Chương 16
Chỉ còn hơn tháng nữa là đến tết âm lịch nhưng không khí trong con xóm nhỏ của thằng Mai đã rộn ràng không khí tết. Những sòng bầu cua cá cọp, sòng bài có thể mọc lên bất cứ chỗ nào miễn là có từ hai con bạc là đã đủ tụ ăn thua. Người ta ăn, người ta nhậu và người ta tìm đủ mọi cách để có tiền đánh bạc, ăn và nhậu. Hình như đối với người nghèo, nhất là con nít sinh ra trong những gia đình nghèo chỉ có dịp tết là dịp để được ăn chơi nên họ ăn chơi trước từ tháng 11 âm lịch. Và dịp này cũng là dịp để họ kiếm tiền tứ đủ loại dịch vụ sinh ra từ tết.
Sáng nay trời đột ngột se lạnh. Nghe nói là có cơn bão rớt nào đó từ miền Trung nên suốt cả đêm trời cứ mưa liên tục. Đêm qua, thằng Mai cứ ngủ chập chờn vì phải canh hứng nước mưa từ những chỗ dột trên mái nhà. Nó không muốn má nó phải làm chuyện này vì buổi sáng bà phải thức dậy sớm để nấu bánh canh, rồi gánh ra bán tại trường tiểu học Bình Tây. Trong những lúc không ngủ được, nó tranh thủ đốt đèn dầu để ôn lại bài học. Nhiều bài khó quá, nó không hiểu được, phải vào lớp nhờ bạn bè chỉ thôi. Nhiều đứa ngoài giờ học trong lớp nó còn đi học thêm các “cua” toán, lý, hóa tại các trường tư cúa các giáo sư nổi tiếng để bắt kịp chương trình. Thằng Mai cũng muốn được đi học thêm lắm nhưng không có tiền.
Phải chi anh nó đừng bị bắt đi quân dịch thì khoản học phí anh nó có thể cho nó được. Nhà có ba anh em. Ba nó mất sớm vì bệnh phổi khô - một bệnh do phải thổi ống chai trong một xưởng làm chai thủy tinh cúa người Tàu tại quận 11. Có lần nó được ba nó dẫn vào xưởng xem thợ thổi chai. Giữa khu xưởng sản xuất có một cái lò khổng lồ được dùng để nấu những chai, lọ thủy tinh bể. Bây giờ nó mới biết tại sao, thỉnh thoảng trong khu xóm của nó xuất hiện những ông già người Tàu, gánh hai cái cần xé vừa đi vừa rao “mua chai, ly “pể”... lây... có ai bán chai pể... khôn...”. Đôi khi ông già người Tàu này là nơi “cung cấp” cho tụi con nít trong xóm tiền bánh kẹo khi tụi nó bán cho ông những cái chai bể, những tĩn nước mắm không. Thằng Mai cũng nằm trong số hưởng “đặc ân” của ông già gánh ve chai mà tụi nó gọi là ông địa do cái dáng vẻ mập mạp, lùn tịt. Đôi khi, trên đường đi học về, thấy một cái chai, ly bể nằm trong đống rác, thằng Mai lượm bỏ vào cái cần xé nhỏ để trong góc nhà. Cái cần xé là kho tàng ve chai bể của ba anh em nó. Lúc đó nó không biết ông địa mua ve chai bể để làm gì. Có lần nó hỏi thì ông địa trả lời: “Hà... ngộ bán lại cho mấy lò thổi ve chai lớ...’’.
Khi vào lò thổi ve chai nó mới biết được chai bể được các ông mua ve chai dạo bán lại cho các lò, được thợ nấu ve chai phân loại, rửa sạch sau đó bỏ vào một cái lò thật là bự để nấu chảy ra thành một chất sền sệt, đỏ rực và nóng kinh
khủng. Những người thợ thổi chai, tay cầm một ống thủy tinh dài ngoằng, một đầu hứng thủy tinh vừa nấu chảy từ những cái lò đặt trước một cái khuôn rồi kê miệng lên một đầu của ống thủy tinh dài thổi thật mạnh. Chất thúy tinh lỏng nằm trong khuôn qua sức thổi của người thợ thổi chai sẽ thành hình cái chai dài hoặc bầu tùy theo hình dạng cái .khuôn mà thủy tinh được thổi vào. Những người thợ thổi chai, do thường xuyên dùng hơi thở thổi thủy tinh nóng nên dễ bệnh khô phổi.
Ba thằng Mai bị bệnh khô phổi và phải vào nằm trị bệnh tại trung tâm bài lao Hồng Bàng. Khi nó vào thăm thì nó thấy thân hình ba nó, trước kia lực lưỡng dường nào bây giờ giống như hình dạng bộ xương mà nó học trong giờ cách trí năm lớp ba. Ông xoa đầu bằng bàn tay khô đét mà nó cảm nhận được qua những ngón tay gần như chỉ còn da bọc xương nói không ra hơi, thều thào: “Sinh nghề tử nghiệp biết oán trách ai. Con ráng học để sau này đỡ khổ thân...”
Không bao lâu sau khi vào nằm ở trung tâm bài lao thì ba nó chết. Gánh nặng gia đình đè lên đôi vai gầy guộc của má nó. Thằng anh nó, đang theo học lớp đệ thất trường Quốc Việt phải nghỉ học đi làm ở một cơ sở làm cửa sắt vì má nó không thể chịu nổi học phí trường tư ngày càng cao theo mỗi bậc lớp, một phần là anh nó muốn tìm tiền phụ thêm để nuôi nó và đứa em gái ăn học cho thành tài. Anh nó nói với nó “mầy phải đậu đệ thất trường công mới được đi học tiếp chứ không có tiền học trường tư đâu”. Bởi vậy khi lên lớp nhất nó quyết tâm đậu cho được vào trường công. Lần đầu tiên, sau khi vừa học hết lớp nhất ở một trường tiểu học nhỏ, nó thi rớt đệ thất. Nó được anh nó khuyến khích học luyện thi đệ thất ở một trường chuyên dạy luyện thi của một ông giáo già có kinh nghiệm, ở lớp này, nó chỉ học tập trung những môn sẽ được dùng trong kỳ thi tuyển. Không hiểu sao, trong lớp học luyện thi này nó lại là một trong những đứa học sinh giỏi nhất lớp. Nó nghĩ là có thể ba nó phù hộ cho nó. Thoạt đầu nó định thi vào trường Mạc Đĩnh Chi nhưng theo lời ông giáo già nhiều kinh nghiệm khuyên nên nó nộp đơn thi vào trường Petrus Ký. Thật là hú hồn. Dù cho nó là thủ khoa của lớp chuyên luyện thi của ông giáo già đi chăng nữa thì nó chỉ đủ điểm để đứng vào danh sách học sinh đậu vớt. Học sinh đậu vớt chỉ có một cơ may được vào học là khi những học sinh đậu chánh thức nhưng lại không nhập học. Trong khi nó hụt hẫng và tiếc nuối với sự oán trách tại sao không chọn thi vào trường Mạc Đĩnh Chi vì nó chọn trường này thì với số điểm đó nó có thể trúng tuyển rồi thì dịp may rất hiếm khi xảy ra lại đến với nó: một học sinh trúng tuyển, con của một vị đại sứ đã theo cha mẹ ra nước ngoài. Thư của nhà trường gọi nó vào nhập học đến trong lúc nó đang phân vân nên đi học tiếp hay đi làm. Lức này nó cũng chán nản việc học vô cùng vì nó nghĩ rằng con nhà nghèo như nó không thể nào sống được để đi học. Nhìn vào tất cả những thằng bạn trạc tuổi trong xóm nó, kể cả những người bạn của anh nó, có ai được đi học đâu. Học hết lớp nhất, thi rớt đệ thất rồi kiếm công việc gì đó để mưu sinh. Có thằng thì có nghề có ngỗng đàng hoàng, còn có thằng thì sống bằng đủ thứ nghề không tên, kể cả trộm cắp và móc túi.
Với trình độ của nó, với một gia đình mà sự học không phải là truyền thống, tự học mà không có người kềm cặp, và không có tiền để đi học thêm ở những lớp riêng nên thằng Mai gần như là những thằng luôn đội sổ trong lớp từ đệ thất. Nó được lên lớp cũng với thứ hạng đội sổ vì nó nhờ những môn học thuộc lòng như sử, địa, công dân, kim, cổ văn, nhạc, họa để kéo điểm trung bình lên lớp bù lại những môn học yếu như toán, lý, hóa. Nhiều đứa bạn như thằng Dũng, thằng Thạch, thằng Khải đã thương tình cho nó “cọp dê” các môn Anh văn, toán, lý, hóa vào những kỳ thi này để nó khỏi bị “si-rô” điểm mà không đủ điểm lên lớp.
Cũng phải nói thêm cho công bằng, trong khi những đứa bạn của nó, ngoài giờ học về nhà còn có thời gian để ôn lại bài thì sau giờ học ở trường nó còn phải đi làm phụ xe ba bánh cho chú Hóa trong xóm để kiếm tiền mua sách, vở cũng như tiêu vặt. Cũng như sáng nay.
Lấy hai đồng mà mỗi sáng má nó để sẵn trên bàn, đó là số tiền mà má nó cho để ăn sáng. Nó mặc bộ quần áo bằng ka ki dính đầy dầu mỡ mà anh nó để lại, đội cái nón lên đầu rồi đi ra đầu ngõ. Với hai đồng nó có đủ tiền để ăn khúc bánh mì cá mòi, hoặc xíu mại nhưng nó sẽ không còn tiền để uống nước buổi chiều, nếu như sáng này không tìm được mối đi xa nào. Nó đi ra đầu ngõ tìm đến gánh bánh mì của bà Tư móm ở đầu ngõ.
- “Cho con ổ bánh mì không bà Tư.”
Bà Tư luôn nhai cái miệng móm mém. Thằng Mai tự hỏi không biết bả nhai cái gì mà nhai liên tục vậy không biết. Bà Tư lấy một ổ bánh mì đang nướng trên cái dĩa đựng than nhỏ đặt dưới một quang gánh, gói bằng miếng giấy nhựt trình đưa cho nó. Thằng Mai mở gói, lấy miếng giấy nhật trình, rồi đưa cho bà Tư ổ bánh mì:
- “Cho con ổ bánh mì không bà Tư.”
Lần này bà Tư không nhai nữa mà lại phàn nàn:
- “Sao mầy ưa xin đồ chua quá vậy mậy? Lần nào cũng xin...”
- “Bánh mì có đồ chua ăn mới ngon!”
Nó không dám nói thiệt là ăn bánh mì không thì ngán chết.
- “Cho con xin miếng nước tương bà Tư.”
- “Sao mày không xin thêm miếng thịt nữa?”
- “Dạ, con sợ bà Tư không cho chứ bà Tư cho là con xin liền.”
Bà Tư móm cầm chai tàu vị yểu hiệu Ba con mèo xịt vào ổ bánh mì cho nó. Nó làm bộ khen cho bà Tư vui lòng:
- “Tàu vị yểu Ba con mèo là tàu vị yểu thứ thiệt chứ không phải tàu vị yểu nấu bằng xương bò, mấy tờ nhựt trình nói như vậy. Chắc tàu vị yểu này mắc hơn mấy thứ tàu vị yểu kia hả bà Tư?”
Bà Tư tiếp tục nhai cái miệng không:
- “Mấy thằng ăn học chữ nghĩa như mầy biết nhiều thứ chuyện dữ ha.”
Nó không hiểu bà Tư nói vậy là khen hay chê, tuy nhiên nó cũng chẳng cần vì nó đang cầm khúc bánh mì nóng hôi hổi. Nó cầm ổ bánh mì đưa lên mũi ngửi để tận hưởng mùi thơm đạc trưng của bánh mì. Mùi bánh mì này chỉ có những lò bánh mì than mới có chứ mấy lò bánh mì điện thì làm sao có được. Không chịu nổi cái mùi thơm lựng làm bụng nó réo sôi sùng sục, nước miếng nó bắt đầu ứa ra, nó đưa ổ bánh mì giòn tan lên miệng nhai ngốn ngấu. Đồ chua và vị mặn của tàu vị yểu làm cho vị ngọt của ổ bánh mì thêm đậm đà. Chẳng mấy chốc, nó liếm mép để tìm xem còn vụn bánh mì nào dính trên khóe miệng hay không. “Tiêu diệt” xong ổ bánh mì, nó đến vòi nước ở cái “phông tên” công cộng làm vài ngụm là coi như đã no suốt buổi sáng. Sau đó nó ra đầu cầu Bình Tiên ngồi chờ xe ba bánh gắn máy của chú Hóa chạy ngang xem có đi được mối hàng nào không. Trước nó cũng có mấy thằng trạc tuổi nó ngồi đợi xe ba bánh của chú Hóa đến. Một thằng nhìn nó nói:
- “Cha, có bộ đồ coi gồ ghề há.”
- “Ừ, mặc đồ này để khiêng đồ cho dễ.”
- “Ngày hôm qua kiếm được bao nhiêu?”
- “Ngày hôm qua tao đâu có đi.”
Thằng nhỏ kia, phun nước miếng xuống đất than thở:
- “Đ. M gần tết rồi mà không kiếm được “miếng gió” nào hết, coi như “mông tại”..”
Từ đàng xa, tụi nó đã thấy bóng dáng chiếc xe ba bánh gắn máy của chú Hóa xuất hiện. Chú Hóa chỉ chuyên chở thuê cho những cơ sở làm đồ sắt nên mỗi lần chở chú phải cần từ hai đến ba thằng phụ giúp chú khiêng hàng chất lên xe và xuống xe. Mỗi chuyến chú cho mỗi đứa hai đến ba đồng. Nếu như ngày nào nhiều mối tụi nó cũng kiếm được năm, sáu đồng. Công việc chỉ nặng nhọc khi khiêng hàng lên, xuống chứ lúc ngồi trên xe ba bánh chạy dọc phố phường thì như được ngồi trên xe xích lô máy đi chơi không tốn tiền. Chú Hóa chạy xe ba bánh gắn máy như một tay đua xe, phóng ào ào trên đường phố làm mấy ĩhằng nhóc ngồi trên xe la hét ỏm tỏi. Tụi nó càng la chú Hóa càng phóng xe nhanh hơn.
Chú Hóa, đầu hớt cao gần như trụi lũ với hàm răng hơi hô nên nhìn gương mặt chú không biết là chú có đang cười hay không và cũng để cho chú không mím môi được khi rồ hết ga. Khi rảnh, hoặc ngày nào không có mối chạy xe, chú đem chiếc xe Goebel - mà chú gọi là con ngựa chiến, vào sân Cộng Hòa để luyện tập cho những cuộc đua xe thỉnh thoảng được tổ chức tại đây. Thằng Mai nhớ lại có lần nó được chú Hóa cho một diễm phúc là làm người “chăn xe” cho chú trong lần đầu tiên chú tham dự một cuộc đua xe gắn máy giành cúp nổi tiếng. Mỗi tay đua tham dự cuộc thi đều có một “chăn xe”. Để mình không bị mất uy, chú Hóa kêu thằng Mai đi theo làm chăn xe vì thằng này ít nhiều cũng có chữ nghĩa, dễ ăn nói với người ta. Thật ra “chăn xe” là từ dùng để chỉ công việc của mấy chú “tiểu đồng” là lau xe, rửa xe, chùi bugi, coi lại bánh xe cho chiếc xe sau mỗi chặng đua chứ chẳng có dùng miếng chữ nghĩa nào như chú Hóa tưởng. Nhờ làm việc “chăn xe” mà nó được ở dưới sân, nhìn được tận mắt các tay đua xe gắn máy nổi tiếng trong các giải đua xe gắn máy trước đây. Và nó cũng được thấy chú Hóa trong bộ quần áo của cua-rơ đua xe gắn máy ngầu hết biết. Chú đội cái mũ bảo hiểm trên đầu kín mít chỉ chừa hai con mắt và cái lỗ mũi để thở, mặc một bộ quần áo bảo hộ giống như quần áo phi công. Nhìn chú trong bộ dạng này thì không ai ngờ rằng đây là chú Hóa “hăng rô” chạy xe ba bánh máy.
Nó còn nhớ rõ như in khi chú đậu xe trong đội hình ở vạch xuất phát để chờ lệnh bắt đầu cuộc đua, chắc do căng thẳng nên chú rồ ga xe liên tục. Khi trọng tài phất cờ, chú cài số 1 rồi nhả tay “côn” mà quên rằng mình đang rồ hết tay ga nên chiếc xe chồm lên, bánh trước giựt cao lên khỏi mặt đất. Chiếc xe quăng chú ra khỏi đường băng, bay vào thảm cỏ, nằm một đống như lúc chú đang uống rượu say. Không ngờ thằng “chăn xe” có thêm nhiệm vụ mới là khiêng “anh hùng xa lộ” vào sân với xương bánh chè không chiu nằm đúng chỗ mà trời sinh ra. Chú Hóa, lần này đã tính không lầm khi kêu thằng “có chữ nghĩa” đi "chăn xe”. Với cái miệng của nó khi diễn tả chú Hóa oai hùng trong bộ quần áo tay đua, rồi hình ảnh chú bay vào thảm cỏ do các tay đua khác chơi xấu. Té ra chữ nghĩa của nó được dùng vào việc nói dóc!
Với câu chuyện nầy nó kể cho mấy thằng bạn đi khiêng hàng chung suốt cả tháng làm tụi này nhìn nó với một cặp mắt ngưỡng mộ nó giống như ngưỡng mộ chú Hóa. Riêng chú Hóa rời bỏ mộng trở thành tay đua chuyên nghiệp từ đó để trở về với việc đua xe ba bánh gắn máy khi chở hàng. Nhờ chạy xe nhanh nên chú được các chủ hàng tín nhiệm, chứ đâu có biết rằng thinh thoảng chú cũng bị cảnh sát công lộ phạt vi cảnh vì tội chạy xe ẩu. Lâu lâu có nhớ đường đua, chú chạy chiếc xe Goebel vào sân Cộng Hòa, cua cua vài vòng sân cho đỡ nhớ lại ngày nằm dài trên thảm cỏ.
Chiếc xe chạy qua mấy con đường lớn rồi tấp vào chành gạo “Vạn Thịnh” ở đường Phạm Phú Thứ. Chú Hóa ngừng xe, bảo với tụi nó:
“Tụi bây vào khiêng gạo chất lên xe.”
Chú Hóa dẫn hai đứa vào trong chành, chỉ vào chỗ các bao gạo đã được chuẩn bị sẵn để chuyển đi. Thằng Mai với thằng nhỏ kia, mỗi thằng nắm ở hai đầu bao ì à, ì ạch khiêng từng bao gạo chất lên xe. Khiêng mới được vài bao gạo thằng Mai có cảm tưởng như ổ bánh mì mới ăn hồi sáng đã biến đi đâu mất. Tay nó run lên. Thằng nhỏ kia hỏi:
- “Mầy sao vậy?”
- “Hổng biết sao, tao đói quá.”
Thằng nhỏ kia móc trong túi quần xọt, lấy ra củ khoai lang đưa cho thằng Mai:
- “Mầy ăn đỡ đi. Chút nữa chạy ngang đâu nói chú Hóa ngừng lại mua khúc bánh mì không gặm là đỡ rồi..”
Thằng Mai cầm lấy củ khoai, không khách sáo, nhai lấy nhai để. Nó cảm thấy dễ chịu dần. Nó không hiểu sao lúc này mỗi buổi sáng nó ăn một ổ bánh mì vẫn chưa đủ no. Nó nghĩ, chút xíu nữa có tiền ăn tô hủ tíu cho nó đã. Hôm nay vác gạo kiểu này chắc cũng kiếm “khẳm tại”.
Đi xe cho chú Hóa, có khi có tiền, có khi không, tùy theo ngày đó chú tìm được mối hàng nhiều hay ít không bằng lúc nó đi theo thằng Lúi làm lơ xe đò chạy Lục tỉnh lúc nó nghỉ hè năm lớp đệ lục. Thằng Lúi, lớn hơn thằng Mai vài tuổi nhưng đã bỏ nhà đi giang hồ sớm. Nó làm đủ thứ nghề không tên, nắng gió giang hồ ở các bến xe, sòng bài, ổ điếm đã làm mặt nó chai sạn. Nó thường mặc cái áo lính biệt động quân rằn ri, cắt cụt tay áo tới vai để lộ những hình xăm chằng chịt ngay cánh tay, dấu ấn của trại tế bần. Dù hồi nhỏ hai thằng chơi thân với nhau, đã từng rủ nhau xem hát cọp, đánh nhau với bọn con nít xóm Lò heo, nhưng khi gặp lại thì thằng Lúi giống như một đại ca, chơi với thằng Mai rất đẹp. Thằng Lúi vẫn thương thằng Mai như lúc hai thằng còn đi học ở trường tiểu học Bình Tây mặc dù bây giờ thằng Mai có chữ có nghĩa hơn nó nhiều. Thằng Lúi thường bao thằng Mai uống cà phê sữa đá khi trong túi nó rủng rỉnh tiền có được từ việc đi làm lơ xe cho các chuyến xe đò chạy Lục tỉnh. Một hôm, đang ngồi uống cà phê thì thằng Lúi rủ:
- “Đ. M mầy đang nghỉ hè hả? Có định đi làm gì môi tại không?”
- “Tui đâu có biết làm gì đâu anh? Làm cái gì cũng phải làm lâu, làm vài tháng chủ đâu có chịu. Chắc đi theo thằng Chim đi vá xe...”
Thằng Lúi phun nước miếng chửi thề:
- “C... đi theo tụi thằng Chim kiếm được bao nhiêu tiền. Mầy đi theo tao làm lơ xe phụ, suốt kỳ nghỉ hè này mầy kiếm vài bách như chơi. Mà còn được ăn uống ngon lành nữa...” Vài trăm! Vài trăm là bao nhiêu? Hai trăm, ba trăm... Nó chỉ cần có một trăm thôi là cũng đủ tiền mua thêm sách giáo khoa cũ, sắm thêm bộ đồ vì nó đã nhổ giò, cái quần cũ đã rút lên khỏi mắt cá. Vậy mà nó có tới vài trăm, ừ, dư chút đỉnh mua thêm quần áo cho con Thắm - em nó.
- “Nhưng tui có biết làm gì đâu anh.”
- “Dễ ẹt. Khiêng đồ hành khách lên mui xe. sắp xếp chỗ ngồi... thu tiền... khách...”
Thằng Mai nghĩ đến tướng tá của mình, rồi nó ngập ngừng:
- “Nhưng chủ xe chịu không anh?”
- “Xì. Tao nói một tiếng là con mẹ chủ xe đò chịu liền.”
Nhân lúc anh nó đi theo thầu khoán lên Biên Hòa làm thợ hồ, nó chỉ nói với má nó là nó tìm được việc làm ngắn ngày, ăn cơm và ở nhà chủ. Ngày hôm sau nó theo thằng Lúi ra bến xe Petrus Ký nằm ngay góc đường Thành Thái - Petrus Ký để gặp bà chủ hãng xe đò Phi Thanh. Sau khi nghe thằng Lúi giới thiệu thằng Mai sẽ là phụ lơ cho nó, bà chủ nhìn thằng Mai ước lượng như đang mua gà hay mua vịt:
- “Sao nó nhỏ xíu con vậy. Làm sao đủ sức giành khách với mấy hãng xe đò khác?”
- “Bà chủ khỏi lo. Chuyện giành khách là của tui.”
Bà ta ngần ngừ:
- “Thôi, mầy kiếm thằng khác đi.”
Thằng Lúi nói ngang phè:
- “Ừ để tui kiếm thằng khác thay nó. Còn bà kiếm thằng khác thay tui nghe. Mấy hôm rày bên Minh Hùng kêu tui hoài mà tui chưa qua.” Nó quay qua thằng Mai: “Đi mày, đi qua Minh Hùng làm mày...”
Bà chủ kêu giựt giọng:
- “Ê, đi đâu vậy mậy. Tao nói chơi mà bỏ đi sao. Ừ, kêu thằng bạn mày vô làm luôn. Bắt đầu chuyến tài 3...”
Thằng Lúi đã nắm được thóp bà chủ. Mỗi hãng xe đò cần phải có những thằng lơ xe thật ngầu, thật chì, đã từng vào trại Tế bần hay Chí Hòa càng tốt. Chạy xe đò đường dài là phải cạnh tranh lẫn nhau để giành khách. Nhiều khi xe của hãng A đến trước trước, đang chuẩn bị đưa khách lên xe thì xe đò sau chạy trờ tới. Thằng lơ của chiếc xe đò sau ỉíền nhảy xuống xe, nhìn lơ thằng xe đò trước, hất hàm “Ê, khách của tao mà giành hả?” Thế là chuyến xe đò trước phải để khách lại. Đã có nhiều trận thanh toán nhau giữa các lơ xe bằng maniquen, cờ-lê mở bánh xe và cả dao nữa. Thằng lơ xe nào gan lì, chịu chơi thì sẽ tồn tại trong những chuyến đi đường dài. Thằng Lúi đã tồn tại nhờ những ngày ở trại Tế bần, học đủ cách chơi với bọn anh chị giang hồ giới xe đò. Bà chủ hãng xe đò Phi Thanh phải dựa vào nó. Bà còn đang tính mua cho nó cái giấy hoãn dịch giả khi nó đến tuổi đi quân dịch.
Tất nhiên thằng Mai đã nể thằng Lúi nhưng thấy thái độ nó nói chuyện với bà chủ nó còn phục hơn. Thấy còn sớm, thằng Lúi dẫn nó đi ăn mỳ Lakai ở ngã sáu. Lần đầu tiên nó được ăn mì ở khu nổi tiếng của người Tàu nên vô cùng e dè, khép nép. Trong khi đó thì thằng Lúi xử sự như một khách hàng thường xuyên vào những khu vực sang trọng như thế này. Thằng Lúi ngồi dựa ngửa, dõng dạc gọi “Ê, phổ ky, cho lượng cô phảnh - mìn. Lượng búi... lượng búi... cà phê sữa.” Mấy anh phổ ky người Tàu dạ vang rân. Đâu có ai biết tụi nó là lơ xe đò đâu. Có tiền là làm “xì thẩu” ngay!
Ăn no căng bụng, thằng Mai theo thằng Lúi trở về bến xe để bắt đầu ngày làm lơ phụ. Những chuyến xe đò đi Lục tỉnh, khi xuất bến thường dư một ít chỗ, nên các tài xế thường dừng xe đón khách ở dọc lộ trình. Công việc của lơ xe là sắp xếp cho khách chỗ ngồi, chất hàng hóa của khách lên mui xe và thu tiền của khách. Thằng Mai mới vô nghề chỉ được làm lơ xe phụ chứ chưa được làm lơ xe chính. Lơ xe chính là thằng Lúi.
Thằng Lúi phân công cho nó soát vé hành khách, kiểm tra xem hành khách ngồi đúng số ghế chưa rồi cùng thằng Lúi ra chất hàng hóa của hành khách lên nóc mui xe. Công việc cũng khá dễ dàng chỉ mệt nhất là lúc khiêng hàng hóa do nó chưa quen. Tuy vậy, nó vẫn làm hết sức mình và khi thằng Lúi nhìn nó cười ra vẻ hài lòng thì cảm giác mệt mỏi tan biến ngay. Nó không muốn làm mất lòng tin người đã tin tưởng nó.
Từ khi xe xuất bến đến khi qua khỏi cầu Long An, nó chỉ có việc duy nhất là đứng ở cửa lên xuống phía sau xe nhìn phong cảnh hai bên đường lướt qua vùn vụt hai bên mắt nó. Đây là lần đầu tiên nó được đi xa, ra khỏi nhà mở rộng được tầm mắt như thế này. Thỉnh thoảng, theo lời thằng Lúi, nó lấy tay đập vào thân xe la lên “Vô... Vô...” khi đi ngang nơi nào có khu dân cư hoặc nơi có bà con nông dân phơi rạ ngoài đồng. Thật là lâu mới có hành khách, với hành lý tay xách nách mang, đứng bên lề đường đón xe. Thằng Lúi đứng ở cửa trên, chửi thầm trong bụng: “ĐM, khách như vầy là húp cháo rồi.”
Số tiền lơ xe và tài xế kiếm được do chia nhau tiền đón khách dọc đường. Tài xế đã được lãnh lương cúa chú nhà xe nên chỉ hưởng được ít nhiều tùy theo lòng hảo tâm của thằng lơ bởi vì đây là nguồn sống chính của nó. Lơ xe không lãnh lương của chủ nhà xe. Có chuyến xe thằng lơ có thể kiêm được nhiêu, cũng có chuyến tụi nó phải “húp cháo rùa”. Những chuyến đi xui xẻo như vậy thằng Lúi thường nghĩ là do nó kiểm tra hàng hóa hành khách mang theo không kỹ. Có thể họ đã mang theo những con vật xui xẻo như rùa, mèo mà nó không được biết. Hoặc tệ hơn nữa là mấy bà có chửa, bụng thù lù. Xe có chở rùa ư thì xe sẽ chạy như rùa bò vì trên đường sẽ xảy ra bao nhiêu thứ chuyện không biết trước, khiến hành trình sẽ chậm lại. Có mèo ư? Tài xế và lơ xe sẽ nghèo vì không có khách dọc đường. Mấy bà bầu ư? Một người có bốn con mắt nhìn vào xe thi còn làm ăn gì nữa? Trước khi xe xuất bến, thằng Lúi đã dặn dò thằng Mai rất kỹ những điều cấm ky cho một chuyến đi đường dài. Ngoài ra phải lấy tiền xe của mấy người đón giữa đường cao hơn những hành khách mua vé trong bến. Ai không đồng ý thì... đuổi họ xuống vì lơ xe có được tiền nhiều hay ít là do khoản thu không vé này đây. Nhưng tuyệt đối không được lấy tiền mấy thằng cha dân vệ, địa phương quân, nói chung là thấy ai mặc đồ lính mà lấy tiền thì còn xui hơn xe có rùa, mèo hay đàn bà có chửa nữa!
Xe đến Bạc Liêu vào khoảng bốn giờ chiều. Giờ này bến xe hầu như vắng khách, thỉnh thoảng chỉ thấy một vài người đến hỏi chuyến xe tài nhứt về Sài Gòn xuất bến lúc mấy giờ. Xe thằng Lúi nghỉ đêm tại bến xe, mai xuất bến tài nhất vào lúc 5 giờ sáng.
Sau khi rửa mặt, tay chân thằng Lúi dẫn bác tài xế và thằng Mai vào quán nhậu gần bến xe. Bà chủ quán, người tròn lẳn, cổ đeo sợi dây chuyền vàng to như thể để tương xứng với cái cổ mập, tròn chia rõ ba ngấn đàng hoàng, hỏi thằng Lúi như một khách quen:
- “Lẩu cá, la-de con cọp như mọi khi hả mậy!” Nhìn thằng Maí bả hỏi “đệ tử mới hả, thằng cũ đâu rồi? Thằng quỷ đó còn thiếu tiền mấy chai la-de rồi dông tuốt. Bán cho mấy thằng lơ xe kiểu này thì có ngày đóng cửa quán...”
Nghe bà chủ quán nói, bây giờ thằng Mai mới biết thằng Lúi cũng có thằng đệ tử trước nó. Thằng Mai nhìn cái cổ bà chú quán rồi tự hỏi không biết bà này có phải ma lai không rồi tự cười với mình. Đối với nó chuyến đi đầu tiên như vầy là quá vui. Một chút nữa thằng Lúi cho nó tiền làm lơ thì còn vui ác!
Sau khi cụng ly la-đe với anh tài xế, thằng Lúi móc tiền trong túi ra để tính toán xem chuyến xe này kiếm được bao nhiêu. Nó ngồi vuốt những tờ giấy bạc cho thẳng thớm, sau đó thấm nước miếng vào ngón tay rồi thong thả đếm trước cặp mắt của anh tài xế.
- “Được 75 đồng. Hôm nay ế khách quá. Trước khi xuất bến có cúng không anh Hai?”
Anh Hai tài xế sẳng giọng vì thấy thằng này có vẻ trút gánh nặng lên chuyện cúng bái của tài xế:
- “Sao lại không có mậy! Phật Bà Quan âm, thổ địa thần tài, ai tao cũng cúng hết... Đi xe về đây êm trót lọt, không bị kẹt hai cái bắc Mỹ Thuận, cần Thơ, đường không bị đắp mô là ngon rồi, còn đòi gì nữa mậy?”
Nó đưa cho thằng Mai hai chục, anh tài xế 15 đồng, còn bao nhiêu nó cất vào túi. Anh Tài xế nằn nì:
- “Mầy chia cho tao thêm 10 dồng nữa đi, lúc này tao kẹt quá.”
- “Thôi anh. Lúc nào anh chẳng kẹt. Ai biểu đi đâu cũng có vợ lớn vợ nhỏ làm chi...”
- ‘Mầy không biết, đời tài xế thằng nào không hai ba vợ mậy. Đến bến nào thì cũng phải ráng kiếm chỗ ngủ chớ.”
- “Đ. M Sao không mướn ghế bố ngủ, hay ngủ trong xe như tụi tui nè..”
- “Tụi bây làm lơ có thể kiếm nghề khác còn mấy thằng tài xế thì cả đời phải gắn với cái vô lăng, đến bến tỉnh nào thì cũng có cái chỗ để ngủ chớ. Như thằng nhỏ Mai nay nè, làm chừng vài tháng là nghỉ, mầy cũng vậy thôi...”
- “Kiếm vợ thì để vợ nó nuôi.”
Bưng ly la-de rót vào miệng nghe cái ọt như người sành điệu, thằng Lúi khề khà:
- “Tui hả, Đ.M tui lấy vợ là vợ phải nuôi... Tui chắc bỏ nghề lơ xe không được. Chừng một hai năm nữa đi quân dịch rồi tính. Biết đâu mà lần...”
Nó vén áo cho anh tài xế và thằng Mai xem hình xăm: “Đ. M đời tụi này như cái quan tài với ba ngọn đèn cầy vậy. Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ, cạnh quan tài ai khóc tiễn đưa tôi.”
Nó quay qua, đưa ly la-de cho thằng Mai:
- "Uống đi mầy, cho biết với người ta. Thằng này đang đi học, có chữ, có nghĩa ráng nghen mậy, ráng để khỏi phải đi lính. Mầy phải làm kỹ sư, bác sĩ, trạng sư cho tao để sau này tao nói với mọi người là tao có bạn làm kỹ sư, bác sĩ chớ...” Thằng Mai cười. Nó cũng ráng học nhưng không biết sức học nó có theo nổi những thằng bạn trong lớp không. Bây giờ ráng kiếm tiền phụ má nó tiền sách vở cái đã, để má nó khỏi lo lắng.
Chiều xuống dần. Quán nhậu gần bến xe tỉnh ly đèn mờ âm thầm, buồn bã. Bến xe tỉnh ly chiều tối quạnh hiu như những kiếp người lưu lạc, tha phương. Mùi nước tiểu bốc lên khai ngấy theo từng cơn gió thốc đến. Ly la-de vơi. Chai la-de cạn. Vài cái ghế ngả nghiêng. Giọng ca của sầu nữ Út Bạch Lan vang ra từ cái radio “National - ấp chiến lược” nghe nghèn ngẹt làm buồn thêm bến xe vắng khách. Thinh thoảng thấy một vài bóng người vào bến xe ngồi chờ chuyến xe buổi tối. Thằng Lúi hỏi anh tài xế:
- “Xe đêm còn mấy chuyến?”
- “Chẳng biết. Tùy theo tình hình chiến sự.”
- “Anh ngon quá há, không phải đi lính."
- “Tao có tới mấy đứa con lận mậy, nhưng cũng tốn tiền mua giấy hoãn dịch vì lý do gia cảnh chớ mầy tưởng tự nhiên mà tao được hoãn dịch à..."
Thằng Mai nghĩ đến anh nó. Sang năm là anh nó đã đến tuổi bị bắt đi quân dịch, má nó đang tìm cách kiếm tiền để chạy giấy hoãn dịch cho anh nó. Có người đi quân dịch đã bị chết khi ra trận. Có người bị cụt tay, cụt chân khi trở về xóm. Như lời bài hát trong một bài ca buồn qua giọng Duy Khánh “Bạn bè tôi tới lớp tuổi ra đi. Dăm đứa thân nay chẳng thấy trở về” Bởi vậy trong xóm nó có rất nhiều thanh niên trốn lính.
Làm xong ba chai la-de, anh Hai tài xế từ giã hai thằng để về nhà cô vợ bé bên cầu quay. Thằng Lúi chọc quê:
- “Ê, Đ.M... nhớ giữ sức khỏe, mai dậy sớm chạy chuyến tài đầu nghe cha...”
Hai tài xế lè nhè:
- “Đ. M mầy mới là thằng nhớ giữ sức đó nghe con... Mẹ, lần trước mầy quần thảo với con Hồng suốt đêm sáng bò lê, bò càng dậy không muốn nổi mà còn nói tao. Thôi tao dông nghe...”
Thằng Lúi dẫn thằng Mai đi vào bến xe để mướn ghế bố ngủ. Đã gần 9 giờ đêm, trước hàng hiên các phóng bán vé nằm trong khuôn viên bến xe những chiếc ghế bố - đã được giăng sẵn mùng - nằm kề nhau san sát. Trong ánh sáng lờ mờ của những chiếc đèn tuýp chiếu ra từ trong phòng vé thằng Mai thấy trên những chiếc ghế bố đã có người nằm. Có một vài tay lơ xe hay tài xế vẫn còn thức, ôm cây đàn ghita hát nghêu ngao bài “Tình anh bán chiếu” với giọng ca buồn bã chen lẫn với tiếng rao "Ai ăn hột vịt lộn, chè đậu đen, bún tàu, đường cát trắng không...?” của bà bán chè đêm đang ngồi trước cái đèn dầu hột vịt soi leo lét cái thúng tro đang ủ nóng hột vịt lộn và cái nồi chè đang nghi ngút khói. Một vài tay dân vệ hay lính địa phương quân đeo súng carbin đi tuần tra vòng vòng trong bến xe rồi mất hút trong mấy quán cóc bán khô mực nướng nhậu với rượu đế. Chi riêng có những chiếc xe đò thì nằm im lặng dường như nghỉ mệt để mai bắt đầu cuộc hành trình thường xuyên của nó.
Thằng Mai nằm trằn trọc. Đêm xa nhà đầu tiên trong đời làm nó khó ngủ. Quanh đâu đây có tiếng ngáy đều đều nghe đến từ một giấc ngủ ngon lành. Nó hết quay qua rồi quay lại trên ghế bố. Mặc dù người nó thấm mệt sau cuộc hành trình từ Sài Gòn xuống Bạc Liêu - một quãng đường dài hơn 300 cây số với hai cái bắc. Để qua hai cái bắc Mỹ Thuận và Cần Thơ, dù không bị kẹt xe, đã mất hai tiếng đồng hồ. Bù lại, nó được đứng trước mũi của chiếc phà nhìn con sông Cửu Long đục ngầu phù sa mênh mông, tít tắp - con sông mà nó đã học trong bài địa lý mà bây giờ nó mới biết.
Thằng Mai nghe có tiếng phụ nữ thầm thì. Có tiếng cười từ cái ghế bố của thằng Lúi. Té ra thằng này vẫn chưa ngủ, nhưng tại sao lại có tiếng của phụ nữ. Chắc thằng này có “ghệ” giống như anh Hai tài xế. Nó giật mình. Một bàn tay đang thò vào mép mùng của nó, vén lên. Một gương mặt phụ nữ đầy phấn, mùi dầu dừa toát lên nồng nặc nhìn nó cười: “Đi không anh, một “dù” năm đồng. “Xào khô” hay “xào ướt” gì cũng được.”
Nó ngồi bật dây, ôm cái mền vào người thụt lui:
- “Không... không...”
Nghe giọng nói của nó, người phụ nữ thả cái mùng xuống, chửi thề:
- “ĐM... tối nay xui rồi. Thằng này còn con nít..”
Giọng một người phụ nữ khác vang lên:
- “Con nít người lớn gì, cổ tại là chơi mút mùa Lệ Thủy. Con nít còn đã nữa... Đồ din mà còn chê... hé... hé...”
Dù run cầm cập nhưng thằng Mai vẫn nghe được tiếng thở hổn hển, tiếng thì thầm, tiếng rên và tiếng cười nho nhỏ cùng tiếng chuyển động từ chiếc ghế bố của thằng Lúi. Rồi nó nghe tiếng chửi thề của thằng này:
- “ĐM... đồ điếm thúi...”
Trong một ngày làm phụ lơ xe đò nó đã biết được nhiều điều mà trường học không dạy nó, trong đó có cả việc biết thêm về thằng Lúi. Những điều này có nên học không?!
__________________
|