- Tiểu ca! Muội nhận ra lão là ai rồi... sao lại kỳ lạ như thế?
Chu Cẩm Sơn cũng lẩm bẩm:
- Quả là lạ thật, hóa ra lão là người của võ lâm... nhưng tại sao lão lại...
Lão già mà Chu Cẩm Sơn và Lưu Lệ Quân ngạc nhiên chính là lão già nhỏ bé mặt choắt đánh xe ngựa cho hai người đi nhờ đến Kim Sơn trấn. Tự nhiên, trong lòng thấy khẩn trương, gã bấm tay Lưu Lệ Quân rồi thì thầm:
- Tiểu muội! Chúng ta hãy theo dỏi xem lão là ai?
Lúc đó, ở phía trên Sử Văn Long đột nhiên thấy một bóng người nhảy xuống trước mặt lão, thân pháp nhẹ nhàng không thể tả. Lão trợn tròn mắt rồi hỏi:
- Tại hạ Sử Văn Long, không hiểu có hân hạnh được tiếp kiến ai vậy?
- Hà.. hà... hà... Lão già nhỏ bé cười gằn. - Họ Sử kia, ngươi không nhớ ta sao?
Sử Văn Long nheo nheo cặp mắt rồi thốt lên:
- Không lẽ lại là ngươi? Ngươi còn sống hay sao?
- Phải! Ta bị rớt xuống vực nhưng may mắn thoát chết để có ngày hôm nay gặp ngươi.
- Ngươi muốn tỷ đấu với ta chăng?
- Tất nhiên! Hôm nay thì ngươi chẳng còn cơ hội như lần trước đâu.
- Điều đó không quan trọng bởi vì ngươi làm gì có quyền được tham gia vào công việc bổn bang.
Lão già cười nhạt, lão quay mặt xuống phía dưới quần hùng rồi lên tiếng nói:
- Các anh em Cái Bang, có ai còn nhớ Trần Bá Lưu này không?
Ba chử "Trần Bá Lưu" gã vận nội lực nên âm thanh thật là vang dội.
Đám đệ tử Cái Bang ở dưới nghe ba tiếng "Trần Bá Lưu" thảy đều chấn động. Trần Bá Lưu xưa kia vốn là sư đệ của bang chủ.
Có tiếng hỏi:
- Có phải Trần trưởng lão phái Thanh Y đó không?
- Chính là tại hạ. - Lão già cất tiếng nói.
Sử Văn Long nổi giận quát:
- Tên phản đổ kia, ngươi còn dám mở miệng nói sao? Chính năm xưa sư phụ đã khai trừ ngươi ra khỏi môn phái.
Trần Bá Lưu không chút bối rối. Lão hỏi lại:
- Ngươi bảo bang chủ khai trừ ta khỏi môn phái, vậy có ai làm chứng?
- Ta... chính ta có mặt ở đấy!
- Được! Tại sao bang chủ không để lại di ngôn?
- Ngươi thừa biết lại còn vờ vĩnh. Sư phụ chỉ nói miệng, vừa nói xong thì người đã mất!
- Nói láo! Ngươi nói vậy thì ai mà tin ngươi được.
- Ngươi... ngươi.... - Sử Văn Long tức giận nói không nên lời. - Ngươi đã đánh cắp "Giáng Long Thập Bát Chưởng" của sư phụ, nhưng người đã gia ơn chỉ trục xuất ngươi ra khỏi môn phái, lại còn lợi dụng lúc sư phụ mất đột ngột đánh lén ta để dành chức chưởng môn! Ngươi còn chối cãi hay sao?
Trần Bá Lưu không trả lời. Lão quay xuống hô to:
- Các anh em, Trần Bá Lưu này có còn là người của Cái Bang hay không?
Các anh em nói đi.
Một lão ăn mặc rách rưới đứng dậy, mọi người nhìn xem ai, thì ra là Trương Hữu Bình, là một trong bốn vị trưởng lão Cái Bang. Trương trưởng lão nói:
- Việc này thì... - Lão ngập ngừng nhìn Sử Văn Long - Sử bang chủ này, đúng ra Trần trưởng lão vẫn được coi là người của Cái Bang chứ? Dù sao...
chưa tới đại hội...
- Được rồi, chuyện này ta sẽ truy cứu sau.
Lão nhìn Trần Bá Lưu rồi sẵn giọng nói:
- Trần trưởng lão, lão phu sẵn sàng tiếp chiêu của ngươi rồi đấy.
Trần Bá Lưu không đáp, người lão hơi ngả về phía trước, chân trái bước lên thành Tả Cung Bộ, mười ngón tay chụm lại rồi đâm thẳng vào bụng Sử Văn Long. Đây là một trong ba mươi sáu chiêu trong "Giáng Long Hàng Ma Chưởng". Lão xuất thủ nhanh như chớp khiến Sử Văn Long cũng không ngờ nên suýt chút nữa thì nguy. Lão buộc phải nhảy lùi lại mới tránh được, song lập tức phản đòn ngay, không hổ danh là bang chủ một bang hội lớn. Chỉ thấy thân hình lão hơi chuyển động, song chưởng đã đưa ra sử chiêu "Như Phong Tự Bế" đánh vào bả vai Trần Bá Lưu. Chỉ trong nháy mắt, hai cao thủ đã qua lại hơn năm chục chiêu. Nhưng Trần trưởng lão có phần chiếm được ưu thế, Phương Lâm đại sư cau mày nói với Tùng Lâm đạo trưởng:
- Võ công của lão họ Trần này kỳ bí vô cùng, bần tăng e rằng Sử bang chủ khó bế đương cự nổi.
Quả nhiên đánh được vài chiêu nữa, Sử Văn Long quát to lên:
- Không ngờ, ngươi hồi này tiến bộ đến nhường ấy! Hãy coi chưởng của ta đây.
Bỗng thấy áo lão căng phồng lên, hiển nhiên lão đã vận nội lực đến cao độ, song chưởng từ từ đẩy ra. Lão đã xử dụng chiêu thứ bảy trong Giáng Long Thập Bát Chưởng là "Kháng Long Hữu Hối", chưởng phong rít lên ầm ầm.
Bọn hảo thủ đứng sau lưng Trần Bá Lưu vội chạy dạt ra đứng một bên sợ trúng phải chưởng lực của lão thì uổng mạng.
Trần Bá Lưu không né tránh, ngược lại, lão cũng đưa hai tay lên, chưởng tâm hướng về phía trước để đối chưởng. Hai luồng kình khí dương cương gặp nhau phát ra một tiếng nổ lớn thật lạ lùng. Sử Văn Long loạng choạng lui về phía sau mấy bước mặt tái xanh. Lão quát lớn:
- Tiếp chiêu nữa đây!
Lão co tay trái về, vận kình vào bàn tay phải nhằm vào người Trần Bá Lưu sử chiêu "Kiến Long Tại Điền", chiêu thứ mười trong Giáng Long Thập Bát Chưởng. Chưởng kình chưa kịp phát ra bỗng Sử Văn Long lảo đảo rồi ngã ngồi xuống đất.
Trần Bá Lưu không bỏ lỡ cơ hội, gã xòe ngón trỏ điểm ngay vào huyệt Mi Tâm ở trán của Sử Văn Long.
- Xin thí chủ dừng tay. Phương Lâm vội nhảy ra. - Lão thấy Trần Bá Lưu ra tay ác độc thì hoảng sợ thay cho Sử Văn Long. Bởi nếu đánh trúng, ngón tay Trần Bá Lưu sẽ xuyên thủng sọ Sử Văn Long ngay lập tức.
Trước tình thế nguy ngập, lão đành xử dụng một tuyệt kỷ được mệnh danh là Hậu Phát Chế Nhân, dùng Long Trảo chụp vào cánh tay Trần Bá Lưu.
- Long Trảo Thủ! - Trần Bá Lưu hét lên. Lão vội thu tay về rồi trợn mắt lên quát:
- Ngươi... Ngươi sao lại can thiệp vào việc nội bộ Cái Bang ta, lại còn xử dụng độc thủ?
- Bần tăng xin thí chủ thứ lỗi. Sử bang chủ đã thua rồi cần gì phải dùng đến sát thủ như vậy?
- Đó không phải việc của ngươi! Nhưng dù sao thì ta cũng đã thắng... Còn anh em nào không phục không?
Ngọc Long chân nhân bỗng lên tiếng:
- Theo ý bần đạo, trận đấu hôm nay chưa ngã ngũ được. Sử bang chủ đang bị trọng thương ở ngực nên bị mất phần tiện nghi. Các vị thấy bần đạo nói có đúng không?
Lúc ấy mọi người sực nhớ Sử Văn Long bị nội thương rất nặng do giao đấu với giáo chủ Thanh Long Bang. Có tiếng người nói:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Như vậy là không công bằng!
- Tại sao lại không công bằng? - Trần Bá Lưu vặc lại. - Nếu như Sử Văn Long nói ngay từ đầu... ta đâu có ép buộc hắn?
Trương Hữu Bình, trưởng lão Cái Bang cũng xen vào:
- Trần trưởng lão, ta cũng nhận xét thấy Sử bang chủ đã ngã xuống do bị nội thương từ trước, chứ không phải do ngươi đánh thua... vì thế...
- Đã giao đấu là phải sòng phẳng. Nếu Phương Lâm đại sư không can thiệp... tại hạ tất đã dành phần thắng rồi...
- Điều... Điều... đó không sai. - Sử Văn Long gượng đứng lên rồi nói:
- Ta... Ta... công nhận đã thua... ngươi... ngươi.... đã đạt được mục đích rồi đấy...
- Các anh em! Các anh em đã thấy rồi đấy. Ngày hôm nay Trần Bá Lưu này chính thức nhận chức bang chủ Cái Bang. Nếu còn anh em nào không phục thì xin mời lên tỷ thí... Còn nếu không, Trần Bá Lưu xin mạn phép đãi tiệc quần hào.
Lão đợi một chút rồi nhìn quanh xem có ai lên tiếng gì không rồi vỗ tay một cái. Lập tức có sáu gã đệ tử Cái Bang xuất hiện.
- Truyền cho anh em bày tiệc ra!
- Xin tuân lệnh Tân bang chủ! - Mấy gã dạ ran.
Lưu Lệ Quân ngồi phía dưới thấy cuộc tỉ đấu đã kết thúc, cô kéo tay Chu Cẩm Sơn rồi nói khẽ:
- Chu ca! Chẳng còn gì hấp dẫn nữa đâu, chúng ta đi thôi!
Chu Cẩm Sơn dùng dằng chưa muốn bỏ đi, gã vẩn còn đang tìm xem Vương Sở Hồng đang đứng ở đâu, song thấy Lưu Lệ Quân giục giã, chẳng còn lý do gì để nấn ná lại nên đành gật đầu.
Gã nói:
- Tiểu muội này, nay chúng ta lấy con ngựa còm kéo xe này đi tạm, cũng còn hơn đi bộ.
Lưu Lệ Quân khen phải. Con ngựa vẫn còn thắng vào cỗ xe. Gã tháo dây buộc ra rồi nói với tên đại hán đứng gần đó:
- Tại hạ lấy con ngựa, xin huynh đài cảm phiền.
Gã kia cười hô hố nói:
- Cái bộ xương này thì có mổ thịt cũng chẳng ai ăn thì lấy làm quái gì?
Ngươi không ở lại dự tiệc sao? Mấy khi...
- Cám ơn huynh đài, tại hạ có công việc phải đi ngay.
Gạ leo lên ngựa, Lưu Lệ Quân nhảy ngồi đằng sau. Chu Cẩm Sơn cứ theo con đường dẫn về phía tây ra roi cho ngựa chạy. Gã đi được mấy chục dặm, đến một vùng hoang vu, không có lấy một bóng người. Nhưng cảnh quan thật là hoang sơ kỳ thú. Chu Cẩm Sơn nói với Lưu Lệ Quân:
- Tiểu muội, phong cảnh ở đây đẹp quá, không hiểu địa danh này gọi là gì nhỉ?
- Tiểu muội cũng không hiểu nữa. Hay là ta nghĩ ở đây nhé!
Chu Cẩm Sơn tìm một gốc cây cột con ngựa lại. Gã kiếm một chỗ đất bằng phẳng rồi cùng Lệ Quân ngã lưng nằm nghỉ. Chưa nóng chỗ, gã bỗng nghe thấy từ phía xa xa vẳng lại tiếng đàn nghe réo rắc vô cùng. Gã lắng tay nghe thấy tha thiết lạ thường thì kinh ngạc lẩm bẩm:
- Không ngờ nơi hoang dã thế này mà cũng có cao nhân ẩn cư.
Lưu Lệ Quân không hiểu gì cả. Cô hỏi:
- Tiểu ca, tiểu muội đần độn không biết gì về đàn nhạc nhạc thơ ca gì cả.
Khúc nhạc này là khúc nhạc gì vậy?
- Đây là bản Trường Hận ca, lời lẽ trong bản nhạc là của Bạch Cư Dị, một nhà thơ đời Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Bài hát kể lại sự tích nàng Dương Qúy Phi tự vẫn ở Mã Ngôi, và nói lên lòng thương tiếc nàng của Đường Minh Hoàng!
- Tiểu ca! - Lưu Lệ Quân nhìn gã âu yếm nói:
- Tiểu ca thật là giỏi, muội thật không bằng!
Chu Cẩm Sơn đang mãi say sưa nghe khúc đàn đâu có để ý gì đến lời khen của Lưu Lệ Quân, gã nói tiếp:
- Đây là một khúc tình ca tuyệt vời, miêu tả nỗi đau khổ của tình yêu trong nhân thế. Tiểu muội, ta đến xem ai đánh đàn đi.
Gã dắt tay Lưu Lệ Quân đi về hướng phát ra âm thanh tiếng đàn. Tưởng là gần hóa ra đi mãi mà mới tới. Khung cảnh ở đây lại hoàn toàn trái ngược với chỗ ban đầu mới lạ kỳ. Trước mặt gã là một cái hồ rộng không thấy bờ bên kia, cỏ mọc xanh um. Trên bãi cỏ có một cái bàn bằng đá, một người ngồi quay lưng về phía gã mặc áo đoạn màu xanh đang ngồi đánh đàn.
Chu Cẩm Sơn khẽ nói:
- Chúng ta nấp ở đây thôi, đừng ra khiến cao nhân mất hứng!
Đột nhiên tiếng đàn ngưng bặt. Người mặc áo xanh không quay đầu lại nói lớn:
- Dây đàn đứt, hẳn là có cao nhân nào đứng nghe. Lão phu Tư Mã Lăng xin kính mời cao nhân diện kiến.
Chu Cẩm Sơn giật mình. Lão này công lực quả là ghê gớm, đang gẩy đàn mà còn phát hiện được người lạ đằng sau. Gã vội bước ra rồi vòng tay thi lễ:
- Vãn bối Chu Cẩm Sơn và Lưu Lệ Quân bái kiến lão tiền bối!
Người mặc áo xanh quay lại. Đó là một lão già có khuôn mặt hơi dài cặp mắt phóng ra những tia thần quang lấp loáng. Lão hơi ngạc nhiên khi nhận ra đó là một đôi nam nữ thiếu niên nhỏ tuổi thì sẵn giọng nói:
- Tiểu tử, các ngươi là ai mà dám nghe lén đàn của ta?
- Thưa tiền bối! - Chu Cẩm Sơn cung kính nói:
- Vãn bối nhân lỡ độ đường qua đây thấy tiếng đàn tuyệt diệu nên mạo muội đến nghe. Xin tiền bối miễn thứ...
- Được lắm! - Lão già nói:
- Ngươi nghe đàn hẳn cũng biết tâm sự của ta chứ, nếu nói không đúng thì đừng trách lão phu không dung tình.
- Ngày xưa, khi đức Khổng Tử đang chơi đàn, thầy Nhan Hồi vào nghe thấy tiếng đàn có sát khí hỏi ra thì quả nhiên đức Khổng Tử lúc đánh đàn nhìn thấy con mèo vồ con chuột, tâm sự của tiền bối cũng gởi gắm trong khúc nhạc, vãn bối sợ vô lễ mà thôi!
- Không sao! Ngươi cứ nói.
- Vãn bối thấy tiền bối như có tâm sự gì u uất lắm thì phải...
Lão già hết sức ngạc nhiên song lão làm bộ nghiêm sắc mặt lại hỏi:
- Đựoc, nhưng ngươi tự nhận là hiểu biết thì có hiểu được cây Dao Cầm này có lai lịch thế nào không?
- Vãn bối nói ra chẳng qua chỉ là múa rìu qua mắt thợ song tiền bối đã hỏi thì phải trả lời. Xưa kia, vua Phục Hy thấy có năm sắc sao rớt xuống cụm ngô đồng, lại thấy chim phượng đến đậu thì biết đó là thứ ngô quí, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng để chế ra nhạc khí được.
Nhà vua cho người hạ xuống cắt làm ba đoạn thì thấy. Đọan ngọn tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng lại quá đục và nặng, chỉ có đọan giữa là tiếng vừa trong vừa đục có thể dùng được Nhà vua sai người ngâm đoạn giữa đúng bảy mươi hai ngày, rồi đem vào chỗ mát phơi cho thật khô... Khi đó, một người thợ khéo tay nổi tiếng nhất thời đó là Lưu Tử Kỳ được mời đến, chế ra cây Dao cầm này.
Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên. Mặt trước rộng tám tấc án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi.
Đàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, lại thêm một phím tượng trưng cho tháng nhuận, trên mắc năm dây án theo ngũ hành, tượng năm âm thanh là "Cung, Thương, Dốc, Vũ, Thủy"..
Lão già há hốc miệng ra nghe, Lão vỗ đùi đánh đét một cái rồi vui mừng nói:
- Hảo tiểu tử, hảo tiểu tử. Lão phu này xưa nay vẫn tự hào là cầm kỳ thi họa đều hơn người, song kiến văn của ngươi thì thật tình lão phu chưa nghe nói đến bao giờ!
Cặp mắt của lão bỗng trở nên hiền hòa, lão nói tiếp:
- Ngươi xứng đáng được làm nghĩa đệ của ta, ngươi chịu không?
Chu Cẩm Sơn mặc dầu không biết lai lịch của lão là ai song gã thấy tính tình lão như con trẻ lại giỏi về đàn địch thì trong lòng cũng vui thích, gã nói:
- Được tiền bối nhận làm nghĩa đệ thì còn gì bằng nữa, vãn bối...
- Ngươi đừng kêu ta bằng tiền bối có được không. Này nghĩa đệ, ngươi học được những điều đó ở đâu thế?
- Tiểu đệ từ lúc lên năm chỉ chuyên tâm vào văn chương không được học võ công nên...
Lão già ngắt lời:
- Cái đó ngươi đừng lo, đã có nghĩa huynh của ngươi đây, chuyện đó có khó gì.
Lão hoa tay múa chân tỏ vẻ vui thích lắm rồi hỏi tiếp:
- Nghĩa đệ, còn một điều này nữa, cây Dao cầm này có những bảy dây, hồi nãy ngươi nói có năm là tại sao?
- Tiểu đệ quên mất, đúng ra đàn chỉ có năm dây mà thôi, song từ đời nhà Châu, Châu Văn Vương bị cầm tù ở Dũ Lý, thái tử là Bá Ấp Khảo vì thương nhớ cha, căm hận Trụ Vương nên mới thêm một dây oán nữa, còn gọi là dây Văn Huyền. Sau đó đến lúc Vũ Vương khởi binh diệt Trụ lại thêm một dây nữa để thêm phấn khởi gọi là dây Vũ Huyền.
Như thế, trước đàn có năm dây, được thêm hai dây nữa nên mới gọi là Thất Huyền Cầm. Cây đàn này kỳ diệu ở chỗ có tám tuyệt là "Thánh, Kỳ, U, Nhĩ, Lý, Tráng, Lỗ, Trương". Trong tám tuyệt ấy, có đủ tình cảm vì thế có thể nói tiếng đàn đã đi đến chỗ tuyệt vời vậy!
Tư Mã Lăng sung sướng khôn cùng, lão nói một cách thành thực:
- Không ngờ hôm nay, Tư Mã Lăng lại được một tiểu tử mở mắt ra cho.
Thế mới biết, sự học là bao la, không khỏi tự thẹn mình trước kia đã tự phụ lắm rồi!
- Nghĩa huynh, tiểu đệ có tò mò đôi chút, chẳng hiểu nghĩa huynh có tâm sự gì vậy?
Mặt Tư Mã Lăng bỗng nhiên ủ dột, lão phiền muộn nói:
- Ta cũng chẳng dấu gì ngươi. Hồi trẻ tuổi, ta có yêu thương một người.
Vẻ đẹp của nàng tuy chưa đến nước khuynh quốc khuynh thành nhưng cũng là một trang tuyệt sắc. Nàng vốn con nhà khuê các, nơi cung kiếm chẳng màng ngó tới, song về cầm kỳ thi họa thì cũng bậc tài hoa. Ta tuy trẻ tuổi nhưng đã nổi danh khắp giang hồ nhờ bảy mươi hai đường đao nên mới được giới giang hồ mệnh danh là "Cái Thế Tuyệt Mạng Đao". Nếu như ta kết hợp với nàng thì đúng là trai tài gái sắc, xứng đôi vừa lứa. Nhờ nàng mà ta mới yêu thích cầm kỳ thi họa song với ta võ công vẫn là tất cả. Ta ước ao trở thành đệ nhất cao thủ nên mới ước hẹn cùng nàng ta sẽ vào tuyệt cốc để luyện môt môn võ công phu trong vòng ba năm. Nếu không thấy ta trở về, có nghĩa là ta thất bại và mất mạng, nàng có quyền tìm một người khác kết duyên. Nhưng ba năm ta chưa luyện thành mà còn suýt mất mạng. Ta phải luyện thêm bốn năm nữa, thì mới thành công.
Ta đã trở thành đệ nhất cao thủ, ta hét vang lên sung sướng. Việc đầu tiên khi rời hang ta đi tìm nàng hy vọng nàng vẫn chờ ta. Thực tế cũng đúng như vậy, nàng luôn hy vọng một ngày nào đó ta trở về.
Trời xui đất khiến làm sao ta gặp nàng. Lúc đó đang nằm thiêm thiếp trên bờ vực, bên cạnh một gã... ta nổi điên lên, lại sẳn võ công mới học được phóng chưởng đánh văng cả hai người xuống vực..
Từ đó ta hối hận không nguôi vì phát hiện ra ta đã sai lầm... Nàng bị trúng độc do phong hàn vì chiều nào cũng đứng trên miệng vực chờ ta. Người đó đã trị thương cho nàng, mà ta không biết đã nhẫn tâm ra tay.
Ta chán nản vô cùng! Tưởng rằng có võ công tuyệt thế là sẽ có tất cả nhưng không phải vậy, ta từ bỏ giang hồ về đây sinh sống cùng thiên nhiên cây cỏ...
Lão không nói nữa, trong lòng cảm thấy bùi ngùi. Lưu Lệ Quân hỏi:
- Tiền bối, vị phu nhân đó là ai vậy?
- Vị phu nhân ấy là... là Chúc Mỹ Dung - Chúc Mỹ Dung! Lưu Lệ Quân kêu to - Có phải người có một nốt ruồi trên trán?
- Đúng, sao ngươi biết - Tư Mã Lăng tái mặt đi.
- Bởi vì... Bởi vì người đó chính là mẫu thân tiểu nữ.
- Ngươi là ái nữ của Chúc Mỹ Dung đó sao? Lão già kêu lên - Phải rồi, phải rồi, đúng là trời có mắt, lão phu có dịp chuộc lại lỗi lầm xưa.. Ngươi...
ngươi trông giống lắm.
Lão nheo nheo cặp mắt ngắm nghía Lưu Lệ Quân rồi hỏi:
- Mẫu thân ngươi giờ ở đâu? Vậy mà ta tưởng nàng đã chết rồi? - Lão đưa hai tay ôm lấy đầu vẽ rất đau khổ.
- Mẫu thân... Mẫu thân đã bị giết hại rồi!
|