View Single Post
  #16  
Old 01-13-2013, 01:45 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Tặng vật


Eragon thu xếp hành trang không đầy năm phút, rồi đóng bộ yên cương lên lưng Saphira.
Saphira vươn cổ, mũi phun lửa, bảo: “Em đợi anh ngoài bãi tập.” Với một tiếng gầm, nó phóng khỏi ngôi nhà cây, bay lướt qua rừng già.
Lanh lẹ như một thần tiên, Eragon chạy tới cung Tialdarí tìm ông lùn Orik. Orik đang ngồi trong một góc, chơi một trò chơi bằng chữ cổ, mừng rỡ vỗ vai Eragon:
- Chuyện gì mà tới giờ này? Tưởng cậu đang luyện kiếm với Vanir chứ?
- Tôi và Saphira sửa soạn rời đây.
Orik há hốc mồm, rồi lim dim mắt hỏi:
- Có tin tức gì à?
- Sẽ kể cho ông sau. Ông muốn cùng đi không?
- Tới Surda?
- Phải.
Ông lùn toác miệng cười:
- Cậu phải cùm chân tay, mới bắt tôi ở lại đây được. Ở lại hoàng cung này làm gì? Ăn cho mập ú, làm biếng nhớt thây à? Bao giờ đi?
- Càng sớm càng tốt. Thu xếp lẹ lên. Chờ chúng tôi ngoài bãi tập. À, ông chôm chỉa được lương thực đủ cho hai người trong một tuần không?
- Một tuần? Sao tới kịp…
- Chúng ta bay với Saphira.
Mặt ông lùn tái nhợt:
- Ôi, người lùn chúng tôi làm sao chịu được độ cao. Đi ngựa cho chắc ăn, như khi mình tới đây đó.
- Không được. Mất nhiều thời gian lắm. Ông yên tâm, nếu bị ngã đã có Saphira túm lại.
Orik càu nhàu, không chút tin tưởng.
Eragon chạy xuyên qua thành phố rừng thông gặp Saphira, rồi cả hai bay tới bờ vực Tel’naéir.
Oromis đang ngồi trên đùi phải của Glaedr. Những cái vẩy lóng lánh của rồng già mạ vàng lên một vùng rừng núi.
Eragon xuống khỏi lưng Saphira, cúi đầu:
- Kính chào hai sư phụ.
Rồng vàng hỏi: “Hai ngươi tự ý quyết định trở lại với Varden phải không?”
Saphira trả lời: “Chúng tôi phải đi.”
Eragon không kìm chế nổi, hằn học hỏi:
- Vì sao sư phụ đã che giấu sự thật. Sư phụ không hề cho chúng con biết là quân cách mạng Varden sắp bị tấn công.
Vị lão tiên vẫn tỏ ra điềm đạm:
- Con muốn biết vì sao không?
- Thưa sư phụ, chúng con rất muốn biết.
Saphira trả lời trước khi Eragon kịp nói. Cô ả gầm gừ ông anh: “Giữ lễ.”
- Ta còn giữ kín tin này vì hai lý do. Lý do chính là tin Varden bị đe dọa cũng chỉ mới tới tai chúng ta chín ngày trước. Lực lượng, địa điểm và hướng di chuyển thật sự của đế quốc đều hoàn toàn bí mật, chỉ mới khám phá được ba hôm trước khi quan đại thần Dathedr xuyên thủng vòng ma thuật Galbatorix sử dụng để lừa gạt chúng ta.
Eragon bướng bỉnh:
- Điều đó cũng không đủ cắt nghĩa việc sư phụ không hề nhắc tới chuyện này. Hơn nữa, khi phát hiện việc Varden đang nguy khốn, vì sao nữ hoàng Islanzadí không phát động thần tiên chiến đấu? Chúng ta không phải là đồng minh sao?
- Có đấy, Eragon. Rừng cây đang vang rền tiếng búa chạm nhau, tiếng bước chân lẻng xẻng của những đôi ủng sắt, tiếng thở than của những người sắp phải lên đường. Vì đây là lần đầu tiên trong một thế kỷ, dòng giống chúng ta mới ra khỏi Du Weldenvarden để thách đấu với kẻ thù nguy hiểm nhất. Thời điểm đã tới để thần tiên công khai bước vào Alagaesia. Con sợ chậm trễ nên rối trí, ta hiểu vì sao. Nhưng lúc này con phải nhìn xa hơn là bản thân mình. Vì thế giới đòi hỏi sự quan tâm của con.
Sượng sùng, Eragon chỉ còn biết lắp bắp:
- Thưa sư phụ, con xin lỗi.
Nhớ lại lời con quạ trắng Blagden, nó cười cay đắng, tiếp:
- Con mù lòa như một con dơi.
- Không đâu, Eragon. Con đã hoàn tất tốt đẹp nhiều việc. Xét hàng núi trách nhiệm chúng ta đặt lên vai con thì đủ rõ. Chúng ta hy vọng hai ngày nữa sẽ nhận được văn thư của Nasuada yêu cầu nữ hoàng cấp thêm người hỗ trợ và chuyện con trở lại với Varden. Ta định tới lúc đó mới báo cho con biết tình hình khó khăn của Varden, nếu vậy con vẫn còn kịp có mặt tại Surda trước cuộc chiến. Nếu thầy cho con biết sớm hơn, mối ràng buộc danh dự sẽ làm con bỏ dở dang việc học, chạy ngay về bảo vệ chủ nhân con. Đó là lý do thầy và nữ hoàng đã giữ kín chuyện này.
- Việc học tập của con sẽ chẳng ích gì nếu Varden bị hủy diệt.
- Đúng vậy. Nhưng con có thể là người duy nhất tránh cho Varden bị diệt vong nếu Galbatorix hiện diện trong cuộc chiến này. Nếu lão bạo chúa thật sự sẽ có mặt tại đó, mà thần tiên chưa kịp tới giúp Varden, con sẽ phải một mình đối đầu với Galbatorix, không có sự bảo vệ của các pháp sư thần tiên. Vì vậy, điều quan trọng là việc học tập của con duy trì được lâu thêm chừng nào càng tốt.
Bao giận hờn trong lòng Eragon tiêu tan hết, nó chỉ còn cảm thấy kính phục tinh thần cứng cắn, lạnh lùng của sư phụ khi ông thấy việc giữ im lặng là cần thiết. Cảm xúc cá nhân không thích hợp trong hoàn cảnh gay go lúc này, Eragon trầm tĩnh nói:
- Thầy nói đúng, tới tuyên thệ của con sẽ thôi thúc con phải bảo vệ sự an toàn cho Nasuada và Varden. Tuy nhiên lúc này con chưa sẵn sàng đối đầu với Galbatorix…
- Thầy đề nghị, nếu Galbatorix đích thân xuất trận, con hãy tìm đủ cách làm cho lão rối trí mà xao lãng Varden, tránh đụng độ trực tiếp với lão. Trước khi hai con đi, thầy chỉ có một yêu cầu: Eragon và Saphira phải hứa – ngay khi hoàn cảnh cho phép – hai con phải trở lại đây. Còn rất nhiều điều hai con cần học hỏi.
- Chúng con sẽ trở lại.
Vẻ hài lòng, Oromis với từ phía sau một túi vải thêu màu đỏ. Vừa mở túi ông vừa nói:
- Biết trước việc con ra đi, thầy đã thu xếp sẵn ba món quà cho con đây, Eragon.
Đưa cho nó một chai nhỏ bằng bạc, vị lão tiên ân cần nói:
- Thứ nhất là chai faelnirv đã được ta làm phép. Chất này sẽ trợ lực cho con có thể chịu đựng khi tất cả thần tiên khác đều đã kiệt lực. Nó còn giúp con một cách hữu hiệu trong nhiều trường hợp khác nữa. Nhớ dè sẻn, vì thầy chỉ đủ thời gian làm được bấy nhiêu thôi.
Lấy từ trong túi ra một thắt lưng dài, bằng vải đen và xanh, thêu những dây nho quấn quít, ông trao cho Eragon. Chiếc thắt lưng dường như dày khác thường và có vẻ nặng nề đối với nó. Tuân lệnh sư phụ, nó kéo dải tua đầu thắt lưng, một đường chính giữa mở ra, để lộ mười hai viên kim cương. Bốn viên trắng, bốn viên đen, bốn viên còn lại màu đỏ, vàng, nâu và xanh dương. Tất cả đều long lanh rực rỡ và lạnh lẽo như băng đá buổi rạng đông, tỏa sắc cầu vồng trong lòng bàn tay Eragon.
Lắc đầu, nghẹn thở, Eragon thốt mãi mới thành lời:
- Sư phụ… thầy cho con thứ này, liệu có… có an toàn không?
- Hãy thận trọng, đừng để kẻ nào thấy mà động lòng tham. Đây là đai lưng của Beloth Khôn Ngoan – con đã đọc về ông trong cuốn Tháng Năm U Tối rồi đó – và là một tài sản quý giá của kỵ sĩ. Đây là những viên kim cương hoàn hảo nhất mà các kỵ sĩ đã tìm ra được. Có viên chúng ta mua của người lùn, có viên là chiến lợi phẩm, có viên do chính chúng ta đào được. Tự thân những viên đá quý này không có phép thuật, nhưng con có thể dùng chúng như những kho dự trữ năng lực của con để sử dụng khi cần thiết. Những viên kim cương này, cộng với viên hồng ngọc trên chuôi thanh Zar’roc, sẽ cho phép con tích lũy công lực, để con sẽ không bị mê muội vì những câu thần chú khi lâm trận, kể cả khi đối đầu với những pháp sư thù địch.
Sau cùng, ông lấy từ trong một ống nhỏ ra cuộn giấy mỏng. Mở cuộn giấy, Eragon thấy bài thơ nó đã đọc trong Lễ-hội Huyết-thệ, với nét chữ như rồng bay phượng múa của sư phụ. Đầu mỗi khổ thơ là hình ảnh cây cối, muôn thú cuốn lấy nhau. Oromis nói:
- Ta nghĩ chắc con muốn có một bản chép này.
Một tay cầm cuộn giấy có bài thơ và nét chữ của thầy, Eragon cúi đầu, nói mấy câu đơn giản tự đáy lòng:
- Con vô vàn cảm tạ sư phụ.
Rồi vị tiên già làm Eragon kinh ngạc khi ông chắp tay theo đúng nghi lễ thần tiên, trang trọng nói:
- Cầu mong vận may đến cùng con.
- Cầu xin những vì sao che chở thầy.
- Cầu mong tâm hồn con luôn thanh thản.
Ông quay qua lập lại lời chúc với Saphira, rồi bảo:
- Giờ thì các con hãy lên đường, hãy bay nhanh như gió bắc và hãy biết rằng các con đã đem theo mình lời chúc phúc của Oromis: hậu duệ cuối cùng của giòng tộc Thrándurin, và cũng là Hiền Nhân Sám Hối, Tàn Mà Không Phế.
Rồng vàng Glaedr vươn cổ, chạm nhẹ đầu mũi Saphira: “Đó cũng là những lời của ta. Saphira, hãy nhớ luôn giữ tâm an lành.” Cô ả ậm ừ trong họng.
Tất cả buồn rầu chia tay. Saphira lướt bay trên cánh rừng già. Hình ảnh vị lão tiên và rồng vàng lẻ loi, nhỏ dần trên bờ vực đá.
Mặc dù thời gian ở Ellesméra chịu nhiều khó nhọc, Eragon vẫn nhớ những ngày chung sống với thần tiên. Vì sau khi rời xa thung lũng Palancar, chỉ từ khi ở cùng thần tiên, Eragon mới cảm thấy thân thiết như trong một gia đình.
Nhắm mắt ôm chặt cái gai trên cổ Saphira, Eragon thầm nhủ: “Mình đã trở thành một con người khác khi rời khỏi nơi này.”
Trước khi đi gặp ông lùn Orik, chúng ghé vào cung Tialdarí. Saphira hạ xuống khu vườn khép kín, thận trọng không để móng vuốt và cái đuôi dài thòng làm hư hỏng những luống hoa. Không đợi cô rồng nằm rạp mình xuống, Eragon nhảy phóc xuống đất. Trước đây kiểu nhảy này chắc chắn sẽ làm nó bị thương.
Một tiên ông tiến lại, đặt hai ngón tay lên môi cúi đầu hỏi:
- Các vị cần gì?
- Xin cho chúng tôi triều kiến nữ hoàng.
- Xin Bàn-tay-bạc vui lòng chờ tại đây.
Chưa đầy năm phút, nữ hoàng Islanzadí xuất hiện. Chiếc áo choàng màu đỏ của bà như một giọt máu gữa màu áo trắng của thần tiên nam nữ cận thần. Sau nghi lễ chào hỏi, nữ hoàng nói:
- Oromis cho ta biết hai người định rời xa chúng ta. Dù không vui nhưng ta chẳng thể nào ngăn cản được ý của số mệnh.
- Tâu nữ hoàng, chúng thần tới để tỏ lòng tôn kính trước khi lên đường. Nữ hoàng đã quá bận tâm và ưu ái chúng thần. Chúng thần đã được hưởng ơn nữ hoàng nhiều quá.
- Không có gì là ân huệ hết. Chúng ta chỉ mới trả được một phần nhỏ những gì chúng ta còn mang nợ các kỵ sĩ và loài rồng, vì thất bại thảm hại của chúng ta trong sự kiện suy sụp của kỵ sĩ. Eragon, khi tới Surda, hãy chuyển lời ta thăm hỏi công nương Nasuada và đức vua Orrin, đồng thời báo cho họ biết, chiến binh của ta sắp tấn công mặt bắc của Đế quốc. Nếu may mắn, chúng ta sẽ lừa được Galbatorix, giúp thời gian cho những cánh quân khác xé nhỏ lực lượng của bạo chúa.
- Xin tuân lệnh.
- Ta cũng đã phái mười hai pháp sư cao tay nhất tới Surda. Họ sẽ được đặt dưới quyền kỵ sĩ và sẽ bằng mọi giá bảo vệ kỵ sĩ suốt đêm ngày.
- Đa tạ nữ hoàng.
Bà xòe bàn tay. Một cận thần dâng lên một hộp gỗ. Mở cái hộp, bà lấy ra cây cung cẩn bạc hình những chiếc lá phong du và ống tên với những mũi tên bằng lông thiên nga.
- Giờ thì kỵ sĩ đã có sức mạnh như thần tiên chúng ta, kỵ sĩ cần phải có một cây cung của thần tiên. Ta đã tự hát để tạo ra cây cung này từ một cây thủy tùng. Dây cung sẽ không bao giờ bị đứt. Còn những mũi tên này sẽ không bao giờ lạc mục tiêu, kể cả khi trời lộng gió.
Quá bối rối vì sự hào phóng của nữ hoàng, Eragon cúi đầu nói:
- Muôn tâu, thần biết nói sao đây? VÌ tặng vật cho thần mà lệnh bà phải nhọc nhằn ngọc thể.
Nữ hoàng gật đầu rồi quay qua Saphira:
- Ta không thể nào nghĩ ra được một quà tặng cho mi, Saphira, nhưng nếu mi thích bất kỳ thứ gì tại đây, cứ nói ta rất vui lòng ban tặng.
- Rồng không hề coi tài sản là niềm vui. Giàu có với rồng có nghĩa gì, khi bộ giáp của rồng lộng lẫy sáng ngời hơn bất cứ kho tàng nào trên thế gian? Không, thần đã được vui vì tấm lòng ưu ái của lệnh bà đối với Eragon rồi.
Nữ hoàng chúc cả hai lên đường bằng an, trước khi ra khỏi vườn bà ngừng lại, nói với Eragon:
- Hãy chuyển lời ưu ái của ta tới Arya và hãy bảo hoàng cung Ellesméra rất nhớ công chúa.
Sau mấy lời nói đầy vẻ xã giao, không đợi Eragon trả lời, nữ hoàng Islanzadí đi khuất sau những thân cây bao quanh cung Tialdarí cùng các cận thần.
Nửa phút sau Eragon và Saphira bay tới bãi tập. Ông lùn Orik đang ngồi trên túi hành lý căng phồng, hai tay thảy qua thảy lại cây búa vũ khí. Thấy Eragon, ông đứng dậy làu bàu:
- Đến rồi cơ à?
Eragon xin lỗi vì sự chậm trễ rồi móc túi hành lý của Orik lên sau yên rồng. Ông lùn ngược lên nhìn đôi vai Saphira lù lù trên cao, ca cẩm:
- Ôi, làm sao tôi leo được lên đó chứ? Một bờ vực còn có nhiều chỗ để bám tay hơn thân mình mi, Saphira.
- Đây.
Saphira ép sát bụng trên mặt đất, duỗi dài một chân trước, làm cầu cho ông lùn. Ì cạch đánh đu lên ống chân, ông lùn rón rén bò lên đùi cô rồng. Tia lửa nhỏ phì ra từ hai lỗ mũi Saphira khi nó cằn nhằn:
- Lẹ lên cha, nhột quá hà.
Orik đặt hai chân hay bên gai sống lưng Saphira, thận trọng bước từ từ tới cái yên. Eragon tủm tỉm cười:
- Đừng nhào xuống nhé.
Khi Orik đã yên vị trên yên, Eragon leo lên Saphira, ngồi sau ông lùn. Để giữ cho Orik không bị chao đảo khi Saphira bay lộn, nó nới lỏng dây an toàn, nhét hai chân ông lùn vào trong.
Saphira đứng thẳng lên, Orik nắm chặt gai rồng, quay lại Eragon:
- Ui cha, cho đến khi lên tới trên không, đừng bắt tôi mở mắt đấy nhé, Eragon. Thật kỳ cục. Người lùn sinh ra đâu phải để cưỡi rồng. Chưa bao giờ lại có chuyện ngược đời như thế này.
- Chưa bao giờ sao?
Orik lắc đầu, không dám mở miệng trả lời.
Từng nhóm thần tiên từ Du Weldenvarden tiến ra tụ tập bên lề bãi tập, buồn rầu nhìn Saphira vươn cánh sửa soạn bay lên.
Eragon nắm chặt tay vịn khi cảm thấy những sợi gân mạnh mẽ phi thường của Saphira cuồn cuộn dưới chân nó. Với một cái nhún mình, Saphira phóng lên bầu trời xanh, vỗ mạnh hai cánh, vượt khỏi những hàng cây khổng lồ. Lượn vòng xoắn ốc lên cao dần, rồi cô rồng cái nhắm hướng nam, tiến về sa mạc Hadarac.
Dù gió lộng vù vù bên tai. Eragon còn nghe giọng một tiên nữ véo von, cất lên từ hoàng cung Ellesméra, bài ca nó đã nghe lần đầu khi mới tới đây:
Bay đi anh hãy bay đi
Bay qua thung lũng núi đồi
Tới vùng đất xa xôi đó
Bayđi anh cứ bay đi
Đừng bao giờ trở lại cùng em nữa…


Cuống họng của đại dương


Lớp đá gương thiên tạo vồng lên dưới Cánh Rồng, đẩy con tàu vọt cao lên không. Cánh Rồng chao đảo trên ngọn sóng ngầu bọt, rồi lao xuống máng nước không lồ đen ngòm bên dưới. Sương mù cuồn cuộn trong không khí giá lạnh, gió gầm rú như tiếng ma quỷ gọi hồn.
Roran nắm lan can tàu, nôn khan toàn nước mật đắng chát. Khi còn trên xà-lan của Clovis, Roran tự khen mình không hề bị say sóng, nhưng trận giông này quá dữ dội, kể cả những thủy thủ dày dạn nhất của Uthar cũng nôn thốc tháo đến giọt rượu cuối cùng.
Con sóng như cột nước đá khổng lồ chụp lên Roran, tràn ngập khắp sàn tàu, rồi ào ào rút qua những lỗ thoát nước, đổ lại xuống biển. Roran đưa mấy ngón tay tê cóng lên gạt nước mặn trên mắt, liếc nhìn chân trời đen như mực phía sau.
“Cơn giông này chắc làm chúng mất dấu mình rồi.” Ba con thuyền nhỏ, buồm đen, đuổi theo những người chạy trốn từ khi Cánh Rồng vừa qua khỏi Dốc-vực-sắt và vòng sang một địa danh – ông Jeod gọi là Edur Carthungave, còn Uthar lại gọi là Đỉnh Thúc Ngựa của Rathbar – Uthar cười bảo: “Chính xác thì nơi này là khúc xương đuôi của núi Spine.”
Vì Cánh Rồng quá nặng nề với toàn thể dân làng, nên ba con thuyền nhỏ đã theo kịp tới tầm tên bắn. Nguy hiểm hơn nữa là, dường như trên con thuyền dẫn đầu có một pháp sư. Những mũi tên của chúng nhắm trúng đích một cách lạ lùng. Dây bị đứt, máy bắn đá và ụ phòng thủ bị phá hủy… Theo cách tấn công của bọn chúng, Roran suy luận triều đình không còn ý định bắt sống anh nữa, mà bằng mọi giá ngăn chặn việc anh tới với Varden. Khi có một cơn mưa xối xả đổ xuống, cùng cơn giông bão ầm ầm từ hướng bắc kéo tới, Roran mới thu xếp cho dân làng sẵn sàng đẩy lui những kẻ xâm nhập lên tàu. Ngay lúc đó, Uthar cho Cánh Rồng nương theo hướng gió, quay mũi tàu về mấy đảo phía nam, hy vọng lẩn trốn thuyền nhỏ trong vùng vịnh nước nóng của Beirdland.
Những lằn chớp lóe lên cuối chân trời, cảnh vật như một bức tranh nhợt nhạt thoáng hiện ra rồi lại chìm ngập trong đêm tối.
Liên tiếp hàng loạt tia chớp xuất hiện và Roran thấy ngọn cột buồm định hướng ngả nghiêng, rồi gãy rời, văng xuống biển, kéo theo đuôi tàu chìm thấp xuống. Nắm chặt dây an toàn, Roran đu lên buồng lái, cùng Bonden chặt đứt mấy sợi dây cáp nối giữa Cánh Rồng và đỉnh trụ buồm dưới nước.
Sau đó, Roran xuống boong, tay luôn nắm chặt lan can dưới những đợt sóng cao năm thước… mười thước phủ lên tàu làm anh lạnh buốt tới xương.
Roran cầu xin mà không biết cầu xin ai: “Đừng bắt tôi chết tại đây. Đừng để tôi chết giữa những đợt sóng tàn nhẫn này, khi công việc của tôi chưa hoàn tất.” Suốt đêm dài dằng dặc đó, Roran bám lấy những kỷ niệm về Katrina làm niềm an ủi, khi trong lòng tràn ngập lo âu và gần như không còn chút hy vọng nào.

Trận giông bão kéo dài suốt hai ngày rồi tan dần vào lúc nửa đêm. Hôm sau, bình minh xuất hiện với bầu trời trong xanh và… ba cánh buồm đen đang bồng bềnh nơi hướng bắc. Phía tây nam, Beirland lờ mờ hiện ra dưới những dải mây lững lờ quanh đỉnh núi sừng sững trên đảo.
Roran, ông Jeod và Uthar gặp nhau trong một phòng nhỏ gần mũi tàu – vì phòng họp của thuyền trưởng đã dành cho những người già yếu. Uthar trải tấm hải đồ lên bàn, chỉ một điểm phía trên Beirland, nói:
- Chúng ta đang ở đây.
Lấy một bản đồ bờ biển Alagaesia, Uthar chỉ cửa sông Jiet, tiếp:
- Còn đây là điểm tới của chúng ta, vì lương thực không đủ để tới thẳng Reavstone. Nhưng cho dù có đủ lương thực chúng ta cũng không thể tới đó được. Đỉnh cột buồm lái bị gãy, mấy con thuyền đáng nguyền rủa kia chắc chắn sẽ theo kịp chúng ta vào trưa mai.
Ông Jeod hỏi:
- Chúng ta có thể thay buồm khác không? Những con tàu to lớn như thế này, chắc phải đem theo cột để thay thế chứ.
- Có thể, nếu chúng ta có thợ mộc chuyên môn về tàu thủy. Không thể cho một tay mơ leo lên cây cột mấy chục mét, sơ sẩy cột đổ còn làm thêm cả đống người bị thương nữa.
Roran hậm hực
- Nếu chúng không có pháp sư theo, ta dư sức quay lại choảng cho chúng một trận. Mấy người trên ba con thuyền nhỏ xíu kia so với chúng ta chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nếu chọi với phép thuật, tôi e chúng ta khó thắng, cứ suy từ bao nhiêu con tàu tiếp tế cho Varden đều đã biến mất thì đủ biết.
Uthar khoanh vòng nơi Cánh Rồng đang di chuyển, rồi góc ngón tay lên một điểm:
- Nếu gió chiều lòng chúng ta, chúng ta sẽ đến được nơi này vào chiến tối mai. Cặp tàu vào Beirland hoặc Nía cũng được. Nhưng tôi cũng không biết chắc ra sao. Có thể chúng ta sẽ bị sập bẫy đám lính trên ba thuyền kia, Ra’zac hoặc có thể là chính Galbatorix.
Roran thầm lo lắng: “Một cuộc đụng độ với lính trên thuyền khó mà tránh khỏi.”
Mấy phút trôi qua, trong phòng im phăng phắc, chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ mạn tàu. Rồi ông Jeod chỉ một điểm giữa Beirland và Nía, nhìn Uthar hỏi:
- Mắt-lợn-lòi thì sao?
Roran ngạc nhiên thấy vẻ khiếp đảm trên mặt Uthar:
- Ông Jeod, tôi không dám thí mạng như vậy đâu. Thà tôi bỏ thây trên biển vì ba chiếc thuyền kia, còn hơn phải đâm đầu vào địa ngục đó…
Jeod ngả người trên ghế, lẩm bẩm:
- Tôi nhớ đã đọc đâu đó, giữa hai đợt thủy triều lên, xuống, lộ trình rất an toàn. Có đúng vậy không?
Uthar miễn cưỡng gật đầu:
- Nhưng… Mắt-lợn-lòi bao la lắm. Phải canh giờ chính xác mới không bị tan nát tàu bè. Với áp lực ba thuyền kia đang đuổi theo, làm sao chúng ta đủ thời gian để tính toán giờ giấc được.
- Nhưng nếu chúng ta có thể canh được giờ chính xác, thì chính ba con thuyền kia mới bị tan nát, hoặc phải bắt buộc quay hướng sang Nía. Lúc đó ta có đủ thời gian tìm nơi ẩn núp dọc theo Beirland.
- Nếu, nếu… Ông sẽ đẩy chúng tôi chết chìm hết ráo dưới đại dương.
- Thôi nào, Uthar, anh hoảng hốt một cách vô lý quá. Thú thật, ý kiến của tôi có phần nguy hiểm, nhưng chưa nguy hiểm bằng khi chúng ta chạy trốn khỏi thành Teirm. Hay anh nghi ngờ khả năng của anh không đủ để điều khiển con tàu qua lỗ hổng đó? Dũng khí đàn ông của anh đâu?
- Chưa bao giờ ông thấy Mắt-lợn-lòi, đúng không? Không phải tôi thiếu can đảm, nhưng vực nước đó vượt quá sức con người. Nó bất chấp những con tàu to lớn nhất, những ngôi nhà đồ sộ nhất, hoặc bất cứ thứ gì người ta có thể nghĩ ra để vượt qua nó. Thử thời vận với nó là đâm đầu vào cõi chết.
Roran ngơ ngác hỏi:
- Nhưng… Mắt-lợn-lòi là gì?
Uthar nói như rên:
- Là cái cuống họng tham lam của đại dương, ăn tươi nuốt sống tất cả những gì vượt qua nó.
Ông Jeod bình tĩnh cắt nghĩa:
- Roran, đó là một dòng nước xoáy, tạo nên bởi những luồng sóng lớn đối đầu nhau giữa Beirland và Nía. Khi thủy triều lên mạnh, Mắt-lợn-lòi xoay chiều từ bắc sang tây. Khi thủy triều rút, nó chuyển từ bắc sang đông.
- Vậy thì có gì là nguy hiểm quá đâu?
Nghe Roran nói, Uthar lắc đầu, dải tóc bím hất qua lại hai bên cổ rám nắng:
- Ha ha, nghe cậu ta nói kìa. Có gì quá nguy hiểm đâu!
Jeod lại nói:
- Cháu không thể ngờ nó rộng lớn đến thế nào đâu. Tính trung bình, trung tâm Mắt-lợn-lòi đường kính khoảng một hải lý. Những nhánh tỏa ra chung quanh nó từ mười tới mười lăm dặm. Những con tàu bất hạnh sa bẫy nó, sẽ lọt thỏm xuống đáy đại dương, tan nát vì va chạm phải tầng đá tua tủa trong lòng biển. Người ta thường bắt gặp những mảnh tàu bồng bềnh dạt vào hai hòn đảo Beirland và Nía này.
Roran hỏi:
- Liệu có ai đồng ý qua lối này cùng chúng ta không?
Jeod lắc đầu. Uthar càu nhàu:
- Chắc chắn không có ai.
- Có cách nào vượt qua Mắt-lợn-lòi được không.
- Đó là một việc làm liều lĩnh ngu ngốc nhất.
- Uthar, tôi biết là anh không muốn liều mạng, nhưung chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi không phải là dân đi biển, vì vậy tôi chỉ còn biết tin vào sự phán đoán của anh. Chúng ta vượt qua Mắt-lợn-lòi nổi không?
Uthar ngập ngừng:
- Có thể được, có thể không. Cách con quái vật đó chừng năm dặm, người ta đã như lên cơn mê sảng rồi.
Rút ra cây búa, Roran chém phập xuống bàn:
- Vậy thì tôi là một kẻ mê sảng đây. Có cần phải nhắc nhở anh, chúng ta không vượt qua chặng đường xa xôi đến thế để tới đây nghe mấy câu lảm nhảm không thể, không nên. Dân Carvahall cùng tôi đã dám bỏ lại cửa nhà, xuyên qua núi Spine. Ông Jeod đã dám nghĩ ra việc lấy trộm con tàu Cánh Rồng. Chúng ta còn sẽ dám làm những gì nữa, anh Uthar? Nếu anh dũng cảm thắng Mắt-lợn-lòi và sống để kể lại chuyện này, anh sẽ là một nhà hàng hải vĩ đại nhất trong lịch sử. Bây giờ xin anh trả lời tôi, trả lời một cách chân thật. Có thể làm được chuyện này không?
Uthar vuốt mặt, khi cất tiếng nói giọng anh ta dịu hẳn lại:
- Tôi không biết, Cây-búa ạ… Nếu chúng ta đợi cho Mắt-lợn-lòi rút xuống, thì ba thuyền kia sẽ bắt kịp và nếu ta thoát được, chúng cũng sẽ thoát theo. Còn nếu gió đổi chiều, chúng ta sẽ bị cuốn theo dòng xoáy.
- Là chỉ huy trên tàu, anh có nhiệt tình làm chuyện này không? Ông Jeod và tôi không thể nào thay thế anh được.
Trừng trừng nhìn xuống tấm hải đồ một lúc lâu, rồi Uthar kẻ mấy đường từ điểm họ đang hiện diện tới mấy hình ảnh mà Roran không hiểu. Sau cùng người thủy thủ lên tiếng:
- Tôi e chúng ta sẽ đi vào cõi chết, nhưng được, tôi sẽ cố hết sức để vượt qua.


Chạy đua với Mắt-lợn-lòi


Ngày hôm đó, ba thuyền nhỏ vẫn bám theo Cánh Rồng. Roran nhìn chúng phăng phăng tiến, Roran lo ngại ba cánh buồm đen sẽ rút ngắn khoảng cách, đủ để tấn công, trước khi Cánh Rồng tới kịp Mắt-lợn-lòi. Tuy nhiên, dường như Uthar vẫn còn khả năng cho con tàu lớn vượt trước chúng.
Theo lệnh Uthar, Roran cùng dân làng thu xếp cho tàu ngăn nắp lại sau cơn bão và sửa soạn tinh thần đón chờ thử thách sắp tới. Tất cả dọn dẹp cho tới khi đêm xuống và tắt hết đèn, hầu để đánh lạc hướng mấy con thuyền đang bám theo sau. Mẹo nhỏ đó cũng đem lại chút kết quả, vì khi mặt trời lên, Roran thấy chúng đang cách xa Cánh Rồng chừng vài dặm về phía bắc. Tuy nhiên ngay sau đó, ba thuyền nhỏ cũng đã phát hiện ra sai lầm của chúng.
Gần trưa, Roran leo lên cột buồm chính, chui vào giỏ lưới cách sàn tàu chừng 40 mét để quan sát.
Lấy ống nhòm từ trong áo ra, Roran điều chỉnh cho tới khi thấy rõ ba thuyền nhỏ, cách xa chừng bốn dặm, đang tiến tới mau hơn anh tưởng. “Chúng đã nhận ra ý định của tàu mình.” Roran nghĩ. Anh đảo quanh ống nhòm tìm dấu hiệu của Mắt-lợn-lòi. Một đĩa bọt nước khổng lồ lớn như một hòn đảo, đang xoay vòng từ bắc sang đông. Bụng anh thắt lại: “Chúng ta chắc không kịp mất rồi.” Thủy triều đang rút mạnh. Roran cố vươn mình ra ngoài giỏ lưới: qua ống nhòm anh thấy sợi dây Uthar thắt nơi đuôi tàu, để phát hiện nếu tàu đi vào vùng nước xoáy, đang bồng bềnh dọc sườn tàu, thay vì kéo thẳng ra sau. Điều may mắn duy nhất là Cánh Rồng đang trôi thuyền theo luồng nước của Mắt-lợn-lòi. Nếu không, chỉ còn cách chờ cho tới khi nước rút trong thủy triều ngày mai.
Từ bên dưới, tiếng Uthar vang vang kêu gội dân làng bố trí người cầm chèo. Chỉ một thoáng, từ hai bên mạn tàu những mái chèo tua tủa vươn ra, làm con tàu trông giống như một con nhện khổng lồ đang bước đi trên mặt nước. Một tiếng trống vang lên cùng tiếng bắt nhịp của Bonden, các mái chèo để lại những vạch nước ngầu bọt trắng xóa trên mặt biển phía sau Cánh Rồng. Con tàu tăng tốc, vượt nhanh hơn ba thuyền nhỏ vẫn còn ở ngoài tầm ảnh hưởng của Mắt-lợn-lòi.
Roran khiếp đảm nhìn những gì đang diễn ra chung quanh. Mấu chốt thiết yếu để thành công bây giờ là thời gian. Vì dù có muộn, nhưng với sự phối hợp của mái chèo và những cánh buồm, Cánh Rồng đủ thời gian để vượt qua Mắt-lợn-lòi không? Ba thuyền nhỏ kia có tăng cường mái chèo để rút ngắn khoảng cách và cũng sẽ cùng Cánh Rồng sống sót? Roran bồn chồn lắng nghe tiếng trống rộn ràng như đo thời gian từng phút. Anh giật thót người khi thấy một bàn tay níu thành giỏ lưới, rồi Baldor nhô đầu lên nói:
- Kéo mình lên với.
Roran nghiêng mình kéo Baldor lên. Vừa đưa cho Roran một cái bánh qui và một quả táo khô Baldor vừa nói:
- Cứ tưởng tượng đây là bữa cơm trưa đi. Cậu thấy Mắt-lợn-lòi chưa?
Roran ăn bánh, đưa ống nhòm cho Baldor.
Chứng nửa tiếng sau, cái đĩa bọt nước tăng độ xoáy, những vòng quay lên cao tới đỉnh. Mặt nước chung quanh vồng lên, đẩy đĩa bọt trắng khỏi tầm nhìn, lọt thỏm qua miệng hố khổng lồ, chui tọt xuống đáy biển. Hơi nước mù mịt như sương mù và từ hố sâu thăm thẳm như cái cuống họng đen ngòm của đại dương phát lên tiếng hú thê lương dài dằng dặc như tiếng một con sói bị thương.
Nhìn tốc lực khủng khiếp của Mắt-lợn-lòi, Roran hốt hoảng bảo Baldor:
- Cậu xuống cho Uthar hay ngay đi.
Leo qua giỏ lưới, Baldor căn dặn Roran:
- Buộc chặt mình vào cột buồm đi, coi chừng cậu bị rơi xuống biển đó.
Roran gật. Anh buộc thân trên vào cột buồm, để dễ dàng rút dao găm cắt dây ngay khi cần thiết.
Con tàu mới vượt vào vùng của Mắt-lợn-lòi khỏi một dặm. Phía sau, ba thuyền nhỏ còn cách xa Cánh Rồng hai dặm. Nhưng nguy hiểm hơn là, bị cản trở bởi cột nước xoáy, gió bỗng điên đảo đổi hướng, từ phía này sang phía kia rồi ngược lại. Mấy cánh buồm căng phồng, rũ xuống, lại căng lên.
Roran thầm nhủ: “Có lẽ Uthar có lý. Mình quá chủ quan. Không thể thắng một đối thủ bằng sự may mắn được. Đương đầu với sức mạnh của thiên nhiên như thế này, chắc mình đưa dân làng đến cái chết mất thôi!”
Lúc này, chu vi hố thẳm của Mắt-lợn-lòi chừng hơn chín dặm, còn chiều sâu của cái cuống họng khủng khiếp đó thì chỉ có kẻ xấu số lọt vào mới có thể biết được. Vách Mắt-lợn-lòi nghiêng vào bên trong bốn mươi lăm độ, tạo lên những đường xoắn ốc như đất sét ướt đang được nắn trên bàn nặn gốm. Tiếng hú càng lúc càng lớn hơn, Roran tưởng như cả thế giới sắp rụng rời thành từng mảnh. Từ vùng sương mù trên miệng hố quay cuồng đó, một cầu vồng rực rỡ chợt xuất hiện.
Lồng nước chảy xiết hơn, khi Cánh Rồng vòng sát mép vùng nước xoáy, mỗi lúc càng như kéo con tàu vào vực thẳm. Nhưng thật kỳ diệu, con tàu chỉ nghiêng sang phải, treo Roran lơ lửng trên mặt nước cuồn cuộn bên dưới.
Bất chấp tốc độ vượt bậc của Cánh Rồng, ba thuyền nhỏ vẫn không bỏ cuộc. Những mãi chèo của chúng vẫn hoàn hảo nhịp nhàng. Nhìn cảnh đó Roran không thể không thầm cảm phục.
Trong khi con nước xoáy càng dữ dội hơn, hơi nước trắng mịt mù phun ra từ miệng cuống họng khổng lồ, ba thuyền địch đã hiển hiện trước mắt thường. Không cần thiết tới ống nhòm nữa, Roran cất lại vào trong áo.
Cánh Rồng nương theo triền nước, Uthar cố gắng quay hướng tàu ra biển cả. Sống tàu rung lên, tốc độ chợt giảm một nửa khi Cánh Rồng ráng sức vùng ra khỏi nanh vuốt của Mắt-lợn-lòi. Cột buồm chao đảo làm Roran chóng mặt đến choáng váng.
Cắt vội dây quanh mình, Roran quăng mình vào thành giỏ lưới, nắm dây bên dưới, tụt xuống. Nhảy lên boong, anh chạy xuống, cầm mái chèo, nhập bọn ngay cùng nhóm của Baldor và Albriech.
Không ai nói một lời, gồng mình chèo trong tiếng trống thôi thúc, tiếng gào đến khản giọng của Bonden, tiếng gầm hú của Mắt-lợn-lòi và những tiếng thở dồn dập đầy tuyệt vọng. Roran cảm thấy rõ ràng sức cản của dòng nuớc xoáy khổng lồ chống cự lại với mỗi nhịp chèo.
Nhưng tất cả những nỗ lực đó cũng không ngăn được con tàu đứng khựng lại. Sự cố sức làm chân và lưng Roran rát bỏng. Xen lẫn trong tiếng trống, anh nghe tiếng Uthar bên trên gào thét ra lệnh xoay buồm, lợi dụng sức gió đang đổi hướng.
Darmmen và Hamind, ngồi trước Roran, buông mái chèo cho Thane và Ridley, rồi nằm dài trên lối đi, chân tay run rẩy. Chưa đầy một phút sau, Birgit và mấy người đàn bà phải cấp tốc thế chỗ cho những tay chèo bị ngất xỉu.
Roran nghĩ: “Nếu chúng ta sống sót được, là nhờ có nhiều người thay thế kịp thời.”
Thời gian như kéo dài vô tận trong không khí ngột ngạt đầy khói khi Roran phải triền miên đẩy và kéo mái chèo. Anh cố quên thân thể mỗi lúc càng thêm đau nhức, cổ mệt mỏi rã rời vì phải cúi gục dưới mái trần thấp lè tè, mái chèo đầm đìa máu trong hai bàn tay rách nát, Roran xé áo, bọc ngoài mái chèo trước khi chèo tiếp.
Sau cùng Roran cũng không thể gượng hơn được nữa. Chân mất cảm giác, người anh đổ nhào sang một bên và trượt dài trên sàn vì người ướt đẫm mồ hôi. Anh nằm im cho đến khi có thể thở lại bình thường, rồi chống tay bò tới cửa hầm.
Như người say rượu, Roran leo lên thang, thân hình lắc lư theo con tàu chao đảo rồi phải ngồi thụp xuống dựa tường thở dốc.
Lên boong, anh đứng hít thở không khí mát mẻ cho đầy buồng phổi, rồi loạng choạng đi về buồng lái.
- Sao rồi?
Đang điều khiển bánh lái, đáp lại câu hỏi của Roran, Uthar chỉ lắc đầu.
Nhìn ra ngoài, Roran thấy ba thuyền nhỏ cách khoảng chừng nửa dặm hơi chệch hướng về tây, gần trung tâm Mắt-lợn-lòi. Ba cánh buồm đen cũng đứng khựng lại như tàu Cánh Rồng.
Lúc đầu, khi Roran quan sát, dường như cả con tàu và ba thuyền nhỏ đều im lìm tại chỗ. Nhưng rồi anh cảm thấy Cánh Rồng bỗng rung động, như con tàu vừa vượt qua một trở ngại khó khăn và đã hồi phục sức lực. Tốc lực của nó tăng lên chừng chỉ vài mét mỗi phút, nhưng như vậy cũng đủ làm khoảng cách với thuyền địch nhiều hơn một chút. Với mỗi sải chèo, tốc lực Cánh Rồng lại tăng thêm.
Bên kia, ba cánh buồm đen không thể vượt qua sức mạnh khủng khiếp của dòng nước xoáy. Mái chèo của chúng chậm dần. Ba con thuyền bồng bềnh dạt ngược lại vào tấm màn mịt mù hơi nước – qua màn sương đó, bức tường nước xoay tròn đang chờ đợi, sẵn sàng cuốn chúng xuống đáy đại dương lởm chởm toàn đá.
“Họ không còn đủ sức chèo nữa. Tay chèo quá ít, quá mệt mỏi rồi.” Vừa nghĩ Roran vừa chạnh lòng thương những kẻ trên ba con thuyền nhỏ.
Ngay lúc đó, một mũi tên từ chiếc thuyền gần nhất, bay vèo lên Cánh Rồng. Chắc chắn mũi tên có sự hỗ trợ của phép thuật mới bay xa tới vậy. Mũi tên cắm phập lên cánh buồm định hướng, nổ tung ra những giọt lửa li ti. Những đốm lửa bám chặt vào bất cứ vật gì chúng chạm phải. Chỉ một thoáng, hai mươi vết cháy nhỏ loang trên thân cột, cánh buồm và cả trên mặt boong tàu.
Một thủy thủ hốt hoảng la lên:
- Làm sao dập tắt được.
Uthar gào lớn:
- Chặt bỏ những chỗ cháy, quăng xuống biển ngay.
Tháo đai lưng, Roran vừa dập vừa đạp chân lên những đốm lửa xanh, ngăn chặn ngay đám cháy không lan rộng thêm được nữa.
Ngay khi có tiếng reo: “Dẹp sạch rồi!”, Uthar nới lỏng hai tay đang xiết chặt bánh lái, thở phào:
- Nếu đây là phép thuật cao cường nhất của tên pháp sư này, thì chúng ta chẳng có gì phải sợ hắn nữa.
Roran sôi nổi hỏi cho niềm hy vọng thêm vững chắc:
- Chúng ta sẽ vượt được Mắt-lợn-lòi, phải không?
Uthar ưỡn ngực, thoáng nụ cười vừa kiêu hãnh vừa như không thể nào tin nổi:
- Cho tới khi thủy triều giảm hẳn, mới thật sự qua khỏi cái hố toang hoác kia, nhưng chúng ta gần tiến tới thành công rồi.
Roran chạy vội xuống thay ca chèo, và khi anh đổi ca, trở lên boong, dòng nước xoáy đang dịu dần. Tiếng hú ma quái giảm từ từ thành tiếng gió thổi bình thường, mặt nước phẳng lặng, không để lại chút vết tích của cơn cuồng nộ vừa qua; sương mù tan trong những tia nắng vàng ấm áp. Mắt-lợn-lòi hung hãn chỉ còn lại là một cái đĩa toàn bọt nước vàng nhẹ nhàng quay tròn trên mặt nước.
Và chính giữa đám bọt vàng kia, Roran nghĩ là đang nhìn thấy, lờ mờ hình bóng ba cánh buồm đen tan nát đang xoay vòng theo dòng nước xoáy mãi xoáy mãi xuống đại dương sâu thẳm. Nhưng có thể đó chỉ là hình ảnh trong trí tưởng tượng của anh.
Thím Elain lên boong, một cánh tay đặt trên bụng bầu to đùng, tiến lại bên Roran. Giọng thím nhẹ nhàng nhỏ nhẻ:
- Roran, chúng ta đã may mắn. May mắn hơn cả chúng ta hy vọng.
- Dạ, đúng vậy.


Bay tới thủ đô Aberon


Bên dưới Saphira, những cánh rừng trải mênh mông về bốn hướng chân trời. Én quạ và những loài chim của rừng già bay lượn, hốt hoảng kêu lên khi thấy Saphira. Ả rồng bay gần sát ngọn cây, để tránh cho Eragon và ông lùn Orik khỏi cái giá lạnh bắc cực trên độ cao đụng trời.
Ngoài lần chạy trốn Ra’zac vào núi Spine, đây là lần đầu tiên Saphira mới có dịp cùng ông anh Eragon thoả thuê bay bổng đường dài thăm thẳm mà không bị người đồng hành trên mặt đất làm phiền. Saphira đặc biệt thích thú chuyến đi này và không ngừng khoe nhờ sự hướng dẫn của rồng vàng Glaedr mà sự chịu đựng và sức lực của mình cải tiến rất nhiều.
Ông lùn Orik lên tiếng bảo Eragon:
- Tôi thì chẳng bao giờ có thể thấy thoải mái khi ở tít trên trời thế này nổi, nhưng tôi hiểu vì sao cậu và Saphira lại khoái bay đến vậy. Bay bổng làm người ta cảm thấy hoàn toàn tự do, cứ như con ó tung cánh săn mồi. Nhưng nó cứ làm tim tôi đập như đánh trống vậy.
Để bớt nhàm chán, ông lùn chơi trò ra câu đố với Saphira. Trò này Eragon đành rút lui, vì chưa bao giờ nó tỏ ra có biệt tài với những câu hỏi rắc rối này. Như hầu hết loài rồng, cô em rồng thì lại mê tít trò chơi câu đố.
Orik nói:
- Nhưng tôi chỉ biết những câu đố của người lùn thôi. Sẽ cố gắng dịch sao cho dễ hiểu một chút vậy. Đây, nghe nhé:
“Còn trẻ mình cao
Về già mình thấp
Cho đời anh sáng
Hơi thở của thần Urur
Chính là kẻ thù của mình”
Saphira phản đối: “Không công bằng. Tôi có biết gì tên mấy vị thần của ông đâu.”
Eragon không phải lập lại lời ả rồng, vì Orik đã đồng ý để Saphira truyền trực tiếp ý nghĩ vào tâm tưởng ông ta.
Orik ha hả cười:
- Chịu thua rồi sao?
“Không bao giờ.”
Trong mấy phút chỉ còn tiếng vỗ cánh của cô rồng, rồi nó vụt hỏi: “Cây nến! Đúng chưa?”
- Chính xác. Giỏi.
Ả khoái chí khịt mũi làm một làn khói đen bay ngược lên mặt ông lùn và Eragon: Mấy câu đố về đồ vật này khó thấy mồ. Từ khi ra khỏi trứng, tôi đã được vào trong một ngôi nhà bao giờ đâu. Nào, bây giờ nghe đây: Lá gì chữa bệnh đau đầu, cửu ngái đích thị là loài thuốc tiên. Là cây gì?
Đến lượt ông lùn giãy nảy lên:
- Không công bằng. Không phải ngôn ngữ của ta, làm sao ta biết cách chơi chữ kiểu này được?
“Ha ha! Cửu ngái đích thị là ngải cứu. Dễ ợt.”
Cứ vậy, Orik và Saphira vừa cãi nhau vừa đưa ra những câu đố càng lúc càng hóc hiểm trong khi Du Weldenvarden khuất dần phía sau. Khoảng trống của cành lá bên dưới đã để lộ ra nhiều dòng sông lấp lánh như bạc luồn lách trong rừng già. Chung quanh Saphira cuồn cuộn những đám mây tạo nên những hình dáng kỳ ảo: mái vòm uốn lượn, trụ cột vươn cao, lâu đài sừng sững… làm Eragon tưởng như đang bay bổng trong mơ.
Sâm sẩm tối, đã thấy những cánh đồng nâu đỏ, ngăn cách giữa rừng và sa mạc Hadarac. Saphira hạ xuống giữa bãi cỏ, rồi tất cả vây quanh một đống lửa nhỏ, chỉ thì thầm vài câu thực sự cần thiết. Vì giữa nơi trống trải này, âm thanh của lời nói rất dễ bị phát hiện.
Lợi dụng lúc này, Eragon nạp năng lượng vào viên hồng ngọc trên thanh Zar’roc. Viên ngọc tiếp nhận nội lực của cả Saphira khi nó truyền sang. Eragon cảm thấy phải cần cả mấy ngày mới nạp đầy năng lượng cho cả viên hồng ngọc và mười hai hạt kim cương trong chiếc đai lưng của Beloth Khôn-Ngoan.
Mệt mỏi vì việc chuyển nội lực sang viên ngọc, Eragon cuốn mền nằm xuống bên Saphira và chìm vào giấc ngủ tỉnh đầy những ảo ảnh hiển hiện trên nền trời đầy sao.

Sáng sớm hôm sau tất cả lại tiếp tục lên đường. Cỏ thưa thớt dần cho đến khi bên dưới, đất khô cằn trong nắng, chỉ lác đác vài cây cỏ đủ sức chịu đựng nổi vùng đất khắc nghiệt này. Những đụn cát đỏ xuất hiện. Từ trên Saphira, Eragon thấy những đụn cát như những dợn sóng trải dài vô tận.
Khi mặt trời sắp lặn, Eragon thấy một cụm núi xa xa về hướng đông và nó biết đó chính là Du Fells Nángoroth, nơi rồng kết bạn, nuôi con và chết dần mòn tại đó. Saphira nhìn theo ánh mắt Eragon, bảo: “Sẽ có ngày chúng mình phải tới thăm nơi đó.”
Đêm xuống, Eragon cảm thấy chung quanh còn cô quạnh hơn đêm trước, vì đang cắm trại trong một nơi hoang vu nhất sa mạc Hadarac. Không một chút hơi ẩm, môi nó nứt nẻ dù đã thoa sáp nalgask của thần tiên. Eragon nhận ra dưới đất gần như không có sự sống, chỉ vài loài cây rải rác, một ít côn trùng, vài con thằn lằn.
Khi Eragon lấy nước từ cát khô - giống như nó đã làm trong chuyến trốn khỏi Gil’ead qua sa mạc - để dự trữ trong mấy túi da, trước khi nước cạn kiệt, nó thu hình Nasuada để biết tình hình Varden. Eragon nhẹ lòng thấy chưa có gì xảy ra.

Ngày thứ ba kể từ khi rời khỏi Ellesméra, gió nổi mạnh từ phía sau, đẩy Saphira nhẹ nhàng tiến xa hơn trên suốt đoạn đường còn lại vượt qua sa mạc Hadarac.
Gần ra khỏi vùng đất hoang vu, Eragon thấy một đoàn du mục, trong những bộ áo trùm kín mít để tránh nóng, đang di chuyển trên mình ngựa. Họ vung gươm giáo về phía Saphira quát tháo rầm rầm, nhưng không ai dám bắn lên một mũi tên.
Eragon, Saphira và ông lùn Orik nghỉ đêm tại cuối rừng, là cực nam của cánh rừng Gỗ Bạc nằm bên hồ Tudosten. Mang tên rừng Gỗ Bạc, vì rừng này chỉ toàn là sồi, liễu, bạch dương. Trái ngược với ánh sáng lờ mờ dưới những cây thông ủ ê của Du Weldenvarden, rừng Gỗ Bạc tràn ngập ánh nắng rực rỡ, tiếng chim ca hót và tiếng lá xanh xào xạc. Eragon cảm thấy yêu thương cây cỏ mơn mởn đầy sức sống tại đây. Và dù không còn chút dấu vết nào của sa mạc, nhưng không khí ấm áp hơn thời tiết nơi khác trong cùng mùa này. Giống mùa hè hơn là đang xuân.

Từ rừng Gỗ Bạc, Eragon thu thập thông tin từ loài chim, hướng dẫn cho Saphira bay thẳng tới thủ đô Aberon của Surda. Suốt dọc đường, cô rồng phơi phới bay, không phải lẩn lút trốn tránh nữa. Từ những ngôi làng bên dưới thỉnh thoảng lại vang lên tiếng kêu la oai oái đầy kinh ngạc.
Xế chiều, Saphira đã bay tới Aberon, một thành phố được bao quanh bằng những bức tường thấp trên triền dốc thoai thoải giữa vùng đất phẳng phiu. Lâu đài Borromeo tọa lạc ngay trên đỉnh dốc. Lũy phòng thủ được bảo vệ bằng ba lớp tường kiên cố với nhiều tháp canh. Eragon còn nhận ra hàng trăm cỗ máy bắn đá dùng để bắn rồng. Nắng chiều vàng như màu hổ phách trải trên những ngôi nhà và làm rức sáng lớp bụi mù gây ra bởi toán lính cưỡi ngựa đang phóng vào cửa tây thành.
Khi Saphira bay là là xuống khu vực nội thành, Eragon nắm bắt hàng loạt tư tưởng lộn xộn của những người đang ở trong lâu đài. Lúc đầu những âm thanh hỗn độn tràn ngập tâm tưởng nó, không thể phân biệt bạn với thù; cho đến khi nó tập trung vào những tư tưởng riêng biệt. Những âm thanh rầm rầm dịu dần thành một chuỗi cảm xúc khác nhau của những người bên dưới.
Eragon bảo Saphira: “Thận trọng. Đừng để họ hiểu lầm mà tấn công chúng ta.”
Bụi đất mịt mù khi Saphira vỗ cánh hạ xuống giữa sân. Bầy ngựa hoảng hốt liên tục hí vang trời. Eragon phải xâm nhập vào tâm tưởng chúng, vỗ về bằng cổ ngữ.
Xuống khỏi lưng Saphira sau ông lùn Orik, Eragon nhìn đám lính đứng từng hàng sau rào phòng thủ và những cỗ máy bắn đá. Nó không sợ vũ khí, nhưng sợ xảy ra đụng độ đáng tiếc với đồng minh.
Một nhóm mười hai người, trong đó có mấy người lính chạy vội ra chỗ Saphira. Dẫn đầu là một người đàn ông cao lớn, nước da sậm như Nasuada – sau thủ lãnh Ajihad và con gái ông, đây là người thứ ba, Eragon thấy có màu da như thế. Đứng cách xa chừng mười bước, người đàn ông cao lớn, cùng nhóm người kia cúi đầu, lên tiếng:
- Xin chào kỵ sĩ, tôi là Dahwar, con trai của Kedar, tổng quản của đức vua Orrin.
Eragon cúi đầu đáp lễ:
- Xin chào. Tôi là Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần. Không là con của ai.
- Còn tôi, Orik, con trai của Thrifk.
Saphira nhờ Eragon nói lại: “Tôi, Saphira, con gái của Vervada.”
Dahwar lại cúi đầu:
- Tôi xin lỗi vì không có vị nào chức sắc cao hơn ra nghênh tiếp khách quý. Vì đức vua đã cùng công nương Nasuada và toàn thể quân cách mạng Varden lên đường từ lâu, để nghinh chiến quân của Galbatorix. Nhưng chúng tôi được lệnh, nếu quý vị tới, xin quý vị hãy lên đường ngay. Vì sự dũng cảm của quý vị là sự cần thiết cho chiến thắng của chúng ta.
Eragon hỏi:
- Quan tổng quản có thể hướng dẫn trên bản đồ để chúng tôi tìm quân ta hiện ở đâu không?
- Tất nhiên là được, thưa ngài. Trong khi tôi đi lấy bản đồ, xin quý vị vào trong dùng chút đồ giải khát.
- Chúng tôi không có nhiều thời gian đâu. Ngoài ra Saphira mới cần thấy bản đồ và nó không thể vào lọt trong nhà nổi.
Viên tổng quản nhìn thân hình đồ sộ của Saphira, gật đầu:
- Đúng vậy, thưa ngài. Tuy nhiên nếu quý vị cần gì xin cứ truyền dạy, để chúng tôi được phục vụ.
Lần đầu tiên Eragon mới nhận ra nó có quyền ra lệnh:
- Chúng tôi cần lương thực cho một tuần. Phần tôi, chỉ cần rau, bột, bánh mì là đủ. Xin lấy đầy mấy túi da đừng nước luôn thể.
Eragon ngạc nhiên thấy viên tổng quản không hề thắc mắc chuyện nó không ăn thịt. Sau đó, Orik yêu cầu thêm mấy món như thịt bò, thịt heo muối…
Dahwar búng tay ra lệnh hai thị vệ vào lấy lương thực. Rồi trong khi chờ đợi, viên tổng quản e dè hỏi:
- Thưa… kỵ sĩ đã tới đây, vậy thì… theo tôi đoán, chắc việc huấn luyện của ngài đã hoàn tất?
- Cho tới chết việc học tập của tôi cũng không thể hoàn tất được.
- Tôi hiểu. Xin tha tội tò mò, vì quá ngu dốt những hiểu biết về kỵ sĩ rồng, tôi mạn phép hỏi, ngài có phải là thần tiên không? Nghe nói… trước kia ngài là người?
Ông lùn Orik lên tiếng:
- Đúng, kỵ sĩ đây là người, nhưng đã thay đổi. Quan tổng quản nên mừng vì điều đó, nếu không thì tình trạng của chúng ta còn khó khăn hơn gấp bội lần.
Dù viên tổng quản đủ khôn ngoan không gặng hỏi thêm, nhưng Eragon đoán lão ta đã được lót tay hậu hĩ để moi tin tức về nó và Saphira cho các quan trong triều của vua Orrin.
Hai thị vệ đem nước, lương thực và bản đồ ra. Theo lệnh Eragon, hai thị vệ đặt tất cả bên Saphira, rồi chạy vội về sau lưng Dahwar, mặt tái mét vì quá sợ hãi. Quì xuống đất, viên tổng quản trải tấm bản đồ Surda và những vùng lân cận, vạch một đường theo hướng tây bắc từ Aberon tới Cithrí:
- Lần sau cùng tôi được biết, Đức vua Orrin và công nương Nasuada ngừng lại đây để nhận lương thực cho ngựa. Thật ra đó không phải là lý do chính, nhưng vì quân đế quốc đang tiến về nam, dọc theo sống Jiet và quân ta có ý đón đầu chúng tại đây. Có thể quân Varden đang rải khắp nơi từ Cithrí tới sông Jiet. Đó là theo ngụ ý của tôi. Nhưng tôi có thể nói, chắc chắn quí vị sẽ tìm gặp họ tại Cánh-đồng-cháy.
- Cánh-đồng-cháy?
- Vậy chắc quí vị biết nó với tên cổ, vì thần tiên gọi nơi đó là Du Vollar Eldrvarya.
- À, phải, tôi nhớ rồi.
Eragon đã biết đến tên này qua những cuốn sử của sư phụ. Đó là cánh đồng chứa toàn than bùn, nằm dọc bờ đông sông Jiet, biên giới Surda và cũng là nơi từng xảy ra một trận đánh nhỏ giữa các kỵ sĩ và tên phản đồ. Trong trận này, những con rồng đã vô ý phun lửa làm cháy than bùn. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng đất cho tới bây giờ. Những làn khí độc hại phun lên từ những lỗ nứt nẻ và vùng đất này trở thành khô cằn, hoang phế, không người ở.
Eragon chợt lạnh người, nhớ lại hình ảnh những cảnh báo trước: hai đạo quân quần thảo trên cánh đồng vàng rực, trong tiếng rít của những mũi tên đen và tiếng rú thảm thiết của những con người sũng trong vũng máu. Nó rùng mình nói với Saphira: “Định mệnh đang tập trung vào chúng ta. Em nhớ hết những gì trên bản đồ rồi chứ?”
“Rồi.”
Cùng ông lùn Orik trở lên lưng rồng, Eragon vừa cám ơn viên tổng quản xong, chợt nhíu mày vì tâm tưởng nó chợt thu được một mối xung đột bất hảo:
- Quan tổng quản, hai mã phu đang to tiếng với nhau. Một người tên là Tathal sắp gây án mạng. Ông cho người tới can ngăn còn kịp.
Dahwar tròn mắt kinh ngạc, thậm chí ông lùn cũng quay lại nhìn Eragon. Viên tổng quản lắp bắp:
- Vì… vì… vì sao Khắc-tinh của Tà-thần lại biết vụ này?
- Vì… tôi là kỵ sĩ rồng.
Saphira xoãi cánh. Tất cả mọi người trong sân vội chạy tìm chỗ núp cơn gió mạnh khi cô rồng vỗ cánh bay vút lên không.
Khi lâu đài Borromeo gần khuất hẳn phía sau, Orik hỏi:
- Eragon, cậu nghe được ý nghĩ của tôi không?
- Ông muốn tôi thử không? Vì ông biết đó, tôi chưa thử đọc tư tưởng ông bao giờ.
- Thử đi.
Eragon nhíu mày, ráng tập trung vào tiềm thức ông lùn, nhưng nó ngạc nhiên phát hiện tâm tưởng ông được bao phủ bằng một hàng rào tinh thần vững chãi. Nó có thể thấy sự hiện diện của Orik, nhưng không thể biết tư tưởng và cảm xúc của ông ta.
- Không thấy gì.
- Tốt. Tôi muốn biết chắc mình vẫn chưa quên bài học cũ.
Orik tủm tỉm cười, nói. Sau đó tất cả im lặng, ráng sức bay trong màn đêm đen kịt, không một dấu hiệu, không một đốm lửa. Cho đến khi mặt trời lên, Saphira mới hạ cánh xuống bờ một hồ nhỏ, để Eragon và ông lùn Orik vung vẩy chân tay cho thoải mái rồi ăn sáng.
Ngay khi Saphira vừa cất cánh bay lại, chân trời trước mặt bỗng xuất hiện một đám mây đen kéo dài như một vệt bẩn lem nhem trên nền giấy trắng. Saphira càng bay tới gần, đám mây càng lớn hơn, cho tới gần trưa thì đám mây đã phủ lên toàn thể đất đai bên dưới một tấm khăn liệm bằng hơi khói nồng nặc mùi khét lẹt.
Đã tới Cánh-đồng-cháy của đế quốc Alagaesia.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn