Khách ở quê ra
Ðịnh đi sau ông cháu. Ðịnh phải trực tiếp sắm vai kẻ hớng dẫn mua bán cho Khúng - y nh một vài lần anh phải hớng dẫn khách nớc ngoài.
Khốn khổ, công việc này đáng lý Ðịnh có thể giao cho lũ con, nhng Ðịnh thấy dù một đứa nào chu đáo đến đâu cũng sẽ để xảy ra sơ xuất, trong cái công việc hớng dẫn Khúng đi thăm thú các thắng cảnh và mua sắm. Cả đời ngời cháu ruột của Ðịnh mới ra chơi Hà Nội, Ðịnh không thể để sơ suất, xuất phát từ một tình cảm sâu nặng và cả sự kính trọng của Ðịnh đối với ngời cháu tộc trởng.
Từ sáng tới giờ Ðịnh đã đa ông cháu đi dạo qua một số di tích và thắng cảnh của thủ đô, nhng xem chừng vị khách quý chỉ thích ngắm nơng ruộng, gia súc, những cái suốt đời chung sống với lão! Ðặc biệt trong khi đứng trớc Bờ Hồ, lão đã phát biểu cảm tởng một cách thực thà. Rằng so với bức tranh treo ở vách nhà lão thì cái tháp Rùa thật không giống cái tháp Rùa vẽ ở nhà lão!
Nhng chỉ khi đến trớc cửa chợ Ðồng Xuân thì lão Khúng mới cảm thấy thực sự đã đến Hà Nội. Lão tủm tỉm cời một mình trong khi liếc qua một đám con gái mặt hoa da phấn, nhng cái chúng đang xách trên tay thì vẫn là cái quá tầm thờng: hũ nớc mắm dúm muốn, mớ rau, con cá... Thì hóa ra cái đám ngời ẻo lả nh ngọn cỏ may này cũng không phải chỉ đi dạo, mà cũng phải ăn uống. "ấy, ai sinh ra cái ông trời kể cũng tài thực - lão Khúng vẫn tủm tỉm cời và bất giác nghĩ - Ông trời làm ra con ngời "bách nhân bách tính" nhng ông trời lại khéo cho con ngời một cái nết mà ai cũng phải có: Ðó là cái việc ăn. Hóa ra cái anh dân Hà Nội này cũng phải ăn. Cho nên mới sinh ra cái chợ Ðồng Xuân này to nh thế!".
Hai tai lão chẳng mấy chốc đã ù đặc vì tiếng ồn. Mắt lão cũng hoa lên vì trăm thứ hàng hóa chất đống. Ðã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác, vậy mà mới loanh quanh trong chợ, cặp giò nh hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi là sao?
Ðể tránh khỏi mất cắp, Ðịnh bắt Khúng trao gói tiền cho mình giữ. Mua thứ gì, anh tự đếm tiền trả. Mà những thứ ông cháu muốn mua thì nhiều lắm. Cái gì Khúng trông thấy, là thấy ở nhà mình cần. Mà cái gì cũng rẻ hơn ở nhà một giá. Thế mà nào lão có biết? Suốt đời lão chỉ chúi mũi vào hòn đất.
Khi bớc ra trớc vòm cuốn cửa chợ, hai chú cháu nhà ấy đã y nh hai nhà phi công vũ trụ. Thế mà vẫn thấy còn một đám ngời chạy theo dúi vào tận ngực họ đủ mọi thứ khiến lão Khúng cứ đứng cời ngất.
Chỉ trong một ngày lão đã khuân về bày lủng ngủng khắp gian nhà "hẹp bằng cái lỗ mũi" của ông chú nào vành, khung và lốp xe đạp, xanh, nồi, hàng mấy yến hành làm giống, hạt cà chua và hạt bắp cải giống, và quần áo cho đứa lớn, đứa bé, cho vợ...
Nhng đấy cũng chỉ là mấy thứ vặt. Trong chuyến đi ra thủ đô lần này lão đã rắp tâm từ ở nhà một ý đồ lớn hơn nhiều. Lão sẽ tập trung tiền mua một bộ trục, vành và xăm lốp ô tô, để "lên" một cỗ xe trâu! Việc này lão đã viết th cho Ðịnh biết từ năm ngoái: Nhà lão phải tiến lên vứt bỏ chiếc xe cút kít. Nó là thứ phơng tiện chuyên chở quá cổ lỗ, mà tốn sức! Loài ngời đã bớc sang "thời đại tên lửa" rồi cho nên sau chuyến đi này, nhất định gia đình lão phải có một cỗ xe trâu để chở đá trong Khe Ðá Dầu này, chở lúa thóc ra chở phân gio vào trong ấy này, rồi chở gỗ lạt trong rừng ra, hoặc cũng có thể những ngày giỗ tết cả nhà lão leo lên ngồi trong cái thùng xe để về quê...
- Ðừng chế nhạo anh, các em ạ! - Lão nói với lũ con ông chú đang vừa cời nhăn nhở vừa giễu cợt lão - Các em đã từng biết cái tiện lợi của ô tô và tàu bay so với chiếc xe đạp, vậy nh anh, suốt đời đẩy xe cút kít, thì một chiếc xe bánh lốp có ổ bi với con trâu kéo, đã là ô tô, tàu bay rồi đấy!
Ba bốn ngày sau, cả mấy bố con Ðịnh tỏa ra lùng sục khắp các phố ngóc ngách của Hà Nội. Họ tìm đợc đầy đủ một bộ đồ để "lên" một cỗ xe trâu, nhng khi đến giá cả, thì mới thấy là cả một số tiền lớn. Không phải một lúc mà Khúng có thể dứt ra khỏi nơng ruộng để đi Hà Nội - Ðịnh nghĩ thế cho nên anh bàn với vợ bán chiếc đài cùng vài thứ lặt vặt, đập vào số tiền mua sắm còn lại của Khúng, góp phần "đầu t vào cuộc cách mạng kỹ thuật" trong nền sản xuất của gia đình ngời cháu ở trong quê.
***
Vào một buổi chiều ngày chủ nhật, trớc khi ra tàu hỏa để trở về, Khúng nói với Ðịnh:
- Cháu phải tranh thủ đi đến nơi này...
- ừ, ừ để chú đa đi ngay! - Ðịnh đáp.
Khúng nói rằng mình cần phải đi đến "cái nơi này" một mình. Lão mợn bộ quần áo đại cán của Ðịnh, mặc vào. Nhng vừa đi ra đến cửa lão đã quay lại, cởi giả bộ quần áo đại cán cho Ðịnh. Vẫn đánh cái bộ quần áo vải thô nhuộm nâu, đi ra ngoài phố đợc một quãng, lão gọi một chiếc xích lô bảo đa đến một cái địa chỉ trong thành phố. Ðấy là một cái địa chỉ với những con số lẫn hàng chữ viết trên đầu phong bì của những lá th giấy pơ-luya, trong nhiều năm nay vẫn xếp chồng lên nhau dới đáy một cái chum.
Ðến lúc này, lão Khúng đã quyết định xé bỏ cái thỏa ớc đã ký với vợ hai mơi năm trớc.
Ngời xích lô đổ lão xuống trớc một ngôi nhà sáu tầng mái bằng ở đầu hồi có chữ B4. Có lẽ đến gần một tiếng đồng hồ, lão Khúng cứ quanh quẩn chung quanh giải bờ hè chân tờng, rảo bớc đi vòng quanh ngôi nhà hết vòng này đến vòng khác đến mỏi rũ cả chân: " Rõ nhà với cửa, cứ y nh một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình nh có đám cới, lại thấy các tầng quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái mặt ngời ló ra y nh một lũ chim bồ câu đang gù trong cái chuồng: có ngời ở chứ không phải nhà đi vắng hết, vậy mà tìm mãi vẫn chẳng thấy cổng ngõ ở đâu cả!".
Lão lại tốn một tiếng đồng hồ nữa để đi lạc lung tung ở bên trong, hết leo lên tầng thợng đỉnh lại lộn xuống tầng dới cùng, rồi lại đợc chỉ dẫn phải leo lên... " ừ cũng lạ, sống nh thế này mà cũng sống đợc, chẳng có vờn tợc, chẳng cây cối, ăn, ở chồng chất lên đầu nhau, chỉ thấy tờng và tờng, chả trách ngời nào ngời nấy cứ trắng nhợt, nói khẽ, cời khẽ, đi khẽ, là phải!...".
Lão đã bắt đầu ngột thở, khi đứng trớc cửa gian phòng đang định tìm. Mới đặt một bàn chân lên tấm cói chùi chân, lão đã chợt nhìn thấy thằng Dũng nhà mình - đến hôm nay đã ăn mặc quần áo bộ đội đang ngồi trong nhà.
Lão sửng sốt, rụng rời cả chân tay.
Có lẽ thằng Dũng cũng nh lão, lần đầu tiên đến đây và cũng vừa chợt đến.
Thằng con lão không kịp trông thấy lão, bởi ngay sau đó, tức tốc lão đã quay lng lại và bổ nhào xuống cầu thang.
Từ bấy giờ cho đến tối, lão đi lạc lung tung trong thành phố. Những bức tờng chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu nh đang bày trò chơi ú tim với lão, chế nhạo lão. Ðèn trong các lùm cây và trong các gian nhà đã bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm đợc lối về. Toàn thân lão run lẩy bẩy nh ngời lên cơn sốt và trong tâm hồn lão tự nhiên dâng lên một nỗi niềm cô độc, lão lẩm bẩm gọi tên từng đứa con. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở lại với lão, hãy ở lại với đất cát.
Mời giờ đêm lão mới tìm về đến nhà ngời chú giữa lúc cả nhà đã tỏa đi tìm các ngả.
Lão nhất định không kể lại cho Ðịnh biết một điều gì. Mặc dầu Ðịnh quyết giữ lại ở thêm một ngày nhng lão Khúng vẫn một mực xin phép vợ chồng ông chú đợc về.
Lão vội vã gói buộc đồ đạc ra tàu.
Quá nửa đêm, tàu mới bắt đầu lăn bánh.
Khi những luồng gió không có gì cản trở, tự nhiên thổi lồng lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã...
Hết.
|