Kim Đồng
Chương 1
Kim Đồng, tên cha mẹ đặt cho là Nông Văn Dền, quê ở Nà Mạ.
Làng Nà Mạ cách Pác Bó một quãng đường. Từ những năm 1940 cho tới Cách mạng tháng Tám 1945, Bác Hồ từ nước ngoài về, đã có khi ở căn cứ núi Pác Bó, lãnh đạo cách mạng cả nước.
Phong trào tỉnh Cao Bằng bấy giờ là gương mẫu đầu tiên. Làng Nà Mạ nhỏ bé gần Pác Bó, đã góp phần xứng đáng cho tỉnh Cao Bằng. Làng Nà Mạ, châu Hà Quảng ngày ấy chỉ
có khoảng hai mươi nóc nhà dân tộc Nùng. Từ những hội đánh Tây trước kia, cho tới cao trào Việt Minh đánh Pháp đuổi Nhật, cả làng Nà Mạ đã tham gia. Cụ già, em bé Nà Mạ đều vào hội cứu quốc.
Nhiều hy sinh thật to lớn. Đồng chí Quí Hiệu, đồng chí Nhất Sơn bị Pháp bắt, chặt đầu, bêu ở chợ Sóc Giang. Các đồng chí Phục Quốc, Phục Hưng gia nhập đoàn quân Nam tiến, hy sinh khi đánh Nhật ở Bắc Kạn. Có nhà bốn anh em thì hai người liệt sĩ, như nhà các đồng chí Ngư Mạn, Bát Ngư.
Có nhà, hai anh em cùng hoạt động, đều hy sinh cả, như nhà Kim Đồng.
Đương ồn ồn, bỗng lặng im.
Những tiếng nháo nhác đã xa. Không ai trông thấy gì nữa. Chỉ nghe chân bước ũng oẵng trong vũng nước hai bên cỏ tranh. Người làng bị lôi đi cả rồi. Các xóm ở Nà Mạ, ngõ nào cũng tụ lại, lố nhố người, nhưng im lặng. Im lặng như gốc mít, gốc trám, gốc nghiến, gốc vối. Chỉ còn những con mắt chớp chớp lóa nước mắt.
Thế là chuyến bắt phu các làng đi làm lô cốt đồn Sóc Giang hóa ra thật rồi, thật. Không ai ngờ làng xóm chẳng được kịp ăn tết rằm tháng bảy.
Cuộc bắt phu từ gà gáy. Lính cơ trên châu ập về, như cướp đến. Lính còn vây quanh làng. Sợ người trốn đi. Rồi, lính ùa lên nhà với xã đoàn, kéo từng người. Người xuống thang đành đạch như con cá giãy. Ngựa của châu đoàn ngoài đường cứ chốc chốc lại đập chân, rũ đuôi và chuông cổ coong coong như tiếng nhạc cúng ma. Đằng nào cũng buồn bã thế. Người bị lôi tay xuống thang, buông chân đi mà bụng buồn như còn nghe đoạn hát then "khảm hải" nửa đêm qua.
Lúc chuông ngựa châu đoàn réo, Dền mới thức dậy. Ngoài đường đã ồn ã lắm. Trong nhà mình vẫn lặng tờ. Ngoài đường nhộn nhạo, trong nhà im. Nhưng ngoài đường không phải tiếng ơi ới gọi nhau đi xem hội hát. Có tiếng chửi réo lên kìa. Tiếng rít, tiếng roi đập chát chát. Không xong rồi, Dền nhỏm lên.
Bố Dền đang nhóm lửa bếp giữa sàn để hơ lá gói bánh gai. Bấy giờ, cả mẹ, cả anh và Dền đã ra ngồi quanh lửa. Sương sớm buông xuống tận đầu nhà. Tháng bảy đưa cái lạnh về sớm thế này ! Mấy ngày vừa qua, mưa dầm nên không phơi lá gai được. Tết đến, nhà nào cũng làm bánh gai - trẻ con thích bánh gai, bánh gai ngọt hơn bánh nếp. Nhưng bấy giờ Dền cũng quên cả ăn bánh gai. Cái lặng lẽ quanh mình đương đầy sợ hãi.
Rồi có tiếng động chân ngoài đầu sàn, đã thấy chiếc nón :Dp nhoi lên. Kìa có lính đến nhà mình. Bố Dền đứng dậy.
Bố Dền bước ra. Bếp sưởi trống một chỗ. Còn như lạnh hơn lúc nãy. Bố Dền quay lại, nói:
- Hay là mẹ Dền nấu cơm cho tôi gói đi.
Lính quát :
- Ra ngay ! Người ta đợi cả ngoài kia rồi.
Ngay đó, lính đẩy bố Dền lao đầu xuống thang. Tuy vậy, bố vẫn phải quay lại chỗ cột, bê ra hai hòn đá to đã buộc sẵn, để đấy rồi bố Dền quảy đi.
Mấy lâu nay, xã đoàn đã đến bảo từng nhà: quan hai xây lô cốt trên đồn Sóc Giang, nhà nào có người ở tuổi đi phu phải sắp sẵn hai hòn đá to. Lúc đi, quảy đá lên. Không có hai tảng đá lên theo thì phạt kéo thêm hai ngày phu.
Mà cứ gì người đi phu mới phải vác đá xây lô cốt. Dền đã thấy người làng đi chợ Sóc Giang, chợ Nà Giàng, cả người đi chợ Nậm Nhũng lèo tèo xa nhất, ai cũng quảy theo một hòn đá. Không có hòn đá tảng đi chợ, không được vào mua muối của cai chợ đứng bán.
Không biết trời đất sắp thế nào mà đồn Tây, đồn châu, đồn bang tá phá hết bờ rào tre và tường đất, đắp nên lô cốt đá. Rồi đến các nhà châu đoàn, xã đoàn cũng đua đòi xây tường đá, lô cốt. Chánh tổng Thước ở Thông Nông bắt mỗi người đi chợ qua nhà phải nộp một tảng đá. Người ta nói rủa: Có việc gì mà mày phải đắp mả nhà mày kỹ thế ?
Bố Dền quảy hai hòn đá ra tới đầu ngõ. Những người trong làng phải đi phu đã đứng chen chân đấy, đương túi bụi, rối rít trong tiếng roi quất, tiếng cai cơ quát lính đếm xem đủ số phu chưa. Rồi con ngựa châu đoàn nhong nhong đi trước. Đám lính chạy sau, dồn phu quảy gánh theo, chửi om. Đoàn người bật ra ngõ. Tiếng ồn ào xa dần vào con đường lầy lội trong cỏ tranh cao lấp đầu, không nhìn thấy bọn người đi đâu nữa.
Những người đứng đầu xóm, có người òa khóc, rồi cung cúc chạy về. Không giữ được nước mắt, nhưng ai cũng cố kìm tiếng khóc. Sợ khóc thế thì sái cho người đi xa.
Mẹ và anh em Dền ra bờ suối. Chỗ suối ấy trông thấy bóng người dưới nước. Suối Pác Bó chảy về đến Nà Mạ, từng quãng trong vắt rồi trắng ngần qua hai bên những cây vối già nghiêng nửa mình, tựa vai nhau soi bóng trên mặt dòng nước phẳng như gương.
Nhưng không trông thấy bóng người. Bờ suối đằng kia, những cái chày hẫng không, chỏng lên bên cánh cối nước(1) quay vội vội. Cái cọn(2) thì thong thả, cót két, múc lên từng ố ng nước. Những cảnh hàng ngày ấy, trông đau lòng thêm. Trời Hà Quảng trong xanh, ruộng Hà Quảng đất lẫn đá bốn mùa khô xác, không giữ được một hạt nước, một hạt màu. Mưa lụt, nắng hạn, đất nghiêng đi đâu mà nghiêng mãi, lúc nào cũng chỉ thấy người tháo, người đắp giữ nước ngoài đồng. Tháng bảy rồi mà cọn nước còn kẽo kẹt suốt đêm múc từng ống vào ruộng. Hạn to rồi. Mới có tháng bảy mà những cái cánh cối đã tất tả quay suông. Như thế là chẳng còn hạt gạo dính trôn cối.
Mẹ quay mặt đi. Anh em Dền không để ý. Cả hai mải cúi sát mặt cầu, nhìn theo dòng nước, một lúc, bỗng reo lên :
- Có bóng người đằng xa kìa.
Mẹ quay lại, nói như nghẹn :
- Thấy bóng thì chẳng làm gì...
Rồi mắt mẹ nhòa nước mắt. Anh tưởng vì mình nói to thế làm mẹ buồn. Hai anh em cuống quít giục :
- Mẹ về, mẹ ạ.
Rồi anh chợt nhớ :
- ồ, nhà mình chưa thả vịt. Về thả vịt nào!
Mùa này phải cho vịt đi ăn sớm mới được.
Nhưng mẹ bảo :
- Sáng nay chưa đi chăn vịt đâu.
- Sao, hả mẹ ?
Mẹ nói :
- Nhà còn mấy ống gạo để dành ăn Tết rằm tháng bảy. Có khi mà Tết rằm này bố mày được về ăn Tết. Từ hôm nay đến rằm phải đi đào mài để ăn thì mới dành được gạo tết rằm. Bố mày đương đào dở một bọn mài. Hôm nay không đi rừng sớm, người ta cướp công mất. Bây giờ hai mẹ con phải đi đào nốt.
Anh xịu mặt. Không phải ngại đào đâu. Anh
đã đi với bố vào rừng đào củ mài nhiều lần.
Những củ mài nằm sâu độ sải tay, anh đã đào gọn được. Củ mài hôm qua cũng là hai bố con đương đào. Mài rúc sâu thế là củ to lắm. Không
đi đào nốt thì có đứa nẫng mất. Chỉ vài nhát mai nữa thôi. Nhưng lại còn lo vịt đói. Vịt cũng cần vỗ béo.
Dền nói tự nhiên :
- Để em chăn vịt cho.
Anh reo lên :
- Phải đấy. Mày chăn vịt, tao đi đào mài.
Mẹ đau chân, mẹ cứ ở nhà, đừng đi đâu.
Nhưng rồi anh băn khoăn :
- Không được, mày chưa biết đuổi con vịt.
Nó mà xuống suối, đi mất thì...
Dền nói :
- Biết rồi. Tay cầm cái roi thế này. Vịt đi xa thì giơ lên, gọi : kíu kíu, như anh vẫn làm mọi khi. Em đã biết đào giun cho vịt ăn. Em biết chỗ giun nằm có cứt giun đùn nhiều.
Anh cười, vẻ thú vị :
- Nói nghe thạo đấy. Được, cứ thử cho mày chăn vịt, tao đi đào mài.
Nói phân phát công việc như thế, anh nghĩ mình đã lớn hơn mọi khi và cảm thấy bây giờ phải xốc vác, thay bố đi vắng. Một lát sau, anh
đã lồng cả đôi "dậu" , quảy trên vai, tay xách cái thuổng.
Nhưng anh ra vẻ người lớn cũng chưa bằng Dền đâu. Kể ra, Dền không biết so sánh. Nhưng, từ lúc nhận chăn vịt, Dền thấy mình bây giờ lớn rồi, khác hẳn, khác nhất bởi vì Dền chưa chăn vịt bao giờ. Chỉ mới đi xem người ta chăn thôi. Bây giờ Dền đi chăn vịt. Mẹ phải biết thế, anh phải biết thế. Dền sẽ đuổi vịt khéo, không để vịt lạc suối. Dền đã biết chỗ đào được nhiều giun. Lúc anh vác củ mài về, anh sẽ nhìn sướng mắt lắm : đây này, diều con vịt nào cũng to tướng, no nê thây lẩy ra, ngang cái đít ngoe ngoảy của nó. Thật đấy.
Đàn vịt nằm trong chiếc bu đầu sàn vừa được bỏ xuống. Dưới chuồng có ba con vịt to, anh đã tháo chốt cửa. Thoạt đầu, Dền cũng lo vịt chạy tản mạn mỗi con mỗi nơi thì thật khó.
Những con vịt to vẫy cánh vươn vai. Cánh vịt quạt lên, như rỡn cho gió lộng vào mặt nhau. Ba con vịt càng nhởn thêm, cứ dang cánh quạt quanh ra xa, mãi đầu bờ rào. Đàn vịt con đàng sau sợ gió, nhớn nhác, táo tác. Tất cả loạn lên như trêu tay chăn vịt non.
Nhưng Dền bình tĩnh. Dền đã đoán cách làm cho có trật tự được. Dền nhón chân lên, xách mai, bước ra. Thế là cả ba con vịt to đều quay đầu, hiếc mắt rồi cụp cánh, lạch đạch chạy theo Dền. Đàn vịt nhỏ cũng tíu tít bu lại. Chúng biết hiệu. Có thế chứ, vịt to vịt bé đều phải biết hôm nay đến lượt Dền dắt chúng mày đi ăn đây.
Chú vịt con háu đói vừa đi vừa nghển lên mổ mổ mảnh đất bám lưỡi mai. Những con vịt tinh quái. Nó biết cái mai sắp thục xuống đất đào giun. Dền đã ra đến đám đất ẩm rêu. Chỗ ấy có nước lần ở máng trên sàn đầu nhà thấm đến, giun dế trú ngụ nhiều lắm. Đàn vịt cứ xúm xít, cạc cạc kíu kíu trò chuyện quanh chân Dền.
Thế là Dền thành tay chăn vịt. Anh về anh hẳn bằng lòng. Bố về thì chắc lạ lắm. Chăn vịt thường thôi đã khó, lại làm sao giữ cho vịt chỉ ăn quanh nhà, làm sao đưa vịt xuống suối qua ruộng không rúc lúa. Chỉ đi men chân lúa, người ta trông thấy, đã chửi réo và bắt đền. Vịt chẳng biết nghe như người mình nói với nhau. Vịt lại có tính bướng, cứ thả bừa chân, bạ chỗ nào cũng quơ mỏ. Nhất là chỗ ấy có nước. Vịt cúi cổ xuống, thò chiếc mỏ bè bè. Bất kể ra thế nào, hãy cứ rèn rẹt rúc thử xem đã, rồi mới chịu lắc lư đi. Cái giống vịt là gàn bướng thế !
Dền đã biết đưa cả đàn qua ruộng mà vịt không la đà rúc lúa người ta. Cũng vẫn chỉ công ở cái mai. Dền xách mai đi. Vịt lớn trông
thấy, nháo nhác theo. Chưa được. Phải nhử cho cả lũ vịt con cũng sán đến đầy đủ rồi mới đi.
Những con vịt con đã trông thấy cái mai giơ lên. Dền chúc mai xuống làm cho các cu cậu phải kiễng cả chân, cả mắt đớp cong cóc vào mảng đất dính trên lưỡi mai. Thật thì trên lưỡi mai lúc này cũng có miếng mồi giun, nhưng anh chàng vịt lớn nào đã chớp mất rồi. Tuy vậy, mùi thức ăn ngon vẫn phảng phất. Các cu cậu này cứ mổ côm cốp rồi quay ra nhìn nhau, rồi lại xô lên, mổ côm cốp, hăng hơn. Lúc ấy Dền mới cầm cái mai và dềnh dàng đi. Cả đàn vịt chen nhau, chăm chú, nghển cổ đuổi theo lưỡi mai. Chẳng mấy lúc, người và vịt đã ào qua tràn ruộng, xuống tới bờ suối. Bấy giờ Dền mới ngả cái mai xuống vệ cỏ. Những con vịt hích nhau chen vào rúc thật sự, dũi hết mảng đất trên lưỡi mai. Không thấy gì, nhưng bấy giờ đã qua hết ruộng lúa không để mang tiếng vịt rúc lúa nhà ai và rướn cổ nhìn ra, đàn vịt đã thấy làn nước chảy vui vui trước mặt. Đàn vịt đã mắc mẹo Dền.
Cả đàn vịt à xuống suối. Vịt ăn lần lên lần xuống theo hai bên bờ. Có những lúc đùa nhau, đuổi nhau, lắc đuôi, hụp xuống nước. Mà vẫn trông thấy cả con vịt lặn ve vé trong nước. Vịt lên bờ, rỉa lông rỉa cánh, kỳ cọ rồi nằm im thành một bọn chồng đống giữa bãi cỏ. Nhưng hễ động cái lá rụng, một lũ mắt vịt lại ti hí mở. Tuy thế, cũng là lúc vịt nghỉ ngơi. Lúc ấy, Dền mới lội xuống suối bắt cá. Dền đã xem các anh bắt cá nhiều lần. Hôm nay Dền cũng bắt chước bắt cá suối.
Quãng suối ấy có vực sâu. Mặt nước không một gợn sóng. Dền rón rén bơi đến. Xanh trong, đến đỗi thấy cả một giọt nắng đụng đậy đáy nước. Những con cá măng lượn đi lượn lại, nhấp nhánh, loang loáng rồi biến đâu. Đàn chép lấp lánh đỏ hồng như những vảy nắng, cũng chui vào khe đá. Vực nước vắng tanh, sóng gợn xanh. Cá động nước đã trốn cả.
Nhưng Dền đã trông dõi, biết hết những con cá chui vào hốc đá ấy, chỗ ấy. Màu hồng cá chép thì không lẫn được với bóng đá. Dền nhẹ nhàng lướt đến. Thật nhanh, Dền thò tay vào hốc. Một chú chép băng thoát ra. Tay ngoài, Dền được tóm ngay.
Buổi trưa, Dền dồn vịt về, xách theo một xâu cá.
Có hôm, không đợi anh đi đào mài về. Dền đã mổ cá rồi bắc mảnh chảo xuống. Những con cá rán giòn cong lên. Có khi, anh đã mang về một nắm măng chua. Anh nói :
- Để nấu canh cá. Biết thế nào cũng được cá mà.
Rồi lại nói :
- Mày chăn vịt được đấy ! Lại biết bắt cá.
Giỏi rồi.
Dền nói : phải chăn vịt cho béo, bố về ăn rằm tháng bảy.
Nhưng tết tháng bảy rồi mà không thấy bố về. Cả làng chuyến ấy đi phu đồn Sóc Giang cũng chưa ai được về. Cái tết chán ngắt. Không có người bưng bánh tẻ bánh gai đi biếu nhau. Mưa suốt đêm, nước suối tràn hết sang ruộng mía, ruộng lúa hai bên đường. Những người nhà đem gạo lên chợ Sóc trở về, thở dài, bảo : bọn phu này phải đến Tết cả mới được về cũng nên. Tường đồn bây giờ mới đương xây móng.
Tối mười bốn, ba mẹ con ngồi sân sàn trông ra. Trăng tròn đã đứng đầu núi bên kia. Dòng suối giữa cánh đồng, lằn trắng như con đường cái quan thênh thang. Nhưng không một bóng người. Ba mẹ con ngồi đến tận khuya. Như có ý đợi. Ngày tết sắp đến mà còn người vắng nhà thì ai cũng muốn chờ, dù chờ vu vơ. Rồi hai anh em đi ngủ lúc nào. Mẹ đem guồng sợi đánh vải ra ngồi quay trong bóng trăng.
Thế là bố không được về. Tết này mẹ chỉ thổi một đấu xôi nếp "mỡ vịt"(1).
Mẹ bảo :
- Phiên chợ tới chúng mày cứ đem bán đôi vịt to. Bố về thì vịt con đã lớn rồi.
Hôm ấy, phiên chợ Nà Giàng. Bỏ chợ Nậm Nhũng, chợ châu, đợi phiên Nà Giàng. Chợ Nà Giàng, bán vịt được tiền. Anh tính thế.
Hai anh em mang vịt đi chợ. Châu Hà Quảng có chợ Nà Giàng to nhất, hơn cả chợ châu lỵ. Chợ Sóc Giang chỉ được cái lắm người ngoài biên giới đem vào các hàng lạ : bát đĩa, gương to, hũ đựng đậu giống và nhiều thợ làm răng vàng bên kia sang. Chợ Nà Giàng ở giữa châu, thuận đường qua lại - cả dưới phủ Hòa An, ở Nước Hai, tận ngoài tỉnh người buôn cũng kéo lên đợi chợ từ chiều hôm trước.
|