View Single Post
  #64  
Old 12-19-2004, 06:48 AM
BeKaChua BeKaChua is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Dec 2004
Nơi Cư Ngụ: Nơi Ấy Có Ai
Bài gởi: 907
Default

Hồi 64



Hai đường gươm xuống qua rất mạnh, nhưng nhờ có mã giáp sắt hộ thân nên mũi kiếm chỉ trượt qua đứt sơ sơ, tuy có ra máu nhưng không nguy hiểm mấy.

Mặc dù không bị trọng thương nhưng Kim-Luân Pháp-Vương cũng đã kinh hồn hoảng vía vì hai đường gươm ấy, lật đật nhào lộn ra sau tránh các đòn khác, đang dồn dập phóng mạnh vào người ông.

Dương-Qua thừa thế reo to:

- Cô nương, lúc bấy giờ nen đánh theo thế "nguyệt hạ hoa tiền" (dưới trăng trước hoa) thì hơn.

Miệng hò reo, tay vung gươm lia lịa chém trên đâm dưới vun vút, đứng ngoài nhìn vào không khác chi một luồng bạch tuyết đang bao vây cả thân hình Kim-Luân.

Lúc bấy giờ lưỡi gươm của Tiểu-Long-Nữ cũng rít lên xào xạt, xé gió ào ào lộng lên kết thành những đốm trắng linh động, không khác nào muôn ngàn đóa bạch hoa đang bay trước gió, có lúc uốn khúc như hàng đàn rắn bạc, làm cho Kim-Luân hoa cả mặt không còn biết nơi nào né tránh nữa. Ngay chỗ địch thủ đứng cũng không phân biệt được rõ ràng, thì làm sao còn chống cự cho được. Vì vậy e phải lùi ra sau múa vòng chống đỡ cầm chừng, thái độ vô cùng lúng túng.

Thấy địch thủ đang lùi dần để tìm một lối thoát, Dương-Qua lại thét lớn:

- Bây giờ nên theo thế "thanh ẩm tiểu chước" (vừa rót uống) để tấn công thì vừa.

Nói vừa dứt lời, chàng chống gươm như người đang say rượu còn Tiểu-Long-Nữ lại quay ngược mũi gươm lên tựa như người đang bưng ly rượu để uống vậy.

Kim-Luân trông thấy hai người vừa đánh vừa đỡ ăn khớp cùng nhau chặt chẽ không khác gì hai người máy, mà đường gươm nào cũng rất lợi hại, vừa kỳ ảo vừa biến hóa phi thường không thể nào chống đỡ cho kịp thì trong lòng đã hoảng sợ, nghĩ bụng:

- Trời đất mênh mông, anh tài phát sinh ngày càng lắm. Hai người còn trẻ măng mà kiếm pháp lợi hại dường này, thật bên Tây Tạng chưa có ai bì kịp. Không ngờ đất Trung-nguyên lại lắm nhân tài như thế. Xưa nay ta chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, không chịu mở mắt nhìn hết anh hùng trên thiên hạ. Bây giờ sáng mắt ra thì kể cũng hơi muộn.

Thật ra, với tài nghệ của Kim-Luân Pháp-Vương, có thể gọi được là thiên hạ vô địch. Ngay như cả hai người Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ cùng hiệp sức chiến đấu cũng không thắng nổi. Tuy nhiên nhờ cả hai đã biết khéo léo áp dụng kiếm pháp "song kiếm hợp bích" của bà Lâm-Triều-Anh sáng chế nên ông mới chịu thua sút và tránh đỡ không kịp. Kiếm pháp này tưởng trên thế gian cũng chưa có môn phái nào cao siêu bằng.

Theo kiếm pháp này, cứ mỗi chiêu số phải có một đường thuận và một đường nghịch cho trai đánh gái đỡ, hoặc gái đánh trai đỡ ăn khớp lạ thường, đối phương không thể nào dự đoán trước được. Hơn nữa, mỗi thế đều có đặc một cái tên vô cùng bóng bẩy khả ái như "cầm sắc tương hòa" (sắc cầm cùng hòa tấu), "tùng hạ đối địch" (đánh cờ dưới bóng cây tùng), "tảo tuyết phanh trà" (quét tuyết mở trà) hay "tri biện điệu hạc" (giặc hạc bên hồ). Tên gọi càng êm tai thì lối đánh đỡ càng đẹp mắt bấy nhiêu.

Nguyên Lâm-Triều-Anh là một bậc thiên tài, âm thạo cả cầm kỳ thi họa, từ ngày bị thất tình vì Vương-Trùng-Dương trở về ẩn thân trong Cổ-mộ đài đã đem hết tài năng sở trường ra sáng chế nên pho võ công này. Thật ra, Lâm-Triều-Anh biên soạn và sáng chế ra không ngoài mục đích tiêu khiển để quên những nỗi buồn lắng đọng trong tâm tư. Chính bà cũng không ngờ rằng kiếm thuật này, mười năm sau đã giúp cho một đôi nam nữ thiếu niên của phái Cổ-mộ đã áp đảo được một cường địch lợi hại nhất võ lâm hiện thời.

Có một điểm đặc biệt là, cũng đồng thời song đấu, nhưng phải là một đôi nam nữ đang yêu nhau tha thiết, có thể sống chết cùng nhau thì cuộc đấu mới thêm phần lợi hại và tuyệt diệu, diễn tả được tất cả sự huyền diệu của cặp thư hùng. Lúc đầu vì chưa hiểu hết những sự thâm thúy của kiếm thuật, hai người tập luyện có vẻ hời hợt ít hứng thú, nhưng khi gặp một kình địch lợi hại, càng đẩy càng thấy những cái hay ho tuyệt diệu của các thế kiếm đã dạy.

Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ là đôi bạn tình mới bắt đầu yêu thương nhau tuy chưa chung chăn gối, nhưng hai tâm hồn như một, cùng hòa hợp một niềm rung cảm như nhau, không khác nào Lâm-Triều-Anh trong lúc đang cảm xúc ngồi soạn thảo ra Ngọc-nữ Tâm-kinh. Cho nên cả hai càng đấu càng nhớ thêm kiếm quyết, càng đánh càng thông suốt thêm những cái tinh diệu của đường gươm, không khác gì người xe tơ đã gỡ dần ra sợi rối.

Hoàng-Dung đứng ngoài nhìn xem trận đấu, vừa chú ý theo dõi thái độ của hai người. Bà thấy Tiểu-Long-Nữ đôi má đỏ hây hây, chốc chốc nhoẻn một nụ cười e lệ liếc sang. Dương-Qua thì mắt đưa mày liếc mỗi cử chỉ đều quan tâm tới dáng điệu và cảm xúc của người yêu, hình như lúc nào cũng muốn chứng tỏ cho cô nương mình biết rằng, dù cho biển cạn non mòn, gươm dao kề cổ cũng không quên nàng.

- Mặc dù chống cự với một cường địch vô cùng hung ác, nhưng hai người vẫn không hề nao núng và luôn luôn giữ một thái độ dịu dàng của một trai gái đang biển hạn non thề, bất chấp cả đến thiên hạ.

Hình ảnh của hai người khiến cho Hoàng-Dung chợt nhớ lại hồi nào mình cùng Quách-Tỉnh quen nhau, yêu nhau rồi cùng sánh nhau bao nhiêu năm trường trên cuộc đời gian nguy gió bụi. Bao nhiêu đó cũng đủ sưởi ấm được cõi lòng bà đang chua xót vì hoàn cảnh đang lâm nguy của thực tại.

Nhờ phúc chí tâm linh, Dương-Qua cùng Tiểu-Long-Nữ càng đấu càng nhớ ra những thế hay và cùng sáng chế ra lắm thế kỳ diệu ác liệt hơn nữa, khiến Kim-Luân Pháp-Vương đánh đỡ gần muốn đứt hơi.

Bị dồn vào thế bí, lúc bấy giờ Kim-Luân Pháp-Vương mới hối tiếc:

- Phải chi lúc nãy ta đừng dẫm nát các bàn ghế thì bây giờ đã có nơi ẩn nấp thuận tiện rồi. Thôi, không còn cách nào hơn là tìm cách nhảy theo cầu thang xuống phía dưới thoát nạn cho rồi.

Nghĩ vậy rồi ông lùi dần lại phía cầu thang. Khi tới nơi, ông vừa đánh vừa bước xuống từng bước một.

Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ tự nhiên được chiếm ưu thế từ trên đánh xuống. Cả hai cùng có một ý nghĩ:

- Chuyến này chúng ta đã có thể trục xuất mày ra khỏi khách sạn cho mà xem.

Hoàng-Dung đứng nhìn trận đấu, thấy Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã khéo phối hợp lối đánh "song kiếm hợp bích" trong ngọc nữ-tâm kinh đuổi được Kim-Luân Pháp-Vương thì trong lòng rất mừng. Nhưng khi thấy lão tìm cách rút lui dần thì bà ngại rằng, nếu để hắn thoát khỏi và tìm được cách đối phó thì nguy hiểm lắm. Phải chi hai người cố gắng diệt được hắn thì quân Mông-Cổ không khác nào rắn đã mất đầu đỡ được một gánh nặng cho anh hùng Trung-nguyên và đỡ được hậu họa.

Vì vậy nên bà vội nói vọng xuống cho hai người cùng nghe:

- Qua nhi, trừ cỏ phải bứng sạch gốc, không nên để sau này nó mọc lại thì nguy hiểm lắm nhé.

Dương-Qua cũng muốn làm theo lời dạy của Hoàng-Dung. Nhưng có một điều đáng tiếc là khi sáng chế ra kiếm pháp này, Bà Lâm-Triều-Anh chỉ có dụng ý phô trương những ngón lợi hại của võ công mình chứ không có ý sát hại ai. Vì vậy nên hai người chỉ có thể làm cho đối phương lúng túng chịu thua chứ không có những đòn hiểm yếu hạ sát được địch thủ.

Kim-Luân càng ngày càng bị áp lực của hai đường kiếm, vừa đánh vừa rút lui, trong bụng lo lắng không thoát khỏi chết. Gần tới đất, ông co gio đạp mạnh gãy luôn ba nấc thang rồi phóng luôn xuống đất.

Dương-Qua muốn nhảy theo nhưng không kịp.

Đặt chân xuống đất, Kim-Luân đưa chiếc vòng ra thủ thế phía trước rồi nói lớn:

- Hôm nay được nếm mùi võ công của Trung-nguyên, tôi rất lấy làm thán phục. Vậy xin liệt vị vui lòng cho biết môn kiếm kỳ diệu này mệnh danh là chi?

Dương-Qua vừa cười vừa đáp lại với giọng đùa cợt:

- Võ nghệ Trung-nguyên chỉ có hai môn võ tuyệt tác, ấy là "dùng bổng đánh chó" và "dùng gươm đâm lừa".

Kim-Luân nghe lạ tai quá, lập lại:

- Dùng gươm đâm lừa! Môn võ công có cái tên cũng ngồ ngộ nhỉ?

Dương-Qua ngước mặt cười to và nói luôn:

- Lừa trọc ấy chứ còn thứ nào nữa? Ngộ lắm phải không?

Lúc bấy giờ Kim-Luân mới biết ra là chàng mượn cớ để mắng mình, xem như đồ lừa đồ chó! Tụi này không bao nhiêu tuổi mà xấc láo thật!

Nghĩ đến đây, Kim-Luân giận điên lên mắng lớn:

- Súc sinh miệng còn hôi sữa. Một ngày gần đây ta sẽ cho mi nếm đòn của ta.

Nói xong ông tung vòng kêu leng keng rồi phi thân biết mất.

Dương-Qua có biết đâu rằng chỉ vì những phút bồng bột nóng nổi nói những câu châm biếm móc họng đến nỗi gây thành thù hận. Về sau biết bao nhiêu thù hận liên tiếp xảy ra nguyên do cũng vì hậu quả của lối đối xử vô lễ ngày hôm nay.

Thấy Kim-Luân Pháp-Vương chỉ nhún vai một cái đã bay đi mất dạng thì biết rằng muốn đuổi theo cũng không kịp nữa nên quay mình trở lại lên lầu.

Lúc bấy giờ Đạt-nhĩ-Ma đang ôm Hoắc-Đô ngồi trên lầu cạnh bàn ăn trông thấy Dương-Qua xách kiếm bước vào đứng ngay dậy hỏi nhỏ:

- Sao, tiểu huynh định hạ sát anh em tôi chăng?

Xưa nay Dương-Qua có tánh ưa đùa cợt ngạo nghễ người lớn hơn, chứ không có ác ý hay muốn sát hại người. Nay thấy tình cảnh hai người đang ở trong vòng nguy biến đáng thương hại thì lòng không nỡ, nên quay sang thưa cùng Hoàng-Dung:

- Thưa Quách Bá Mẫu, ý con muốn tha bọn này, bá mẫu có bằng lòng chăng?

Hoàng-Dung gật đầu tán thành.

Dương-Qua rút trong người ra một cái ống nhỏ đặt vào vết thương của Hoắc-Đô cho hút hết nọc ong ra rồi đưa thuốc bảo xoa vào chỗ ấy.


Hoắc-Đô và Đạt-nhĩ-Ma mừng quá vội dùng tiếng Mông-cổ tỏ lòng cám ơn. Sau đó, Hoắc-Đô vội lấy ra một gói thuốc bột trao cho Dương-Qua mà nói rằng:

- Vị tiền bối hôm nọ múa bút bị mấy mũi đinh độc của tôi chắc nay chưa hết. Xin cứ dùng thuốc này mà thoa tự nhiên khỏi ngay.

Xong đâu đấy, Đạt-nhĩ-Ma nghiêng mình tạ ơn Dương-Qua một lần nữa rồi cõng sư đệ lên lung bước ra khỏi khách sạn.

Quả nhiên y có sức khỏe như thần, tuy cõng một người to lớn trên lưng nhưng bước đi không thấy tỏ ý gì là nặng nhọc hay lán cấn.

Cả bọn võ sĩ Mông-cổ cũng lẳng lặng theo hai người bước xuống lầu.

Dương-Qua cầm gói thuốc giải độc trước mặt Hoàng-Dung rồi lễ phép thưa rằng:

- Kính thưa Quách Bá-mẫu, cháu xin gửi thuốc chữa cho Chu lão tiền bối và kính lời từ biệt. Cháu nhờ Bá-mẫu chuyển lời của cháu kính thăm Quách bá bá.

Hoàng-Dung hỏi:

- Cháu định đi đâu bây giờ?

Dương-Qua đáp nho nhỏ:

- Thưa bá mẫu, cháu định cùng Cô nương đây tìm nơi hoang vắng xa xôi ẩn dật, nguyện không bao giờ chung đụng với đời để làm hại đến thanh danh của bá mẫu.

Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Dương-Qua không nệ tử sanh, liều mình giải cứu mẹ con ta thì ơn này rất trọng. Nay vì tuổi trẻ để cho chữ tình làm mê muội mai một cuộc đời anh kiệt. Ta lẽ nào làm ngơ mà không tìm cách giác ngộ được nó ra khỏi bến mê?

Nghĩ xong bà nói lớn:

- Đi một ngày một đi, làm chi mà tội thế cháu? Hôm nay là ngày đoàn tụ vui mừng của bác cháu và anh em trong gia đình. Vậy cháu hãy ráng ở lại với bác một vài hôm rồi sẽ đi không muộn.

Thấy Hoàng-Dung đã lùng lời lẽ thắm thiết để lưu mình, chẳng lẽ chối từ mãi, nên đành phải nhận lời.

Hoàng-Dung lấy tiền ra bồi thường cho khách sạn về chi phí ăn uống cùng những đồ đạc bàn ghế bị hư hao trong cuộc chiến đấu vừa qua, rồi bảo dọn phòng nơi quán trọ gần đó tạm nghỉ.

Cơm chiều vừa xong, bà sai Quách-Phù và hai anh em họ Võ mời Tiểu-Long-Nữ sang trò chuyện.

Khi Tiểu-Long-Nữ vừa tới bà tươi cười nói:

- Tôi có vật này, muốn tặng Cô em để lưu làm kỷ niệm của buổi gặp gỡ hôm nay.

Tiểu-Long-Nữ hỏi:

- Bà có lòng thương tặng món gì vậy?

Hoàng-Dung kéo Tiểu-Long-Nữ lại sát bên mình, lấy lược chải tóc cho nàng như một người em gái.

Mái tóc nhung của nàng xõa xuống ngang vai óng ánh như tơ trông vừa ngây thơ vừa ngộ nghĩnh.

Sau khi chải chuốt xong xuôi bới tóc gọn gàng, bà lấy một chiếc trâm bằng vàng đem cài lên mái tóc của nàng rồi nói:

- Chị muốn tặng cô em chiếc trâm này dùng để cài tóc nhé.

Chiếc trâm này là một món bảo vật quý giá vô cùng. Toàn thân giống như một cành hoa hòa chạm trổ rất tinh xảo, có những đóa hoa hàm tiêu dính ở đầu trâm, khiến ai mới trông qua cũng phải trầm trồ là mỹ thuật. Càng xem lâu càng thấy những cái quý giá trong nét chạm và lối trình bày.

Chiếc trâm này nguyên lai do phụ thân Bà là Hoàng-Dược-Sư, Chúa đảo Đào-Hoa, chuyên môn sưu tầm những bảo vật của thiên hạ, sau này lựa những viên ngọc thật quý và vàng ròng đem chạm thành chiếc trâm này cho con gái. Xem thế cũng đủ biết trâm này giá trị là dường nào.

Từ lúc nhỏ, Tiểu-Long-Nữ chỉ cài bằng nữ trang tầm thường, bằng sừng hoặc xương hoặc kết bằng cỏ. Nay được Hoàng-Dung tặng một chiếc trâm bằng vàng dát ngọc quý báu thì mừng lắm, cám ơn luôn mồm.

Sau khi cài trâm trên tóc nàng rồi, Hoàng-Dung thủ thỉ nói chuyện luôn mồm ra chiều tương đắc lắm.

Qua những câu chuyện hàn huyên, Hoàng-Dung nhận thấy Tiểu-Long-Nữ bản chất thành thật, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy và cuộc đời chẳng có một tý kinh nghiệm nào hết. Mặt nàng tươi như hoa phù dung buổi sáng, thân hình óng ả kiều diễm, càng ngó càng đẹp.

Thấy nàng quá xinh, Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Nếu như nàng cùng Dương-Qua không có nghĩa thầy trò, hai đứa lấy nhau quả xứng đôi vừa lứa, gái sắc trai tài, thế gian chắc không đôi nào sánh kịp.

Suy nghĩ xong bà dịu giọng hỏi nhỏ:

- Này cô em, quả em có thật tình yêu thương Dương-Qua hay chỉ nói đùa cho vừa lòng nó?

Tiểu-Long-Nữ cười tươi như hoa và nói:

- Dạ thương thật chứ. Nhưng tại sao bà lại hỏi như vậy, chẳng hay có điều gì can hệ chăng?

Nghe Tiểu-Long-Nữ trả lời một cách thẳng thắn và hồn nhiên. Hoàng-Dung bỗng chạnh lòng nhớ lại ngày còn niên thiếu. Hồi ấy bà và Quách-Tỉnh yêu thương nhau tha thiết, nhưng cha mình lại không chịu gả cho chàng, ngoài ra bọn Giang nam Thất quái, sư phụ của Quách-Tỉnh cũng không bằng, lòng họ xem nàng là yêu nữ và buộc Quách-Tỉnh phải xa lánh nhất thiết không cho gần mình. Cả hai người phải trải qua trăm cay ngàn đắng, vào tử ra sinh, nhưng rốt cuộc rồi cũng lấy nhau làm chồng vợ có con có cái cho tới ngày nay.

Liên hệ tới cặp này bà suy nghĩ:

- Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã thật tình yêu nhau tha thiết, có khác nào chúng mình xưa kia. Vậy thì mình nỡ nào đi chia rẽ họ cho đành lòng. Ngặt một nỗi là hai đứa đã mang danh thày trò quá rõ rệt trên dưới phân minh, nếu để xảy ra chuyện bướm ong bậy bạ sao khỏi mang tiếng loạn luân. Cả hai đều tài nghệ tuyệt vời, tương lai đầy hứa hẹn, nếu vương phải tội lỗi này thì cũng như chôn cả cuộc đời rồi còn mặt mũi nào nhìn anh hùng trong thiên hạ nữa.

Suy đi nghĩ lại xong, bất giác Bà chiếp miệng thở dài não ruột, rồi quay sang Tiểu-Long-Nữ nhỏ nhẹ nói:

- Long cô-nương này, em còn thiếu kinh nghiệm chưa hiểu việc đời mấy. Chị dù sao cũng đã từng trải hơn nhiều, tuy không tài chỉ hơn em nhưng cũng có thể thấy được nhiều chuyện lạ, cái hay thì theo, cái bậy nên tránh. Sở dĩ con người hơn được thú vật là vì biết điều phải trái và không để ái tình làm ngu muội. Nếu làm người mà mải mê theo tình ái quên cả lý chí thì thiên hạ cho là "thú tính" nghĩa là không hơn chi loài súc vật. Chị chỉ ngại rằng, nếu sau này em lấy Dương-Qua sẽ bị thiên hạ chê cười khinh khi và không ai thèm nhìn tới mặt hai người nữa đấy.

Tiểu-Long-Nữ nghe nói đã buồn lòng, nhưng vẫn cười gượng đáp:

- Thiên hạ nhìn hay không, đối với chúng tôi có can hại gì đâu.

Nghe nói như vậy, Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Cô bé này không phải hạng muốn xem thường dư luận, nhưng có lẽ từ bé chí lớn, sống trong Cổ-mộ, không giao thiệp với xã hội bên ngoài, chỉ chuyên về võ nghệ nhưng không am hiểu mấy về lễ nghi, đạo đức. Cũng như ngày nay, tại các nhà trường, mấy thầy giáo chỉ chú trọng dạy viết chữ thật đẹp, làm văn cho thật hay, chứ mấy ai lưu tâm tới chuyện luân thường đạo lý, đào luyện đạo đức cho con em? Thật đáng ngán thay cho những hạng thày giáo chỉ nhắm về bát gạo nồi cơm. Nếu thiên hạ chỉ toàn những hạng như thế này thì xã hội còn nhiều sự đảo lộn xấu xa hơn nữa.

Suy nghĩ xong bà nói tiếp:

- Cô em không cần tới họ đã đành, nhưng còn Dương-Qua chẳng lẽ cũng như thế sao?

Tiểu-Long-Nữ đáp:

- Xin bà chị chớ lo điều đó. Nay mai hai chúng em sẽ trở về Cổ-mộ, sống ẩn tích mai danh, xa rời xã hội loài người, có cần gặp gỡ hay tiếp xúc với ai nữa đâu?

Hoàng-Dung giả bộ ngơ ngác hỏi tiếp:

- Thế ra một khi đã về Cổ-mộ rồi cả hai sẽ vĩnh viễn ly khai với xã hội loài người hay sao?

Tiểu-Long-Nữ quả quyết đáp:

- Dạ đúng như vậy. Bà chị cũng thừa hiểu trong xã hội không biết bao nhiêu là hạng người điêu ngoa xảo trá, tiếp xúc với họ chỉ thêm bực mình mà thôi.

Nàng vừa nói vừa lăng xăng đi đi lại lại trong phòng hình như để cởi mở bớt những nỗi bực trí đang tràn ngập trong tâm hồn.

Hoàng-Dung bắt đầu gợi lại câu chuyện:

Dương-Qua sống cuộc đời phiêu bạt từ thuở bé, nay đây mai đó không khác nào cánh chim trời tung mây lướt gió.

Tiểu-Long-Nữ cười xòa đáp với giọng đầy tin tưởng:

- Bà chị không cần phải lo nghĩ về điểm đó. Một khi đã có em bên cạnh tự nhiên anh ấy sẽ thấy yêu đời, quên cả bao nhiêu cảnh xảo trá phiền phức bên ngoài ngay. Chừng ấy em chắc chắn anh ấy không buồn chán đâu.

Hoàng-Dung thở dài than nhỏ:

- Lòng người đâu phải sắt đá mà cứ mãi mãi trơ trơ đến muôn đời không thay đổi. Chị ngại rằng trong thời gian ba năm Dương-Qua chưa buồn chán, nhưng sau đó khi cuộc đời vắng lạnh trong Cổ-mộ đã thấy buồn tẻ, thế nào y cũng nhớ lại những cảnh phồn hoa vui vẻ ngoài đời, chừng ấy, em có đủ sức giữ chân y nữa hay không? Chừng ấy, em sẽ đóng vai một góa phụ sống với chuỗi ngày vò võ một thân một bóng trong rừng sâu, và trong những phút cô độc, suy nghĩ lại những lời hôm nay, em sẽ thấy chị là kẻ sành đời, có tài đoán trước được mọi việc. Chừng ấy dù có hối tiếc thì cũng đã muộn rồi. Chi bằng ngay bây giờ, khi bàn tay chưa nhúng phải chàm, em nên đắn đo suy nghĩ lại trước khi hành động.

Nói tới đây bà đổi lại giọng thân mật hơn trước:

- Tục ngữ có nói: "Đàn ông năm bảy tấm lòng, lòng yêu thương vợ, lòng yêu người ngoài". Một khi hoa đã biết bướm thì dù ai có mãnh lực gì đi nữa cũng không thể nào giữ mãi không cho bướm rời hoa đâu nhé.

Nghe Hoàng-Dung nói, dần dần thấy cũng có lý. Tiểu-Long-Nữ đứng lặng yên cắn môi suy nghĩ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược nhau đã bắt đầu tranh chấp và gây sóng gió trong lòng nàng. Một chập sau nàng mới nói:

- Vậy để em tìm cách dò xét ý tứ Dương-Qua xem sao?

Nói xong nàng lẳng lặng bước lanh ra ngoài.


Hoàng-Dung đưa mắt nhìn theo miệng lẩm bẩm khen vùi:

- Con người như nàng quả nhiên xinh đẹp, mặt như hoa phù dung, thân hình mảnh mai như cành liễu yếu. Dáng bước đi không khác gì nàng tiên đang lả lướt bên cánh hoa soi hình dưới bóng nguyệt! Một con người dễ thương như thế này đáng lẽ phải được hưởng chữ hạnh phúc hoàn toàn mới phải. Vì chữ luân lý và lễ nghĩa ta buộc lòng xen vào, làm phá vỡ cuộc tình duyên của hai đứa thật cũng quá tội. Nhưng thôi, thà rằng cực lòng trước để khỏi đau lòng sau.

Nghĩ tới đây bà bỗng chợt nghĩ:

- Tánh nàng thiệt tình như đếm, không biết sẽ dùng lời lẽ chi để dò ý Dương-Qua đây? Ta phải rình nghe cho biết.

Nghĩ xong bà rón rén bước lại cạnh phòng Dương-Qua, áp tai vào vách tường nghe thử.

Lúc ấy phía trong, Tiểu-Long-Nữ đã hỏi Dương-Qua:

- Này Qua nhi, hiện tôi cũng nhận rằng cậu hết tình yêu thương tôi. Nhưng một thời gian qua, mối tình này sẽ chán chê rồi phai lạt đi, chừng ấy cậu sẽ nghĩ sao nhỉ?

Bỗng nhiên thấy Cô nương có ý nghĩ lạ đời như vậy, Dương-Qua lạ lùng vô cùng không biết nguyên nhân vì đâu, nhưng cũng đáp:

- Tại sao cô nương bỗng cố ý tưởng khác đời như thế? Hễ yêu nhau thì yêu mãi cho tới khi đầu bạc răng long, chứ đâu có chuyện nửa chừng rồi chán nản được.

Câu trả lời này khiến cho Tiểu-Long-Nữ cảm động đến ứa lệ, nàng bồi hồi đứng lặng một hồi rồi nói tiếp:

- Được vậy thì có gì hơn. Tôi chỉ sợ nói thì dễ nhưng không giữ được thủy chung đó thôi.

Nói xong nàng rút chiếc trâm trên đầu xuống móc lên tường rồi bảo nhỏ:

- Khuya rồi, chúng ta ngủ đi, sáng sẽ hay.

Dương-Qua nói:

- Vừa rồi nghe Quách bá-mẫu nói đêm nay Cô nương cùng ngủ chung phòng với mẹ con bà, còn tôi ngủ với anh em nhà họ Võ, thế sao cô nương lại về đây để ngủ?

Tiểu-Long-Nữ gay gắt đáp:

- Mặc kệ! Ai lại để cho hai người đàn ông lạ hoắc ngủ chung trong phòng cậu cho được. Ta cứ ngủ đây chứ không đi đâu hết có sao không?

Nàng nói xong thổi ngay ngọn đèn.

- Té ra Triệu-chí-Kính đã nói đúng sự thật. Thì ra hai thầy trò hắn đã bậy bạ cùng nhau lâu rồi. Thôi, trai gái nó ngủ chung phòng nói chuyện nhảm nhí ta hơi đâu nghe ngóng cho mệt và mất thể giá.

Nghĩ xong bà định cất bước đi nơi khác. Nhưng bỗng nhiên trong phòng có tiếng mở cửa kêu kẹt một cái. Bà liền nán lại lắng tai nghe nữa.

Tiếng kẹt đó là do Dương-Qua mở cửa cho gió thổi vào trong phòng. ánh trăng từ cánh cửa lùa vào trong phòng trông rõ hết mọi vật. Bà định thần nhìn lại thì thấy Tiểu-Long-Nữ nằm trên chiếc võng treo tận nóc nhà, còn Dương-Qua thì nằm trên giường kê phía đàng xa. Té ra mặc dù hai người cùng ngủ một phòng nhưng vẫn phân biệt và giữ đúng lễ nghi khuôn phép, không có điều gì tà dạy.

Hoàng-Dung làm thinh, chấp tay sau đích thủng thẳng bước đi ra ngoài, trong lòng phân vân quyết làm sao cho đúng tâm trạng và hành động của cặp này.


__________________
[b]ILoveU
Trả Lời Với Trích Dẫn