Hồi 8
Hai con thần ưng thấy Hoàng-Dung liền hạ xuống bỏ hai anh em họ Vũ trên đất và thốt ra những tiếng kêu như muốn tường trình công việc vừa xảy ra.
Hoàng-Dung ôm lấy đứa con gái hỏi:
- Việc gì như thế?
Quách-Phù ngả đầu vào lòng mẹ, sụt sùi kể lại câu chuyện nào Dương-Qua tát vào mặt nó, nào Dương-Qua thoi vào người Tu-Văn vọt máu, nào Dương-Qua xô đá định giết anh em họ Vũ. Con bé đề cao việc anh em họ Vũ, bênh vực nó, tuyệt nhiên không hề nói đến lỗi lầm của anh em họ Vũ đối với Dương-Qua.
Nghe kể, Hoàng-Dung sửng sốt không nói nên lời.
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:562 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 7"
Date/Time Jan-12-02, 06:07 PM ()
Message
In response to message #0
Bấy giờ Quách-Tỉnh cũng chạy đến xem thấy cơ sự trước mắt lấy làm kinh ngạc, lo ngại vì sợ Dương-Qua trốn mất nên chạy đi tìm.
Quách-Tỉnh đi lùng một hồi lâu trong chân núi chẳng thấy bóng Dương-Qua đâu, liền đưa tay lên miệng làm loa, rống lên một tiếng như sấm động.
- Dương-Qua ơi! Dương-Qua ơi!
Tiếng kêu dội ra hàng chục dặm, nhưng rồi dư âm cũng chìm đắm trong tĩnh mịch của núi rừng, không có một lời hồi đáp.
Ngỡ là Dương-Qua có thể vượt biển bơi vào đất liền, nên Quách-Tỉnh dùng thuyền bơi quanh đảo. Nhưng rồi cũng vô hiệu. Trời tối dần, màn đêm bao phủ cảnh vật, Quách-Tỉnh phải trở về với một mối buồn man mác.
Nguyên lúc Dương-Qua vừa đụng vào tảng đá, tảng đá vừa lăn xuống thì nó cũng mất thăng bằng rơi xuống một cái hốc lớn. Kế đó nó thấy đôi thần ưng cắp anh em họ Vũ, rồi đến Hoàng-Dung xuất hiện, nó ái ngại trong lòng, nghĩ rằng nếu nó trở về thế nào việc chẳng lành cũng xảy ra. Nó liền tìm một khe đá kín đáo hơn lẩn trốn.
Bỗng nó nghe tiếng Quách-Tỉnh gọi, nhưng nó chẳng đáp lại, nép mình nằm im thin thít đến nỗi dẫu Quách-Tỉnh có đến gần cũng không thể nào trông thấy.
Rồi nó ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Đến khi thức dậy, nó thấy bốn bề quạnh vắng, màn đêm bao phủ mịt mùng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong canh khuya.
Nó cảm thấy bụng nó đói như cào, nó lần bước ra ngoài khe đá. Gió lạnh lùa vào mặt, ánh sao vàng nhấp nhánh đầy nỗi cô đơn.
Nhìn xuống chân núi về phía trang trại, nó thấy ánh đèn còn leo lét qua các khe cửa. Một vài bóng đen thấp thoáng trong sân, nó tưởng tượng đến một khung cảnh ấm êm trong gia đình với Quách.
Vừa đói cơm vừa khát nước, vừa thèm thuồng cái cảnh đoàn viên, nó muốn quay về sống chung với họ Quách, nhưng nó lại sợ. Hoàng-Dung, một con người lanh lợi thông minh không có một điều gì có thể qua mắt được. Nó trù trừ suy tính mãi. Nhưng rồi cuối cùng nó thích cảnh tự do, không muốn đem vào người nó một ràng buộc nào.
Nó trở lại khe đá đánh một giấc ngon lành cho đến sáng.
Ngày hôm sau, nó vẫn nằm trong khe đá, không dám ló mặt ra ngoài, vì nó biết Quách-Tỉnh thế nào cũng đang đi tìm kiếm.
Rồi đến lúc chiều tối, nó lại lần ra ngoài, nhìn cảnh tấp nập vui vẻ của trang trại như muốn khêu gợi lòng khát khao của nó. Tuy nhiên, nó hình dung nét mặt nghi ngờ của Hoàng-Dung và dáng điệu nham hiểm của Quách-Phù, nhất định nó không trở về.
Sống trong tình trạng đó hai ngày thì người nó lả đi vì đói khát, nó nhất định phải tìm phương sống. Nó liền trèo qua bên kia đỉnh núi mò đến một con suối bắt nhái ở hai bên bờ cỏ đánh lửa nướng ăn.
Nhưng khi đánh lửa nó lại sợ vô tình chỉ nơi trú ẩn mình cho Quách-Tỉnh, nên nó rất cẩn thận. Trước khi mẹ nó thường nói những lúc cần thiết phải thổi lửa mà không muốn lên khói thì phải dùng những que củi thật khô, bóc hết vỏ. Trường hợp nó xét thấy cần cẩn thận hơn, nó chỉ dùng hai lõm cây khô để tránh khói.
Đang ăn mấy con nhái nướng ngon lanh, bỗng nó nghe bên sườn núi có tiếng rắn kêu. Nó rón rén bước ra xem, thì ra một con rắn đang oanh hùng với một con cóc. Con rắn hổ phóng cổ lên bằng nắm tay, đầu dựng đứng toan áp đảo con cóc vàng.
Cóc ta lấm la lấm lét, chú mục nhìn theo đầu rắn, hai chân trước ghì xuống đất, hai chân sau tọa lạc trong thế sẵn sàng tung bắn.
Bỗng con rắn hổ đâm vào thân cóc. Nhưng cóc không nao núng ngẩng cao đầu lên để nghênh địch. Và khi rắn xông vào thì cóc đã phì một đám bọt trắng làm cho rắn tối mặt mày. Rắn liền cuộn tròn thân hình trong thế thủ, nhưng hình như độc cóc nơi bọt trắng bắt đầu thấm dần vào mồm mép của rắn, nên rắn dần dần cảm thấy suy yếu, cuối cùng tự xét mình không đủ sức đương cự, liền bỏ cóc lẩn tránh vào bụi cây.
Đắc thắng, cóc kêu lên mấy tiếng giống như là tiếng kêu của Tây-độc Âu-dương-Phong lúc đánh thế võ "hàm mổ công" vậy. (Hàm mổ có nghĩa là con cóc, con nhái).
Dương-Qua kinh ngạc, tự hỏi:
- Phải chăng Tây-độc Âu-dương-Phong đã quan sát lối tấn công kỳ dị của loài cóc để sáng tạo ra thế võ "hàm mổ công".
Đang suy nghĩ, bỗng từ sườn đồi có tiếng gọi của Quách-Tỉnh, tiếng gọi nghe thiết tha và cảm mến. Tuy nhiên, Dương-Qua tự nghĩ rằng Quách-Tỉnh là người thù của nghĩa phụ nó, nếu nó trở về với Quách-Tỉnh không khỏi bị đánh tan xương.
Nghĩ thế nó trở vào khe đá trốn. Nó vật mình nằm xuống phiến đá, bỗng nó thấy từ bên ngoài, Âu-dương-Phong rón rén bước vào, vỗ nhẹ vào đầu nó, nói:
- Cha trở lại tìm con! Từ nay không còn gì ngăn cách cha con ta nữa. Cha tiếp tục dạy con võ nghệ để sau này lớn lên con sẽ là một hiệp sĩ vô địch trong thiên hạ.
Nói xong, Âu-dương-Phong dựng nó đứng dậy, và hai cha con moi người thủ thế trên phiến đá như hai võ sĩ đang hờm đấu với nhau.
Lạ thay, Dương-Qua nhận thấy lần này Âu-dương-Phong không có một lời chỉ dẫn về mỗi động tác của chân tay, mà cứ nhìn nó với cặp mắt đầy sát khí rồi liên hồi tấn công vào nó như đang tấn công một địch thủ chân chính. Nó có cảm giác như nó đang đương đầu với một địch thủ và nó thầm bảo có lẽ lần này nghĩa phụ nó đã áp dụng một phương pháp giáo dục thực tiễn hơn chăng.
Bỗng lão già hô lên những tiếng "ngoạp, ngoạp" chấn động cả khe núi khiến cho nó nhớ lại cuộc đấu hồi nãy giữa cóc và rắn.
Vì đãng trí nên thiếu đề phòng nó bị một quả chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong đánh trúng làm cho nó bật ngửa trên phiến đá đau điếng cả người. Nó lấy tay ôm mặt suýt xoa, nhưng vừa ôm mặt thì bỗng nó tỉnh dậy, đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy Âu-dương-Phong đâu cả. Nó mỉm cười biết rằng nó vừa qua một giấc mộng.
Nó bước ra khỏi khe đá, leo xuống núi để tìm thức ăn thì bắt đầu từ trong một lùm cây tiếng rống của Quách-Tỉnh vang lên:
Dương-Qua! Dương-Qua!
Nó bối rối định vụt chạy, nhưng không còn kịp nữa, chân nó lính quýnh vấp vào một tảng đá ngã xuống và Quách-Tỉnh nhảy đến ôm chầm nó vào mình.
Dương-Qua nhắm mắt lại, tưởng rằng Quách-Tỉnh sẽ nổi giận đánh cho nó một trận nên thân.
Nhưng không, Quách-Tỉnh vẫn thiết tha, dịu giọng nói:
- Cháu Qua! Sao cháu dại dột muốn bỏ chú mà đi?
Lại thấy nó lả người đi vì đói, Quách-Tỉnh liền vác nó lên đem về trang trại.
Mọi người thấy Dương-Qua trong tình trạng hôn mê liền ra công săn sóc, nào thuốc men, nào hoa quả. Tuyệt nhiên không một ai đả động đến những sự việc vừa qua.
Chẳng mấy bữa, Dương-Qua được bình phục sức lực như xưa.
Vào một bữa ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh cho thiết lập hương án ở sảnh đường, thỉnh bài vị của Lục-quái Giang-nam, mời sư phụ Kha-trấn-ác đứng làm chủ lễ và tập họp cả gia đình lẫn gia nhân chứng kiến.
Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung mỗi người trịnh trọng đứng vào hai bên bàn án, còn bên trẻ Quách-Phù, Vũ-tu-Văn. Vũ-đôn-Nhu và Dương-Qua gọn gàng trong bốn bộ y phục hiệp sĩ quỳ sát trước hương án Lục-quái Giang-Nam.
Giữa bầu không khí trang nghiêm của sảnh đường, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội. Mọi người im phăng phắc.
Chiêng trống vừa dứt, Quách-Tỉnh bước ra, hướng về bức di-họa của Lục-quái bái mấy bái rồi thưa với Kha-trấn-ác:
- Thưa sư phụ, hôm nay con là Quách-Tỉnh, xin phép sư phụ được nhận bốn trẻ môn đệ của võ phái Giang-Nam chúng ta. Tre già măng mọc là lẽ đương nhiên của tạo hoá. Song trong vườn võ nghệ, măng non cần phải được uốn nắn để lúc thành tre mới hữu dụng.
Đoạn, Quách-Tỉnh quay về phía bốn môn đệ nói:
- Quách-Phù, Vũ-tu-Văn, Vũ-đôn-Nhu, Dương-Qua, các con hãy bái lạy di-họa của Lục-quái Giang-nam đi. Trước linh hồn của sáu vị anh hùng quá cố, và trước sự chứng kiến của sư phụ ta, các con hãy thề trở nên những môn đồ xứng đáng, và hãy xem nhau như ruột thịt.
Lời nói nghiêm trang, đầy thiện chí của Quách-Tỉnh vừa dứt thì bốn trẻ cùng một lúc cung kính lạy trước hương án, rồi lần lượt xá Kha-trấn-ác, Quách-Tỉnh rồi đến Hoàng-Dung.
Cuộc lễ xong, Quách-Phù níu áo mẹ nũng nịu:
- Lúc nãy trước bàn thờ vì trang nghiêm quá con không dám nói chứ bắt con kết nghĩa với Dương-Qua con không bằng lòng đâu.
Hoàng-Dung đang suy nghĩ lời nói của con, chưa kịp trả lời thì Quách-Tỉnh đã quắc mắt nói:
- Con không được tỏ ra bội ước như vậy! Phàm trong môn phái nhà ta, lời thề là trọng. Tính mạng có thể mất chứ danh dự nhất định không thể để mờ phai. Nhất là lời thề trước Thất-quái Giang-nam, sáu chết một còn, lại càng quan trọng lắm. Ta nay còn phải trọng lời thề mà khắc cốt ghi lòng.
Đoạn hướng về mọi người, Quách-Tỉnh nói tiếp:
- Tính tôi, công phu vũ nghệ học hỏi cũng có thể gọi là khá nhiều, ngoài căn bản do Thất hiệp truyền thụ, tôi đã từng thao luyện vũ pháp nội công của phái đoàn Toàn-Chân và của Tâm-Đại-Tông Đông-Nam-Bắc. Nhưng để bắt đầu, tôi xin truyền dạy cho môn đệ những ngón vỡ lòng mà Kha-sư-phụ đã truyền giáo cho tôi.
Trong lúc Quách-Tỉnh nói, Hoàng Dung để ý vẻ mặt trầm ngâm của Dương-Qua, và nhớ lại hành tung khả nghi của đứa bé nầy, bụng bảo dạ:
- Cha thằng bé nầy thực ra không phải ta giết, nhưng việc đó ngoài ta ra có ai biết được. Ai cũng nghĩ rằng ta đã sát hại cha nó. Mà nếu mọi người đều nói như vậy thì nó không thể nghĩ khác đi được. Nay Quách-Tỉnh lại đem những bí quyết của môn phái mà truyền dạy tất sau này đi học. Chi bằng...
Nghĩ đến đây, Hoàng-Dung liền nói với chồng:
- Anh ạ! Em nghĩ rằng một mình anh phụ giáo cho cả thì sẽ quá vất vả. Xin anh giao Dương-Qua để em thay anh giáo dục.
Quách-Tỉnh chưa kịp đáp lời vợ, Kha-trấn-ác tán thành nói:
- Như vậy, rất phải! Thế thì hai con đua nhau dạy bảo để ta xem đồ đệ nào mau tiến bộ hơn.
Quách-Tỉnh vẫn thường công nhận vợ thông minh lanh lợi hơn mình, nếu Dương-Qua được vợ chỉ giáo thì thấy không trở ngại, liền nói:
- Tốt lắm! Em sẽ giúp anh trong việc đào tạo chúng nó.
Hoàng-Dung nói:
- Phàm trong nguyên tắc dạy dỗ điều cầu yếu là phải liên tục và duy nhất. Vậy thiết tưởng chúng ta phải qui định một nhiệm vụ hẳn hoi. Người nào phụ trách môn đồ nào phải chịu trách nhiệm môn đồ ấy. Anh không cần lo cho Dương-Qua, ngược lại em cũng không cần để ý đến ba đứa trẻ kia. Mỗi đứa bé có một khả năng, tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt. Thế thì việc giáo dục không thể đem áp dụng một phương pháp giống nhau.
Quách-Tỉnh vô tâm, không hiểu được dụng ý của vợ, trả lời:
- Điều đó có gì mà phải phân trần.
Hoàng-Dung liền gọi Dương-Qua lại bảo:
- Qua nhi! Hãy theo ta vào đây.
Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song đã có đủ thông minh để suy luận. Nó hiểu phần nào dụng tâm của Hoàng-Dung song nó vẫn có ác cảm với ba đứa trẻ kia, không muốn cùng chung tập luyện, nó hoan hỉ được một mình một trường theo thọ giáo với Hoàng-Dung.
Hoàng-Dung bắt nó vào thư phòng, đặt nó ngồi trước một án thư, rồi lấy ra mấy quyển sách cũ kỹ, giảng:
- Từ nay mặc dù theo cuộc lễ chính thức vừa qua, thân phụ của con là Quách-Tỉnh, song ta được ủy thác để chăm sóc giáo dục con, con phải vâng lời ta dạy bảo. Điều trước tiên con phải biết dưới sư phụ của con lại có bảy sư phụ danh truyền là Thất-quái Giang-nam, Kha-Công là đại-sư, còn nhị sư là Châu-Thông có văn tài đặc biệt. Vậy ta giảng cho con nghe những tuyệt tài trong văn chương của Châu-Công.
Dứt lời, nàng giở quyển thư cổ ra đọc:
- Vở viết: học nhi thời tập chi, bất diệt diệt hồ? Thư bảng tự viễn phương lai, bất diệt lạc hồ.
Đó là hai câu rút trong Luân ngữ.
Dương-Qua nghe đọc lấy làm kỳ quái, nó thầm bảo:
- Tại sao bảo nó thọ giáo vũ nghiệp mà lại đem mang văn chương ra giảng dạy?
Tuy nhiên, nó chẳng dám nói gì cả cứ cắm đầu suy nghĩ.
Suốt mấy ngày liền, Hoàng-Dung cứ đem sách ra giảng tuyệt nhiên không đả động gì đến võ nghệ, hết sách này đến sách khác.
Một hôm, sau buổi học, Dương Qua lững thững dạo gót ra ngoài. Cảnh trí núi rừng trùng trùng điệp điệp, hồ rộng mênh mang nó chạnh lòng nhớ đến nghĩa phụ, người độc nhất đã cứu vãn tâm hồn nó một mối cảm giác thân yêu.
Để giải buồn, nó đảo thân qua lại, dùng hai tay cắm đầu xuống đất, chổng chân ngược lên trời, bắt chước theo lối đi của Âu-dương-Phong thuở nọ. Rồi nó ôn lại ngón võ "Hàm-mô Công" mà Âu-dương-Phong đã truyền dạy lỡ dở từ dạo nào. Nó cũng chua chân, chong tay, cong mình, y hệt điệu bộ của Tây-độc Âu-dương-Phong. Nó vận dụng các bắp thịt rồi cũng tung người lên với những tiếng kêu "ngoạp, ngoạp".
Mồ hôi nó toát ra như tắm, và cảm thấy trong người thanh sảng, nhẹ nhàng. Nó có cảm giác như đã tìm ra bí quyết của ngón võ đó.
Thế là ngay từ lúc hôm ấy, cứ mỗi chiều lúc mãn học, nó ra ven đồi, giữa cảnh rừng nước bao la, ôn luyện võ nghệ, vừa bồi dưỡng thể chất vừa giải thoát linh hồn.
Ngày tháng êm đềm trôi trên đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung cứ một mực dạy cho nó về kinh nghĩa. Hết Luận-ngữ đến Manh-tư rồi đến Trung-dung. Thằng bé tỏ ra thông minh đáo để, nó nhớ làu làu bất kỳ kinh sách nào đã dạy.
Thật ra Hoàng-Dung vốn có thành kiến với văn nghiệp cho nên nàng quan niệm rằng văn chương chẳng qua là món để đầu độc tư tưởng con người. Dẫu có thông minh trí tuệ đến đâu cũng chẳng làm được điều gì gọi là anh hùng trong thiên hạ.
Với quan niệm đó, Hoàng-Dung đem áp dụng để ngăn cản bước tiến về võ nghệ của Dương-Qua. Khi dạy đến Tứ-thư. Ngũ kinh, Hoàng Dung đã sửa soạn cho thằng bé một tương lai nhìn vũ trụ qua những câu "Tứ viết".
Tuy nhiên, với sức thông minh của nó, Hoàng Dung cũng đã nhiều lần kinh ngạc, tự bảo:
- Nếu trau dồi nó trong vũ nghiệp, thằng bé sau này hẳn trở nên bậc phi thường.
Còn Dương-Qua, lại có quan niệm khác. Nó bất chấp phân biệt quan niệm văn chương hay vũ thuật, nó chỉ ước lượng việc cần thiết đối với nó là phải đối phó với Hoàng-Dung. Nó nghĩ ngợi phương pháp giáo dục của Hoàng-Dung và lúc nào nó cũng cho Hoàng-Dung đối xử với nó đầy ác ý.
Nó hoài tưởng đến Âu-dương-Phong, một người thân nhất trên đời mà nó còn tin tưởng được.
Vậy để đối phó với pháp thuật Hoàng-Dung nó nghĩ một cách đơn giản là chỉ việc dùng pháp thuật của Âu-dương-Phong là có thể chống đối nổi.
Nó không hiểu rằng trong giới hảo hán đương thời môn phái của Âu-dương-Phong cũng như môn phái của Bạch đà Sơn không được xem là chính thống. Những lối phi hành lộn ngược những thế võ Hàm mô công chẳng qua là những tà thuật mà hiệp sĩ chính thống ai cũng xem như trái với võ đạo.
Một chiều, sau khi xem xong quyển Tả truyện, Dương-Qua rời khỏi thư phòng, rảo bước về phía ven biển với ý nghĩ mong ước được thoát ly khỏi hải đảo. Nó nhìn đàn hạc trắng bay bổng lên cao, thèm thuồng mọi cái tự do trong cuộc sống. Nó mới được có đôi cánh như con chim hạc để bay đi tìm nghĩa phụ.
Bỗng đằng sau nó có những tiếng hô và những tiếng thở. Nó nấp sau mỏm đá nhìn qua kẽ lá, thấy Quách-Tỉnh đang kiên nhẫn dạy hai anh em họ Vũ một miếng võ gia truyền.
Thật ra, quan sát kỹ lối biểu diễn của Quách-Tỉnh thì miếng võ này tuy lợi hại nhưng không đến nỗi học tập khó khăn lắm. Thế mà hai anh em họ Vũ tập đi, tập lại năm lần bảy lượt vẫn chưa đạt được ý muốn của Quách-Tỉnh.
Dương-Qua than:
- Nếu sư phụ trực tiếp dạy mình như thế thì mình đã tiến bộ biết bao. Hai đứa bé ngu xuẩn nầy tại sao lại may mắn gặp được vũ sư lỗi lạc dường ấy.
Nó tiếc cho nó! Nó tiếc không được trực tiếp thọ giáo với Quách-Tỉnh.
Nhưng một ý nghĩ bỗng đột xuất:
- Vì sao mình lại không học lén? Nếu trong trường văn chương đã có kẻ học lén mà trở nên thánh hiền thì trong võ thuật mình lại không thể học lén để thành hiệp sĩ sao?
Nghĩ như thế, nó rời khỏi nơi ẩn núp, cởi trần ngay ra và biểu diễn lại ngón võ của Quách Tỉnh đã dạy cho hai anh em họ Vũ.
Rồi từ đấy mỗi chiều, sau khi rời khỏi thư phòng nó lại bôn ba đến nơi ven rừng để học lén.
Một hôm, nó ham tập luyện nhiều quá nên trong người mỏi mệt nó nằm trên một phiến đá cheo leo nơi bãi biển, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Bỗng có tiếng sắt chan chát từ mé biển vọng lên làm nó giật mình tỉnh giấc. Nó nhìn nơi phát ra tiếng động thì thấy có một chiếc thuyền vừa cập bến, đang thả neo.
Bấy giờ trời đang tối mịt, nó phải vận dụng nhỡn quang mới trông thấy hai người ăn mặc rất gọn ghẽ, mắt đăm đăm quan sát tứ phía rồi nhảy lên bờ. Cả hai bò sát trên mặt đất, hướng về trang trại.
Dương-Qua cho đó là hai tên đạo tặc, lấy làm tội nghiệp cho chúng đã dại dột dấn thân vào tử địa.
Thật vậy, Đào-hoa đảo là một sào huyệt hiểm trở mà không có kẻ nào có thể lọt vào nếu không có người hướng dẫn. Nó thở dài, tiếc cho hai mạng người sắp rơi vào tay Hoàng-Dung.
Nó lại nhìn sang phía khác và ngạc nhiên nhận thấy dưới gốc cây thúy liễu có bóng một thiếu nữ vận y phục màu trắng đang đảo thân di động. Thiếu nữ ấy dùng tay dí ngược đầu xuống đất. Thì ra đó là cô bé Quách-Phù. Có lẽ nó trộm thấy Dương-Qua tập luyện nên cố tình bắt chước chăng?
Hai tên lạ mặt bò dần tới. Và trong lúc Quách-Phù đang chú tâm lo giữ thăng bằng cho thân hình đảo ngược, hai tên kia bất thình lình áp đến Quách-Phù trói gô lại, đứa bịt mồm đứa nắm tay lôi xuống mé biển.
Dương-Qua sửng sốt, chưa biết phải nên hành động thế nào cho có hiệu quả. Nó chờ xem hai tên lạ mặt kia có những hành động gì.
Hai tên lạ mặt đặt Quách-Phù trong một lùm cây, trói gô chân tay nó lại, lấy áo nhét mồm, rồi tiếp tục hướng về phía trang trại. Chúng tiến rất nhanh và tỏ vẻ thông thạo như những người đã từng lui tới vậy.
Tuy nhiên, chốc chốc chúng dừng lại, tụm dần vào nhau để bàn bạc những gì không rõ.
Dương-Qua tự nghĩ:
- Nếu kêu cứu chắc gì Quách-Tỉnh đã ra kịp, trong lúc đó chúng có thể thủ tiêu mất con bé Quách-Phù thì còn gì.
Trong lúc suy tính nó nhìn con thuyền, nhìn mặt biển, với ý nghĩ thoát ly đột phát trong óc nó. Có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở giúp cho nó thoát thân.
Thế là nó bỏ hẳn ý định phát giác hai tên lạ mặt. Nó chạy xuống biển với ý định lấy trộm chiếc thuyền để vượt biển ra khơi, vào đất liền.
Nhưng lúc nó chạy gần đến chiếc thuyền thì bỗng trong khoang thuyền có tiếng lách tách. Rồi cửa khoang mở một người nhảy lên bờ...
Nó nép mình quan sát sự thể. Hai tên lạ mặt lúc này trở lại, đứa đi trước dáo dáo xem chừng, đưa đi sau vác Quách-Phù lên vai lểnh mểnh dò từng bước một.
Nhưng lạ thay! Nó lại trông thấy một đứa thứ ba! mà đứa thứ ba nầy chắc chắn không phải là đồng bọn, vì nó đang nép mình ẩn núp để quan sát như Dương-Qua, đặc biệt hơn nữa đôi mắt nó chăm chăm gờm vào hai kẻ lạ mặt.
Đợi cho người lạ mặt thứ nhất tiến đến gần, người thứ ba nhảy chồm ra, đưa tay thoi vào hông rất mạnh. Người lạ thứ nhất ngất xỉu xuống bãi cát không kịp la lên một tiếng và tên đi sau vác Quách-Phù cũng không kịp trông thấy nữa.
Người lạ mặt thứ hai đem Quách-Phù đặt vào khoang thuyền xong, không thấy bạn đồng hành đâu, lấy làm lạ lên tiếng hỏi:
- Kìa lão đại! Lão đại còn làm gì nữa mà chưa vào thuyền.
Tên sát nhân vừa rồi vẫn núp bên cạnh Dương-Qua giả giọng khàn khàn đáp:
- Thật kỳ quái! Thật kỳ quái!
Tên lạ mặt thứ hai ngạc nhiên bỏ Quách-Phù dưới thuyền lên khoang thuyền nhảy nhanh về phía có tiếng nói.
Thừa dịp đó, Dương-Qua nép mình bò ra phía mé biển, lao lên khoang thuyền, nấp vào bên kia ẩn thân.
Từ chỗ núp Dương-Qua lắng tai nghe những tiếng thình thịch. Nó đoán chắc rằng tên sát nhân ban nãy đã hạ thủ luôn người lạ mặt thứ hai nữa rồi.
Thật vậy, chỉ chốc lát một người co chân nhảy vào thuyền. Người đó là Dương-Qua nhận đúng là người đã núp bên nó và đã sát hại người lạ mặt đi đầu lúc nãy.
Tuy nhiên, bây giờ người ấy mặt mày lấm tấm máu, quần áo tả tơi, dáng điệu trông dễ sợ làm sao!
Dương-Qua liền vận dụng thế võ Hàm-mô-công, thân hình cong rúm, chân tay co quắp, miệng kêu lên mấy tiếng "ngoạp! ngoạp" rồi tung người đâm bổ vào bụng tên sát nhân.
Bất ngờ bị trúng phải một thế võ sức nặng ngàn cân, tên sát nhân văng bổng người lên, rơi xuống biển.
Dương-Qua thở khì một tiếng nó không ngờ thế võ nó rèn luyện lâu nay lại đưa đến một kết quả khả quan như vậy.
Chưa kịp mừng, Dương-Qua đã nghe tiếng Quách-Tỉnh bất thần hỏi.
- Qua nhi! Con học thế vó Hàm-mô-công ở đâu thế? Có phải Âu-dương-Phong đã truyền dạy cho con chăng? Lão ta bây giờ ở đâu.
Dương-Qua ngẩng đầu lên thấy Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đồng nhảy xuống thuyền cùng một lúc.
Rồi không đợi nó trả lời, Quách-Tỉnh nhảy vội xuống nước vời lên sát nhân lên, rồi la lớn:
- Em Dung ơi! Đây là bạn của ta mà!
Tên sát nhân miệng trào máu, vừa tức giận nắm lấy Dương-Qua hét lên:
- Tại thằng ranh con nầy sanh chuyện.
Bàn tay Hoàng-Dung nắm vào như xé thịt. Dương-Qua cảm thấy đau nhói cả người, nhưng nó nhất định cắn răng chịu đau không rên rỉ.
Quách-Tỉnh đến bãi cát nhìn mặt hai xác chết thấy trong túi áo một tên có bản đồ Đào-hoa đảo liền kêu Hoàng-Dung, nói:
- Em Dung, hãy đến xem cái nầy!
Lúc đó Hoàng Dung mới thả Dương-Qua ra, nhảy đến bên Quách-Tỉnh cùng xem bản họa đồ.
Hai vợ chồng bàn luận trông có vẻ quan trọng lắm. Một hồi lâu, Kha-trấn-ác đến. Cả ba cùng tiếp tục thảo luận.
Khi mọi người như đã thảo luận xong, cùng nhau về phía Dương-Qua, làm cho Dương-Qua có cảm giác bối rối lạ lùng. Nó đưa tay chỉ vào khoang thuyền nói:
- Thưa sư phụ, Quách-Phù đang bị chúng nó trói bỏ nơi đây.
Mọi người xúm lại cởi trói cho Quách-Phù và thấy Quách-Phù không bị thương tích gì nên rất hoan hỉ.
Trên đường về, Quách-Tỉnh bảo Dương-Qua:
- Này Qua nhé! Con không thể ở yên trên đảo này được. Ta phải đưa con đến Trùng-Dương-cung ở Chung-Nam-Sơn để tìm giáo chủ của phái Toàn-Chân mà xin thọ giáo võ nghệ mới được.
Dương-Qua nghe nói biết đó là kết quả cuộc bàn bạc quan trọng của vợ chồng Quách-Tỉnh vừa rồi. Nó im lìm nghe theo chẳng dám thưa hỏi gì cả.
__________________
[b]ILoveU
|