Hồi 132
Một ngày nọ, Dương- Qua cao hứng, cùng Thần Điêu thi triển võ công, chàng dùng đến mười phần chân khí. Thần Điêu kêu "qua" một tiếng cực lớn và chạy tránh qua một bên.
Dương- Qua thâu kiếm không kịp, thanh mộc kiếm chém vào cây đại thọ đến "ầm" một tiếng, cây gãy lìa và thanh kiếm cũng gãy làm hai khúc. Dương- Qua nhặt hai khúc kiếm gãy nghĩ thầm :
- Bấy giờ thanh mộc kiếm này còn mảnh nên yếu sức, cho nên chạm vào thân cây to là gãy đôi. Vả lại tay của ta đã dùng hết sức mạnh thì sau này thanh kiếm gỗ không gãy mà thân cây sẽ gãy lìa. Thực không sai tí nào, theo di ngôn của Độc cô cầu bại tiền bối thì môn luyện kiếm này cực kỳ thần mật.
Xuân qua Thu lại, năm tháng như tên bay, Dương- Qua hàng ngày nhào lộn theo đợt thủy triều luyện kiếm, bất kể ngày đêm, không màng ấm lạnh.
Lưỡi kiếm gỗ càng lâu càng rít kêu to, cho đến sau thanh kiếm vung ra tiếng kêu như sấm muốn điếc lỗ tai.
Luyện thêm vài tháng nữa, tiếng kêu dần nhỏ lại, ngày hoàn thành thì nó đã không còn phát ra tiéng nữa.
Chàng lại luyện thêm vài tháng nữa, tiếng kêu đã mất hẳn, nhưng còn tiếng rít nghe "vi vút" thật lớn. Và đến khi tiếng rít và tiếng kêu bằng nhau, đó là vào thời kỳ thứ bảy, thanh kiếm gỗ mới tùy theo tay người sử dụng, muốn kêu là kêu, muốn lặng là lặng.
Luyện đến thời kỳ này, ngày đêm ròng rã tính lại đã 6 năm dài. Lúc bấy giờ tay kiếm của Dương- Qua, mỗi ngày đều ở ngoài biển đón ngọn thủy triều, múa chém như công địch.
Thanh kiếm phát ra một luồng kình phong rất mãnh liệt, bao bọc mình chàng như vách sắt tường đồng. Mặc dù đang ở trong ngọn sóng thủy triều mà mình chàng không một giọt nước nào thấm vào cả.
Tuy chàng ẩn cư nơ i góc biển chân trời mà chàng vẫn ước ao gặp một vài tay võ lâm để tỉ thí.
Sức lực của Thần Điêu mạnh gấp 1 0 người, thế mà cũng chịu không nổi hai chiêu, ba thế của thanh mộc kiếm.
Bây giờ chàng mới nhớ đến lời ghi trên bia mộ của Độc cô cầu bại và thầm nghĩ :
- Với môn kiếm thuật này, trong thiên hạ chưa chắc đã có người nào chống lại nổi ! Nếu không nhờ Độc cô cầu bại lưu truyền lại môn kiếm này, chôn kiếm nơi cùng cốc sơ n lâm này để chỉ điểm cho ta.
Chàng lại nghĩ :
- Nếu chẳng nhờ Điêu huynh, thủa trước đã mắt thấy tường tận cách luyện kiếm của Độc cô cầu bại tiền bối, thì làm sao ta biết đuợc kỳ môn này. Bây giờ ta không nên gọi là Điêu huynh nữa mà phải gọi là Lương sư . Còn so tuổi tác thâm niên, thì không biết Điêu huynh đã sống mấy trăm năm rồi, ta kêu là Điêu công công, hay Điêu gia mới đúng.
Tại bờ biển, chàng một mặt luyện kiếm, một mặt hỏi thăm tin tức các ghe thuyền qua lại xem trong Nam hải đảo có vị thần ni nào không.
Trong nửa năm qua, hỏi thăm trên ngàn ghe, muôn thuyền, từ những vị hải sư đến những người du lịch, cũng không ai biết vị thần ni này là ai.
Thời gian mãi trôi qua, dần dần chàng quên lần ý niệm hỏi thăm tin tức. Chàngnghĩ rằng có lẽ đến kỳ hạn 1 6 năm không được gặp lại Tiểu Long nữ.
Một ngày nọ mưa gió dầm dề, Dương- Qua lòng bâng khuâng muốn ra đi, mình mặc áo bào mỏng, lưng đeo trường kiếm, một người và một Điêu đi lần về miền Trung Nguyên Giang Nam.
* * *
Nói về đời Đại Tống, Lý Tông hoàng đế năm đaù tiên, vào thời vua Hiến Tông thứ chính của Mông cổ. Bấy giờ vào lúc tháng hai tiết Dương Xuân, trên bờ sông Hoàng Hà về hướng bắc, tức là đầu bến đò Phong Lăng, nơi đây chìm trong cảnh ưu hoài, nào là lừa kêu ngựa hí, pha lẫn tiếng xe cộ người đi.
Cũng vì mấy ngày qua khí trời cực lạnh, phía trước sông Hoàng Hà nước đóng thành băng, lại thêm gió Bắc thổi về, tuyết bay lả tả. Do đó trên mặt sông khách chẳng dám qua đò, và xe cộ đều không đi trên tuyết được.
Rất nhiều thương khách muốn qua sông, xuôi về miền Nam, đều bị tiết trời cản trở, tất cả đều kẹt lại.
Trên bến đò Phong Lăng rất nhiều khách điếm, mà những khách lữ hành vào ra không ngớt, cho nên không đến nửa ngày, nhiều khách điếm đã chật ních. Những khách thương đến sau không chỗ nghỉ, phải đứng quây quần trong điếm không ngớt tiếng xì xào. Bến đò Phong Lăng là một thị trấn khá lớn, có một gian khách điếm tên gọi "An Độ lão điếm", những người bên kia sông gọi là "Đaò Bình An". Ai qua lại đều đi ngang khách điếm này vì nó ở ngay bến đò.
Va ûlại, quán xá sạch sẽ, điếm phòng khoản khoát, cho nên thương khách thường lui tới tấp nập.
Chưởng quỷ của điếm này là một tay miệng lưỡi, nên mỗi gian phòng đến ba bốn người ở. Nếu đến 1 0 ngừoi thì gian phòng chật ních không chỗ nghỉ ngơi, do đó những người đến sau tề tựu trước phòng khách mà ngồi quây quần với nhau để tán gẫu. Nơi đây có cái bàn nhỏ, và một cái lò sưởi thật to.
Mọi người thích ngồi nơi đây để nhìn ra ngoài cửa, ngắm ngọn gío Bắc thổi đến, đưa những đọt tuyết bay lồng lộng và ngày mai chưa chắc đã lên đường được. Đôi mày họ cau lại hàm chứa biết bao sự lo buồn.
Trời dần dần tối, tuyết đổ mỗi lúc càng to ! Hốt nhiên nghe tiếng vó ngựa từ xa đưa đến, mỗi lúc mỗi gần. Rồi đoàn người ngựa dừng lại trước khách điếm. Chỉ thấy ba người cưỡi ngựa ra bến đò, rồi nhảy xuống ngựa.
Chưởng quỷ thấy vậy mừng rỡ. Một ông khách già cau mày nói :
- Lại có khách đến !
Quả nhiên nghe tiếng một cô gái nói :
- Chưởng quỷ ! Cho ta thuêhai gian phòng bên trên cao ráo sạch sẽ một tí.
Chưởng quỷ nói :
- Sự thật là không còn chỗ ! Quý khách đã tưởng đến, tiểu điếm xin mời quý khách vào xem.
Cô gái không thèm trả lời, cầm cây roi đánh "tét" một tiếng vào không khí và cự nự rằng :
- Ngươi nói láo ! Ngươi bảo người nhà nhường lại cho ta không được sao ? Ta sẽ trả cho ngươi nhiều tiền.
Nói xong, chẳng đợi chủ quán đồng ý hay không, cô gái nọ đi thẳng vào trong.
Mọi ngươi đang ngồi trong phòng khách thì đột nhiên thấy một thiếu phụ xuất hiện.
Thiếu phụ này tuổi ngoài ba mươi, mắt hạnh mày ngài, dung nhan xinh đẹp. Trên mình khoác một chiếc áo màu xanh lam, bằng da cừu.
Thiếu phụ này đi vào trước, phía sau lưng có hai người đi theo, một trai một gái. Cả hai độ chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Cậu trai thì mày rậm mắt to, tinh thần tươi sáng. Cô gái thì đẹp đẽ yêu kiều.
Thanh niên và thiếu nữ này đều khoác áo bằng tơ màu lục, thiếu nữ có đep trên cổ một xâu chuỗi bằng ngọc minh châu, mỗi hạt minh châu cực lớn, to bằng đầu ngón tay út, phát ra ánh sáng :Di lọi.
Mọi người khách đang nói chuyện ồn ào, khi thấy ba người đi vào, liền nín bặt, đưa đôi mắt nhìn về phía ba người kia.
Tên chưởng quỷ cung kính cười xã giao và nói tiếp :
- Quý bà ! Mời quý bà nhìn xem ! Mỗi người đang ngồi ở đây đèu chẳng có phòng nghỉ ngơi. Nếu ba vị không tị hiềm, thì chúng tôi sẽ nhường một chỗ nhỏ để ngồi sưởi ấm đỡ trong đêm nay. Bây giờ đến trưa mai, nước đặc thành băng khó mà qua sông được.
Người thiếu phụ có vẻ hào hiệp, mỉm cười, cho là chủ quán thật tình nên gật đầu.
Những người trong phòng khách, có một thiếu phụ trung niên cất tiếng bảo rằng :
- Quý bà quý cô! Hãy lại đây ngồi đỡ để sưởi ấm, và chúng ta nói chuyện cho vui !
Người thiếu phụ liền nói :
- Cảm ơn ! Cảm ơn bà chị !
Rồi cùng người thiếu nữ đi lại gần người thiếu phụ trung niên, còn chàng thanh niên thì ngồi chung với nhóm người khách.
Mọi người đều nhường cho họ một chỗ ngồi rộng rãi. Ba người khách mới vào ngồi chẳng lâu thì chưởng quỷ đã bày ra cơm rau rất tươm tất, có cả thịt gà rượu trắng.
Thiếu phụ đẹp ăn uống ngon lành, lại là một tay tửu lượng rất khá. Nàng uống hết chén này sang chén khác, gã thanh niên trẻ tuổi cùng uống với thiếu phụ, chỉ có cô gái nhỏ nhu mì thì chẳng uống tí rượu nào.
Lại nghe ba người xưng hô với nhau, người thiếu phụ là chị cả, còn gã thanh niên là em trai, cô gái nhỏ là em gái.
Gã thanh niên coi tuổi lớn hơn cô gái nhỏ song lại gọi cô gái nhỏ bằng chị.
Cả ba người trà rượu cơm nước vừa xong, cũng hợp đoàn với khách lạngồi sưởi ấm, nghe ngoài cửa gió lộng ù ù, cho nên mọi người không ai có ý nghĩ ngô nghê gì cả.
Một người Sơn Tây, tuổi độ trung tuần cất tiếng nói :
- Khí trời thật lanh, mỗi lần tuyết đóng là mỗi lần thành băng, không làm thế nào giải băng tuyết được. Ông trời sao chẳng dạy con người phá băng và ủi tuyết mà đi ?
Một người ở Hồ Bắc là một gã lùn tịt cất tiếng đáp :
- Ngươi đừng oán trách trời đât, như ở đây có hơi lửa ấm, đói có chỗ ăn uống, được một nơi yên lành nh vậy, ngươi còn đòi gìnữ a ? Nếu ngươiưở trong vòng vây của thành Tương Dương thì ngươi còn than oán đến bực nào ? Thiên hạ bị khốn đốn, đói khổ trong thành Tương Dương, còn ngươi được an lạc như vậy là quý lắm rồi.
Người thiếu phụ đẹp nghe đến câu "thành Tương Dương" bị vây hãm, hướng vào hai người em nháy mắt ngầm bảo hãy yên lặng.
Lại nghe người khách Quảng Đông nói :
- XIn lỗi lão huynh ! Vậy tình cảnh mọi người trong lúc thành bị vây hãm ra sao ?
Người khách Hồ Bắc nói :
- Đoàn quân Mông Cổ quả là tàn bạo, mỗi người chúng ta đều nghe biết, chúng ta cần gì phải nói nhiều. Cả năm nay mười vạn quân Mông Cổ công phá mãnh liệt thành Tương Dương, quan Thống chế thủ thành là Lữ Văn Hoán thì mờ ám bất lực, chỉ còn nhờ vào sức vợ chông Quách đại hiệp phù trì...
Người thiếu phụ nghe đến câu "vợ chồng Quách đại hiệp" vẻ mặt bỗng nhiên thay đổi. Lại nghe người Hồ Bắc tiếp tục nói :
- Trong thành Tương Dương gồm mười vạn dân quân đều thề chết giữ thành, không một người nào thay lòng đổi dạ, trẻ con cũng theo đẩy xe, lượm đá chất lên bờ thành liệng vào quân địch, còn người già cả, trung niên mang đá lấy tên chạy lên mặt thành xạ xuống như mưa vào quân Mông Cổ. Như tôi đây cũng bị quân Mông Cổ xạ tiễn trúng vậy...
Mọi người nghe qua đều quay lại nhìn lão, quả nhiên con mắt tả có một vết thương chưa lành hẳn, lớn bằng chung trà. Do đó mọi người đều tỏ ra kính trọng lão.
Người Quảng Đông nói tiếp :
- Nước Đại Tống của chúng ta đất rộng người đông, nếu mọi người đều hành động như lão huynh, dù cho quân Mông Cổ có đông bao nhiêu nữa cũng không thể xâm phạm giang sơn này cho được.
Người Hồ Bắc nói :
- Phải đấy ! Tôi nhìn thấy đại quân Mông Cổ công phá thành này trên mười năm vẫn chưa lấy được, chẳng phải như chỗ khác thế mạnh như chẻ tre. Nghe người ta đồn đại đại quân này có sự ủng hộ của Tây Vực và trên 1 0 nước nhỏ nữa tham gia, mà trước sau gì thành Tương Dương vẫn yên như bàn thạch, không thể công đoạt được, thực là khí thế của nhân dân kiên cố như núi. Có Hoàng đế Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đích thân đứng dưới thành chỉ huy cũng không làm suy giảm nhân tâm trong thành Tương Dương.
Nói đến đây người Hồ Bắc cười đắc ý. Người khách Quảng Đông lại nói :
- Những người già cả đều liều chết với quân Mông Cổ. Nếu bọn xâm lăng này mà đánh tới tỉnh Quảng Đông, tôi tin chắc mấy ông già xứ này cũng quyết liều mạng với chúng.
Người Hồ Bắc lại nói:
- Phải đấy ! Quân Mông Cổ chưa phá được thành Tương Dương, thì vết chân của chúng cũng giẫm nát bên ngoài thành, làm khổ sở cho người Hán không ít. Phía dưới thành chúng căng lều vải để nghỉ tạm. Chúng bắt trẻ thơ từ sáu đến bảy tuổi, hay nhỏ hơn nữ a là bốn năm tuổi, dùng dây trói tất cả và cột dưới đuôi ngựa đánh cho ngựa chạy, thân thể của trẻ thơ bị lôi trên mặt đất. Chưa được nửa vòng thì bọn trẻ đã tắt thở, trông rất thảm thê. Tôi đứng trên bờ thành nghe tiếng khóc la của trẻ cũng như dao cắt ruột, khổ sở muôn phần. Thiệt là một hành động vô nhân đạo của bọn xâm lăng. Tôi muốn nhảy xuống mà giết tất cả, nhưng giết chúng nó một vài người chẳng ích gì, và ai ai cũng rõ nó là sài lang ác độc. Trong một năm ròng rã , thành Tương Dương lương thực khô kiệt, phải uống nước mà chịu, thậm chí phải phạt cỏ cây vắt nước mà uống. Tuy thế cùng như vậy mà quân Mông Cổ cũng không hạ được thành. Bọn xâm lăng dần dần thoái chí ngã lòng, nên chúng chỉ còn một ít phế binh.
Người Quảng Đông lại nói :
- Nếu chúng ta không kiên thủ được thành Tương Dương thì trong 1 0 năm nay, cơ đồ nhà Đại Tống phải tiêu đứt nửa mảnh giang san gấm vóc.
Mọi nguời nghe rõ tình hình ở thành Tương Dương do ngưòi Hồ Bắc kể lại đều khen vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung, và đề cao cặp vợ chồng này như thiên thần, á thánh.
Nãy giờ người Tứ Xuyên im lặng, bỗng nhiên cất tiếng nói :
- Không hẳn tất cả quan viên trong thành mới tốt, mà mỗi nơi đều có, chỉ vì trong triều trung nịnh bất phân, cũng lắm kẻ gian thần được hưởng vinh hoa phú quý, kẻ trung thần phải chết oan. Thủa trước có Nhạc Phi gia gia chẳng phải là trung thần đấy ư ? Như tôi là người Tứ Xuyên, chính mắt trông thấy triều đình đã giết chết một vị lão dân, an thổ, đại trung thần tại tỉnh của tôi ở.
Người Hồ Bắc hỏi :
- Người ấy là ai vậy ? Ông có thể kể cho chúng tôi biết không ?
Người Tứ Xuyên gật đầu nói tiếp :
- Bọn quân xâm lăng Mông Cổ đã đánh phá núi Tứ Xuyên trên 1 0 năm, mỗi người đều lo đánh giặc cả. Bá tánh ở đây chẳng dám phán đoán điều gì. Lúc bấy giờ đương kim Hoàng đế lại tin dùng một tên đại gian thần là Đinh Đại Toàn, tên này quá lộng quyền, dám lấn áp cả đại phu, bắt uống thuốc độc tự sát. Nhiều người cực trung cũng dám liều mình, hoặc xa lánh triều trung. ý của Đinh Đại Toàn muốn kết bè đảng dành chức Thống Soái. Đến sau có bọn Mông Cổ xâm lăng, về mạn Bắc tỉnh Tứ Xuyên, các đồn trấn thủ nơi đây chống trả chẳng lại, mới cấp báo về triều đình. Lúc bấy giờ triều đình tôi lương đống đều khuất cả, bèn đòi một vị tướng quân trung trực ra đây chống giặc. Vị tôi trung này là Vương Duy Trung tướng quân, ông tuân theo thánh ý, mang cả nhà đến Tứ Xuyên, để lo việc chống giặc. Không ngờ tên gian thần dùng kế "điệu hổ ly sơn". Vương tướng quân vừa mang gia đình đến Tứ Xuyên, đã bị tên gian thần dùng mưu gian ám hại, trảm thủ Vương tướng quân và ra lệnh giết hết cả nhà, từ già trẻ lớn bé đều chết sạch.
Người Tứ Xuyên kể đến đây, giọng nói tỏ ra bi thiết vô cùng. Mọi người nghe vậy cũng cất tiếng than dài. Người Quảng Đông lại tiếp :
- Nước nhà bại hoại, mọi việc đều do tay bọn gian thần mà ra. Tôi có nghe trong triều có ba tên "chó" mà chỉ biết có tên con chó Đinh Đại Toàn mà thôi, còn không đề cập đến hai tên kia.
Bỗng nhiên gã thanh niên nói :
- Tôi rõ vụ này ! Trong triều bấy giờ có ba tên đại gian, đại ác mà làm đến đại thần là Đinh Đại Toàn, Trần Đại Phương, Hồ Đại Xương, cả ba đều dùng chữ "Đại" để lót. Nhân có dân chúng Lâm An mới lấy ba chữ "Đại" này thêm vào một dấu chấm thành ra chữ "khuyển" (chó). Do đó, họ cải ra là Đinh Khuyển Toàn, Trần Khuyển Phương, Hồ Khuyển Xương, là ba con chó dữ trong triều, theo lời lão huynh đã nói.
Mọi người nghe gã thanh niên thuật đến đây đều cười ồ, không khí vô cùng vui vẻ.
Người Tứ Xuyên nói :
- Theo lời của lão đệ, thì kinh đo âLâm An đã về tay chúng nó rồi ư ?
Gã thanh niên đáp :
- Đúng vậy !
Người Tứ Xuyên lại hỏi tiếp :
- Lão đệ có nghe rõ người ta bàn về Vương Duy Trung tướng quân thế nào không ?
Gã thanh niên nói :
- Tiểu đệ trông thấy tận nơi ! Lúc chết Vương tướng quân sắc mặt chẳng đổi thay, thần sắc vẫn uy nghi lẫm liệt, cả mắng Đinh Đại Toàn, Trần Đại Phương là phường đã gây ra nạn dân ách nước. Song cuộc binh huyết này có xảy ra một chuyện dị thường.
Mọi người nhao nhao lên hỏi :
- Chuyện gì lạthế ?
Gã thiếu niên nói tiếp :
- Vương tướng quân đã bị Trần Đại Phương mưu hại, vào giờ đem ra hành quyết ở pháp trường thì mọi người tại Lâm An đều đồn rằng : Có tiếng Vương tướng quân nói trên không trung là ông sẽ về chầu Ngọc Hoàng đại đế để cáo oan.
Sự này xảy ra hết sức lạ, sau khi Vương tướng quân chết được một hôm thì ngay hôm sau cả gia đình Trần Đại Phương đều chết sạch, cái đầu của hắ n thì không biết bị ai đem treo lên cửa Đông thành Lâm An, kế gác chuông cao vòi vọi. Lại dùng một cây sào cắm chiếc đầu bêu lên cao. Nơi đây dầu cho loài khỉ vượn cũng khó leo lên được, đừng nói là người ta. Do đó thiên ha ïđều đồn rằ ng: Có tiếng Vương tướng quân nói ở không trung thêm rằng : Nếu chẳng phải là Ngọc hoàng đại đế sai thiên thần thiên tướng xuống trần, thì chẳng ai làm ra thế được.
Mọi người vôcùng ngạc nhiên! Gã thanh niên lại nói tiếp :
- Việc này ca ûthành Lâm An đều rõ. Tôi không có bịa chuyện nói ngoa đâu ! Quý vị có ghé qua Lâm An hỏi thử xem lời nói của tôi có đúng không ?
Người Tứ Xuyên bảo :
- Đúng đấy ! Lão đệ vừa nói những lời kể trên đều đúng cả. Duy có việc giết chết Trần Đại Phương thì không phải thiên thần thiên tướng của Ngọc hoàng phái xuống, mà là một vị anh hùng hào kiệt.
Gã thanh niên tiếp lời bảo :
- Trần Đại Phương là quan đại thần đầy uy lực trong triều, có cả gia tướng thân binh, phòng vệ vo cùng nghiêm ngặt, người thường làm sao giết nổi y ? Thế mà cái đầu của lão, ai treo lơ lửng trên lầu chuông, trừ khi người nào có cánh như chim, mới đủ bản lãnh nhảy cao như vậy.
Người Tứ Xuyên nói :
- Trong thiên ha ïthiếu gì kỳ nhân quái khách. Tiểu đệ chưa được dịp thấy nên chưa tin đấy thôi.
Gã thanh niên nói :
- Chiếc thủ cấp của Trần Đại Phương, chính mắt tôi thấy tường tận, chắc rằng ông không thấy rõ hơn tôi.
Người Tứ Xuyên tỏ vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi trong giây lát, đoạn nói :
- Vương Duy Trung tướng quân có sinh được một đứa con trai, trong lúc tướng quân bị cầm thì đứa nhỏ này trốn thóat ra ngoài. Trong triều đình bèn ra lệnh trảm thảo trừ căn, nên phái binh mã truy tầm, và đứa con của Vương tướng quân lúc này là một thanh niên dũng tướng, tuy sành về võ nghệ, nhưng sức cô thế yếu không thể địch muôn người. Trong khi chàng thiếu niên dũng tướng đang lẩn tránh, bỗng quân thám mã bắt gặp. Trong cơn chết sống hiểm nguy này, đột nhiên có một vị cứu tinh xuất hiện đã dùng hai bàn tay trắng mà quật chết trên mười tên quân mã , như hoa rụng nước trôi. Vị thanh niên dũng tướng con của Vương tướng quân , hai cha con mưu thiết kế để giải vây thành, khôi phục quốc gia, công chuyện chưa thành thì kế bại lộ, nên bị gian thần hãm hại. Thế là có vị hiệp sĩ này đang đêm đến Lâm An để giải cứu Vương tướng quân. Nhưng chàng đến trễ một hôm, vì Vương tướng quân đã bị hành quyết vào hôm trước, chàng hiệp sĩ nổi giận xung thiên, đợi đêm lẻn vào tư dinh của Trần Đại Phương giết chết cả nhà, và cắt thủ cấp của hắn treo lên cửa Đông thành Lâm an, kế gác chuông mà người bảo nơi khỉ vượn leo lên không được. Công việc xong, chàng tung mình đi mất dạng.
Người Quảng Đông nói :
- Ông có biết người hiệp sĩ ấy là ai không ? Làm gì có người giỏi như vậy ?
Người Tứ Xuyên đáp :
- Tôi chẳng biết chàng hiệp sĩ ấy tên gì. Mà chỉ thấy chàng ta xuất hiện lúc vừa tối ở Lâm An. Vị hiệp sĩ này mất hẳn một cánh tay, mặt mày sáng rỡ, có vẻ uy nghi lẫm liệt lắm. Chàng ta ngồi trên lưng ngựa, phía sau lưng có một con quái điểu cực lớn, đầu như trái dừa, đứng sau yên ngựa của chàng.
Người Tứ Xuyên nói chưa dứt lời, thì có một đại hán vẻ mặt khôi ngô ngắt lời :
- Đúng vậy chẳng sai ! Chàng hiệp sĩ mà các hạ bảo đó, trong giới võ lâm giang hồ đều gọi là Thần Điêu Đại hiệp.
Người Tứ Xuyên hỏi lại :
- Tại sao có tên là Thần Điêu Đại hiệp, các hạ có biết không ?
Gã đại hán nói tiếp :
- Chính chàng ta là người trọng nghĩa khí, hay giúp đỡ những người yếu đuối, cứu vớt kẻ khốn cùng, những hành vi này đều gọi là nghĩa hiệp nên người ta gọi là đại hiệp, còn Thần Điêu là con quái điểu có tên là chim ĐIêu, đi đâu chàng cũng mang nó đi theo. Không ai rõ chàng ta ở đâu, chỉ xuất hiện bất thần rồi thình lình biến mất, không ai rõ.
Bỗng nhiên cô gái đẹp cất tiếng xen vào câu chuyện :
- Nếu vậy cần gì có Thần Điêu mới là đại hiệp ? Người cũng là đại hiệp và ta cũng là đại hiệp, nếu ta gặp trường hợp này sẽ làm nhiều chuyện hơn nữa.
Người Tứ Xuyên nói :
- XIn lỗi cô nương ! Đừng nghĩ những chuyện như vậy. Trong giới giang hồ rất đông tai mắt, hãy thận trọng lời nói một tí. Và xin cô nương nghĩ lại công lao của người ta, đừng buông lời ngạo mạn. Như vị Thần Điêu Đại hiệp, sau khi cứu Vương công tử, đi từ Hà Bắc đến Lâm An bốn ngày bốn đêm không nhắm đôi mắt tí nào. Vị Thần Điêu Đại hiệp này đâu có rõ Vương tướng quân hay có quen biết gì đâu, chỉ vì nghe tiếng Vương tướng quân vì nước bị hàm oan, nên liều thân đến cứu, chẳng ngại nguy hiểm, mới cứu được Vương công tử, còn cô nương có công gì với đời chưa mà dám xưng đại hiệp ?
Cô gái "hừm" một tiếng rồi bước lại gần thiếu phụ nói :
- Tỉ tỉ ! Vị anh hùng này chỉ làm được bấy nhiêu chuyện mà đã được người đời tôn xưng là đại hiệp rồi !
Cô nàng này nói ra với lời nói đầy vẻ khinh ngạo, làm cho mọi người đều lộ vẻ bất mãn.
Thiếu phụ liền cất giọng nghiêm trang bảo :
- Ngươi có thể làm như vậy chăng ?
Nói xong, thiếu phụ quay sang người Tứ Xuyên bảo :
- Nếu nghe lời đồn đại của mọi người, làm sao tôn ông biết tường tận như vậy ? Những câu chuyện truyền khẩu trong giang hồ, mười điều chưa chắ c một. Chỉ có những người trong cuộc mới rõ như vậy !
Người Tứ Xuyên trầm ngâm nghĩ ngợi trong giây lát đoạn cất tiếng bảo :
- Không giấu gì quý vị ! Tiểu nhân đây họ Vương, còn Vương duy Trung tướng quân là tiên phụ ! Tiểu nhân còn sống đây chính là nhờ Thần Điêu Đại hiệp ! Tiểu nhân hiện giờ là nghịch phạm của triều đình thì đâu cần kể tấm thân hèn mọn này, chỉ còn ước vọng là đi tìm ân nhân để lạy tạ, nếu chưa đền ơn được thì chẳng để ai dày xéo tâm thân, hay chỉ trích ân công
__________________
[b]ILoveU
|