View Single Post
  #8  
Old 07-18-2013, 05:52 PM
da1uhate's Avatar
da1uhate da1uhate is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Oct 2007
Bài gởi: 605
Default

Chương 7


Chưa bao giờ Dũng được đặt chân vào trường buổi sáng, nhất là buổi sáng chủ nhật. Học sinh Petrus Ký, đứa nào cũng mong được đi đến trường vào buổi sáng vì điều đó đã chứng tỏ tụi nó đã trở thành “anh lớn”, đàn anh của mấy đứa học sinh lép nhép buổi chiều. Học buổi sáng nghĩa là đã trở thành học sinh trung học đệ nhị cấp, được học những môn học mới, với chỗ ngồi mới và có thêm một số bạn bè mới. Khi được là học sinh đệ tam, ngưỡng đầu của các lớp trung học đệ nhị cấp bọn nó phải chọn ban. Cuối năm đệ tứ, học sinh sẽ chọn theo ban A, B, C hoặc D theo nguyện vọng và sở thích cá nhân. Thằng nào mạnh về môn gì sẽ chọn theo ban đó để được nhân hệ số 4 khi thi Tú tài 1 và 2. và những đứa nào theo cùng một ban thì sẽ còn lại gặp nhau ở lớp đệ tam. Thường thì những thằng chọn ban A và ban C, D gặp nhau rất ít vì đa số dân Petrus Ký chọn theo học ban B.
Không thằng nào muốn vào trường sáng chủ nhật. Vào trường sáng chủ nhật có nghĩa là đang bị phạt cấm túc.
Những thằng đi cấm túc là những thằng học sinh vi phạm kỷ luật của nhà trường. Đứa nào bị cấm túc quá ba lần trong năm thì sẽ bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Mà kết quả là có thể bị đuổi học. Không thằng học sinh Petrus nào muốn bị đuổi ra khỏi trường, kể cả những thằng học sinh con nhà giàu, dư sức có tiền đi học ở những trường tư lớn. ở Sài Gòn có khối trường như vậy. Những trường tư thục nổi tiếng mà học sinh đều biết là Lasan Taberd, Nguyễn Bá Tòng, Thánh Mẫu của hệ thống Công giáo. Bồ Đề của hệ thống Giáo hội Phật giáo. Trường Văn Học ở đường Phan Thanh Giản của giáo sư Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, trường Trường Sơn ở đường Lê Văn Duyệt của giáo sư Nguyễn Sĩ Tế hay trường Tân Văn ở đường Trần Quý Cáp nổi tiếng nhờ có xe bánh cuốn và nước đá me thật ngon. Được là học sinh Petrus Ký không chỉ là vinh hạnh cho riêng bản thân người học sinh mà là cho cả gia đình.
Thằng Dũng nhớ lại ngày đầu tiên nhập trường. Lúc đó nó chưa được học bài Ngày tựu trường của nhà văn Thanh Tịnh “Mỗi khi mùa thu về...” nhưng lòng nó vẫn nôn nao khó tả. Từ ngày đến trường Petrus Ký để xem kết quả, và được biết rằng nó đã đậu, dù thứ hạng không cao lắm nhưng lòng nó đã mừng không biết để đâu cho hết. Dù ở hạng 392 trên con số 420 học sinh trúng tuyển từ trên 4.000 sĩ tử từ sài Gòn đến các tỉnh dự thi tuyển vào lớp đệ thất, hay dù cho nó có đứng ở hạng 420 nó cũng không quan tâm. Thứ hạng đậu vào trường không quan trọng, vấn đề là nó đã trở thành học sinh Petrus Ký kể từ ngày cái tên nó nằm bảnh chọe trên bản thông báo danh sách trúng tuyển dán ngay trước cổng chính của trường là thuộc loại chì rồi. Đối với học trò lớp nhất cái ải quan trọng là phải thi đậu vào đệ thất trường công dù là trường nổi tiếng hay không nổi tiếng vì được vào trường công nghĩa là gia đình không phải chịu gánh nặng về học phí cho suốt bảy năm trung học. Vừa vẻ vang là học sinh trường công vừa không phải chịu đựng gánh nặng học phí nên tất cả các trường trung học công lập nhỏ lớn đều là đích đến của học sinh, nhất là những học sinh nghèo. Nếu là học sinh học giỏi còn được nhận cả học bổng của trường nữa. Nhà thằng Dũng ở khu vực quận 6 có trường Mạc Đĩnh Chi là gần nhất và trường này cũng thuộc loại có hạng ở Sài Gòn và thi dễ đậu hơn vì số lượng học sinh ghi tên dự thi vào trường ít hơn Chu Văn An và Petrus Ký. Nhưng không vì vậy mà thằng Dũng chọn trường Mạc Đĩnh Chi. Nó nhất quyết thi vào học trường Petrus Ký. Lúc ấy nó chỉ nói gọn với má nó một câu khi má nó hỏi ghi tên thi vào trường nào:
- "Petrus Ký!"
Má nó không tin vào sức học của nó khi nó chỉ là một thằng học sinh của trường tiểu học Bình Tây, một trường nhỏ trong quận 6 - một khu vực có nhiều người Hoa sinh sống:
- “Làm sao con đậu được. Sức học của con làm sao thi đậu trường Petrus Ký được. Năm ngoái, má nghe nói thằng Huy, con của ông Năm Lương, chủ tiệm tạp hóa ở chợ cầu bót thi còn không đậu mà...’’
Nó ngắt lời má nó cái cụp:
- “Nhà nó giàu nhưng chưa chắc nó học giỏi.”
- “Má nghe nói đề toán khó lắm.”
- “Thì con sẽ cố gắng học ôn thật nhiều công thức. Rồi còn luận văn nữa chi. Nếu luận văn được điểm cao thi gỡ qua cũng được vậy. Còn nếu có rớt thì con sẽ học luyện thi đệ thất một năm nữa. Con phải học trường Petrus Ký. Trai Petrus Ký, gái Gia Long mà...”
Hồi đó có câu thiệu trong lứa tuổi chọn truờng vào trung học của bọn học trò lớp nhất. Trường Petrus Ký là trường số một khắp Nam kỳ Lục tỉnh mà học trò con trai nào cũng mơ được mài đũng quần bảy năm trước khi vào đại học. Nghe nói là trường này có kỷ luật khó khăn số một. Tụi học sinh đồn rằng các thầy giám thị bắt học sinh quỳ trên vỏ sầu riêng trong những ngày bị phạt “cồng xin” (cấm túc) để học bài, khi nào thuộc bài như cháo mới hết bị bắt quỳ. Càng nghe đồn về uy danh, về sự khó khăn, về kỷ luật sắt máu cũng như sự uy nghiêm, cổ kính lại càng khiến thằng Dũng không cần biết sức nó tới đâu, lao đầu vào chiến đấu với bài vở để lọt cho được vào ngôi trường này. Còn một lý do nữa mà má thằng Dũng không hề biết là nó cần thi đậu vào trường này để con Xuân Chi biết mặt. Đừng ỷ là con nhà giàu, thi vào trường Gia Long để lên mặt với nó. Con Chi học Gia Long thì nó sẽ học Petrus Ký!
Buổi sáng trời mát trong, tiếng hót của những con chim sẻ đậu trên những cành dầu véo von trong không khí lặng lẽ. Ký ức cúa nó được dịp bỗng bừng trỗi dậy. Hình như tối qua, trời mưa nên trên những cành cây dầu vẫn còn lấp lánh những giọt nước trong veo. Những mảng tường nâu vàng với mái ngói đã ngả màu xám xanh rêu. Rêu bám đầy trên những mái ngói của dãy nhà để xe phía sau sân trường. Những ngọn cỏ mọc xanh rì trên lối đi mà ngày thường nó không bao giờ để ý.
Dũng dựng xe vào dãy nhà để xe của lớp đệ nhất buổi sáng và là của đệ tứ buổi chiều. Dãy nhà để xe được phân chia theo từng lớp. Học sinh lớp nào để xe trong dãy nhà để xe của lớp ấy, không được lẫn lộn. Thằng Dũng tự hỏi “không biết các anh lớp sáng có phải tháo nắp chuông xe đạp và dây thun ràng xe như các lớp chiều tụi nó không?” Nó đã từng mất nhiều nắp chuông xe đạp, dây thun ràng bọt-ba-ga. Học sinh các lớp buổi chiều thường gỡ nắp chuông xe đạp, dây thun của nhau... Ba lớp đệ thất 7, 8, 9 gần nhà để xe. Chuông báo tan giờ học vừa reng xong là tụi nó chạy nháo nhào ra ngay dãy nhà để xe để “địa” thử xem có thằng nào quên không thèm cất nắp chuông hoặc dây thun ràng cặp là tụi nó “dớt” ngay không thương tiếc. Bản thân tụi nó cũng chính là nạn nhân của trò gỡ nắp chuông, dây thun ràng. Bị mất riết chúng nó chỉ có hai cách: gỡ nắp chuông, dây thun ràng cất vào cặp và ăn cắp lại của thằng khác. Dần dần chuyện ăn cắp nắp chuông xe đạp, dây thun ràng trở nên một trò vui của bọn chúng. Phải tự bảo vệ mình và gỡ nắp chuông xe đạp của thằng khác để “sơ cua”. Thằng nào đang gỡ nắp chuông xe đạp mà bị khổ chủ bắt tại trận cũng chỉ nhìn nhau cười trừ chứ chẳng la lối hay hô hoán như bắt ăn trộm. Chúng chỉ xem đây là một trò chơi, thằng nào hên thì không mất mát gì cả còn thằng nào xui do lười, do quên, do không cẩn thận thì đành phải chấp nhận hậu quả thương đau. Trong lớp thằng Dũng, thằng Mai được xem như là trùm đi gỡ nắp chuông xe. Tụi nó không biết thằng nầy đi gỡ lúc nào và bằng cách nào mà có một hôm, đầu giờ học, nó lấy từ trong cặp ra mười mấy nắp chuông xe đạp bày trên bàn giáo sư như triển lãm, rồi cho đứa nào thích chọn cái nắp nào phù hơp với chuông xe mình thì tự nhiên... lấy.
Chuyên mất nắp chuông xe đạp chỉ gây ra phiền toái chứ không đáng ngại. Nếu không có tiếng chuông xe “reng reng” để báo hiệu thì tụi nó vẫn có thể dùng chuông miệng “ê, tránh ra... tránh ra...” hoặc “xe... xe” cũng chẳng chết chóc một ai. Điều thằng Dũng cũng như bọn nó sợ nhất là bị xì vòi bánh xe. Vừa hí ha, hí hửng ôm cặp, chay ra nhà để xe, vặn xong nắp chuông, ràng cặp vào bọt-ba-ga, chuẩn bị dắt xe ra, thì hỡi ơi bánh xe đạp đã xẹp lép. Tụi nó chỉ còn nước dắt xe ra đường Thành Thái để tìm chỗ bơm bánh xe. Để giải quyết chuyện này, mỗi thằng đi học, trong cái cặp của mình ngoài sách vở còn cả cái ống bơm xe đạp tay. Nhiều buổi chiều tan trường, ở khu nhà để xe, nhiều thằng hì hục ngồi bơm xe vã cả mồ hôi. Dầu sao cũng đỡ phải tốn năm cắc bơm xe và dẫn xe đi một quãng đường khá xa.
Đang suy nghĩ miên man, thằng Dũng giật nẩy mình vì có bàn tay đập vào vai mình. Quay lại, nó nhìn thấy một gương mặt cười nham nhở, cầu tài. Không ai khác hơn đó là thằng Thạch. Từ hôm cô Thiên Hương cho hai thằng cùng cấm túc thì thằng Dũng không thèm nói chuyên với thằng Thạch nữa. Riêng thằng Thạch biết lỗi của mình nên nó tìm rất nhiều cơ hội để dàn hòa với thằng Dũng nhưng chưa được. Trong buổi sáng chủ nhật của tháng cuối năm dương lịch, trời trong đẹp, hơi se lạnh thằng Thạch đã tìm ra điểm yếu của thằng Dũng. Nó mở cặp ra, lấy quyển thơ “Lỡ bước sang ngang" của Nguyễn Bính đưa cho thằng Dũng:
- “Tao mới đi nhà sách Khai Trí ngày hôm qua, thấy quyển thơ này mới ra, chắc là hay lắm, tặng cho mày. Hay tàn chi quái đao luôn!”
Thằng Dũng vồ lấy quyển thơ, quên mất là mình đang giận thằng này, lật nhanh vài trang. Nó nghe mùi giấy, mùi mực sao mà gần gũi. Còn mùi thơ thì nó dang dần dần cảm nhận. Nó đọc lướt qua tửng đầu đề bài thơ nhưng sau cùng nó khựng lại khi thấy giòng chữ “tặng em, mối tình của anh”, có cả chữ ký và ngày tháng hết sức nắn nót. Nó đưa trả quyển thơ lại cho thằng Thạch:
- “Đâu phải sách của mầy mua.”
Thằng Thạch gãi gãi đầu:
- “Phải mà. Tao mua hết 10 đồng.”
- “Nhưng tại sao có chữ ký tặng ai ở trong này. Bộ mày định tặng ghệ Trứng vữa của mày, nó không nhận mày đem cho tao phải không?”
- “Mày xem đi, đâu phải tuồng chữ của tao. Có lẽ lúc mua tao không để ý. Mầy biết rồi, tao đâu phải là thằng văn chương thơ phú như mầy đâu. Thấy mầy thích thơ, tao mua cho mày vậy mà. Mầy lấy viết bôi mấy chữ tặng tiếc của thằng nào đó cũng được. Làm như vậy cững đâu có mất giá trị tập thơ đâu.”
- “Mầy không biết gì hết, như vậy nó mất đi giá trị của quyển sách.”
Thằng Thạch bắt đầu cáu:
- “Mầy đọc thơ hay là mầy đọc mấy trang giấy."
- “Nhưng mà mấy trang giấy có thơ để đọc.”
Biết thằng Dũng bây giờ đang nổi chứng gàn, thằng Thạch bèn lấy quyển thơ lại:
- “Tao lấy lại. Hôm nào tao đổi cho mầy cuốn thơ khác.”
- “Thôi cũng được. Nhiều khi đổi lại, mày phải tốn thêm tiền.”
Thực ra, thằng Dũng nghi ngờ rất đúng. Quyển thơ này không phải nó bỏ tiền ra mua như nó nói với thằng Dũng. Sáng nay, chuẩn bị đi vào trường nó thấy quyển thơ này nằm lăn lóc trên chiếc bàn nước của bộ salon. Nhìn quyển thơ là nó biết ngay là của anh Phúc tặng cho chị của nó. Đúng “khứa” này là gà tồ. Bà này đâu có thích thơ phú mà tặng. Bà này có đọc thì đọc Phụ nữ diễn đàn, Phụ nữ ngày mai, mấy tờ tạp chí dành cho mấy con ghệ. Nó nhủ thầm, hôm nào phải “bắt địa” “khứa” này mua cho mình đôi “hia cối” rồi mình chỉ cho “khứa” biết là bả thích gì. Chợt nhớ thằng Dũng khoái thơ thẩn nên nó nhét vô cặp luôn mà quên mất là cần phải kiểm tra lại vì vậy mới bị thằng Dũng phát hiện.
Thằng Thạch đánh thêm một đòn nữa vào yếu huyệt của thằng Dũng:
- “Ê, sáng nay ở rạp Thủ đô có đại nhạc hội hài hước Tùng Lâm, Phi Thoàn, Thanh Việt, có Duy Khánh, Nhật Trường, Minh Hiếu ca nữa. Đi xem hông mậy?”
- “Mấy giờ diễn?”
- “9 giờ sáng.”
- “Thôi bỏ đi tám! Làm sao mà coi. Đang cấm túc mà.”
- “Thì cấm túc nửa chừng rồi cúp cua tiếp.”
- “Thôi. Tao không muốn thêm một cái cấm túc nữa đâu.”
- “Ê, rạp Việt Long mới đổi phim mầy?”
- “Phim gì?”
- “Thầy Đội bắt hippy của thằng cha hề Louis De Funes. Tuần trước tao có xem chiếu thử thì trong phim này có đoạn mấy con ghê hippy ở truồng nguyên con nha mậy. Tàn chi quái đao luôn.”
Thằng Dũng nghe nói phim của Louis De Funes là hỏi tới:
- “Có thiệt là thấy nguyên con không? Tao nghi mầy xạo quá."
- “Thiệt chứ sao không? Tao thấy trong phim thằng Louis De Funes cầm vòi rồng xịt vào đám con gái hippy đang tắm ở truồng ngoài bãi biển. Trưa nay có chiếu xuất 11 giờ. Tao với mày đi coi xuất đó.”
- “Tao mông tại rồi”.
Thằng Thạch móc túi ra tờ 50 đồng:
- “Tao có năm choạc. Đáng lẽ bà chị tao cho tao một bo rồi nhưng bả hối hận hay sao ấy mà sau cũng chỉ cho tao năm choạc.”
- “Mầy cứ bắt địa chị mầy không?”
- “Có chị để làm gì mậy. Tối bả đi chơi về khuya tao canh cửa mở cho bả chứ ông bà bô của tao mà hay được thì bả tiêu.”
Thằng Dũng ngẫm nghĩ “ừ thì có chị là để làm gì ta?”. Nó không có chị nên nó không biết. Chắc có chị cũng khoái lắm, lâu lâu nhõng nhẽo xin tiền đi xem xi-nê là hết sẩy.
- “Ừ, hết cấm túc tụi mình chạy vù ra rạp Việt Long, ở đường Cao Thắng cũng gần mà.”
Hai đứa đi vào lớp thất 9, được dành làm phòng cấm túc các buổi sáng chủ nhật. Từ khi lên đệ tứ, thằng Dũng ít khi xuống dãy này, trừ phi trong giờ học thí nghiệm phải đi xuống phòng thí nghiệm ở cuối dãy. Ở các lớp buổi chiều đây là dãy phòng học của các lớp em út... Đầu tóc lúc nào cũng hớt cao, áo quần, phù hiệu đeo cực kỳ nghiêm túc. Ra chơi thì chỉ chơi toàn những trò ở các lớp tiểu học. Nhưng đối với thằng Thạch thì đây là con đường để nó nhảy rào sang sân vận động Lam Sơn.
Trong phòng cấm túc đã có học sinh bị kỷ luật như tụi nó ngồi rải rác khắp các dãy bàn. Vì không phải là giờ học nên tụi nó cũng ngồi tán gẫu với nhau lia lịa. Trên bàn giáo sư là một thầy giám thị già với đôi kiếng cận thị dầy như đít chai. Hai thằng đến bàn trình diện với thầy giám thị. Thầy giám thị hiền từ nhìn hai thằng hỏi nhẹ nhàng:
- “Hai con tên gì?”
- “Dạ con là Nguyễn Văn Thạch.”
Thầy giám thị nhìn vào danh sách, gạch dấu chéo vào tên nó rồi nói:
- “Nguyễn Văn Thạch lớp tứ 7, bị phạt vì tội cúp cua hai giờ của cô Thiên Hương. Con bị phạt chép câu “Tôi xin hứa là không bao giờ cúp cua nữa”...
- “Thưa thầy chép bao nhiêu câu thầy?”
- “500 câu. Chép xong con nộp cho thầy rồi mới được về. Nhớ là đúng 500 câu.”
Thằng Thạch lè lưỡi. 500 câu! Nó suy nghĩ một trang giấy tập học trò có 23 giòng, như thế nó phải chép khoảng 22 hoặc 23 trang giấy học trò chắc sưng mấy ngón tay hết quá.
- “Thưa thầy, thầy bớt cho con được không thầy. Mấy hôm nay'tay con bị sưng, đau lắm.”
- “Thầy không bớt được cho con vì đấy là ý kiến của cô Hương. Thầy phải làm đúng theo ý cô Hương thôi.”
Thằng Thạch nghĩ trong đầu “sao bà này ác vậy không biết nữa”.
- “Thưa thầy lỡ con chép không đủ 500 câu thì sao?”
- “Ờ, như vậy sáng chủ nhật tuần sau con vào cấm túc tiếp.”
Thấy có vẻ không lay chuyển gì được thầy giám thị già. Nên nó đi ngay xuống bàn học nằm ở cuối lớp, lấy vở ra bắt đầu chép phạt thật lẹ.
- “Thưa thầy, con tên là Lê Hoàng Dũng, tứ 7.”
- “Lê Hoàng Dũng, tứ 7. Cô Hương phạt em tự học bài. Hết giờ cấm túc về.”
Lúc ấy một thằng khác vừa vào, nói tên và thầy giám thị nhìn xuống danh sách:
- “Xem nào, Nguyễn Ngọc Hùng, tứ 5... cô Khải bắt con chép 1.000 lần định lý...”
Thằng Thạch lại lè lưỡi. 1.000 lần. Té ra thì 500 câu chép phạt của nó cũng chẳng nhằm nhò vì với cái thằng bị phạt chép 1.000 lần cái định lý quái quỷ này.
Thằng Dũng mừng rơn. Nó nghĩ đến cái cảnh chép phạt 500 câu mà ớn óc. Nó đi nhanh về dãy bàn phía bên kia, cách bàn của thằng Thạch một dãy. Nó không muốn nghe thằng Thạch nói chuyện để thằng này nhập tâm chép phạt. Thằng Đũng lật quyển thơ “Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính đọc những trang đầu tiên. “Cha, in ở Kim Lai ấn quán, hèn chi chữ sắc nét ghê. Giấy cũng đẹp nữa. In sách như vầy mới là in chứ”. Mặc dầu không phải là thợ sắp chữ nhà in nhưng lại lây thói quen nghề nghiệp của ba nó, việc đầu tiên nhìn vào tờ báo, quyển sách hay bất cứ trang giấy in nào nó cũng nhìn đến nét những con chữ.
Bài báo viết xong được đưa cho thợ typo sắp chữ - được gọi là dân “bắt ruồi” vì những động tác lấy những con chữ chì nhỏ xíu từ trong những cái ô y như động tác bắt ruồi. Sau khi sắp chữ, những bài báo được in trên những trang bản vỗ để cho mấy ông “thầy cò” sửa lỗi chánh tả. Công việc rã chữ in chỉ thực hiện khi bản chữ chi đã được đúc thành bản kẽm đem đi in báo. Từ khi học việc rã chữ in chì ở nhà in Bình Minh đã làm nó quen đến những con chữ trước khi con chữ tải những ý niệm, tình cảm đến tâm hồn nó. Mỗi lần rã một ô chữ, nó để ý thấy những con chữ chì nhỏ xíu bắt đầu mòn dần, nhiều khi mòn đến độ đọc không muốn ra chữ, khiến cho tụi nó nhiều khi phải bỏ nhầm ô. Dù chữ đã mòn nhưng chủ nhà in cũng không chịu thay khiến cho những bài báo chữ nhòe nhoẹt cả. Vừa trả những con chữ vào ô nó vừa nghĩ sau này lớn lên nó sẽ mở một nhà in để in những quyển sách thật đẹp.
Quyển thơ “Lỡ bước sang ngang” của nhà thơ Nguyễn Bính in cỡ to, những bài thơ được sắp “co” chữ 15 sang trọng làm cho nó thích thú. Mấy tờ báo toàn in “co” chữ 10 đọc muốn đui cả mắt, chỉ trừ những cái tít được chạy ba cột, hoặc bốn cột mới được sắp co chữ to. Còn mấy bài thơ sắp chữ như vầy thì đọc sướng biết mấy “nhà nàng ở cạnh nhà tôi. Hai bên cách giậu mồng tơi...” Nhà nó và nhà Xuân Chi đâu có ở cạnh nhau. Nó bắt đầu ngồi mơ màng, thả hồn theo những vẫn thơ của Nguyễn Bính mặc kệ thằng Thạch đang nháy nhó với nó từ phía dãy bàn bên kia.
Ở phía trên, thầy giám thị đang ngồi đọc chăm chú một quyển truyện Pháp ngữ. Có lẽ đọc nhiều mỏi mắt nên thầy đặt quyển sách xuống bàn, nhìn xuống bọn học sinh cắm cúi chép bài. Thầy nhìn những “đứa trẻ” ngồi đây, sau vài năm nữa cũng sẽ ra trường, học đại học và có đứa sẽ trở thành những người có danh giá trong xã hội. Tuổi bọn nó là tuổi phá phách, tuổi muốn chứng tỏ mình với bạn bè. Những đứa phạm lỗi kỷ luật đang ngồi chép phạt hôm nay thì cũng chẳng khác những đứa học sinh phạm những kỷ luật năm, mười năm về trước. Cũng là chuyên cúp cua, bỏ áo ngoài quần, không đeo phù hiệu, mang dép nhựt chứ không mang giầy săngđan. Cũng có, nhưng rất ít khi những đứa bị cấm túc vì không chịu học bài. Chúng phá phách, gần như cố tình chống lại những kỷ luật do nhà trường quy định để chứng tỏ cái tôi của mình. Nhà trường quy định học sinh đi học phải bỏ áo trong quần, đeo phù hiệu, không được để tóc dài. Vậy là có thằng đi học bỏ áo ngoài quần, có thằng để tóc dài như hippy, không đeo phù hiệu... để cho bạn bè thấy mình là ngon lành. Nhựng thật sự, khi bước vào cổng trường nó mặt la, mày lét để nhìn xem bóng dáng các thầy giám thị ở đâu để né. Né không khỏi thì bị cấm túc. Mà khi bị cấm túc thì rất nghiêm chỉnh. ít khi có học sinh bị cấm túc vì chuyện bỏ bê học hành. Học vẫn là điều tụi nó quan tâm trước tiên dù cho là loại học sinh phá phách đến đâu chăng nữa.
Ông nhìn ra ngoài sân lớp. Dãy phòng học nầy mới được xây lên để đáp ứng cho nhu cầu tăng cường số lượng học sinh lớp đệ thất hàng năm. Quá khứ trong ông lại tràn về với hình ảnh một một cậu bé làng quê tỉnh Mỹ Tho lên Sài Gòn trọ học của những năm 40. Mái tóc húi cua vẫn còn vết tích “bảo tàng” của cái đầu ba vá, muổng vùa. Lúc ấy, trường chưa xây hàng rào trước cổng đường Cộng Hòa với một “lãnh thổ” rộng lớn bao gồm tứ giác Cộng Hòa, Thành Thái, Trần Bình Trọng, Nguyễn Hoàng. Khoảng những năm giữa của thập niên 50, phần đất của trường bị cắt xén để thành lập những trường khác như Đại học Sư phạm, nằm ở đường Thành Thái. Cạnh đó ỉà Trung tâm thính thị Anh ngữ trước kia là nhà dành riêng cho Tổng giám thị trường Petrus Ký, hay ba dãy lầu lớn của trường được dành cho Đại học Khoa học và Đại học Sư phạm. Sau này phần đất kế bên được tiếp tục cắt để xây trường Trung Thu dành riêng cho con cảnh sát ở đường Thành Thái và Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục phía đường Trần Bình Trọng, cạnh sân vận động Lam Sơn. Tuy trường càng ngày càng thu hẹp về diện tích nhưng không vì thế mà uy tín của nó kém bớt đi.
Lúc thầy giám thị già còn là cậu học sinh cúa lớp đệ thất tên Tư bỡ ngỡ bước vào ngôi trường rộng lớn uy nghi với hai hàng cây dầu cao mút như vươn tới tận trời là cậu bé đã ước mơ làm... giám thị. Cậu chưa gặp được các thầy các cô nhưng nhìn những thầy giám thị đứng trước cửa ra vào của học sinh với những cặp mắt uy nghiêm như nhắc nhở học sinh phải tuân theo kỷ luật của trường. Mấy anh học trò ỷ mình lớp lớn, áo quần xốc xếch là bị mấy thầy giám thị kêu đứng lại chỉnh sửa quần áo cho tề chỉnh rồi mới được sắp hàng vàọ lớp. Kỷ luật là tiên quyết để học sinh học giỏi. Kỷ luật bằng sự tự giác. Kỷ luật là sự tự hào của người học sinh Petrus Ký. Cậu học sinh tên Tư, tốt nghiệp trường làng Tân Hưng tỉnh Mỹ Tho ghi nhớ trong tâm khảm điều đó cho đến ngày cậu học sinh ấy trở lại làm giám thị của trường.
Những năm ấy, học sinh còn ở chế độ nội trú. Hàng đêm, cậu Tư ngồi trong phòng ôn tập bài vở, nhìn ra sân trường thấy đom đóm bay lập lòe như ma trơi. Là dân nông thôn nên cậu biết cách bắt đom đóm bỏ vào bao vải rồi đem vào phòng. Tối đến, sau chín giờ, trường tắt điện để học sinh ngủ sớm, cậu đã dùng đèn đom đóm không phải làm đèn để học như ông Châu Trí mà để giả ma hù nhát bạn bè. Trong mùa thi, có những thằng làm biếng học như thằng Sinh, thằng Tài... cậu Tư bèn lấy giấy để giữa hai ngón chân rồi đốt khiến cho nạn nhân giật nãy mình, tỉnh ngủ, chửi ỏm tỏi nhưng nhờ vậy mà bọn nó tỉnh ngủ. Mấy thằng làm biếng ngày xưa, bây giờ có thằng đã trở thành giáo sư dạy lại trường này, hoặc làm công chức có hạng của chính quyền.
Mấy thằng làm biếng này, cùng với Tư Mỹ Tho, ngoài giờ học còn tham gia vào một câu lạc bộ học sinh tên Tây gọi là Scholar Club - ai thích văn nghệ thì chơi văn nghệ, ai thích đá banh thì tham gia đá banh. Tư Mỹ Tho, vốn khoái cải lương, nên đem mấy câu vọng cổ thầy đã xem trong tuồng “Mộng Hoa vương” do đào Phùng Há đóng chung với kép Năm Châu hát trong đêm văn nghệ' của Câu lạc bộ. Sau khi
hát xong, một “anh lớn”, dáng người trắng trẻo, hơi gầy, đến bắt tay Tư và nói:
- “Em hát cải lương hay lắm.”
- “Dạ, cám ơn anh. Em tên là Tư.”
- “Còn “qua” tên là Phước, Lưu Hữu Phước.”
Tư Mỹ Tho xúc động:
- “Trời ơi, em nghe danh của anh lâu nay hôm nay mới được diện kiến, hân hạnh... hân hạnh...”
- “Có gì đâu em, cũng là học sinh Petrus Ký mà. Đi đâu chẳng lại gặp nhau.”
Cậu không ngờ anh Phước lại bình dân như thế. Tên tuổi anh được học sinh Petrus Ký đàn em hết sức ngưỡng mộ mà tứ con người anh lại toát ra một vẻ bình dân hết sức gần gũi. Chính anh Phước cùng với hai anh nữa là Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ đã thành lập nên Scholar Club này. Anh Phước cũng là người sáng tác bài hát chính thức của câu lạc bộ, được anh Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp là “La Marche des Étudiants".
- “Quê em ở đâu mà hát vọng cổ hay quá vậy?”
- “Dạ, Mỹ Tho.”
- “Còn” qua” quê ở Cái Răng, ô Môn, cần ThơẾ Em hát được điệu Bình Bán Chấn không?”
- “Dạ, nếu có đờn chắc em mần được vài câu.”
Phước đi lại góc tường, nơi có treo các cây đàn ghi ta, mandolin, ghi ta phím lõm. Lấy cây đàn kìm, anh Phước nói: “Hồi nhỏ, ba “qua” bắt “qua” học đờn kìm, còn nhớ võ vẽ vài câu. Anh em mình thử hòa điệu nghen...”
Phước lên dây đờn, xong đàn dạo vài câu. “Trời ơi, tiếng đờn còn ngọt quá anh ơi” Tư nói như reo. Chờ cho anh Phước dạo vài câu xong, Tư bắt nhịp vào ngay bài Bình bán chấn ‘‘Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Tây về thôn xóm đìu hiu... Cha ngừng tay cuốc lên đàng. Biên khu chiều vắng tiếng chim...’’
Nghe Tư hát đến đây, anh Phước đặt cây đàn kìm xuống giọng bùi ngùi:
- “Em hát nghe buồn quá. Giọng em hay lắm. Em hát tân nhạc được không?”
- “Tân nhạc là gì anh?”
- “Tân nhạc là nhạc cải cách theo Tây phương. Tân nhạc được ký âm theo nhạc pháp Tây phương...”
- “Dạ, em chưa biết.”
- “Nè, để “qua” dạy cho em một vài câu trong bài hát “La Marche des Etudiants” mà “qua” chuyển qua lời Việt là “Tiếng gọi Sinh viên”.
Anh Phước lấy cây đàn mandolin so dây rồi bắt đầu dạo vài nốt:
- “Em hát theo “qua” nghe, “qua” hát một câu rồi em lập lại. Nếu em hát được “qua” mời em vô ban văn nghệ cải cách của Câu lạc bộ.”
Nói xong, Phước bắt giọng theo tiếng đàn măng-đô-lin: “Này sinh viên ơi, quốc gia đến ngày giải phóng...”'
Tư lập lại như cái máy những lời bài hát mà anh Phước dạy. Té ra nhạc cải cách cũng đâu có khó hát. Tư hát say sưa cho đến hết buổi tập ở Câu lạc bộ.
Tư siêng năng lên Câu lạc bộ thường xuyên nhưng thỉnh thoảng mới được gặp anh Phước dạy cho hát vài câu nhạc cải cách chứ không dễ gì gặp được anh Phước thường xuyên. Vì là học sinh năm cuối nên anh Phước tập trung học để thi tốt nghiệp Bac deux . Sau khi nghỉ hè, đầu niên học năm 40, Tư vào trường thì nghe nói anh Phước đã thi đậu và ra Hà Nội học trường Y - dược, thuộc Viện đại học Đông Dương. Thi thoảng, khi sinh hoạt ở Câu lạc bộ, Tư được nghe tin anh Phước sáng tác nhiều bài hát như “Bạch Đằng Giang”, “Ải Chi Lăng”, “Hội nghị Diên Hồng” và những bài hát này được anh em học sinh trong Câu lạc bộ dạy nhau hát trong những buổi cắm trại. Các học sinh các lớp lớn còn kết hợp với nữ sinh trường Áo Tím thực hiện hoạt cảnh lấy từ những ca khúc này của anh Phước hết sức hào hùng. Mỗi lần diễn là được học sinh các trường hô “bis”, “bis” liên tục. Xem anh chị học sinh các lớp lớn diễn mà Tư rợn cả người.
Thầy giám thị Tư nhìn ra sân trường. Thời gian như vó câu! Ông bà ta nói chẳng có sai. Mới ngày nào, thằng học sinh Nguyễn Văn Tư còn lóng ngóng nơi dãy nhà nội trú bây giờ nó ngồi đây với mái tóc bạc, lưng còng xuống và mắt mờ dần. “Thương hải tang điền” - bãi biển hóa nương dâu! Sau vụ học sinh của trường là Trần Văn Ơn, bị bắn chết vào ngày 9/1/1950 khi biểu tình tại dinh thủ hiến Nam phần để đòi trả tự do cho các học sinh đã bị bắt, chế độ nội trú đã bị dẹp bỏ.
Thầy nhớ lại cảnh mình đi theo đoàn biểu tình. Từ trường, thầy đi theo các bạn mình cầm biểu ngữ có chữ “Phải trả ngay các học sinh Petrus Ký bị bắt” đến dinh thủ hiến Trần Văn Hữu tai vườn hoa đường Lagrandière. Càng lúc học sinh các trường tham gia càng đông. Thủ hiến Trần Văn Hữu không chịu tiếp xúc với đại diện học sinh mà, trái lại, còn đưa bọn "mã tà” đến đàn áp. Anh Trần Văn Ơn, khi leo qua rào dinh thủ hiến thì đã bị bọn mã tà bắn chết. Từ đó đến nay, khi nhắc đến trường Petrus Ký không ai lại không biết đến đó là trường của trò Ơn. Học sinh, giáo sư của trường đều hãnh diện khi ngôi trường mình học có học sinh Trần Văn Ơn. Thầy thường nghe giáo sư Lê Quang Vịnh khi dạy học trò thường nhắc đến sự kiện này bằng giọng nói rất hùng hồn. “Truyền thống của trường không thể thiếu tên Trần Văn Ơn vì Trần Văn Ơn và nhiều người vô danh khác nữa đã làm nên truyền thống của trường. Các em là học sinh Petrus Ký không được quên truyền thống của trường Petrus Ký là đào tạo cho đất nước nliững người con sẵn sàng hy sinh thân mình để giành độc lập - tự do cho tổ quốc.” Một thời gian sau, thầy Tư nghe được tin thầy Vịnh đã bị bắt đày đi Côn đảo. Thầy Tư không có gan làm quốc sự của thầy Vịnh nhưng rất khâm phục chí khí của vị giáo sư trẻ người Huế này. Thầy thầm nghĩ “biết đâu tên của thầy Vịnh, sau này, chẳng góp phần làm giàu thêm cho truyền thống của trường”.
Từ khi chế độ nội trú bị dẹp bỏ thì dăy nhà nội trú đã bị đập. Sau này, thầy hiệu trưởng Phạm Văn Còn đã xây dãy nhà để xe cho học sinh khi xây dựng lại cổng trường bằng gạch và cũng lúc cho khắc hai câu đối bằng chữ Hán do thầy Ưng Thiều viết:
“Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt.
Tây Âu khoa học yếu minh tâm".
Sau đó cụ ưng Thiều còn làm bài thơ Đường để ngợi ca trường:
“Trường tôi ở tại lối Nancy,
Trung học đường kia có bản ghi
Mượn hiệu người xưa Trương Vĩnh Ký,
Lẫy lừng danh tiếng đã bao thì"
- “Thưa thầy cho em đi vệ sinh ạ.” Thằng Dũng đang đứng khoanh tay trước bàn thầy nhắc lại. Tiếng xin phép cửa thằng Dũng đã lôi thầy trở về với thực tại.
“ừ, em đi đi.”
Thằng Dũng đi ra khỏi lớp, quẹo qua tay trái, hướng về phòng vệ sinh. Đi ngang phòng vệ sinh nó chun mũi lại. Mỗi lần vào phòng vệ sinh nó phải tự nín thở “không biết phòng vệ sinh sao hôi quá”, thế mà tụi nó vẫn chịu đựng được. Nó đâu có mắc tiểu nhưng vì ngồi trong phòng cấm túc nó cảm thấy tù túng nên xin ra ngoài để đi lên dãy lớp đệ lục, đứng nhìn ra tượng cụ Petrus Ký. Nó nghe mấy thầy kể là khi khánh thành tượng đồng của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký vào năm 1928 thì thống đốc Pháp đã đặt tên trường là trường Petrus Ký thay cho tên trường cũ là Collège de Cochinchine.
Đứng một mình giữa hành lang của lớp đệ lục, nhìn ra khoảng sân trường rộng mênh mông đầy cỏ với những hàng cây điệp không một bóng người bỗng dưng nó cảm thấy nhỏ bé trong không khí trang nghiêm như vậy. Nó chắp tay sau đít, nhìn về phía tượng cụ Petrus Ký và nó tưởng tượng nó là... thầy hiệu trưởng đang nhìn xuống các em học sinh mới nhập học đang đứng trước cột cờ. Oai hết biết! Thầy hiệu trưởng trường bây giờ cũng chính là học sinh Petrus Ký năm xưa. Biết đâu được. Nhưng nó vẫn khoái lớn lên trở thành chủ nhà in hoặc là nhà văn và dạy kim văn, cổ văn như thầy Tạ Ký hay Vũ Ký hơn. Học sinh khoái mấy thầy, không khoái thầy hiệu trưởng nhất là ông tổng giám thị vì chúng sợ.
Bỗng dưng nó nghe tiếng đàn và tiếng hát bài dân ca Trèo lên quán dốc ngồi gốc... í... a... Cây đa...” phát ra từ dãy lầu phía trên. Nó rón rén bước lên lầu. Bài này nó được thầy Nguyễn Hữu Ba dạy năm đệ lục nên nó thuộc lòng. Nó tự hỏi “sao buổi sáng chủ nhật lại có lớp học quốc nhạc trong trường.” Tiếng đàn, tiếng hát càng lúc vang ra càng rõ hơn.
Nó đứng nép ở ngoài cửa lớp nhìn vào. Trong phòng học có tám học sinh, có lẽ ]à học sinh những lớp buổi sáng, đang tập dượt văn nghệ. Nhưng một điều đặc biệt là các học sinh này không đàn ghita điện như thằng Dũng thường thấy các ban kích động nhạc hay sử dụng. Có người thì chơi đàn tranh, đàn nguyệt, có anh thì thổi sáo hay đánh sênh tiền. Thằng Dũng có thể kể tên các nhạc cụ này vanh vách vì nhờ năm đệ lục đã được thầy Nguyễn Hữu Ba dạy trong giờ quốc nhạc. Nó nhớ lại giờ học nhạc với thầy Ba là giờ mà tụi thằng Khải, thằng Ngầu căng thẳng nhất khi thầy Ba kiểm tra môn ký xướng âm.
Thầy Ba, với giọng nói đặc sệt Huế gọi “Khải”. “Dạ”. Khi thằng Khải vừa đứng lên, thầy Ba dùng cây thước chỉ lên một trong bảy nốt nhạc đã được kẻ sẵn trên bảng. Thầy chỉ đến nốt nào là phải đọc được nốt đó ngay lập tức. Thằng Khải và thằng Ngầu đều dở ở môn nhạc lý. Thầy Ba chỉ nốt la, tụi nó đọc si hay đô và ngược lại nên toàn lãnh 4 hay 5 điểm. Riêng thằng Dũng, nhờ biết đàn ghita võ vẽ nên thầy Ba chỉ nốt nào nó đọc nốt đó vanh vách. Lần nào nó cũng lấy 18 -.19 điểm.
Học với thầy Ba rất khoái vì nó thường nghe thầy Ba kể chuyện về âm nhạc hơn là lúc học với thầy Hoàng Lang. Năm đệ thất, tụi nó được biết là sẽ được học nhạc sĩ Hoàng Lang. Vô lớp đứa nào cũng háo hức chờ xem mặt nữ nhạc sĩ Hoàng Lang vì lúc ấy nhiều bài nhạc của nhạc sĩ đã được hát trên radio. Sau một lúc chờ đợi, tụi nó thấy một ông có thân hình mập mạp - có vẻ như là giám thị - đầu húi cua, mặt tròn trịa, xách cặp táp bước vào. Tụi học sinh đứng lên chào ông giám thị mập và nghĩ ‘‘chắc là thầy giám thị vào báo cô Hoàng Lang bận việc không đi dạy được, nghỉ được một giờ nhạc sướng quá”, ông giám thị không đứng nói chuyện mà lại ngồi vào bàn giáo sư và nói:
- “Các em ngồi xuống. Tôi là thầy dạy nhạc của các em...”
Thằng Ngầu láu táu hỏi:
- “Thưa thầy cô Hoàng Lang không dạy được hả thầy?”
- “Tôi là nhạc sĩ Hoàng Lang.”
Cả lớp cười ầm lên. Thầy Hoàng Lang cũng cười.
- “Nào, các em bắt đầu lấy tập ra. Ta phải định nghĩa thế nào là âm nhạc...”
Trong suốt năm học với thầy Hoàng Lang, tụi nó được học bảy hình nốt nhạc Tây phương Đô, rê, mi, fa... mà tụi nó hay nói vui là “Đồ mi là đồ mi phá, ba mi về, tao đố mi la...” rồi giá trị của các nốt một tròn bằng hai trắng, một trắng bằng hai đen, một đen bằng hai móc đơn... cứ như thế mà vẽ sơ đồ đầy cả trang giấy tập học trò. Học nhạc mà tụi nó chẳng được học hát hò gì ráo. Bài hát duy nhất mà tụi nó được học là bài “Hiệu đoàn ca”.
Gần hết cuối năm đệ thất, thầy Hoàng Lang nói như tâm tình:
- “Là học sinh Petrus Ký các em phải biết bài hát này. Bài hát này do chính một học sinh của trường tên là Hòa Việt sáng tác năm 1957. Mấy em nhớ chép lời và nhạc cho kỹ rồi tôi sẽ dạy các em hát sau”.
Nói xong, tự tay thầy Hoàng Lang nắn nót chép lên bảng lời bài hát:
- “Đoàn học sinh hương danh Trương Vĩnh Ký, chúng ta nguyền xây nước Việt ngày mai. Là tài trai phong ba bão táp coi thường, học gương vĩ nhân, cương quyết nung can trường. Giờ lập chí mai ra đời giúp ích cho toàn dân, sao non sông danh vang lừng khắp quốc lân. Xưa tiên nhân ta đã bao ỉần cứu ỉấy sơn hà. Lớp thiếu sinh nay đâu ngại đường xa..."
Sau đó, thầy Hoàng Lang lấy cây đàn măngđôlin bắt giọng dạy cho cả lớp hát. Bài hát trầm hùng, theo điệu hành khúc. Mỗi lần cất giọng hát lên Dũng rợn cả da gà ở hai cánh tay... “Mai đây cùng xây nước nhà Việt Nam. Vì nhân dân vì tổ quốc hy sinh cho đất nước Lạc Hồng...”
Bài “Hiệu đoàn ca “này thường được hát khi tụi nó đi diễn hành trong những ngày hội thể thao liên trường hoặc trong những dịp lễ lớn. Sau này, tụi nó nghe thầy Nguyễn Hữu Ba kể lại là thầy Hoàng Lang đã tự bỏ bài “Khúc hát lên đường” do chính thầy sáng tác để chọn bài của một học sinh Hòa Việt - một trong hai bài hát dự thi sáng tác hiệu đoàn ca - làm bài hát chính thức trong ngày đồng diễn thể dục liên trường năm 1957. Thầy Ba nhận xét “như vậy mới đúng là người nghệ sĩ và người thầy chứ".
Vậy mà những giờ học đầu tiên tụi nó chỉ nhìn thầy Hoàng Lang như một ông mập, một ông thầu khoán, có cái đầu húi cua không có vẻ gì là nghệ sĩ hết. Đối với tụi thằng Dũng, nghệ sĩ phải là những người để tóc dài như tứ quái Beatles hoặc ốm nhom ốm nhách như mấy nhà thơ sầu mộng thường đăng hình trên các báo.
Khi lên niên học đệ lục, tụi nó khoái nhạc sư quốc nhạc Nguyễn Hữu Ba liền. Mỗi khi thầy đi dạy, thầy mang theo cây đàn violon nhỏ để cho tụi nó tập nghe cao độ của các nốt nhạc. Ngoài những giờ học nhạc lý, học đánh nhịp thầy Ba còn dạy tụi nó hát dân ca. “Là người Việt Nam. Là học sinh Petrus Ký các em phải biết hát dân ca. Dân ca là bài hát của dân tộc, của một đất nước. Tây có dân ca của Tây, Mỹ có dân ca của Mỹ, Việt Nam có dân ca Việt Nam...” Thầy Ba, người Huế, nói giọng Huế trọ trẹ, tụi nó nghe, thoạt đầu tiếng được tiếng mất. Nhưng khi thầy dạy hát Lý cây đa - "trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây đa", “chồng chài là chài vợ lưới, vợ lưới dô, dô khoan dô hầy..." thì đứa nào cũng nghe được giọng của thầy rất là rõ ràng. Trước khi hát một câu, thầy lại kéo đàn violon trước để tụi nó có thể nghe được cao độ và trường độ của từng nốt nhạc.
Thầy Ba thường sử dụng violon vì thầy cho rằng violon là “vua của các nhạc cụ phương Tây”, nhưng khi nói về nhạc cụ Việt Nam thì thầy lại càng hào hứng hơn hết, nhất là khi thầy nói về cây đàn bầu. Một hôm, vừa vào giờ học quốc nhạc thì thằng Dũng thấy trên bàn giáo sư có một cây đàn rất lạ mà tụi trong lớp nó hình như chưa đứa nào thấy. Cây đàn chỉ có một dây, phía đầu có một cái cán hơi cong cong, dẻo có gắn phân nửa trái bầu. Khi thầy Ba vào lớp, thay vì dùng cây đàn violon thường ngày để dạy bọn nó hát dân ca thì thầy lấy trong cặp ra một cái dùi nhỏ móc móc nhẹ vào sợi dây đàn độc nhất của cây đàn độc đáo kia. Hôm đó thầy Ba dạy bọn nó hát bài “Trống cơm”. Thầy say sưa móc dây đàn còn tụi nó thì hát theo “tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ ố mấy bong nên bong, ố mấy bong nên bong. Một đàn tang tình con nít...”. Dạy xong thầy Ba mới nói về cây đàn.
- “Sở dĩ cây đàn này được gọi là đàn bầu vì ngay đầu cần phím có nửa trái bầu như các em đã thấy. Đàn bầu còn được gọi là đàn độc huyền vì nó chỉ có một dây. Chỉ một dây như vậy thôi chứ âm vực của nó rộng đến 3 quãng tám. Năm 1949, một nhạc sư Việt Nam tên Trần Văn Khê đã chiếm giải nhất khi giới thiệu cây đàn bầu trong một liên hoan nhạc cụ dân tộc trong Đại hội thanh niên Budapest. Nhờ đó thế giới rất khâm phục cây đàn độc đáo của Việt Nam...”
Lúc ấy, tiếng máy bay bay ngang trên bầu trời. Thầy phải ngưng nói một chút vì đang ồn bởi tiếng máy bay. Sau đó, thầy Ba chỉ lên trời cười nói châm biếm “đồng minh, đồng minh phá hoại..” rồi thầy cười và tiếp tục bài giảng:
- “Các em biết nhạc sư Trần Văn Khê là người Mỹ Tho nhưng là học sinh trường nào không?”
Hỏi xong, không đợi tụi nó trả lởi, có lẽ vì thầy Ba biết là tụi nó không thể trả lởi được câu hỏi này đành tiếp luôn:
- “Nhạc sư Trần Văn Khê là học sinh Petrus Ký đó”.
Tụi nó khoái quá, vỗ tay rần rần. Lâu lâu cả lớp có một giờ vui và tự hào quá thể. Tự hào vì một cây đàn Việt Nam được thế giới biết đến. Tự hào vì nhạc sư Trần Văn Khê - người giới thiệu cây đàn Việt Nam với giới âm nhạc quốc tế lại là một học sinh Petrus Ký.
Thấy bọn học sinh đang hào hứng thầy Ba tiếp “Các em có biết câu ca dao nào liên quan đến cây đàn bầu không?” Trúng tủ, thằng Dũng giơ tay: “Dạ, Đàn bầu ai gãy mà nghe. Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu.”
- “Giỏi. Em có thể giải thích được không?”
- “Dạ, chắc là con gái nghe đàn bầu chắc bị có bầu hả thầy?” Lại có một trận cười nổ ra trong lớp. “há há... nghe đàn bầu có bầu.”
Thầy Ba gật gù:
- “Mặt nào đó cũng gần gần như vậy.”
Thằng Chương giơ tay:
- “Thưa thầy, theo em biết thì câu ca dao này có hai nghĩa nhưng chưa biết nghĩa nào là đúng. Một nghĩa có ý cho rằng khi mà con gái nghe đàn bầu vì đàn bầu hay quá thì khoái cái anh đàn bầu nên bỏ nhà đi theo anh này. Còn nghĩa thứ hai thì cho rằng tiếng đàn bầu nghe buồn quá, buồn thê thảm mà con gái mà nghe thì số phận sẽ bị tiếng đàn bầu ám vào người cũng buồn thê thảm theo...”
- “Giỏi. Cho trò 18 điểm.”
Chương văn nghệ quay sang nhìn Dũng với cặp mắt tự đắc. Thằng Thuật buột miệng:
- “Thì nghĩa nào trước sau cũng có bầu hết. Thầy ơi có chỗ nào dạy đàn bầu hông cho em đi học với.”
Thầy Ba tưởng thằng Thuật nói thật nên trả lời:
- “Em phải thi vào trường Quốc gia Âm nhạc môn quốc nhạc. Hiện thời trong trường mình có mở lớp dạy nhạc cụ dân nhạc, các em nào có thích học gặp trò Trang. Trò ấy đang là nhạc sinh của trường Quốc gia Âm nhạc sẽ hướng dẫn cho các em.” Thằng Chương đứng dậy hỏi liền:
- “Anh Trang dạy những gì thầy?”
- “Trang sẽ hướng dẫn cho các em cách thức thi vào trường Quốc gia Âm nhạc.”
Chương là một học sinh rất mê đàn hát. Trong giờ quốc nhạc của thầy Ba nó là đứa luôn luôn được điểm cao về nhạc lý và hát dân ca.
Thầy Ba ngưng chuyện đàn bầu, nói tiếp về nhạc sư Trần Văn Khê:
- “Nhạc sư Trần văn Khê hiện có một người em đang ở Sài Gòn là nhạc sĩ Trần Văn Trạch...”
Thằng Chương muốn chứng tỏ sự hiểu biết của mình bèn nói leo:
- “Dạ, có phải Trần Văn Trạch té cái ạch lòi cục gạch đó không thầy?
Thầy Ba chưa trả lời thì bỗng dưng có tiếng hát mà tụi nó thường được nghe khi bắt đầu chương trình giờ xổ số Kiến thiết quốc gia. Đứa nào cũng biết tiếng hát đó đích thị là tiếng hát của quái kiệt Trần Văn Trạch thường vang lên lúc 3 giờ mỗi chiều thứ ba hàng tuần từ đài phát thanh Sài Gòn, là nhạc hiệu của chương trình xổ số: “xổ số kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta dựng xây cửa nhà... chỉ 10 đồng thôi... Xổ số mau lên, xổ số gần tới...”
Tụi nó quay xuống cuối lớp nhìn. Té ra giọng hát của quái kiệt Trần Văn Trạch mà tụi nó vừa nghe được lại là giọng hát của thằng Mai. Thằng này có biệt tài là nhái giọng hát của các nghệ sĩ cải lương, tân nhạc rất giống. Thầy Ba hỏi “Trò nào hát vậy, đứng lên thầy coi.”
Thằng Mai đứng lên. Thầy Ba hỏi “Con còn biết hát bài gì nữa?”
Nó không trả lời thầy mà nhắm mắt, tập trung tư tưởng sau đó cất giọng. Một giọng nam trầm, giọng Huế mà tụi nó thường nghe “Nhớ tới ngày qua, vang trong rừng xa, dân Nam hò reo, tiếng thét diệt thù...” Tiếng vỗ tay trong lớp vang lên cùng tiếng cười. Thầy Ba cũng cười ngặt nghẽo. Té ra là thằng Mai đang giả giọng thầy Ba hát bài Thu khói lửa do chính thầy sáng tác.
Sau đó nó lại chuyển qua giọng của Hùng Cường trong đoạn đầu của bài “Ông lái đò” của Hiếu Nghĩa “...Có một chiều trên bến nước, ông ỉái đò ngồi đợi khách sang sông..." vừa hát tới đó, nó chuyển tông qua giọng út Trà Ôn trong bài “Ông lái đò” của soạn giả cải lương Viễn Châu: Còn tiền mua lấy vài chai rượu, uống rượu xong rồi lão nói thơ... Lênh đênh trời rộng sông dài..."
Khỏi phải nói là mấy đứa học sinh nhân dịp này, vỗ tay huýt sáo như đang coi hát trong rạp. Còn thầy Ba thì gật gù: “Răng mà trò tài rứa, tài rứa.”
Chờ cho tụi nó im lặng trở lại, thầy Ba nói:
- “Hôm nay thầy sẽ dạy cho các em biết một bài hát của một nhạc sĩ nổi tiếng, cũng là một học sinh trường ta...”
- “Nhạc sĩ nào vậy thầy?”
- “Phải nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương không thầy?”
- “Nào, các em im nào. Thầy dạy các em bài hát Bạch Đằng giang của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.”
Sau khi thằng Tuấn trưởng lớp chép lời bài hát lên bản xong, thầy Ba bắt đầu kéo đàn violon, dạy tụi nó từng câu. Trước khi dạy, thầy Ba nói:
- “Các em phải học bài này cho kỹ. Cuối năm thi lấy điểm lục cá nguyệt tôi sẽ cho các em thi hát bài này...”
Tụi nó nghe nói bài hát này sẽ là bài thi lục cá nguyệt cuối năm nên thằng nào cũng lo học, kể cả những thằng dốt về ca hát như thằng Ngầu, Khải...” Cơ bản, chỉ cần nhớ hết lời bài hát là được.
“Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, Nam Bắc Trung. Trên trời cao, muôn sắc đua chen bóng ô, dưới đáy giòng nước..."
Nhờ thầy Ba “hăm dọa” như vậy nên thằng nào cũng hát được bài này và thuộc lời bài hát như cháo. Tụi nó học với thầy Ba hết năm đệ lục, sang năm đệ ngũ không còn được học nhạc nữa vì trong chương trình học của trường học sinh được học nhạc chỉ trong hai lớp đệ thất và đệ lục. Mấy thằng Khải, Thạch, Ngầu... mừng muốn chết. Mặc dù vậy, mỗi khi bắt đầu một trận đá banh thì tụi nó đều hát bài “Bạch Đằng Giang” ngon lành, đầy khí thế để lấy tinh thần xung trận. Chỉ riêng thằng Chương vẫn còn theo học lớp quốc nhạc riêng với thầy tại trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ.
Chính vì vậy, sáng nay nó gặp thằng Chương văn nghệ. Hình như ban văn nghệ này của toàn trường hay sao mà thằng Dũng thấy có một vài anh lớn chơi đàn tranh, bầu, tỳ bà, thổi sáo, riêng thằng Chương thì chơi đàn nguyệt. Trông tướng nó ngồi đàn thằng Dũng muốn bật cười “y như mấy ông ngồi đàn trong giàn bát cấu của các đám ma.”
Đang ngồi đàn thấy thằng Dũng lấp ló ngoài cửa lớp, thằng Chương bèn ngừng đàn và đi ra. Thằng Dũng hỏi một câu hỏi có tính cách tu từ:
- “Mầy đang học quốc nhạc hả?”
Thằng Chựơng nói với vẻ tự hào:
- “Không. Tụi tao đang tập văn nghệ để tham gia chương trình văn nghệ liên trường chào mừng Cây mùa xuân tổ chức cuối tháng này tại trường Đại học Sư phạm.”
- “Liên trường?”
- “Ừ, thì có Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Mạc Đĩnh Chi, Trung Thu, Cao Thắng, Võ Trường Toản... Mỗi trường một tiết mục.”
- “Trường mình dự thi với tiết mục gì vậy?”
- “Tụi mình chỉ trình diễn dân ca thôi với liên khúc Lý cây đa, Thầy bói sờ voi và Trống cơm.”
- “Ai hướng dẫn tụi bây tập vậy?”
- “Anh Trang, học trò quốc nhạc của thầy Ba đó. Tao cũng theo học ảnh lâu rồi. Trong nhóm này có mấy anh đệ nhứt, đệ nhị như anh Phước Kiệt, Duy Anh cũng đang học ở Quốc gia Âm nhạc. Mình phải diễn dân ca mới lạ chứ bọn Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi.. Bắt chước mấy ban kích động nhạc Beatles, The Monkees, Venture... hát nhạc Mỹ... lai căng, mất gốc lắm..”
- “Nhưng học sinh lại khoái...”
- “Tại học sinh mấy trường đó không có được học quốc nhạc như học sinh trường mình... À, quên nữa bữa nay mầy đi cấm túc với thằng Thạch hả?”
- “Ừ. Số tao xui. Tự nhiên cái bị cấm túc.”
- “Quên nữa. Trong tiết mục Thầy bói sờ voi tụi tao cần người đóng vai thầy bói. Mầy làm ông thầy bói nha.”
Dũng lắc đầu, giẫy nẩy:
- “Tao đâu có đóng được, ờ, mầy nhờ thằng Mai đi.”
- “Nó chịu rồi. Nhưng bài hát có năm ông thầy bói, mới có 4 ông hà, thiếu một ông nữa. Dễ ẹt hà, mầy cứ chống gậỵ đi lòng vòng, lòng vòng thôi.”
- “Tập mấy buổi?”
- “Chừng một buổi. Có lẽ chủ nhật tuần sau. Có gì tao báo cho mầy.”
Dũng ngần ngừ:
- “Ừ, thôi cũng được. Nhưng đừng khó qua nghe. Thôi tao vô phòng cấm túc trở lại. Lâu quá. Sợ thầy giám thị nghi ngờ."
Thằng Chương quay trở lại tập văn nghệ, còn thằng Dũng lon ton trở về phòng cấm túc, ngồi đọc quyển thơ của Nguyễn Bính chờ hết giờ. Thằng Thạch thấy thằng Dũng trở về lớp, mừng hết lớn, nháy mắt nhấm nhó với nó. Sau đó, nó nhờ mấy thằng ngồi phía sau chuyển cho thằng Dũng miếng giấy với mấy giòng chữ: “Mầy viết giùm tao 100 câu “Tôi không cúp cua trong giờ học” đi. Tao chép gần xụi cả tay mà mới được có 300 câu, tao sợ không kịp giờ xem phim quá...” Thằng Dũng thấy thằng thằng Thạch thuyết phục có lý. Nếu thằng này chép đủ số câu bị phạt thì sẽ được về sớm để còn xem phim của Louis De Funes nữa chứ. Thằng Thạch đã hứa là bao nó xem phim mà. Nghĩ thế, thằng Dũng nhìn thằng Thạch gật đầu, sau đó lấy giấy ra chép phạt. Nó cố tình nhại giống chữ viết của thằng Thạch để thầy giám thị không nhận ra. Khoảng nửa tiếng sau, thằng Dũng đã viết xong giùm nó 100 câu chép phạt. Nó nhờ mấy thằng ngồi cạnh bên chuyển giùm cho thằng Thạch.
Thằng Thạch hí ha, hí hửng gom một xấp giấy viết đầy những câu chép phạt và đi lên bàn thầy giám thị. Mấy thằng ngồi cấm túc, đang cắm cúi chép phạt - có cả những anh lớp lớn hơn - nhìn nó với cặp mắt ngạc nhiên và thán phục như nhìn những đứa trong giờ thi mà nộp bài sớm nhất. Trong giờ thi thì chỉ có hai trường hợp: hoặc là quá giỏi nên giải bài nhanh như thế, hoặc là quá dở, không biết làm bài nên nộp đại cho xong để về sớm. Riêng trong trường hợp cấm túc này thì chỉ có duy nhất một trường hợp là nó chép phạt quá nhanh chứ không thể ăn gian được vì thầy giám thị sẽ kiểm soát bài nộp phạt.
Thằng Thạch nộp cho thầy giám thị những tờ giấy chép phạt và nói:
- “Thưa thầy, xin thầy cho em về sớm để vào chẩn y viện thăm má em đang nằm bị bệnh.”
Thầy giám thị lật sơ qua những trang giấy nó nộp, thấy chi chít những chữ nên gật đầu “Được. Nhưng nhớ là không được cúp cua trong giờ học nữa nghen. Năm đệ tứ là năm khó để chuẩn bị lên đệ tam đó, nếu các em không ráng học thì không lên nổi đệ tam đâu.”
- “Dạ. Thưa thầy, thầy cho phép thằng bạn em củng về. Thằng Dũng, nó không phải chép phạt.”
- “Tại sao trò xin cho trò Dũng cùng về”
- “Dạ, tại vì em không có xe nên nhờ nó chở em đi ạ”
- “Thôi, được. Ráng về sớm, xem má trò bớt bệnh chưa. Nhớ đừng đi chơi.”
- “Dạ.”
Nó quay xuống lớp nhìn thằng Dũng, nháy mắt ra hiệu cho thằng Dũng cùng về. Hai đứa bước tung tăng ra khỏi lớp. Đã hơn 10 giờ, trời hửng nắng đẹp. Cả hai đứa bước về dãy nhà để xe. Nhìn những chiếc xe đạp của mấy thằng bị cấm túc để rải rác, thằng Thạch chép miệng:
- “Trời ơi, nắp chuông với dây thun ràng xe đạp nhiều quá trời mậy.”
Thằng Dũng can:
- “Thôi mầy ơi, coi chừng bị giám thị bắt, hoặc tụi lớp lớn đánh bây giờ. Đi cho lẹ, không kịp giờ xem phim.”
Thằng Thạch nhìn các nắp chuông xe đạp với vẻ tiếc rẻ. Nếu là giờ tan học buổi chiều thì những cái nắp chuông xe đạp dễ thương này đã nằm trong cặp của nó.
Vừa dẫn xe đạp ra khỏi nhà để xe, thằng Dũng thấy thằng Mai đang đứng dưới gốc cây dầu như có vẻ đợi ai. Thằng Thạch gặp thằng Mai giơ tay chào:
- “Cám ơn mày nghe. Giờ tụi mình đi xi-nê.”
Thấy thằng Dũng ngơ ngác, có vẻ như không hiểu từ đâu mà thằng Mai xuất hiện, thằng Thạch giải thích:
- “Tao nhờ nó sáng nay vào chép bài phạt giùm rồi tao bao nó đi xi nê. Nó cũng thích thằng cha hề Pháp này lắm.”
- “Nhưng tao đâu có thấy nó ngồi trong lớp đâu” thằng Dũng vẫn còn ngạc nhiên.
- “Nó đâu có ngồi trong lớp. Tao đưa cho nó câu chép phạt rồi nó ra nhà xe ngồi chép. Nó chép xong, chuyển bài chép phạt lại cho tao.”
- “Nó chép bao nhiêu câu?"
- “200 câu.”
- “Như vậy mày chép chỉ có 200 câu thôi sao?”
- “Tao đâu chép tới 200 câu. Tao chép chừng hơn 100 câu thôi.”
- “Như vậy làm sao đủ 500 câu được?”
- “Mầy khờ dễ sợ. Tao nhảy số thứ tự. Thí dụ như chép đến câu 59 thay vì đến câu 60 thì tao đánh số thứ tự là 69. Ăn gian được mấy câu rồi cứ thế mà làm.”
- “Lỡ thầy giám thị biết được thì sao mậy?” Thằng Dũng lo lắng hỏi.
- “Làm sao mà biết được, ổng đâu có ngồi đếm từng câu đâu.”
Thằng Mai không nói gì, nó chỉ lững thững nhìn những con chim sẻ đang đậu trên những cành cây dầu hót líu lo. Nó nghe tiếng chim sẻ thật cẩn thận rồi khẽ huýt gió theo, cố gắng nhái sao cho thật giống tiếng loại chim này. Nó không tận hưởng thú nghe tiếng chim mà đang cố gắng tập hót giống tiếng chim. Biết đâu được, sau này có những tiết mục mà nó phải cần đến tiếng chim. Thằng Thạch chọc nó: “Mầy để ông Trần Văn Trạch sống với. Ổng chỉ có mấy tiết mục nhái tiếng xe lửa, chó sủa, heo kêu, gà gáy để trình diễn đại nhạc hội. Mầy mà trình diễn nữa thì làm sao ổng sống.”
- “Tao chỉ ước mơ làm học trò của ổng thôi. Chỉ bằng một phần 10 cũng được.”
- “Thôi, đi lè lẹ tụi bây, sắp tới giờ chiếu phim rồi.”
Ba thằng nhảy lên xe, đạp lút ga tới rạp chiếu bóng Việt Long ở đường Cao Thắng. Thời may, rạp cũng gần, tụi nó chỉ cần vòng qua bùng binh, đạp xe ra đường Hồng Thập Tự, đến Cao Thắng rẽ trái là rạp Việt Long. Gửi xe đạp xong, thằng Thạch ung dung đi đến phòng bán vé mua ba vé hết ba chục đồng. Xong nó đi ra xe bán bánh mì mua ba khúc bánh mì thịt.
Người đứng bán xe bánh mì là một cô bé trạc tuổi nó, tóc thắt bính với hai má bầu bĩnh, trán đang lấm tấm mồ hôi vì cái nắng ban trưa. Cô bé xắt miếng thịt luộc thật mỏng rất điệu nghệ. Vừa nhìn cô bé xắt thịt bỗng dưng thằng Thạch thấy thèm.
- “Anh là học sinh trường Petrus Ký?”
Nó ngạc nhiên không hiểu sao vừa nhìn nó là biết ngay nó là học sinh trường Petrus Ký, không lẽ giữa bánh mì thịt và học sinh Petrus Ký có liên quan với nhau sao? Nó hỏi:
- “Bộ học sinh Petrus Ký hay ăn bánh mì thịt lắm hả?”
Cô bé cười với hai má lúm đồng tiền:
- “Không phải, tui thấy anh đeo phù hiệu.”
Thằng Thạch ngó xuống túi áo. Phải rồi vì hôm nay phải vào trường cấm túc nên nó mới mặc cái áo có đeo phù hiệu này chứ ngày thường đi chơi nó phải mặc áo cánh dơi hippy chứ mặc áo học sinh là quê lắm. Nhưng hôm nay lại khác. Nhờ mặc áo có mang phù hiệu trường Petrus Ký nên được em bán bánh mì thịt để ý ngay.
Nó cười thật tươi hết cỡ mà nó có thể, sau đó, khi trả tiền bánh mì nó cố ý đưa tờ 100 để làm oai với cô bé, mặc dù tờ 100 này là tiền của chị nó nhờ nó đi mua giùm cái dĩa hát sến ra nước của ca sĩ Nhật Trường. Cô bé kéo tủ tiền ra và nhìn vào số tiền trong tủ rồi nói:
- “Tui mới ra bán nên không có tiền lẻ anh ơi...”
- “Ờ ờ, để tui tìm thử coi có tiền lẻ không.”
Nó làm bộ móc tiền trong đủ các túi, móc ra ba chục đồng tiền lẻ đưa cho cô bé bán bánh mì.
- “Cám ơn anh. Khi nào mua bánh mì nhớ lại mua giùm... nghen.”
Giọng con bé bán bánh mì nghe ngọt xớt. Thằng Thạch định đứng tán hươu tán vượn một chút nhưng từ đàng xa thằng Dũng và Mai gọi nó đi vào rạp vì sắp đến giờ chiếu phim.
Thằng Thạch chần chừ cầm ba ổ bánh mì đi vào rạp. Hai thằng kia nhăn nhó, vì đói bụng, vừa thấy nó cầm bánh mì vào là chụp liền. Thằng Thạch biết thân phận nó bây giờ là phải chiều chuộng hai thằng bạn đã có công giúp đỡ nó chép phạt trong buổi cấm túc nên không dám phản đối. Nhưng thằng Thạch còn tiếc rẻ và ấm ức vì nó chưa hỏi được tên cũng như trường học của cô bé bán bánh mì. Nó đoán chừng nhà cô cũng gần đâu đây, chắc là học sinh trường Trường Sơn ở Lê Văn Duyệt, cạnh rạp Nam Quang hay trường Tân Văn gì đó. “Thôi, để tính sau, bây giờ xem phim cái đã. Cứ ra mua bánh mì là biết ngay mà.” Nó tự nhủ với lòng như vậy. Nó thấy cô bé này dễ thương hơn cô bé ở trường Trưng Vương vừa mập, vừa nói nhiều.
Rạp Việt Long - được quảng cáo là rạp chiếu phim thường trực, có máy lạnh, nhưng ba thằng nó thấy nóng muốn đổ cả mồ hôi. Thằng Dũng cằn nhằn:
- “Thua rạp Rex xa. Vô rạp Rex y như đi lên Bắc Cực. Lạnh thấy mẹ luôn.”
Thằng Thạch vì còn ấm ức cái vụ con nhỏ bán bánh mì nên nổi nóng:
- “Rạp này còn thua rạp Rex về tiền vé vô cửa nữa. Rạp này chỉ có 10 đồng còn rạp Rex tới 15 đồng lận tía non.”
Vì là rạp chiếu thường trực nên khán giả nào vào trước thì có quyền chọn ghế còn trống để ngồi. Ba thằng chọn ba cái ghế hàng cuối, ngồi gần cửa ra vào. Vừa ăn hết khúc bánh mì thì đèn tắt, bắt đầu chiếu mấy cái quảng cáo Kem đánh răng Perlon, Hynos - Chà Và đen. Xem quảng cáo còn vui hơn xem phim thời sự, toàn những cái phim cũ rích, mờ câm. Bây giờ còn đỡ hơn lúc thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước khi xem phim phải đứng dậy chào cờ có hình ông Ngô Đình Diệm nằm chính giữa với bài hát suy tôn với câu “Ngô tổng thống, Ngô tổng thống muôn năm” mà tụi nó hát trại đi là “Tô hủ tíu, tô hủ tíu muôn năm. Toàn dân Việt Nam, muốn ăn tô hủ tíu. Tô hủ tíu năm đồng...’’, cái vụ chào cờ này làm thằng Dũng có một thắc mắc khi nó nghe mấy anh lớn trong xóm nó đi xem phim nói “Phải coi giữa phim mới đứng dậy chào cờ được. Chưa tắt đèn chiếu phim làm sao mà chào cờ.” Đợi đến khi dậy thì, nhổ giò nó mới hiểu được cái vụ chào cờ khi đi xem phim của mấy ảnh. Sau phim quảng cáo, và giới thiệu những phim sẽ chiếu trong thời gian tới, rạp bắt đầu chiếu phim chính. Không hiểu sao tiếng vỗ tay trong rạp lại vang lên như khi đang đi xem cải lương. Tất nhiên là không thể thiếu tiếng thổi hoét hoét. Phim mới bắt đầu vào đoạn chính mà đã nghe tiếng cười vang của đám khán giả tụi nó, những tín đồ của vua hài Pháp Louis De Funes - kẻ đã theo sau chân Charlot, cặp mập ốm Laurel và Hardy hay anh hề mặt ngựa Jerry Lewis. Trong đám tụi nó, say mê nhất vẫn là thằng Mai. Nó khác hai thằng Thạch và Dũng ở chỗ tụi nó chỉ xem cốt chuyện phim xảy ra thế nào để cười, còn thằng Mai xem phim để tìm hiểu xem cách nào ông hề này làm cho người ta cười. Nó muốn được như ông ta làm cho người ta cười.
Đang xem phim thằng Dũng chợt nghe tiếng hôn “chụt, chụt” từ hàng ghế trên. Rồi nó nghe tiếng con gái nói nho nhỏ “kỳ quá anh...” Thằng Dũng khều khều thằng Thạch. Thằng Thạch hiểu ý, nó ngồi dậy, hơi thẳng lưng, để có thể nhìn thấy những người ngồi ở hàng ghế đầu đang làm gì. Thằng Dũng kéo tay thằng Thạch ra dấu hiệu ngồi xuống và xem phim nhưng thằng Thạch vẫn nhũi cái đầu tới trước để nhìn. Thằng Dũng biết là thằng Thạch là thằng khoái rình xem những cảnh mùi mẫn trong rạp hát và công viên lắm bởi vì thằng Dũng đã từng là “đồng lõa” với nó do tò mò.
Dũng chợt nhớ lại cảm giác mà nó đã từng có khi đi “xem phim ngoài trời” với thằng Thạch.
Một hôm, trong đầu giờ học, thằng Thạch nói với nó: “Chiều nay, tan học xong mầy đi theo tao, tao sẽ bao cho mầy xem phim không tốn tiền.”
- “Phim gì vậy?”
- “Bí mật. Nhưng vô cùng hấp dẫn. Chỉ có hai tài tử đóng thôi. Vô cùng cụp lạc.”
- “Rạp nào chiếu vậy?”
- “Công viên Văn Lang, ngay đường rầy xe lửa chạy ngang nhà thờ Ngã Sáu.”
- “Công viên Văn Lang nằm ngay đường Hồng Bàng đó hả?”
- “Ừ, xéo xéo trường Chu Văn An.”
- “Bộ chiếu phim miễn phí ngoài công viên hả?”
- “Ừ hoàn toàn miễn phí.”
- “Như vậy tụi học sinh Chu Văn An sướng thiệt hé, được coi phim không tốn tiền.”
- “Chắc coi riết tụi nó chán.” Rồi nó nói thêm, mập mờ: “Chán rồi nó làm tài tử đóng phim luôn.”
Nghe nói xem phim miễn phí thằng Dũng khoái chí. Công viên Văn Lang nằm trên đường về nhà nó cũng tiện đường. Xem phim chừng nửa tiếng, xong là về nhà được rồi. Cứ ngồi nghĩ đến chuyện xem phim hấp dẫn, thằng Dũng nhấp nha, nhấp nhổm, cứ chờ tiếng chuông reo hết giờ học.
Khỏi phải nói là sau khi ra khỏi trường, hai thằng cắm đầu cắm cổ đạp xe phóng vù vù từ đường Hùng Vương chạy về công viên Văn Lang. Công viên buổi chiều vắng lặng. Thỉnh thoảng có một vài người đi bộ vòng vòng công viên. Một hai ông già đang ngồi chơi cở trên cái bàn đá. Thằng Thạch dựng xe đạp rồi ngồi xuống ghế đá. Thấy công viên vắng hoe, không có cảnh chộn rộn của một buổi chiếu phim ngoài trời, thằng Dũng hỏi:
- “Ủa, có chiếu phim không, sao vắng hoe vậy?”
- “Còn sớm, chưa tới giờ chiếu phim.”
Một cặp nam nữ trên chiếc Mobylette đen chạy vào phía góc trong cùng của công viên. Thằng Thạch nhìn theo xem xe họ ngừng ở đâu. Một chút xíu sau, một cặp nam nữ khác, trên chiếc xe Suzuki nữ chạy vào một phía góc đối diện, khuất sau lùm cây. Thằng Thạch nói:
- “Tài tử vào rồi. Chờ một chút rồi coi phim."
Thằng Dũng cũng chưa hiểu xem phim kiểu gì mà kỳ vậy. Trong thời gian này thì lác đác một vài cặp thanh niên nam nữ khác cũng ngồi trên xe gắn máy chạy vào công viên, tìm chỗ vắng để ngồi tâm tình. Thằng Thạch nói với thằng Dũng: “Mầy dắt xe đạp theo sau tao nghe.”
Thằng Thạch dẫn xe đạp đi vòng vòng trong công viên. Khi đi ngang những lùm cây lớn, nó đều ngừng xe lại để lắng nghe xem có tiếng thì thầm hay không. Rồi nó ngừng xe lại và nói với thằng Dũng:
- “Tao với mầy ngồi xuống đây nghe, giống như hai đứa mình đang ngồi nói chuyên vậy mà. Nhưng mầy nhìn cái cặp ngồi ngay bụi cây trước mặt, “tụi nó” sắp đóng phim rồi đó”. Thằng Dũng nhìn về hướng bụi cây do thằng Thạch chỉ. Dưới bóng chiều chạng vạng tối, nó thấy một cặp trai gái đang ôm xoắn lấy nhau. Thằng Thạch thì thầm:
- “Mầy coi, tí xíu nữa thế nào thằng cha với con mẹ kia cũng cắn miệng nhau."
- “Tại sao phải cắn miệng nhau?”
- “Làm sao tao biết mậy, nhưng tao coi nhiều lần nên đoán vậy thôi.”
- “Mầy coi nhiều lần lắm hả?”
- “Ừ, cũng bộn bộn. Bởi vậy tao mới biết chứ. Thằng Thuật khỏi lên mặt làm tàng. Mỗi lần tao kể cho nó nghe là nó đòi tao dẫn đi coi. Nhưng đâu có được mậy. Coi đông người, mấy cặp đóng phim để ý là mình khỏi coi nữa.”
Thằng Thạch ngừng nói khi nó thấy người con trai đặt tay lên ngực người con gái:
“Thấy chưa, tới màn bóp vú rồi...” Rồi bỗng dưng thằng Thạch khe khẽ hát một vài câu dựa theo một bài hát cải biên "Vú em bằng cao su, bóp vô thì biết liền"...
Thằng Dũng chợt cảm thấy khó chịu trong người, máu nóng dồn lên mặt. Chưa bao giờ nó được thấy cảnh như thế này. Nó ngồi chết trân sợ thằng Thạch biết cảm giác của nó thì kỳ lắm. Trong khi đó thì thằng Thạch vẫn cứ vô tư ngồi nhìn, khi không thấy thằng Dũng có phản ứng nào thì nó khẽ thúc cùi chỏ vào người thằng này và hỏi: “ủa, sao ngồi im re vậy mậy. Ê... ê... cặp kia làm mới bạo kìa mầy.”
Theo hướng nhìn của thằng Thạch, nó ngó xéo vào lùm cây bên cạnh. Cặp này vô hồi nào mà thằng Thạch không hề hay biết vì nó lo mải mê nhìn cặp trai gái ở đây nãy giờ. Quả đúng theo lời thằng Thạch nói, cặp này có vẻ “quyết đấu sanh tử” hơn khi thằng con trai cứ thọc tay dưới váy đứa con gái, còn cô gái thì lấy tay chặn lại, trong khi hai cái miệng thì kề sát bên nhau. Bất chợt, thằng Thạch la lên:
- “Chết cha, thôi mày đừng nhìn nữa. Đi. Đi về lẹ lên.”
Vừa nói dứt câu, thằng Thạch đứng dậy, chụp cái xe đạp nhảy lên và đạp xe thật nhanh chạy ra khỏi công viên làm thằng Dũng cũng bất ngờ, đạp xe chạy theo muốn hụt hơi. Ra khỏi công viên, thằng Dũng thắc mắc:
- “Sao kỳ vậy mậy, đang coi ngon trớn mà...”
Thằng Thạch nói lắp bắp:
- “Chết mẹ... chị tao đó. Bả mà thấy tao ngồi trong công viên rình coi bả mét với ba tao thì chết mẹ. Dông mầy ơi...” Nói xong, nó đạp xe chạy một nước.
Không biết đêm đó thằng Thạch ngủ có nằm “trên bao” không mà riêng thằng Dũng thì khi ngủ, nằm “trên bao” thì nó lại thấy cảnh mà nó được xem trong công viên hồi chiều. Nhưng người con trai lại là nó còn đứa con gái thì nó mang máng là con... Đang mơ tới đây, bỗng dưng nó giựt mình ngồi dậy vì mắc đi tiểu nhưng không kịp nữa rồi. Nó đã đái dầm! Nó bực mình “lớn rồi mà sao bây giờ ngủ lại đái dầm". Nhưng mà hình như không phải đái dầm vì nếu đái dầm thì quần nó sẽ ướt sũng, khai ngấy, đàng này quần nó chỉ ướt một chút xíu. Và lạ một cái là trước khi đái dầm nó thấy cái gì đó rất là lạ, lâng lâng và thích thú, còn nếu như đái dầm thì chỉ làm khỏi tức cái bọng đái mà thôi. “Mai, vô trường phải hỏi thằng Thạch mới được chứ hỏi chú Chín hay với ba thì mắc cỡ chết”, nói xong nó tiếp tục ngủ trong sự mệt mỏi dễ chịu mà nó chưa bao giờ biết.
Ngày hôm sau, trong giờ ra chơi thằng Dũng tìm ngay thằng Thạch để kể ngay chuyện trọng đại vừa xảy ra cho nó tối hôm qua. Thằng Thạch nghe xong thờ ơ:
- “Tưởng cái gì. Tao cũng bị rồi.”
- “Nó là cái gì vậy mậy?”
- “Mầy nghe người ta nói mộng tinh không, cái đó gọi là di, mộng tinh đó. Nhiều thằng trong lớp bị rồi.”
Thằng Dũng nghe thế cũng đỡ lo, nhưng nó cũng hỏi thêm cho chắc:
- “Như vậy mình có bị gì không mậy.”
Bỗng dưng thằng Dũng nghe tiếng thằng Thuật xọt vào: “Coi chửng bị mù mắt nghe. Thằng nào mà bị nhiều lần là đui mắt đó. Mầy thấy mấy thằng cha mắt thong manh không? Là do mấy thằng chả bị cái vụ này nhiều lần đó.” Vừa nói, thằng Thuật vừa nháy mắt với thằng Thạch.
- “Ừ, thằng Thuật nói đúng nó. Mầy coi chừng nghe. Mầy có nghe người ta nói bệnh lậu, di tinh hượt tinh, phong tình hoa liễu gì đó không?”, thằng Thạch hùa theo để làm cho thằng Dũng sợ. Quả là công hiệu như thần, khi nghe hai thằng thuộc loại lớn tuổi, biết nhiều chuyện hơn nó nói như vậy, thằng Dũng lắp bắp hỏi:
- “Vậy làm sao cho nó đừng bị nữa hả?”
Thằng Thuật nói một cách bí mật.
- “Mỗi tối trước khi đi ngủ lấy dây thun cột lại.”
- “Đau chết, phải làm sao?”
- “Chịu chứ làm sao? Đêm nào tao chẳng cột.”
- “Rồi mắc đái phải làm sao?”
- “Thì mở dây thun ra. Có vậy cũng hỏi.”
Tụi nó tính nói đùa chơi để hủ thằng Dũng rồi sẽ bảo cho thằng Dũng biết là chuyện cột dây thun là chuyện giỡn chơi. Nhưng lúc ấy chuông reo báo giờ vào học bắt đầu. Vừa vào lớp học, tụi nó liền bị thầy Dĩnh cho làm bài kiểm hàng tháng. Thằng Thạch càu nhàu: “Mấy ông này hồi xưa chắc rảnh lắm, ngồi sáng chế ba cái thứ toán tiếc làm bây giờ học chết mẹ luôn.” Nghe vậy thằng Thịnh kẹo cũng giãi bày tâm sự: “Hổng biết học mấy bài toán kiểu này có giúp ích gì cho buôn bán không? Tao thấy tính toán bằng cái bàn tính là đã nhất. Tính làm sao mà có tiền là năm bờ oan.”
Khi chuông reo, thằng nào thằng nấy thở phào, ôm cặp chạy ùa ra khỏi lớp. Hai thằng Thuật và Thạch quên béng chuyện tụi nó đã hù thằng Dũng hồi nãy nên dông tuốt ra nhà xe để đề phòng tụi nó ăn cắp nắp chuông xe đạp.
Vì tin tưởng lời thằng Thuật, tối đo trước khi đi ngủ thằng Dũng tìm một cọng dây thun mềm để buộc vào nơi mà có thể gây cho nó mù mắt hoặc thong manh. Nó vào buồng tắm, đóng cửa lại rồi bắt đầu việc túm đầu “nạn nhân” mà cột. Đau thấy ông bà, ông vãi nhưng nó cũng cố gắng chịu đựng.
Vừa quay ra khỏi buồng tắm, nó giựt minh vì đụng phải ba nó đang đứng ngay cửa. Lúc nãy, trong khi nó đang tiến hành “liệu pháp chữa trị” thì ba nó chợt đi ngang qua buồng tắm. Ông nghe tiếng rên khe khẽ và chợt thấy thằng Dũng vào phòng tắm hơi lâu nên để ý. Ông sợ thằng Dũng nghe theo lời bạn xấu trong nhà in mà học đòi thói trăng hoa quá sớm. Gần khu xóm Sáu Lèo, chạy thẳng ra khu Mã Lạng, có vài căn nhà chứa mà một số thợ nhà in chưa vợ và có vợ thường vào giải sầu sau vài cuộc nhậu ba xi đế. Ông sợ thằng Dũng không khéo lại bị mấy thằng này rủ rê rồi đổ bệnh lậu hay tiêm la thì khổ. Nghĩ thế nên ông đã đứng chờ thằng Dũng ra để hỏi.
- “Sao con ở trong buồng tắm lâu vậy?”
- “Dạ, con “ị” không ra.”
- “Thiệt không?”
- “Dạ... thiệt.”
Thấy điệu bộ lúng túng của thằng Dũng, ba nó lại càng nghi ngờ hơn liền nắm tay nó, kéo vào buồng tắm, đóng cửa lại rồi bảo nó:
- “Đâu con cởi quần cho ba xem.”
Nó cởi quần ra. Nhìn thấy cái vòi con con của nó cột chằng chịt giây thun, ba nó ngạc nhiên, kêu lên:
- “Trời ơi, con làm cái gì vậy, cởi giây thun ra lẹ lên, không thôi nó tụ máu lại là nguy hiểm.”
Nó liền lật đật cởi sợi giây thun ra. Ba nó mở cửa buồng tắm dẫn nó ra ngoài và hỏi:
- “Tại sao con lại cột nó lại như vậy?”
Biết không thể giấu, thằng Dũng liền kể cho ba nó nghe hết cớ sự. Nghe xong ba nó cười phá lên và bảo:
- “Con bị mấy thằng bạn phá rồi. Đàn ông, con trai bị như vậy là chuyện bình thường.”
Nó xấu hổ, cúi gằm mặt, nhưng trong lòng rất vui vì biết mình không bị bệnh gì cả. Nhưng bây giờ khi nhìn xuống “cái vòi” thì, cha mẹ ơi, nó đỏ tấy và sưng lên.
Tất nhiên, đó là chuyện xảy ra hồi năm ngoái, năm nó học đệ ngũ. Mặc dù nó không còn vào công viên để xem phim ngoài trời nữa nhưng mỗi khi đi xem phim mà có cảnh “cụp lạc” dưới hàng ghế khán giả nó cũng khoái nhìn lắm. Bởi vậy khi hai khán giả đang mùi mẫn thì nó cũng cố gắng chong mắt trong bóng tối để nhìn. Bất ngờ, một ngọn đèn pin chiếu thẳng vào hai khán giả đang trở thành diễn viên đó. Người kiểm soát trật tự của rạp hát đi lại hàng ghế của hai khán giả nói nhỏ: “đã có lệnh cấm không được vi phạm thuần phong mỹ tục trong rạp hát. Nếu một lần nữa chúng tôi bắt gặp thì sẽ mởi anh chị ra ngoài.”
Hai diễn viên đóng phim dưới hàng ghế liền trở lại tư thế ngồi xem phim làm thằng Dũng và thằng Thạch cụt hứng trong khi đó thì thằng Mai, nãy giờ, ngồi xem phim cười ha hả. Thằng Thạch hơi ấm ức nên hỏi nó: “Bộ mầy không khoái xem mấy màn cụp lạc hả?” Thằng Mai đáp tỉnh bơ: “Tưởng gì, trong xóm tao thấy họ bắt cặp với nhau hoài, còn dữ hơn nữạ. Mấy thằng cha vô rạp hát bóng thì ăn thua gì.” Thế là thằng Thạch tắt đài, quay trở lại với ông hề Tây và đám con gái xinh đẹp trên màn ảnh.
Nhờ không có “đóng phim” dưới ghế khán giả nên ba thằng cũng tập trung coi được phim. Quả là đáng đồng tiền bát gạo. Ba thằng ngồi cười sằng sặc bởi những hành động ngớ ngẩn nhưng dẫn đến kết cục đáng yêu của thầy đội do Louis De Funes thủ vai. Đang xem ngon trớn thì màn bạc trắng nhách. Đèn trong rạp bật sáng. Khán giả la ó, có tiếng huýt sáo hoét hoét để phản đối, thậm chí có những thằng trạc tuổi tụi nó lấy đít ghế đập mạnh vào lưng ghế rầm rầm như muốn phá cho cái ghế hư để trừng trị rạp hát đã dám ngưng phim nửa chừng. Từ trong các loa treo trên tường vang ra tiếng thông báo: “Vì lý do kỹ thuật nên phim sẽ được chiếu lại trong vài phút nữa. Xin quý vị thông cảm.” Thằng Dũng hỏi thằng Mai: “Tại sao đang chiếu nửa chừng mà nó ngưng vậy mậy?Bộ đứt phim hả.”
Thằng Mai giải thích một cách rành rẽ:
- “Khi phim bị đứt thì trên màn ảnh xẹt xẹt, rồi mình thấy cái hình như chảy ra. Còn cái điệu này tao nghi là rạp chạy phim không kịp. Nghe nói bộ phim này chiếu đến ba rạp lận nên nhiều khi người chở phim chưa mang hộp phim kế tiếp đến kịp.”
Thằng Mai chưa kịp giải thích tường tận thì đèn trong rạp lại phụt tắt. Trên màn ảnh bắt đầu chiếu tiếp phần kế của bộ phim. Từ lúc này bộ phim chiếu liên tục không còn xảy ra sự cố ngưng chiếu giứa chừng nữa. Cặp diễn viên khán giả nhân mọi người tập trung xem phim đã biến mất khỏi chỗ ngồi hồi nào không ai hay làm cho tụi thằng Dũng yên tâm xem cho đến hết bộ phim mà không phải phân tâm vừa xem phim trên màn ảnh lại vừa xem phim dưới hàng ghế ngồi khán giả.
Viên cảnh sát trưởng Cruchot ở Mac-xây, một trong những vai để đời của Louis De Funes, nhỏ con nhưng lại chỉ huy những thầy đội to con làm khán giả cười nghiêng ngửa. Thằng Mai vừa cười, vừa chùi nước mắt vừa văng tục “ĐM tao khoái coi phim hài của thằng cha này còn hơn coi phim Xạc-lô”.
Khi màn bạc xuất hiện chữ Fin tụi nó vô cùng tiếc rẻ ước gì phim dài thêm để coi cho nó đã. Đèn bật sáng, khi đứng lên để chuẩn bị ra cửa thì thằng Dũng sững người. Một hình dáng rất quen thuộc, đập vào mắt nó. Mái tóc ấy, cái dáng đi hơi nghiêng nghiêng, cái mũi hay chun lên khi muốn trêu chọc ai đó gần như ám ảnh nó mỗi ngày. Trước giờ nó đi học, là giờ mà tà áo trắng Gia Long này bước đi qua ngõ nhà nó, thằng Dũng thường hay cầm cây đàn ghita mà nó được thằng Chương dạy chập chững, hát ong ỏng mấy bài nhạc thị trường “Tôi ở ngoại ô, một căn nhà xinh có hoa treo khắp vùng, gần kề ỉối xóm có cô bạn thân xóm hôm lo sách đèn. Hai đứa chưa ước hẹn lấy một câu... Trong thực tế căn nhà xinh là nhà của “người trong mộng”, còn nhà nó chỉ là một căn nhà đơn sơ chẳng có hoa hòe, hoa sói gì cả ngoài cây chùm ruột. Hàng ngày, đợi cho đến khi hình dáng ấy đi ngang nhà là nó cầm đàn và rống lên để tâm tình nó có thể đi vào lỗ tai “người ấy”. Rồi tới nhạc tiền chiến “Cô láng giềng ơi không biết cô còn nhớ đến tôi... tôi đã hình dung dáng ai đang cười” Đây là chiêu của thằng Chương dạy nó: “mầy muốn cua ghệ thì mầy phải biết đàn hát ghệ nó mới để ý.”
Môt hôm vô lớp thằng Chương nói nhỏ với nó:
- “Hôm nay tao dạy mầy một bản nhạc bí mật nghe. Đây là một bài nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn đó. Chính phủ cấm, ai hát là bị bắt liền...”
- “Vậy mà tại sao mầy dạy tao hát? Tao hát có bị bắt không?” “Như vậy ghệ mới nể mầy. Hiện nay mấy ghệ Gia Long khoái nhạc Trịnh Công Sơn lắm. Chị tao nói tụi nó chuyền nhau chép tay nữa.”
- “Chép tay thì đâu có sao, nhưng khi hát lỡ lính nghe được thì chết mẹ.”
- “Mầy hát ở đâu?”
- “Trước cửa nhà tao chớ đâu.”
- “Ha... ha... ngu mầy ngu quá con ơi... Hát trong nhà thì ai mà nghe, đừng ra ngoài đường lộ hay hát trong trường thì đâu có sao.”
- “Thiệt hả?”
- “Thiệt chớ sao không, tao xạo mày sao?”
- “Ờ, mày dạy tao đi. Bài gì vậy?”
- “Bài Diễm xưa. Bắt đầu là Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ... Chách bủm bùm, chách bủm bùm.. Mầy hát chầm chậm nghe.."
Mỗi ngày nó học từ thằng Chương bài hát Diễm xưa vài câu và dù vừa mới học được nó đem áp dụng liền. Và cứ thế dù buổi trưa mùa hạ nắng gắt hàng xóm láng giềng của thằng Dũng không hiểu sao cứ nghe thằng này rống “Mưa vẫn mưa bay... mưa vẫn mưa bay...” Và hàng xóm cũng chẳng biết tại sao “mưa vẫn mưa bay” lại dừng ngang đột ngột. Nếu người nào tinh ý thì sẽ thấy khi một chiếc áo dài trắng vừa qua khỏi ngõ nhà nó thì “mưa vẫn mưa bay” liền chấm dứt. Và vài phút sau họ sẽ thấy thằng Dũng đạp chiếc xe đạp cà tàng ra khỏi nhà.
Ây vậy mà nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn đã thành công. Có hôm, đi ngang nhà nó “áo trắng Gia Long” đã quay mặt vào nhà nó nhìn và chun mũi cười. Tim nó như nhảy ra khỏi lồng ngực. Đúng quá xá cỡ. Muốn cua ghệ thì phải phản chiến chứ không được tiền chiến. Bây giờ mà có lính bắt nó cũng chẳng sợ. Miễn làm sao khi lúc nó bị cảnh sát bắt thì phải có mặt “nàng áo trắng” để ghệ biết rằng “vì em mà anh hát nhạc phản chiến” chứ đừng bắt nó khi con nhỏ đã qua khỏi nhà nó rồi thì uổng công. Tuy vậy, chưa đến đỗi phải bị cảnh sát bắt, mặc dù trong xóm nó cũng có vài chú, thằng Dũng đã nói chuyện được với em. Đã nắn nót chép cho “em gái Gia Long”, theo kiểu chữ Ital, co 12, mấy bài nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn như “Diễm xưa”, “Nắng thủy tinh”. Nó còn nắn nót vẽ tranh minh họa bắt chước theo những phụ bản của họa sĩ Đinh Cường.
Thằng Dũng vô cùng ước ao được đi coi xi-nê với “em Gia Long” một lần. Nếu được đi xi-nê với em thì coi như công việc “cua ghệ” đã thành công 90 phần trăm như theo lời dạy của thằng Thuật. Nhưng chưa bao giờ một lần nó dám mở miệng. Mỗi lần đứng trước “nàng” tim nó đập nhanh, môi nó run lên, miệng lắp bắp, tay chân lóng ca, lóng cóng. “Thôi để từ từ. Phải dành tiền để đi coi phim ở những rạp sang trọng như Rex, Eden chứ coi ở Việt Long hay Tân Bình, Tân Lạc thì mất mặt bầu cua hết. Còn phải có tiền mua bắp rang vô rạp để ăn nữa chứ!”. Chần chừ như thế hoài nên nó chưa bao giờ mở miệng mà chỉ cứ phản chiến “Mưa vẫn mưa bay...” từ mùa nắng sang đến mùa mưa ròng rã ngập cả con xóm của nó.
Thế mà, bây giờ đây, Xuân Chi - “người trong mộng” của nó lại xuất hiện trong rạp xi-nê. Phải chi nó đi một mình hoặc đi với bạn gái thì thằng Dũng rất vui và sẽ chạy lại chào hỏi ngay. Đàng này, cô bé lại đi với một thằng con trai khác, lớn hơn nó chừng vài tuổi, cả hai vừa cười, vừa nói đi ra khỏi rạp mà đâu biết rằng, trong đám khán giả đang chờ bước ra hỏi rạp có người đang xem phim vui chợt hóa ra buồn như bài hát “Xem phim buồn”. Không muốn cho con Xuân Chi thấy mặt, thằng Dũng kéo thằng Thạch ngồi thụp xuống ghế. Thằng Thạch hỏi:
- “Mầy định coi xuất nữa hả?” Vì là rạp chiếu thường trực nên khán giả muốn ngồi xem đến lúc nào cũng được, chừng nào chán thì về.
Thằng Dũng trả lời đại:
- “Mầy tính sao Mai?”
- “Coi lại phim này cũng đượcễ ừ, chừng nào chán thì về.”
Cả ba thằng ngồi nán lại cho khán giả đi ra hết vả một đợt khán giả mới của xuất sau lục tục kéo vô. Thằng Thạch và thằng Mai tha hồ nói về bộ phim mà tụi nó vừa mới xem còn thằng Dũng thì ngồi im, mặt buồn xo. Bỗng dưng, thằng Dũng muốn đi ra khỏi rạp, đạp xe lòng vòng trên những con đường buổi trưa chủ nhật để quên đi nỗi buồn vữa chợt đến sau khi xem một cuốn phim vui. Nó vụt đứng dậy:
- “Thôi tụi bây cứ ở lại coi đi, tao về trước.”
- “Mầy về tụi tao cũng về luôn.” Thằng Thạch nói.
Cả ba thằng lót tót bước ra khỏi rạp. Mắt lóa nắng vì bây giờ đã hơn một giờ trưa. Ba thằng đến chỗ gửi xe đạp. Thằng Thạch liếc nhanh về phía xe bánh mì để xem con nhỏ bán bánh mì còn đó không? Xe bánh mì còn đó nhưng còn em đâu rồi? Một bà già đang ngồi bên xe, phe phẩy cái quạt để đuổi những con ruồi. Thằng Thạch cũng cụt hứng.
Cả ba chia tay nhau. Thằng Mai hỏi thằng Dũng:
- “Mầy đi về nhà hả? Sao tao thấy mầy buồn quá vậy?” “Cũng đâu có gì buồn. Tao định đạp xe đi vòng vòng Sài Gòn chơi. Lâu quá, không có bát phố Bô-na. Từ đây đạp xe ra đó cũng gần.”
- “Tao đi chơi với mầy nghe.” Thằng Mai đề nghị.
- “Ừ đi thì đi. Chừng nào mầy thấy chán thì mầy cứ đạp xe về" Thằng Thạch đạp xe về nhà. Còn thằng Dũng bắt đầu cuộc hành trình đạp xe đi cho vơi nỗi buồn đang gặm nhám. Thằng Mai thì không muốn về nhà vì đi chơi vui hơn. cả hai cứ tà tà đạp xe đi trong buổi trưa nắng mà chẳng thằng nào nói với nhau tiếng nào.
Thay vì đạp xe xuống cống Quỳnh, qua Phạm Ngũ Lão chạy thẳng ra chợ Sài Gòn, thằng Dũng lại đạp xe ra đường Hồng Thập Tự vì nó không muốn đi ngang nhà in lúc này.
Nó không muốn ai ở nhà in biết nó đang buồn, có những chuyện của con tim không ai có thể chia sẻ được. Nó đã đọc được câu này ở trong cuốn sách nào mà nó cũng chẳng nhớ.
Từ đường Hồng Thập Tự nó quẹo phải theo đường Công Lý, đi ngang qua dinh Độc Lập rồi đạp xe thẳng xuống đường Lê Lợi. Hai thằng tìm chỗ gửi xe ở bên hông Bộ Công Chánh trên đường. Công Lý, góc Lê Lợi.
- “Đi đâu mậy?” thằng Mai hỏi.
- “Đi vòng vòng, bát phố Bô-na chơi.”
Hai thằng đi dọc theo vỉa hè Lê Lợi. Nơi đây, bây giờ đã trở thành khu bán sách báo, tạp chí tiếng Việt và nước ngoài và vải vóc. Vỉa hè được chia làm hai hàng một bên là hàng bán vải và quần áo loại đắt tiền, một bên là các sạp bán sách báo tiếng Việt và nước ngoài như Times, Newsweek, Billboard nhưng nhiều nhất là các tạp chí khiêu dâm như Plaỵboy, Penthouse. Khách nhàn du, mua sắm là những cô cậu hippy choai choai, những sĩ quan Biệt động quân, Thủy quân lục chiến và cả những tên lính Mỹ đi cạnh những cô gái phấn son lòe loẹt. Cũng không kể đến những thành phần khác đang trà trộn trong đám người đi bát phố để kiếm ăn như trẻ đánh giày, bọn móc túi. Chính giữa con đường vỉa hè này là một nhà vệ sinh công cộng, lúc nào cũng bốc mùi hôi. Không khách khứa nào thích đi qua khu vục này ngoại trừ có nhu cầu giải tỏa đột xuất chỉ trừ có những tay “kỳ bẽo” chuyên nghiệp đang tập trung trong sòng bài ba lá, những tay cò mồi đang cố dụ khách qua đường vào sòng bài.
Thằng Mai kéo tay thằng Dũng ngừng ngay cạnh sạp bán tạp chí Playboy. Một người đàn ông đeo kính trắng, trạc 50 tuổi đang say sưa giở từng trang báo nhìn vào ảnh của những cô gái Mỹ không mảnh vải che thân. Thằng Mai kiễng chân đứng nhìn ké vào tờ báo. ông này giật mình quay lại, nhìn nò với cặp mắt khó chịu:
- “Muốn coi thì lấy báo dưới sạp mà coi.”
Nghe tiếng cự nự, người chủ quày báo, một thanh niên mặt mày bậm trợn quát:
- “Mấy thằng nhỏ đi chỗ khác chơi, báo để bán chứ không cho coi không!”
Thấy nhột, vì nãy giờ chỉ đứng coi hết tờ Playboy này đến tờ Girls khác, ông già đeo kiếng bỏ tờ báo xuống bỏ đi. Chủ quày báo chửi đổng:
- “ĐM... già mà ham thì bỏ tiền ra mua coi. Cứ coi cọp không. Khứa lão này lâu lâu lại đến...”
- “Chắc khứạ không dám mang về nhà sợ vợ con thấy", người chủ quày kế bên góp chuyện.
- “Nếu thèm cứ chạy lên ngã ba Chú ía, thành ông Năm là xong chứ gì.”
- “Tao coi bộ dạng khứa này là công chức hay giáo sư gì đó, chẳng dám đâu. Lỡ cảnh sát kiểm tục tóm được thì có nước mà đội quần.”
- “Ê, hai thằng nhỏ. Đi đi, tụi bây đứng xớ rớ làm gì?”
- “Chắc mấy thằng này muốn biết mùi đời.”
Thằng Dũng kéo tay thằng Mai đi khỏi quày sách Plaỵboy. Nó ngượng chín người, cảm thấy bị khi dễ khi nghe hai thằng cha bán Playboỵ nói như vậy. Đây không phải là lần đầu tiên nó xem những loại sách “lạ lùng” này. Lần nào nó xem cũng ngượng nhưng xem chỗ ít người thi yên tâm hơn. Nó đã từng được thằng Ngọc cùi, mặt đầy mụn đem tạp chí này cho nó và mấy thằng ở xóm nhà lá cùng xem.
Một hôm trong giờ văn của thầy Vũ Ký, thằng Ngọc cùi lấy trong cặp táp ra một tờ báo của Mỹ, in màu rất đẹp, ở Việt Nam chưa có cuốn nào in được như vậy. Nó nói với thằng Dũng một cách bí mật.
- “Cuốn này toàn hình con gái ở truồng không. Sách Playboy của Mỹ đó nha mậy, mắc lắm, ở Lê Lợi bán một trăm đồng một cuốn đó!”
- “Trời ơi làm gì mà mắc dữ vậy? ở đâu mầy có vậy?”
- “Tao ăn cắp trong phòng ba tao. Không biết sao ổng có nhiều lắm, cả chồng luôn.”
Thằng Dũng lén để tờ báo trong hộc bàn, lật từng trang để xem. Trời ơi, nó không ngờ thân thể con gái, sau khi trút bỏ hết quần áo thì là như thế này ư? Vừa chỉ xem vài hình, bỗng dưng nó cảm thấy cồm cộm nơi đũng quần. Nó có cảm giác máu nóng đang chạy dồn lên mặt. Nó liền lấy tờ báo bỏ trở lại hộc bàn của thằng Ngọc cùi. Thằng Ngọc cùi bèn kêu thằng Hòe:
- “Ê có cuốn sách giáo khoa về Anh văn mới lắm nè mầy.” Nghe nói đến sách giáo khoa Anh văn là thằng Hòe chụp ngay. Nhưng khi vừa giở ngay trang đầu là nó quăng trở lại cho thằng Ngọc cùi, nói nhỏ:
- “Thấy ghê. Mầy cứ coi sách tầm bậy tầm bạ nên mặt mụn là phải.”
Thằng Thạch từ bàn dưới chồm lên, giựt cuốn Playboỵ. “Mầy cho tao với thằng Nho mượn coi chút.”
Thằng Ngọc cùi chưa kịp phản ứng thì quyển Playboỵ đã nằm trong tay thằng Thạch. Nó nhét vội xuống hộc bàn và bắt đầu mở ra xem. Thằng Nho cũng gằm đầu xuống mặt bàn xem ké. Mặc kệ, thầy Vũ Ký có giảng gì tụi nó cũng chẳng có hề biết.
Đứng trên bục nhìn xuống, thầy Vũ Ký thấy hai thằng xóm nhà lá cứ gằm đầu mà xem cái gì đó chứ chẳng chịu nghe giảng, thầy liền nhẹ nhàng đi xuống cuối lớp. Khi thấy thầy Vũ Ký đi xuống, bọn thằng Dũng đã kêu nhỏ: “Thạch, thầy xuống kia...” nhưng nó cũng chẳng nghe. Khi thầy Vũ Ký đứng .sát cạnh bên, nó mới giật mình ngẩng đầu lên, mặt tái mét. “Xem gì đó, đưa thầy coi nào.”
- “Dạ, dạ không có chi thầy...”
- “Tôi bảo đưa tôi xem.”
Thầy Vũ Ký thò tay vào hộc bàn và lấy ra tờ Playboy, còn thằng Thạch thì ngồi chết trân, tay chân run lẩy bẩy. Khi thấy tờ Playboy, thầy Vũ Ký giận run lên:
- “Chết... Chết... tầm bậy, tầm bậy... Các trò không học mà coi những thứ tầm bậy rứa... Tội này các em phải ra hội đồng kỷ luật. Quyển sách này của ai?”
Ngồi ở bàn phía trên, thằng Ngọc cùi cũng run vì sợ thằng Thạch sẽ khai ra mình. Ra hội đồng kỷ luật lạng quạng bị đuổi học như chơi.
Còn thằng Thạch cũng đang suy nghĩ. Nếu khai thằng Ngọc cùi mang vào thì mình cũng chưa chắc nhẹ tội, còn dính thêm thằng Ngọc cùi. Bạn bè chơi như vậy thì mấy đứa trong lớp sẽ khi dễ, coi thường. Nghĩ vậy nên nó trả lời:
- “Dạ thưa thầy, dạ của em...”
- “Em mua à..?”
- “Dạ không em mượn của một thằng bạn, ba nó buôn bán hàng Mỹ...”
- “Tôi tịch thu quyển sách rồi sẽ báo cho Hội đồng kỷ luật nhà trường...”
Thầy Vũ Ký quay lên bàn giáo sư, thay vì giảng bài, thầy lại đề cập đến chuyện thằng Thạch.
- “Các em đi học để trở thành một người có văn hóa và tri thức, biết phân biệt những điều đúng sai đang xảy ra trong cuộc sống. Khi biết phân biệt những điều như thế thì các em mới trở thành người hữu ích cho quốc gia, đất nước. Quân đội Mỹ vào đây, mang theo đủ thứ tầm bậy tầm bạ. Nào là Snackbar, nào là khiêu vũ trường, nào là lối sống Mỹ, nào là văn hóa Pỉayboy, rồi đĩ điếm, gái bán bar... toàn những thứ hư hỏng. Mấy em không được... không được xem những thứ này, nó sẽ phá hoại tâm hồn và đầu óc các em...”
Thầy Vũ Ký còn nói nhiều về đề tài này cho đến hết giờ học của thầy. Khi chuông reo báo giờ ra chơi thì thằng Thạch, vẫn còn ngồi im, mặt buồn bã. Thằng Ngọc cùi thì lại vỗ vai thằng Thạch cám ơn thằng này đã không khai ra nó là thằng mang quyển sách vào. Thằng Khải lại an ủi:
- “Thầy giận thì ổng nói vậy chớ tao nghĩ ổng không đưa mày ra hội đồng kỷ luật đâu. Hai cái cấm túc là cùng.” Thằng Tuấn trưởng lớp chia sẻ:
- “Có lẽ tao gặp thầy để xin cho mầy giảm kỷ luật.”
Thằng Dũng tiếp lời:
- "Phải đó. Tao cũng đi theo thằng Tuấn xin giảm kỷ luật cho mầy.”
Thằng Thạch cảm động khi thấy bạn bè lo lắng cho mình: “Ừ. Chắc tao cũng đi theo tụi bây. Tao là người có lỗi mà không đi xin để tụi bây đi không thì thầy Ký giận chết.” Thằng Tuấn trưởng lớp không đồng ý:
- “Tụi mình lên phòng giáo sư đông quá đâu có được. Thôi để mình tao đi cho.”
Thằng Thạch ngần ngừ:
- “Thôi cũng được. Cũng liều con tạo xoay vần đến đãu" nó nói theo một câu thơ trong truyện Kiều nghe buồn thảm.
Thế là một mình thằng Tuấn đi thẳng lên phòng họp giáo sư ở góc trong cùng của hành lang danh dự. Đến trước cửa phòng họp giáo sư, nó đứng xớ rớ cố gắng nhìn vào nơi chốn thâm nghiêm và “huyền bí” này. Nơi đây là nơi thằng Tuấn ước mơ: Học cho thật giỏi, đậu cao rồi trở về trường làm giáo sư như một số giáo sư đang dạy trong trường. Nghĩ đến đó, nó thấy đã vô cùng.
- “Em đứng đây làm gì vậy Tuấn?”
Nó giật nẩy mình, người hỏi nó là cô Đoan Trang - dạy hóa học.
- “Dạ, em tìm thầy Vũ Ký.”
- “Cô thấy thầy Vũ Ký mới chạy xe ra khỏi trường. Chắc thầy hết giờ ở trường rồi.”
- “Dạ. Cám ơn cô.”
Nó tiu nghỉu quay trở lại lớp. Bọn thằng Hoàng thấy nó quay trở về, mặt mày không khí thế lắm nên đoán mò:
- “Bộ thầy không đồng ý hả mậy?”
- “Không, thầy đi về rồi. Ngày mai hai giờ đầu là giờ dạy Kim văn của thầy, mình xin cũng được.”
Từ đó đến hai giờ học cuối thằng Thạch sống trong tâm trạng âu lo. Suốt đêm đó, ngay cả khi ngồi xem chương trình Tạp lục Tùng Lâm trên tivi, có hai anh hề Phi Thoàn và Thanh Việt diễu vui, cả nhà nó cười vang mà mặt nó vẫn âu sầu. Riêng thằng Dũng, tối đó nó lại nằm mơ thấy mấy cô đầm không mặc quần áo, làm cho nó bị “tiểu dầm” lần nữa. “Đúng là không nên xem mấy cái này, bị tiểu dầm hoài, có ngày bị thong manh mất."
Rốt cuộc tụi nó cũng chẳng có cơ hội xin thầy tha cho thằng Thạch vì thầy đã tuyên bố tha tội cho thằng nó vì là lần đầu, và cũng chẳng bắt nó cấm túc. Thằng này sướng rơn. Giờ ra chơi nó khao mấy thằng xóm nhà lá bánh dừa, bánh su kem của chị Lan, ăn thả cửa chừng nào no thì thôi. Ăn nhiều như thằng Mai thì chỉ ba cái bánh dừa là cùng.
Thằng Dũng nhớ lại chuyện xảy ra cho thằng Thạch và những lời thầy Vũ Ký dạy nên khi thằng Mai ghé quày bán báo Playboy nó đã không thích, nhất là khi tụi nó có mang phù hiệu hiệu đoàn Petrus Ký trên túi áo. Nó liền kéo thằng Mai đi khỏi khu vực này. Hai đứa đi ngược lên đường Pasteur. Thằng Mai hỏi nó:
- “Mầy có tiền không?”
- “Có ba choạc. Chi vậy?”
- “Tao đói bụng quá. Hồi nãy ăn có một khúc bánh mì...”
- “Tao cũng thấy đói đói rồi. Mình lại Pasteur mua bánh mì phá lấu ăn.”
Hai đứa băng qua khỏi đường Pasteur. Tại góc đường Pasteur - Lê Lợi có một quày bán bánh mì với phá lấu lòng heo. Vừa thoạt nhìn những khoanh ruột non, thố linh khoanh tròn, những miếng gan, bao tử “khìa” nằm trên một cái khay nhôm, được che bằng một tấm ny lông trắng, dầy thằng Mai đã muốn chảy nước miếng. Thằng Dũng nới với “bà xẩm” bán hàng:
- “Bà cho hai khúc, mỗi khúc năm đồng. Nhớ cho nhiều đồ chua nhe... ờ.., bà cho thêm tương đen, với tương ớt...”
Mỗi thằng cầm một ổ bánh mì nóng, thơm lửng mùi bánh mì mới ra lò, đi lại xe nước mía Viễn Đông gần đó. Thằng Dũng gọi một cách sành sõi:
- “Cho hai ly nước mía, bỏ ít đá thôi nha chị.” Nó quay sang thằng Mai: “bánh mì phá lấu với nước mía Viễn Đông ngon có tiếng. Hai món này cũng góp phần làm nên danh tiếng của Sài Gòn đó mầy.” Câu này nó nghe một ông nhà văn, nhà báo nào nói bây giờ nó đem ra hù thằng Mai.
Còn thằng Mai, nó đâu cần biết bánh mì phá lấu Pasteur, nước mía Viễn Đông. Bánh mì phá lấu với nước mía là “tàn chi quái đao” rồi. Đối với nó ăn sang như vầy là một sự hiếm hoi. Nó nhìn thằng Dũng có vẻ ngạc nhiên vì sự sành sõi của thằng này. Vừa cắn miếng bánh mì, nước tương đen chảy quanh khóe miệng, nó hỏi thằng Dũng một cách khâm phục: “Sao mầy biết những chỗ này, hay quá vậy?”
Thằng Dũng im lặng, bí hiểm để chứng tỏ nó là một thằng sành sõi. Hù mấy thằng cỡ thằng Thuật, Thạch không được thì hù thằng Mai cho đỡ ghiền. Khu vực Sài Gòn hoàn toàn xa lạ với thằng Mai nhưng ở Chợ Lớn thì đừng qua mặt nó. Thật ra đây là lần thứ hai thằng Dũng ghé đây. Lần trước do chú Chín chở nó đi lấy mấy cái bản kẽm hình ở Cliche Dầu ở đường Đề Thám rồi tiện đường chở nó ra mua bánh mì về cho mấy ấn công typo ăn trưa luôn.
Sau khi ăn hết ổ bánh mì, uống xong ly nước mía thằng Mai vẫn còn thòm thèm. Nó xin thêm miếng nước lọc để uống cho đã vì nó xin bỏ thêm tương đen vào bánh mì hơi nhiều nên bây giờ khát nước. Nãy giờ đi vòng vòng, ăn uống nên thằng Dũng quên mất cái vụ nó gặp con Xuân Chi đi với thằng khứa nào trong rạp hát. Có lẽ vì vừa ăn bánh mì, uống nước mía ngon, cộng với sự khâm phục của thằng Mai nên nó hào hứng:
- “Tao dẫn mầy vào nhà sách lớn nhất Việt Nam.”
- “Nhà sách này có sách dạy đóng kịch không?”
- “Sách gì cũng có. Mình tha hồ đọc, không mua cũng được.” Thằng Dũng dẫn thằng Mai băng qua đường Lê Lợi, đến gần góc đường Công Lý. Nằm trên đường Lê Lợi. Trước mặt thằng Mai là một nhà sách to như một rạp hát, phía trên mặt tiền lầu hai có hai chữ bằng xi măng đúc, sơn màu đỏ sậm “Khai Trí”. Dù buổi trưa nhưng vẫn đông người tấp nập ra vào. Bước vào trong nhà sách, phía trên cùng là một tấm bảng có viết những giòng chữ mà ai vào cũng đều thấy “Để cho con một rương sách hơn lả một rương vàng."
Những người trong nhà sách đi qua, đi lại dọc theo kệ sách. Có người ngắm nhìn, lấy sách ra đọc vài trang, sau đó để lại chỗ cũ rồi đi tiếp sang quày khácẵ Có người đứng một chỗ đọc hết trang này qua trang khác. Còn có người thì cứ đi vòng vòng chỉ để nhìn các tựa sách rồi gật gù. Thằng Dũng thấy một anh, có lẽ là sinh viên vì đeo kính cận dầy cộp, mái tóc hơi dài, bồng bềnh như nghệ sĩ, nói với một cô gái đi bên cạnh: “Phạm Công Thiện mới viết quyển “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học “hay lắm.” Cô gái nhận xét: “Nghe nói ông này hơi điên điên.” “Không phải điên là ông Bùi Giáng.” Cô gái chọc: “Em hỏi như vậy là vì anh đọc mấy cái quyển Ý thức gì đó coi chừng điên điên theo. Mấy ông triết gia hay khùng lắm.”
Nhìn anh sinh viên nó vô cùng ngưỡng mộ. Thằng Dũng ước gì đọc được những quyển sách cao siêu như anh sinh viên vừa nói. Nếu nó đọc được những quyển này thì còn Xuân Chi sẽ khâm phục nó biết chừng nào. Nó ước ao hình ảnh: Anh sinh viên là nó và cô gái đi cạnh bên là Xuân Chi. Nó sẽ giảng cho Xuân Chi nghe về triết học, văn học thì chắc con bé sẽ ngẩn tò te mà khâm phục. Thằng Mai cắt đứt sự tưởng tượng thăng hoa của nó:
- “Tao muốn coi mấy cuốn sách dạy kịch nghệ, nó nằm ở quầy nào?”
Thằng Dũng ớ người vì nó cũng chẳng biết loại sách này nằm ở quày nào:
- “Chắc ở đâu đây.”
- “Cái quày trong cùng, bên góc trái đó em. Cái quày đó chuyên trưng bày sách nghệ thuật”, anh sinh viên chỉ giúp. “Em mê kịch hả. Trong đó có mấy quyển thoại kịch của Vũ
Khắc Khoan như “Thần tháp rùa”, “Thành Cát Tư Hãn” hay là của kịch tác gia Vi Huyền Đắc...”
Trời ơi, thằng Dũng kính nể anh sinh viên này quá. Không chừng ảnh đi vào nhà sách này hàng ngày. Nó buột miêng hỏi: “Anh là sinh viên ở trường nào vậy?”
Anh sinh viên nhìn nó, nhìn phù hiệu trên túi áo nó, rồi nói như reo lên:
- “Em học Petrus Ký hả. Anh cũng là cựu học sinh Petrus Ký đây. Hiện giờ anh là sinh viên Văn khoa, ban văn chương... Còn em này, sao lại thích đọc sách thoại kịch vậy?”
Thằng Dũng vô cùng tự hào vì được nói chuyện với một đàn anh Petrus Ký mà nó đang ngưỡng mộ, trả lời thay cho thằng Mai:
- “Nó tìm sách dạy đóng kịch. Thằng bạn em thích trở thành nghệ sĩ thoại kịch như Vân Hùng, La Thoại Tân, Ngọc Đức...” Anh sinh viên chỉ vào người bạn gái đứng bên cạnh, nói rất tự hào:
- “Vậy là mấy em gặp hên rồi. Chị Dung là kịch sinh trường Quốc gia Âm nhạc kịch nghệ năm thứ hai đó...”
Thằng Mai trố mắt nhìn người bạn gái của anh sinh viên. Nó ngập ngừng, rất muốn hỏi nhiều điều nhưng không biết hỏi cái gì. Cô gái xoa đầu thằng Mai:
- “Em muốn học kịch thì thi vào khoa thoại kịch trường Quốc gia Ảm nhạc kịch nghệ đi. Em chỉ cần có bằng trung học đệ nhất cấp là được. Nếu đậu, em vừa có thể học kịch buổi chiều, buổi sáng học ở trường Petrus Ký để thi đậu cho xong bằng Tú tài 1, Tú tài 2...”
Thằng Mai mừng rơn:
- “Thi khó không chị?”
- “Khó chứ. Thi tuyển tìm người có tài năng học 4 năm, sau đó ra trường trở thành nghệ sĩ đóng kịch trên sân khấu mà. Khoảng đầu tháng 7 trường bắt đầu thông báo thi tuyển. Em đến trường Quốc gia Âm nhạc kịch nghệ ở đường Nguyễn Du, ghi danh dự thi.”
Thằng Mai chợt thấy thích và ái mộ người bạn gái của anh sinh viên quá.
- “Em cám ơn chị.” Và nó bạo gan hơn: “Khi nào gần thi tuyển chị có thể giúp em luyện thi được không?”
“Ờ, được chứ. Có mấy trường dạy luyện thi vào khoa thoại kịch của Mỹ Tín, của thầy Đinh Xuân Hòa nhưng học phí mắc lắm, em không có khả năng đâu. Chừng nào em ghi danh, được phát đề thi để diễn trong buổi thi tuyển thì em lại gặp chị tại trường. Chị tên Ngọc Dung, kịch sinh năm thứ hai nhưng sau hè này chị sẽ lên năm thứ ba... Nhớ nha. Em tên gì?"
- “Em tên Mai. Mai là con khỉ đó. Khi em lại tìm chị, em sẽ nói Mai con Khỉ, học sinh trường Petrus Ký há...”
Cô gái cười khinh khích:
- “Em nói chuyện vui quá. Mai học Petrus Ký là được rồi. Khỏi Mai Khỉ gì hết. Nói vậy để chị khỏi lầm với Mai là tên con gái.”
Trời ơi, thằng Mai muốn có người chị như chị Ngọc Dung quá. Trước khi chia tay, nó còn hỏi với thêm một câu:
- “Chị còn đi học chữ không?”
- “Còn chứ. Chị đang học trường Trưng Vương, năm nay chị thi Tú tài hai. Ráng cho bằng anh Tòng đây.” Dung vừa nói, vừa chỉ tay sang anh sinh viên và nháy mắt với nó.
Khi hai anh chị Tòng và Dung đi rồi, thằng Mai vẫn còn đứng ngẩn ngơ. Hôm nay là một ngày vui của nó. Nó mong ước ngày nào cũng gặp được những người dễ thương như hai anh chị này. Trong xóm nó cũng có những người rất dễ thương nhưng dễ thương theo cách của những người nghèo khó, không ăn học, suốt ngày chỉ cố gắng kiếm những đồng tiền còm để sống cho qua một ngày. Họ chỉ sống cho những ngày trước mặt, không biết ước mơ cho tương lai. Mà ước mơ sao được khi họ không biết sống cuộc sống ngày hôm nay ra sao. Có ước mơ chăng chỉ là ước mơ cho hôm nay có đủ cái để ăn, để mặc. Gia đình nó cũng là một trong những gia đình trong cái cộng đồng xóm nghèo ấy. Nó may mắn là đã thi đậu vào trường công, nếu không số kiếp của nó cũng như những thằng bạn cùng tuổi đang mưu sinh bằng những nghề đàng hoàng cũng như bất chính.
Thằng Dũng nhắc nó:
- “Tao đi lại quày sách văn học. Mầy lại quày sách nghệ thuật đi.”
Thằng Mai đi lại quày sách nghệ thuật ở trong góc nhà sách. Đứng trước một dãy kệ mà những quyển sách với những cái bìa đủ màu sắc làm nó hoa cả mắt. Đủ loại sách dạy nghệ thuật tử dạy cắm hoa đến xếp giấy, chụp ảnh đẹp, nghệ thuật vẽ tranh... Nó lướt nhìn khắp các kệ sách mỏi cả cổ mà vẫn chưa tìm thấy quyển nào dạy đóng kịch. Nó năn lòng bước qua quày sách dạy kỹ năng. Nó lẩm nhẩm đọc
“Làm sao sáng tác trong ba mươi ngày” “Kỹ thuật reo giây (tremolo) trong ghita classic”. Một cuốn sách mỏng, bìa đã củ nhưng cái tựa làm nó mừng rơn “Đạo diễn và diễn viên" của tác giả Ngọc Linh. Nó vội vàng cầm lên xem ngay lời nói đầu có giới thiệu về tác giả Ngọc Linh. Té ra ông này là tiểu thuyết gia có truyện đăng trên các báo, lại là soạn giả của nhiều vở tuồng trên sân khấu Thanh Minh - Thanh Nga. ông đã viết phim cho Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương đóng. Vậy là đúng rồi..” nó suy nghĩ, lật tiếp vào những trang trong. Đọc lướt qua một số đoạn với những chữ như lời thoại, rồi diễn độc thoại, hình thể trên sân khấu, tính cách nhân vật trong thoại kịch làm nó rối mù. Nó chợt ước phải chi bây giờ có chị Ngọc Dung giảng nghĩa cho mình hiểu thì hay quá. Hay là mình mua cuốn này rồi khi gặp chị nhờ chị dạy cho hiểu. Nó nhìn xem giá tiền cuốn sách. Trời ơi tới năm chục lận. Mỗi ngày nó chỉ đưực má nó cho năm đồng để ăn sáng và đi học. Phải nhịn 10 ngày, cũng được. Nhưng trong 10 ngày đó cuốn sách có còn không khi trên quày sách chỉ còn có một quyển. Làm sao đây? Làm sao đây?
Nó nhìn chung quanh. Quày này nằm trong góc nên có ít người đến chọn sách. Chung quanh nó không có ai đứng bên cạnh. Bất ngờ, nó khum người xuống, mở nút áo, cầm cuốn sách nhét vào thắt lưng. Nó làm những động tác này thật nhanh nhưng vẫn cảm thấy hồi hộp. Hồi nhỏ, nó chuyên đi ăn cắp bánh ngọt ở những tiệm người Hoa trong khu nó ở bằng cách này chưa bị ai bắt quả tang. Nhưng bây giờ khi giở lại trò chôm chỉa này nó lại run như chưa bao giờ làm. Nó nhìn quanh. Không ai để ý đến nó. Nó thở phào đi lại quày thằng Dũng đang đọc sách, rủ thằng này đi về. Phải ra khỏi nhà sách này càng sớm càng tốt.
Vừa đi ra khỏi quày sách nó chợt giật nảy mình. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai nó. Một người đàn ông trung niên, mặc áo dài tay bỏ trong quần y như một công chức vỗ vai nó, nói nhỏ:
- “Chú có chuyện này muốn nói với con một chút. Con đi theo chú.”
Mặc dù người đàn ông này nói năng nhỏ nhẹ, nhưng trong giọng nói có một uy lực nào đó mà nó biết rằng khi nó không đi theo người đàn ông này thì sẽ có chuyện không hay.
Người đàn ông dẫn nó đi lên lầu trên, ông ta dẫn nó đến bàn một ông đang ngồi tính toán sổ sách gì đó. ông này trán cao, tóc chẻ hai ngôi, răng hơi hô với đôi chân mày to, rậm. Ông ta hỏi bằng một giọng trầm, đục:
- “Cậu ăn cắp sách hả.”
Thằng Mai cúi gằm mặt, khoanh tay, nói lí nhí:
- “Dạ.”
- “Đâu, cậu lấy quyển gì vậy, đưa tôi xem.”
Nó thò tay vào bụng, lấy quyển sách ra. ông ta cầm quyển sách, ngắm nghía:
- “Chà... muốn trở thành nghệ sĩ hả. Làm nghệ sĩ thì tốt nhưng sao lại đi ăn cắp sách?”
- “Dạ, tại con không có tiền, ông tha cho con lần đầu, lần sau con không tái phạm nữa.”
- “Cậu có biết ăn cắp là xấu không.”
- “Dạ biết.”
Ông ta lấy tờ giấy trắng trên bàn, đưa cho nó:
- “Cậu ngồi đó, làm một tờ khai tên tuổi, học trò trường nào...”
- “Dạ, ông đừng báo về trường. Báo về trường chắc con bị đuổi học.”
- “Cậu học trường nào?”
- “Dạ... dạ...”
Ông nhìn vào ngực áo thằng Mai, rồi kêu lên:
- “Học sinh Petrus Ký à? Có thật là học sinh Petrus Ký không hay là cậu giả mạo? Học sinh Petrus Ký đâu có đi ăn cắp sách. Đâu cho tôi thẻ học sinh xem.”
Thằng Mai xấu hổ muốn độn thổ. Tại sao nó lại không gỡ cái phù hiệu khi ra khỏi trường. Nó móc cái bóp nhựa lẹp kép bỏ sau túi quần lấy ra cái thẻ học sinh đưa cho ông này. “Cậu ăn cắp sách để làm gì? Để đi bán hả?”
- “Dạ không. Để con học.”
- “Mua sách để học thì cậu phải mua chứ. Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt. Ăn cắp được một lần thì sẽ ăn cắp nhiều lần. Những người không có học thì ăn cắp những món đồ lặt vặt chứ những người có học, có tri thức khi ra đời sẽ ăn cắp nhiều thứ lớn hơn... Tại sao cậu lại đi ăn cắp. Bộ cậu không có tiền mua à. Đâu cậu đưa cái bóp tôi xem.”
Một lần nữa, nó móc cái bóp nhựa lép kẹp tử trong túi ra đưa cho ông ta. ông ta mở bóp nhìn vào cái bóp trống không. Thằng Mai nói thật suy nghĩ của nó:
- “Dạ, tại con thích quyển này quá mà bây giờ thì không có tiền. Con sợ khi con để dành đủ tiền rồi thì sách không còn nữa. Con định lấy quyển sách khi nào có tiền con mang tiền đến trả.”
- “Khi nào cậu có tiền?”
- “Dạ... không.. không... biết...”
- “Thôi viết tên tuổi, lý do ăn cắp sách, trường học rồi đưa cho tôi. Ngồi ở cái bàn đó...”
Khi thằng Mai bắt đầu ngồi viết, thì ông Trương, chủ nhà sách Khai Trí chợt nhớ lại ngôi trường mà mình đã học. Lâu quá, lo bận bịu kinh doanh ngành sách ông đã quên mất ngôi trường của mình. Cậu bé ăn cắp sách đã giúp ông nhớ lại ngôi trường mà cậu bé Nguyễn Hùng Trương hàng ngày ngồi cắm cúi đọc những quyển sách mượn từ thư viện, hay nhịn quà sáng để mua mang vào lớp học. Đôi lúc, trong giờ học vì mải mê đọc sách nên đã bị các giáo sư bắt chép phạt nhiều lần. Ăn cắp là một tội nhưng ăn cắp sách lại là một tội nhỏ dễ tha thứ. Những người ăn cắp sách chỉ là những người muốn hiểu biết, nhưng trong hoàn cảnh nào đó người ta không có tiền mua. Thằng bé này không phải là người đầu tiên. Từ năm 1952, những ngày đầu tiên ông mở nhà sách tại số 62 Bonard rồi Lê Lợi này, nhân viên của ông đã bắt nhiều người ăn trộm sách. Nhiều nhất là bọn du thủ, du thực sống chung quanh khu Dân Sinh, khu cầu Muối vào ăn cắp sách để bán lại cho những hàng bán sách “xôn” ngoài vỉa hè Lê Lợi. Với bọn này, ông Trương thẳng tay giao cho cảnh sát vì bọn họ chỉ cần tiền chứ không cần sách. Còn những người ăn cắp sách là học sinh, sinh viên, thậm chí những trí thức vì một lý do gì đó ăn cắp sách, ông chỉ cho viết một bản cam kết "không ăn cắp sách” để ngăn ngừa họ tái phạm lần thứ hai rồi cho về, vì họ là những người ăn cắp sách vì cần chữ. Thằng Mai viết xong bản cam kết rồi đưa cho ông Trương:
- “Dạ, thưa ông, con lỡ dại một lần ông tha cho. Xin đừng báo về trường con...”
- “Lần này tôi tha cho cậu, không báo về trường, lần sau...”
- “Dạ, con xin thề, không có lần sau. Nếu vào nhà sách này con sẽ mua...” Nó láu táu nói vì mừng. “Dạ thưa ông, con đi về.”
Khi nó vừa bước ra cửa, ông Trương gọi nó lại. Nó giật nẩy mình. Ông chủ nhà sách đổi ý rồi chăng?
- “Dạ, ông kêu con.”
Ông Trương cầm quyển sách đưa cho nó:
- “Nè, tôi cho cậu quyển sách. Khi nào trở thành kịch sĩ nổi danh nhớ mời tôi đi coi hát nghen...”
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn