Kim Đồng ngẩng lên, trông qua khe lá vối. Anh Đức Thanh đi trước. Tay anh cầm lồng chim họa mi, che miếng vải đỏ. Như vừa ở làng người Mèo trên núi Lục Khu xuống. Trên ấy, nhà nào cũng nuôi họa mi, ngày chợ đem chim đi chọi ăn tiền thưởng. Sau lưng anh, có một ông già. Anh Đức Thanh không chơi chim chọi.
Chắc lồng chim của ông, anh cầm hộ. Kim Đồng cũng chưa trông thấy ông này bao giờ.
Ông gầy, cao, tay cầm cái gậy trúc. Nhưng không phải gậy chống. Cái gậy hơi dài, cái sào của người Hà Quảng đi làm cỏ ruộng. Chân ông đi đất, ông mới đi làm cỏ ruộng về. ạng có râu lưa thưa, mặc áo chàm Nùng bạc vai, một bên cửa ống tay rộng đã vá miếng to. Mới nhìn, lại ngỡ ông mo đi cúng. Trông cái sào và hai người, lại tưởng hai bố con mới đi chơi chọi chim trên núi về.
Nhưng chắc không phải. Kim Đồng đoán: chỉ có ông đi chơi hay ông đi cách mạng thôi. Kim Đồng tò mò, đoán, để ý.
Anh Đức Thanh đã thấy Kim Đồng ngồi trên cành vối.
- Kim Đồng làm gì trên ấy ? Câu à ?
Kim Đồng nhảy xuống đất, chắp tay, lễ phép : "Cháu chào ông ạ", rồi mới trả lời anh Đức Thanh :
- Em canh gác cho anh em đương cày đằng kia.
Ông cười, đến bắt tay Kim Đồng. Rồi Đức Thanh hỏi Kim Đồng :
- Có phải lính dõng tổng đoàn Tiếp lúc nãy?
- Phải ạ.
Đức Thanh hỏi dồn :
- Có biết đám cướp hôm qua giết lái trâu trên dốc ?
- Thấy bảo còn dõng canh xác người lái trâu trên ấy.
Đức Thanh quay lại, nói gì với ông. Rồi hai người rẽ vào trong xóm. Đoán là hai người lên trạm nghỉ ở hang đá chỗ Nọc én đằng sau nhà. Kim Đồng nghĩ : chắc có lính còn đóng ngoài đường, chưa đi được.
Xế trưa, anh Phục Quốc đi cày về rồi lại đi ngay. Lúc về, dặn Kim Đồng ra sau xóm, chờ ở gốc cây dâu da. Đến nơi, đã thấy anh Đức Thanh đứng đấy. Kim Đồng nói câu anh Phục Quốc vừa dặn nói lại với anh Đức Thanh: - Anh à, bọn dõng canh xác người trên dốc núi đã rút rồi.
- Đi hết chưa ?
- Nó bắt dân ra chôn người lái trâu. Cả ngựa cai khố xanh cũng đi rồi.
Đức Thanh lại đi, chốc lát đã cùng đồng chí già xuống nhà anh Ngư Mạn. Đồng chí già hỏi Đức Thanh :
- Kim Đồng đâu ?
Đức Thanh đáp :
- Em đợi ngoài kia rồi.
Đồng chí già bảo anh Đức Thanh gọi Kim Đồng vào. Kim Đồng trông thấy ông vẫn cầm cái sào trúc và hai ống quần xắn. Đức Thanh nói với ông:
- Em Kim Đồng, hội viên nhi đồng, giao thông, liên lạc, canh gác, em đều làm được cả.
Ông hỏi Kim Đồng :
- Cháu bao nhiêu tuổi ?
Kim Đồng đáp :
- Thưa ông, cháu được mười ba.
- Cháu học lớp mấy ?
- Đồng chí Đức Thanh dạy cháu đã biết đọc biết viết.
- Cháu cố gắng học cho giỏi hơn...
- Vâng ạ...
Ông lại hỏi :
- Cháu có hay đi gác cho các anh họp không?
- Thỉnh thoảng ạ.
- Nếu lính đến thì cháu làm thế nào?
- Cháu kêu : Bò ăn lúa ! Bò ăn lúa! Rồi chạy vào, thế là các anh biết có lính tuần.
- Bây giờ ta sắp đi được chưa ?
- Thưa ông, đi được rồi.
- Bây giờ đi đường gặp địch thì cháu nói thế nào ?
- Cháu nói thật to: "Chào quan ạ", để đằng sau các đồng chí biết mà tránh đi.
- Thế chúng nó hỏi cháu đi đâu ?
- Cháu nói: Đi đón thầy cúng. Mẹ cháu ốm đau chân. Nó có bắt đưa về nhà thì cũng thấy mẹ cháu đau chân, ông ạ.
Ông đứng dậy, nói :
- Nào ông cháu mình đi !
Rồi ông và anh Đức Thanh lội đường suối về phía Pác Bó. Kim Đồng thoăn thoắt đi trước. Trăng đã lên đằng góc núi. Sáng trăng đổ xuống thung lũng bên ấy, như vàng chảy sang bên này.
*
* *
Mỗi con suối đều có cuộc sống, vẻ mặt, dáng dấp và cả ý nghĩ của suối nữa. Khi suối âm thầm vào rừng sâu rồi ào ào xuống vực thác. Khi suối len lỏi cạnh cánh rừng thưa quanh làng. Khi suối nhởn nhơ vui với người qua lại bên mình, qua các bến đá, các nhịp cầu mái lợp có người ngồi chờ.
Dưới vách đá đứng, nguồn lên một dòng nước xanh trong. Chỗ ấy nước từ khe đá, lòng đất tuôn ra, đấy là nơi bắt đầu Pác Bó.
Con suối Pác Bó ấy khác tính lắm. Nguồn nó không phải mạch nước nhỏ. Suối này đã chảy thành dòng từ lâu trong đá, không biết đã qua mấy ruột núi, đến đấy, suối nhả ra dòng nước Pác Bó xanh trong.
Bạn đọc yêu quí !
Bác Hồ của chúng ta đã từ nước ngoài về ở hang đá bên suối Pác Bó, trong vùng núi ấy, Bác Hồ đã cùng Trung ương Đảng mở hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh ngày 19 tháng 5 năm 1941, lãnh đạo cách mạng cả nước.
Có một đám trẻ trong xóm ra chơi trên dòng suối chân núi. Thật thì các em vừa chơi vừa làm. Bọn lúi húi đắp đá ngăn nước tát cá. Người làng ở bờ suối, ai cũng biết tay không bắt cá. Mấy cậu buộc dây, thả túm lá bồ quân kết lại, rồi kéo ngược lên. Tưởng tượng thuyền đương xuôi xa lắm, tận Nước Hai, tận Cao Bằng. Chiếc dây đứt, tiếng reo inh ỏi vang mặt nước.
Có một ông già râu dài đi qua. Thấy trẻ chơi vui, ông đứng lại. Lũ trẻ nhìn ông mặc áo Nùng như mình, quần xắn, tay cầm cây trúc. Như ông mình đi làm cỏ ruộng về. Như ông ở trong núi ra. Có lẽ ông làm cỏ ruộng. Năm nay mùa mất to. Trên thửa ruộng ven rừng cấy lúa sớm, trơ những bông lép. Cái loóng(1) nằm ngửa, đầy nước mưa, chẳng ai buồn tát ra bởi cái loóng đã để không từ tháng năm, chẳng hạt thóc nào đập vào. Lúa mùa mà cỏ cao quá đầu lúa. Cả cụ già cũng phải đi làm cỏ mà không xuể !
Ông già hỏi :
- Các cháu chơi gì đấy ?
Đám trẻ nhìn ông, tíu tít :
- Cháu bắt cá.
- Cháu thả thuyền.
- Ông vào đây chơi với cháu.
Ông cắm gậy trên bờ. Rồi xắn quần cao nữa, ông xuống suối với các cháu. Bọn trẻ thích quá. Cái bờ đã be cao. Càng rối rít múc tay tát nước. Ông cũng chũm tay, tát nước. Vừa tát nước vừa ngoảnh ra, chuyện với đám bé hơn, đương chơi thả thuyền. Ông hỏi:
- Cháu có biết thuyền đứt dây thì trôi đi đâu?
- Trôi vào bờ, ông ạ.
- Nếu không trôi vào bờ, trôi mãi thì đi đâu, cháu biết không ?
Một em đáp :
- Xuống Nước Hai.
Một em đáp :
- Đi Cao Bằng.
Một em bé nói :
- Cháu không biết, ông bảo cho.
Ông trỏ tay ra xa :
- Thuyền này đi hết núi thì ra cánh đồng, đúng, xuống Nước Hai. Nhưng còn đi mãi. Thuyền qua hai phủ tám châu đất Cao Bằng rồi suối đưa thuyền ra gặp con sông, sông lại đưa thuyền qua các cánh đồng, các thành phố ra tận biển. Các cháu sẽ được ngồi trên thuyền theo cái suối và con sông đi xem các nơi khắp đất nước ta.
Tiếng trầm trồ :
- Thích lắm.
Ông lại nói :
- Bao giờ lớn, các cháu muốn đi như thuyền cũng được.
Bọn trẻ lao xao hỏi :
- Làm thế nào đi được, hả ông ?
Ông bảo :
- Các cháu phải biết chữ.
- Thưa ông, làm thế nào cho biết chữ?
Ông mách :
- Nhiều anh lớn trong làng đã có chữ, bảo các anh dạy cho. Biết chữ mới đọc được sách, báo và đi đến các nơi có những cánh đồng, thành phố và cửa biển.
Bọn trẻ cùng kêu :
- Phải rồi ! Phải rồi !
Ông hỏi :
- Các cháu thấy ở trong xóm ông Dương có nhà không ?
- Ông không chơi với chúng cháu nữa à ?
Ông cười.
Một em chắp tay, nói :
- Ông Dương cháu có nhà. Cháu đưa ông về. ông lên bờ, cầm cái sào trúc.
- Các cháu cứ chơi. Ông biết nhà ông Dương rồi.
Ông còn quay lại, cười vẫy tay đùa. Bọn trẻ hỏi theo :
- Ông ơi, nhà ông ở đâu ?
Ông trỏ vào núi.
Ông vào xóm. Ông đi rồi. Nước suối Pác Bó phân vân chảy tràn trên những tảng đá trắng. Đám trẻ trông ra, tưởng tượng như lời ông, đương thấy được cái suối đem đi xa, to dần ra đến lúc gặp con sông. Qua hết những cây vối to kia đến chỗ hai bên bờ có những cánh đồng...
... Rồi gặp con sông. Rồi qua những cánh đồng, những thành phố, những cửa biển xa xôi của đất nước, chưa bao giờ được thấy.
Bạn đọc yêu quí !
Ngày ấy, công tác cách mạng phải bí mật. Không ai biết ông cầm cái sào trúc - cái sào làm cỏ lúa của người Hà Quảng, đấy là Bác Hồ.
Các cháu đã được gặp Bác Hồ, mà các cháu còn được gặp Bác Hồ nhiều lần nữa. Những năm ấy, các cháu gọi Bác là ông "ở núi", ông Thu Sơn.
Lát sau, anh Đức Thanh đi qua. Tay anh vẫn xách cái lồng chim họa mi. Lại kèm cả dây củ mài vừa đào được. Anh vừa tạt vào rừng, kiếm bữa ăn chiều nay. Anh lội ào ào qua suối.
Bọn trẻ mách :
- Anh Đức Thanh à, có ông ở núi vào nhà ông Dương.
Anh Đức Thanh nói : "Thế à ?" rồi đi vội vội theo.
*
* *
Anh Phục Quốc cày xong, đuổi bò về xóm rồi ra suối đợi em. Phục Quốc nhìn ngược lên phía suối, có hai cây vối già tựa vai nhau trên mặt nước, làm cầu cho xóm Pác ý sang xóm Pác Luông và đằng xa, bóng suối Pác Bó lấp lánh lên. Kim Đồng vừa về đến đấy.
Thấy anh, Kim Đồng khoe :
- Hôm qua, em đưa ông già cách mạng đi với anh Đức Thanh.
Hai anh em thong thả về xóm. Cả hai cùng im lặng, mỗi người có một ý nghĩ. Phục Quốc nói : - Người già cũng đi làm cách mạng thế đấy.
Kim Đồng nói :
- Bây giờ em mới thấy.
Phục Quốc nói :
- Ông già rồi mà ông vẫn xa nhà đi.
Phục Quốc đứng lại, nhìn Kim Đồng:
- Em ạ, thanh niên như anh đi cứu nước, còn đi nhiều lắm, đi xa lắm.
Kim Đồng nhìn anh và hỏi :
- Anh đi đâu ?
Phục Quốc lại nói :
- Anh nghe cán bộ bảo con đường đi hết nước ta từ đây về phía nam, một bên là biển Đông, một bên là núi Trường Sơn, dài mấy nghìn cây số. Đường Nam tiến đi cứu nước là đường ấy. Anh sẽ đi.
Kim Đồng lại hỏi :
- Bao giờ anh đi ?
- Anh cày sớm cho xong vụ.
Kim Đồng nói :
- Anh đừng lo. Có hội cứu quốc giúp nhà mình. Mà em cũng sẽ học cày.
Phục Quốc cười :
- Thế thì giỏi.
Rồi Tết rằm tháng bảy đến. Khi mong thì lâu, nhưng đã đến thì lại đi qua :Dng quá. Cả châu Hà Quảng lặng lẽ trong cái tết. Ngày nào lính đồn, lính châu cũng tuần phòng trên đường cái. Người ta sợ, chỉ ở làng xa mới có những cô gái mặc áo chàm mới, khăn thêu, lên ngồi hát trên đồi.
Chúng nó tất bật lo đối phó với cách mạng. Đồn bốt và lô cốt đã xây đá xong hết. Đánh hơi thấy đâu đáng nghi, quan quân đi bắt ngay. Chợ Sóc Giang bây giờ vắng hẳn. Phiên nào có tin đồn Tây chặt được đầu cán bộ, sắp đem bêu chợ, không ai đi chợ phiên ấy.
Các làng âm thầm hẳn đi. Nhưng người ta càng ngày càng thì thào cách mạng đã về khắp nơi. Không còn biết bên trong mỗi làng thế nào. Rằm năm nay, xã đoàn không thu được của dân một cái bánh, một con vịt để đem lên Tết quan. Có thể vì mất mùa. Có thể các làng đã theo cách mạng. Đằng nào thì quan đồn, quan châu cũng phải làm ngơ như không biết.
Nhà Kim Đồng năm nay lại khác người, làm tết rằm thật to.
To thật đấy. Nấu hai mẻ rượu ngô, gạo làm bún đã đầy đủ, lá gai phơi từ nửa tháng trước -mọi thứ sửa soạn cho tết. Anh Phục Quốc làm thịt một lúc những năm con vịt. Lại gói mấy chục chiếc bánh nếp. Kim Đồng đoán: có khi Tết xong anh đi xa, đem cả bánh đi ăn đường. Nhà mình ăn Tết to năm nay là phải.
Kim Đồng thèm kể chuyện "anh Phục Quốc đi Nam tiến" với các bạn, muốn khoe "đường ấy dài mấy nghìn cây số, qua hết đất nước.
Hai bên đường có đồn Tây, đồn Nhật. Quân cách mạng có súng, dẹp tan hết các đồn lấy đường đi". Nhưng Kim Đồng không dám nói. Anh Phục Quốc đã dặn : giữ bí mật. Kim Đồng cố nhịn, nhưng cũng phải kể với một mình Cao Sơn.
Kim Đồng còn muốn kể cho mẹ nghe. Nhưng nghĩ mẹ thương anh đi, lại thôi. Tuy vậy, Kim Đồng cảm thấy như mẹ đã biết. Lúc ăn, mẹ cứ bảo anh ăn nhiều vào. Mọi khi, bữa có thịt, mẹ chỉ giục Kim Đồng gắp thêm. Một con vịt vừa làm canh bún, vừa cả thịt luộc mà cả nhà ăn không hết, hôm nay nhiều thịt quá.
Đêm tháng bảy, trăng suông mát rợi. Không nghe tiếng trẻ đùa ngoài đầu xóm. Các bạn trong làng đã vào hội cứu quốc, tối nào không đi học cũng đi tập hát, ít chơi nhông như trước.
Ngoài cửa sổ, có con chim sột sạt gãi mỏ trong cây bo. Đằng xa, tiếng nước thác Pò Đoi khe khẽ rơi xuống đá. Con ve kim kêu đêm trong rừng chợt rít lên rồi lắng im. Tiếng chó nhủng nhẳng làm nũng với bóng tối, tiếng trâu bồn rền rền dài ra, xa mãi. Đêm về làm cho mặt đất hình như rộng hơn ban ngày.
Mẹ và anh ngồi bên bếp. Đêm Tết, năm nào mọi người cũng ngồi thong thả như thế. Nhà ai cũng lấp ló vách lửa. Anh nói chuyện rì rầm với mẹ, Kim Đồng nghe lõm bõm... chuyện lấy vỏ dó... cái nương bông, cái khuôn tráng giấy chữa rồi... Nhà mình đã xong vụ cày.... Một chốc, Kim Đồng nghe bên cạnh lưng mình. Cao Sơn đã ngáy khò khò. Rồi Kim Đồng cũng ngủ nốt.
Không ngờ, anh đi ngay đêm ấy. Đáng lẽ Kim Đồng cũng không biết. Đã khuya, hay gần sáng, lúc ấy Kim Đồng đương ngủ say. Mẹ khẽ gọi :
- Dền, dậy con ! Anh đi rồi !
Mẹ chỉ gọi thế, Kim Đồng tỉnh ngay và ngồi lên, Kim Đồng mở mắt. ánh lửa bếp đỏ hỏn, xung quanh còn tối. Cao Sơn cũng nhỏm theo, ngơ ngác. Hai đứa thấy anh lúi húi trước bếp. Anh vẫn mặc bộ quần áo chàm cũ khi đi cày, lại đội cái mũ nồi vá. Kim Đồng không thể tưởng đi Nam tiến như thế. Sau nghĩ ra, nhớ khi nghe lỏm các anh học quân sự nói chuyện "đánh du kích, cướp súng giặc, giết giặc". Thế thì phải mặc quần áo cũ mới dễ vào đồn nó được. Có đến mấy gói to bọc lá chuối nặng kệt để ngay cạnh anh. Mẹ phải lấy thêm cái "dậu" nữa mới đựng đủ. Đấy là những gói thịt vịt và bánh nếp. Thì ra, mẹ bảo tết này làm nhiều vịt để anh mang đi. Mẹ đã biết anh đi. Chẳng đợi mình phải mách.
Anh Phục Quốc đứng dậy, ra mái, rút cái đòn gánh. Anh xách túi và "dậu" lên. Mẹ bước đến, giơ tay ấn thêm cái mũ trên đầu anh xuống cho ấm. Mẹ sợ ngoài kia trời sương lạnh. Anh ôm cả hai vai Cao sơn. Kim Đồng đương ngồi dưới sàn nhìn lên, cũng đứng lên cho anh ôm vai. Kim Đồng muốn khóc. Anh chưa đi mà đã thấy nhớ quá. Bây giờ, Kim Đồng lại không muốn để anh đi nữa.
Anh Phục Quốc nói :
- Em ở nhà cho ngoan. Cách mạng thành công thì anh về.
Nghe anh nói thế, Kim Đồng lại thấy hăng hái lên. Anh bước xuống, từng bậc thang kẽo kẹt. Bóng anh quảy đôi "dậu" mờ mờ. Tự dưng, Kim Đồng sờ tay, thấy ướt trên má từ lúc nào. Nhưng Kim Đồng mắm môi lại. Không, Kim Đồng không thích khóc. Kim Đồng nghe chân anh giẫm rào rạo trên những chiếc lá mít khô. Tiếng lạch xạch, ấy thế là anh đã ra gốc cây bo, anh đã ra tới cây bưởi. Có lẽ không phải. Chân ai đằng ấy bước lại.
Chợt nhớ Kim Đồng khẽ gọi :
- Anh Bát Ngư !
Có tiếng hú đáp khẽ. Hình như thế. Chắc anh Bát Ngư đứng đợi đấy. Hai anh lúc nào cũng đi cùng nhau. Bây giờ hai anh cùng đi Nam tiến. Như Dền, với Thàn, với Thanh Thủy, đi đâu cũng cùng đi. Hai người cùng đi...
...Con đường đi hết nước ta từ đây về phía nam, một bên là biển Đông, một bên là núi Trường Sơn, còn dài mấy nghìn cây số Đường Nam tiến đi cứu nước là con đường ấy Anh sẽ đi...
Trời vẫn sáng trăng suông. Các anh đi vào bóng trăng. Hai đứa đoán chắc có đông người đương đợi các anh ngoài kia, cùng đi.
Kim Đồng và Cao Sơn ôm cột, áp tai vào cột, nghe những tiếng động kỳ lạ, đâu đâu, tiếng thác Pò Đoi, cái cọn rền rĩ, cái cối nước giã vào trống không, tiếng hổ vờn nhau trong rừng thẳm, tiếng sao đổi ngôi rơi, tiếng chân người đi, tất cả, một lúc rập rờn đến, một lúc mênh mang xa, mặt đất ban đêm dài ra theo bước các anh, đấy là tiếng chân các anh đi
________
(1) Ngũ tự kinh: một tài liệu tuyên truyền của Việt Minh viết lối thơ năm chữ, trước Cách mạng tháng Tám 1945 rất phổ biến ở Việt Bắc và đồng bằng miền Bắc.
(2) Mo: thày cúng.
(3) Loóng: khúc gỗ rỗng ruột đặt ngoài ruộng để đập lúa ngày mùa.
|