoặc phục tùng anh ta. Vì hoạt động với những người còn non trẻ thường nhận lầm lòng tự tin vô hạn đó là thâm thuý và lịch duyệt, do đó đa số nghe theo anh ta, nên trong giới cách mạng, anh ta rất thành công. Hoạt động của anh ta nhằm chuẩn bị một cuộc bạo động để cướp chính quyền và triệu tập một hội nghị. Anh ta sẽ trình bày trước hội nghị một cương lĩnh do anh ta thảo ra, mà anh ta tin là sẽ giải quyết được mọi vấn đề và thế nào nó cũng phải được thực hiện.
Anh ta được các đồng chí của mình kính trọng vì can đảm và cương quyết, nhưng không được ai mến. Mà anh ta cũng chẳng mến ai hết; anh ta coi tất cả những người tài năng xuất chúng là thù địch; nếu có thể làm được, anh ta sẽ thẳng tay đối xử với họ như con khỉ đực già đối xử với lũ khỉ con. Anh ta chỉ cư xử tốt với những người bái phục anh ta: Trong chuyến đi nầy, anh ta chỉ tốt với Kondratiev là người chịu ảnh hưởng tuyên truyền của anh, với Vera Efemovna và với cô Grabet xinh xắn (cả hai người nầy đều yêu anh ta). Tuy về nguyên tắc anh ta tán thành phong trào phụ nữ, nhưng trong thâm tâm, anh ta cho tất cả phụ nữ đều ngu xuẩn và không có giá trị gì, chỉ trừ những người mà anh ta yêu - như hiện nay anh ta đang yêu Grabet. Những người phụ nữ nầy được anh ta coi là những người đặc biệt, phẩm chất tốt đẹp của họ chỉ riêng anh ta mới nhận ra được mà thôi.
Về vấn đề quan hệ luyến ái nam nữ, cũng như mọi vấn đề khác, anh ta thấy rất giản dị, rõ ràng, hoàn toàn giải quyết bằng tự do yêu đương.
Anh ta có một người vợ không chính thức và một người vợ chính thức, nhưng cũng đã bỏ người nầy sau khi xác định là giữa hai người không có tình yêu chân thực. Bây giờ anh ta lại có ý định lại tự do kết hôn với Grabet.
Novotvorov khinh Nekhliudov vì, theo anh ta nói chàng "làm mẽ" với Maxlova, và nhất là vì Nekhliudov lại dám lưu tâm đến những khuyết điểm của chế độ hiện hành và đề ra những phương sách sửa chữa những khuyết điểm đó không giống của anh ta, mà lại theo một lối riêng của mình, theo lối "ông hoàng", nghĩa là theo lối ngu xuẩn. Nekhliudov biết rõ ý nghĩ của Novotvorov đối với mình. Chàng lấy làm buồn và mặc dầu mình rất có thiện ý trong chuyến đi nầy, mà vẫn phải trả miếng lại con người ấy. Chàng không sao trấn át nổi mối ác cảm sâu sắc đối với anh ta.


Chương 117


Từ buồng bên cạnh vọng sang tiếng nói của bọn cai đội gác ngục. Tất cả mọi người đều im lặng, một viên quản bước vào, có hai người lính đi theo. Đã đến giờ điểm danh: Viên quản đếm, lấy ngón tay chỉ từng người, đến Nekhliudov hắn nói một cách thân mật, vui vẻ:
- Công tước không được ở lại sau giờ điểm danh. Xin ngài ra cho.
Nekhliudov hiểu câu nói đó nghĩa là gì, liền lại gần y và giúi vào tay y một tờ giấy bạc ba "rúp" đã chuẩn bị sẵn.
- Ôi biết làm thế nào được, nể ngài quá. Thôi ngài cứ nán lại một chút nữa vậy.
Viên quản sắp ra thì có một viên đội vào, một người tù theo sau, người tù nầy cao gầy, râu thưa, dưới mắt có một vệt tím bầm.
- Tôi lại vì có cháu bé ở đây - người tù đó nói.
- A! Bố đến rồi! - Giọng một đứa trẻ vang lên và một cái đầu tóc vàng óng nhô lên từ sau lưng Ranxeva. Chị nầy đang cùng Katiusa và Maria Paplovna phá một cái váy cũ của mình để may cho con bé một cái áo mới.
- Con ơi? Bố đây, - Buzovkin âu yếm nói với con.
- Cháu nó ở đây tốt lắm, - Maria Paplovna nói, nhìn mặt Buzovkin thâm tím, thấy thương hại. - Anh cứ để cháu nó ở đây.
- Các bà may cho con áo mới, - đứa trẻ nói và chỉ vào cái Ranxeva đang may cho nó. - áo đẹ-ep, đẹ-ep, - đứa trẻ tiếp tục thỏ thẻ nói.
- Cháu có thích ngủ đây với các cô không? - Ranxeva hỏi và vuốt ve đứa trẻ.
- Có, và cả bố cháu nữa.
Ranxeva mỉm cười, nét mặt tươi vui lên.
- Không, bố cháu thì không được. - Và quay sang bố đứa trẻ, nàng nói. - Thôi bác để cháu ở đây.
- Ừ anh có thể để nó ở đây được, - viên quản dừng lại ở ngưỡng cửa nói rồi cùng viên đội đi ra.
Họ vừa đi khỏi thì Nabatov lại gần Buzovkin vỗ vai anh ta và nói:
- Nầy ông bạn, có phải ở bên cạnh các anh thằng Karmanov nó muốn đánh tráo phải không?
Khuôn mặt Buzovkin hiền lành, tươi tỉnh bỗng xịu lải và hình như mắt anh ta mờ đi.
- - Không… chúng tôi không nghe thấy nói… không chắc chắn… - anh ta trả lời chậm rãi, đôi mắt buồn; anh ta nói thêm: - Acxiuka, con ở đây với các bà, con nhé! - Rồi vội vã ra đi.
- Anh nầy biết rõ cả. Như thế là việc đánh tráo là có thật, - Nabatov nói. - Bây giờ ông định sẽ làm gì?
- Đến thị trấn tới tôi sẽ nói chuyện với nhà chức trách.
- Tôi biết mặt cả hai người, - Nekhliudov nói.
Mọi người đều im lặng, sợ lại bắt đầu nổ ra tranh luận. Từ nãy, Ximonxon vẫn nằm dài trên góc phản, im lặng không nói gì, hai tay gấp lại gối dưới gáy, lúc nầy đứng dậy, dáng quả quyết, cẩn thận đi vòng sau những người đương ngồi, tiến lại gần bên Nekhliudov.
- Anh có thể nghe tôi nói chuyện bây giờ được không?
- Được lắm chứ, - Nekhliudov đứng dậy và đi theo anh.
Katiusa ngước mắt nhìn lên, ngạc nhiên và khi gặp mắt của Nekhliudov, nàng đỏ mặt và lắc đầu như có điều gì băn khoăn.
- Điều tôi muốn nói với anh là thế nầy, - Ximonxon bắt đầu nói khi hai người ra tới ngoài hành lang. Ở đấy, tiếng nói ồn ào gào thét của những người tù thường phạm nghe đặc biệt rõ. Nekhliudov nhăn mặt, nhưng Ximonxon hình như không lấy thế làm khó chịu. Anh nói, đôi mắt hiền từ chăm chú nhìn thẳng vào mặt Nekhliudov. - Tôi biết mối quan hệ của anh với Katiusa Maxlova, tôi tự coi là có nhiệm vụ… - anh phải ngừng vì có tiếng hai người cãi nhau cùng hét lên một lúc ngay sát chỗ cạnh cửa:
- Đồ ngu! Tao đã bảo không phải của tao, - tiếng một người gào lên.
- Đồ quỷ! Chết mẹ mày đi! - một người khác quát, giọng khàn khàn.
Lúc đó Maria Paplovna ra ngoài hành lang.
- Nói chuyện ở đây thế nào được! - Nàng nói - Vào trong nầy, trong đó chỉ có một mình Vera thôi.
Rồi nàng đi trước về cái cửa thứ hai, vào gian xà lim nhỏ bé vốn dành làm phòng giam riêng một người; bây giờ dùng tạm làm phòng giam tù chính trị nữ. Vera nằm trên giường, chùm chăn kín đầu.
- Chị ấy nhức đầu và ngủ rồi, không nghe thấy chuyện các anh đâu, tôi cũng đi ra đây, - Maria Paplovna nói.
- Không sao, chị cứ ở lại, - Ximonxon nói, - tôi không có gì phải giấu ai, và đối với chị thì lại chẳng có gì để gỉấu giếm.
- Vâng, - Maria Paplovna nói và cứ nhích người như một đứa trẻ, để ngồi xa dần vào phía trong tấm phản.
Rồi nàng ngồi yên lặng nghe, đôi mắt đẹp, hiền từ đắm chìm vào trong một khoảng xa xăm.
- Vấn đề tôi muốn nói là thế nầy, - Ximonxon nhắc lại tôi có biết quan hệ của anh với Katiusa Maxlova, nên tôi thấy tôi phải nói để anh biết rõ mối quan hệ của tôi với cô ấy!
Nekhliudov bất giác thấy lốỉ nói giản dị và thẳng thắn của Ximonxon rất đáng yêu. Chàng hỏi:
- Anh nói thế nghĩa là thế nào.
- Tôi muốn nói là tôi định lấy Katiusa Maxlova.
- Ồ lạ thật đấy? - Maria Paplovna nói và nhìn Ximonxon.
- Và tôi nhất định lấy cô ấy làm vợ, - Ximonxon nói.
- Cái đó tôi có quyền gì? Ưng hay không là tuỳ ở cô ấy chứ? - Nekhliudov nói.
- Đúng, những không có ý kiến của anh, cô ấy còn do dự không quyết định được.
- Tại sao?
- Vì một khi quan hệ giữa anh và cô ấy chưa được giải quyết dứt khoát thì cô ấy không thể quyết định được như thế nào cả.
Về phần tôi thì đã quyết định từ lâu rồi. Tôi muốn làm cái điều mà tôi tự coi là phận sự của mình phải làm, là làm cho đời cô ấy đỡ vất vả, không bao giờ tôi muốn ràng buộc cô ấy.
- Đúng, nhưng cô ấy không muốn anh phải hy sinh cho cô ấy.
- Có hy sinh gì đâu.
- Nhưng tôi biết cô ấy đã kiên quyết như vậy đấy…
- Ủa, như thế thì việc gì phải nói với tôi. - Nekhliudov nói.
- Cô ấy muốn rằng anh cũng đồng ý như thế.
- Làm thế nào lại đồng ý được là tôi không được làm cái việc mà tôi coi là phận sự của mình? Về vấn đề nầy tôi chỉ có thể nói thế nầy: tôi thì không được tự do làm như ý tôi muốn, còn cô ấy thì được tự do làm theo ý mình.
Ximonxon im lặng, trầm ngâm. Nghĩ một lát, anh nói tiếp:
- Thế thì hay quá, tôi sẽ nói với cô ấy điều nầy. Anh đừng tưởng tôi phải lòng cô ấy. Tôi yêu cô ấy như yêu một con người hoàn hảo. - hiếm có trên đời, một người đã đau khổ nhiều. Tôi không chờ mong gì ở cô ấy cả. Trong thâm tâm, tôi chỉ tha thiết ước mong giúp đỡ, làm cho cuộc đời của cô ấy bớt đau khổ.
Nekhliudov không khỏi lấy làm lạ khi thấy Ximonxon nói giọng run run.
- Làm cho cuộc đời cô ấy bớt đau khổ, - Ximonxon nói tiếp - Nếu cô ta không muốn nhận sự giúp đỡ của anh thì để cô ấy nhận sự giúp đỡ của tôi. Nếu cô ấy đồng ý, tôi sẽ xin chuyển đến ở cùng chỗ với cô ấy. Bốn năm cũng không lâu gì cho lắm. Tôi sẽ sống gần cô ấy và có lẽ có thể làm cho cuộc đời cô ấy đỡ khổ. - Nói đến đây, anh ngừng lại, cảm động quá không thể nói tiếp.
- Tôi không biết nói gì được nữa? - Nekhliudov nói. - Tôi rất sung sướng là đã thấy cô ấy có được một người như anh che chở cho.
- Đó là điều tôi muốn biết, - Ximonxon ngắt lời. - Tôi muốn biết là nếu anh yêu cô ấy, mong cô ấy sống một đời hạnh phúc thì anh có thấy cô ấy lấy tôi là tốt không?
- Ồ có chứ. - Nekhliudov trả lời dứt khoát.
- Tất cả là tuỳ ở cô ta. Tôi chỉ mong cái tâm hồn đau khổ ê chề ấy có thể được thư thái mà thôi, - Ximonxon nói và nhìn Nekhliudov với vẻ âu yếm hồn nhiên không ai có thể ngờ tới có được ở một người bề ngoài có vẻ âm thầm như thế.
Anh đứng lên, nắm tay Nekhliudov, áp sát lại gần mặt Nekhliudov, mỉm cười thẹn thò rồi hôn chàng.
- Được tôi sẽ kể lại cho cô ấy như thế, - anh nói rồi đi ra.


Chương 118


- Chuyện ấy anh nghĩ thế nào? - Maria Paplovna nói - Yêu mê mẩn, yêu quá? Thật là một điều tôi không ngờ, không ngờ là Vladimir Ximonxon cũng yêu, mà lại yêu một cách ngốc nghếch nhất và trẻ con nhất? Thật là lạ, nói thực ra, nghĩ cũng buồn. - Và nàng thở dài.
- Nhưng còn Katiusa? Chị xem việc nầy cô ấy nghĩ thế nào? – Nekhliudov hỏi.
- Cô ấy ư! Maria ngừng nói, rõ ràng tỏ ý muốn trả lời cho thật chính xác. - Cô ấy thì… thì anh biết đấy, tuy quá khứ như thế, nhưng là một người có phẩm chất đạo đức rất tốt, và tình cảm rất tế nhị. Cô ấy yêu anh chân thành và lấy làm sung sướng có thể làm cho anh một điều tốt dù là bề ngoài nó có vẻ ngược lại, để anh khỏi vướng mắc tới cô ấy. Lấy anh, đối với cô ấy là một sự sa đoạ ghê gớm, ghê gớm hơn tất cả cuộc đời trước đây, cho nên cô ấy không bao giờ ưng chuyện đó. Tuy nhiên, sự có mặt của anh làm cho cô ấy băn khoăn suy nghĩ.
- Thế thì tôi phải làm gì bây giờ? Bỏ đi nơi khác cho khuất mắt chăng?
Maria Paplovna mỉm cười, một nụ cười dịu dàng như của một đứa trẻ, nói:
- Thế đấy, một phần nào.
- Làm thế nào mà bỏ đi khuất mắt một phần nào được?
- Ừ tôi nói nhảm thực? Nhưng về cô ấy, tôi phải nói với anh là có lẽ cô ấy thấy cái tình yêu bồng bột của Ximonxon là vô lý (mà Ximonxon cũng chưa hề nói gì với cô ấy cả) và cô ấy vừa thấy vinh hạnh lại vừa sợ. Anh cũng biết đấy, về chuyện yêu đương tôi không thạo lắm, nhưng tôi tin là về phần Ximonxon thì đấy cũng chỉ là thứ tình cảm hết sức bình thường của một người đàn ông, tuy có che đậy đi. Anh ta nói tình yêu đó làm cho anh ta thêm nghị lực và là mối tình thuần khiết, nhưng tôi biết thừa, dù có là tình yêu đặc biệt đi nữa, thì gốc rễ của nó vẫn… bẩn thỉu như giữa Novotvorov với Grabet mà thôi.
Maria Paplovna đi lạc ra ngoài câu chuyện, sang vấn đề nàng vẫn ưa thích.
- Thế chị nghĩ tôi nên làm gì bây giờ? - Nekhliudov hỏi.
- Tôi nghĩ là anh nên nói hết với cô ấy. Bao giờ cũng thế, cứ rõ ràng minh bạch vẫn hơn. Anh nên nói chuyện với cô ấy. Tôi đi gọi cô ấy sang đây nhé? - Maria Paplovna nói.
- Vâng, tuỳ chị! - Nekhliudov nói, và Maria Paplovna đi ra.
Một cảm giác kỳ lạ đến với Nekhliudov khi chàng còn lại một mình trong gian buồng nhỏ, chỉ có Vera Efemovna đang nằm ngủ, tai chàng lắng nghe hơi thở nhẹ nhàng của chị, thỉnh thoảng xen một tiếng rên, và tiếng ồn ào không ngớt của tù thường phạm lọt qua hai lần cửa ngăn vọng tới.
Những điều Ximonxon vừa nói cất nhẹ nhàng cho chàng một nhiệm vụ chàng tự đặt ra cho mình, nhiệm vụ mà những lúc mềm yếu, chàng thấy nó nặng nề và quái gở, xong giờ đây chàng lại thấy có một cái gì không những khó chịu mà còn đau đớn nữa. Chàng có cảm giác là việc Ximonxon mới đề xuất đó đã làm cho cách xử sự của chàng mất hết tính chất đặc biệt của nó, do đó nó làm giảm giá trị hành động hy sinh của chàng trước mắt bản thân chàng và mọi người khác: nếu một người tốt như vậy, không có gì ràng buộc với nàng, mà lại cũng mong muốn gắn bó với số phận nàng thì sự hy sinh của chàng có gì là lớn lao. Cũng có thể là có cả chút ghen tuông thường tình: chàng quá quen được nàng yêu, nên giờ đây không muốn thừa nhận là nàng có thể yêu được một người nào khác. Và như vậy, cả cái kế hoạch chàng định sống gần nàng trong thời gian nàng ở tù cũng bị phá vỡ. Nếu nàng lấy Ximonxon thì sự có mặt của chàng cũng không cần thiết nữa và chàng phải xây dựng một kế hoạch sống khác.
Chàng chưa phân tích được hết những tình cảm của mình thì tiếng ồn ào bên đám tù thường phạm (hôm nay họ có chuyện gì đặc biệt) ùa vào theo Katiusa khi cánh cửa mở. Nàng bước nhanh lại gần Nekhliudov.
- Maria Paplovna bảo tôi tới, - nàng nói, dừng lại sát bên chàng.
- Phải. Tôi có một câu chuyện muốn nói với cô. Cô ngồi xuống đây. Vladimir Ximonxon vừa nói chuyện với tôi.
Nàng đã ngồi xuống, hai bàn tay đặt lên đầu gối, có vẻ bình tĩnh, nhưng khi Nekhliudov vừa nói đến Ximonxon thì mặt nàng đỏ ửng.
- Anh ấy đã nói gì với anh?
- Anh ấy nói là anh ấy muốn lấy cô.
Maxlova bỗng nhiên cau lại, lộ vẻ đau đớn; nhưng không nói gì, nàng chỉ lặng lẽ cúi đầu nhìn xuống.
- Anh ấy hỏi tôi cho anh ấy biết tôi có bằng lòng không hay là khuyên anh ấy nên thế nào. Tôi nói, cái đó hoàn toàn tuỳ ở cô, cô phải tự quyết định lấy.
- Ồ? Thế nghĩa là thế nào? Tại sao vậy? - Nàng nói, và nhìn vào mắt chàng với một cái nhìn hiêng hiếng đặc biệt bao giờ cũng khiến chàng cảm động một cách lạ thường. Hai người ngồi im lặng nhìn nhau vài giây và cái nhìn đó có nhiều ý nghĩa với cả hai người.
- Cô phải quyết định lấy, - Nekhliudov nhắc lại.
- Tôi phải quyết định cái gì? Mọi việc đã được quyết định từ lâu rồi.
- Không, cô phải quyết định dứt khoát là cô có nhận lời Ximonxon hay không? - Nekhliudov nói.
- Tôi có thể là thứ vợ gì được, tôi, một người tù tội? - Tại sao tôi lại định làm hại cả Ximonxon? - Nàng cau mặt lại, nói.
- Nhưng nếu cô được ân xá thì sao? - Nekhliudov nói.
- Thôi, anh để mặc tôi. Chẳng có gì để nói nữa, - nàng đứng dậy và đi ra.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn