Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

 
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Prev Previous Post   Next Post Next
  #11  
Old 05-20-2004, 05:22 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Theo ông, những người cộng sản Việt nam có tương lai hay không?

Câu hỏi này phải trả lời tùy theo từng đối tượng. Nếu là những người cộng sản bảo thủ thì chắc chắn họ không thể có tương lai. Còn nếu người cộng sản nào thực sự cố tư duy tiến bộ, linh hoạt và có tấm lòng yêu nước thương dân thật sự, tôi nghĩ họ sẽ có tương lai tốt đẹp. Nhìn ra thế giới, có nhiều đảng cộng sản đã cải tổ lại sau khi Liên xô sụp đổ. Họ đã rút ra được bài học là thứ chủ nghĩa cộng sản giáo điều gia trưởng kiểu Sta-lin không phải là một chủ nghĩa tốt đẹp có hứa hẹn. Đó là một kiểu chủ nghĩa phát-xít, sớm muộn sẽ làm mất lòng dán, kết cục sẽ bị tan vỡ, sụp đổ. Ngay từ những tội ác, sai lầm mà nó phạm phải từ bên trong đã làm cho chủ nghĩa cộng sản ở Liên xô, CHDC Đức, Rumani sụp đổ tan tành. Những người cộng sản mới đã cải tổ tổ chức của họ, có đảng cộng sản cũ đổi tên thành đảng Xã hội, đảng Dân chủ, đảng Dân tộc... Đặc biệt, có những đảng cộng sản vẫn giữ tên như đảng cộng sản Pháp, nhưng họ đã thực sự từ bỏ những gì lạc hậu, bảo thủ như quan điểm "chuyên chính vô sản", nguyên tắc "dân chủ tập trung", học thuyết "đấu tranh giai cấp"... vốn là những nền tảng của học thuyết Mác, do đó họ trở thành những đảng tân tiến. Chỉ sau một thời gian khó khăn, họ đã nhanh :Dng khôi phục được uy tín của mình. Như đảng cộng sản Pháp trước kia ở thời Tô-rê, Đuy-clô (Duclos) nhất nhất theo gậy chỉ huy của Mát-xcơ-va, vừa rồi đã phải từ bỏ học thuyết chuyên chính vô sản, từ bỏ hình búa liềm, quan điểm "dân chủ tập trung và có quan điểm linh hoạt hơn trong đấu tranh xã hội. Đến nay đảng cộng sản Pháp đã khôi phục được tín nhiệm. Đảng cộng sản ý đến nay vẫn có vai trò trong quốc hội, thậm chí có lúc có vai trò quan trọng vì ở giữa hai chính đảng tư sản lớn thế và lực gần như ngang nhau, đảng cộng sản liên minh với phía nào thì phía ấy sẽ có sức nặng áp đảo Do đó, vị trí của đảng cộng sản ý cũng được tăng lên. Một số đảng cộng sản ở Đông Âu cũng vậy. Có một thời đảng cộng sản Bungari có thể quay lại chính trường, tuy lúc ở thế mạnh, lúc ở thế yếu, nhưng đều tham gia sinh hoạt chính trị trong xã hội một cách bình thường. Gần đây, đảng cộng sản U-krai-na sau khi cải tổ, lột xác đã lập chính phủ.

Tôi nghĩ, những người cộng sản Việt nam thấy được điều đó. Anh chỉ có thể có vị trí nếu anh thật sự đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị, từ bỏ những học thuyết giáo điều như "chuyên chính vô sản", "đấu tranh giai cấp", tiếp thu những trào lưu tư tưởng tiến bộ và quan trọng nhất là quay trở về với dân tộc. Anh có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện nay ở châu Âu đa số cánh tả thuộc về đảng xã hội, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, một kiểu chủ nghĩa xã hội hoàn toàn khác với chủ nghĩa xã hội mà đảng cộng sản Việt nam quan niệm. Những người lãnh đạo đảng cộng sản cần hiểu rằng, nếu cố giữ quan điểm độc đảng, thì họ sẽ không có tương lai. Phải thực hiện chế độ đa đảng, chấp nhận đa đảng, thi đua với nhau thì mới vươn lên được. Lúc này đảng cộng sản phải tự lựa chọn: theo dân tộc hay theo riêng mình. Theo dân tộc để đổi mới thật sự không vì đặc quyền đặc lợi riêng của đảng mình, phải đi vào con đường đa nguyên. Như vậy mới có thể tự đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và nhân dân mới góp phần xây dựng cho đảng trong sạch, chống được tham nhũng. Đây là một lựa chọn hết sức khó khăn, phải từ bỏ những quyền lợi riêng tư, ích kỷ để gia nhập vào cộng đồng dân tộc, chấp nhận các tổ chức và đảng phái chính trị khác để hình thành thế lực đối lập xây dựng. Trong xã hội nếu không có đối lập xây dựng, kiểu một mình một cỗ, thì đảng cầm quyền rất dễ trở nên thoái hóa, phạm pháp do tham nhũng không ai có thể kiềm chế được. Đảng cộng sản chỉ có thể có tương lai, với điều kiện như thế. Nếu không chịu mở cửa về chính trị, không chấp nhận tự do báo chí, thì sẽ tự đặt mình vào thế bế tắc, từ chỗ bế tấc có thể bùng nổ những hỗn loạn xã hội không kiểm soát được. Lúc ấy sẽ là tai họa cho toàn thể xã hội.

Ông có thể dự đoán diễn biến ở Việt nam trong tương lai sẽ như thế nào? Chế độ hiện nay sẽ đi đến đâu?

Hiện nay, những người lãnh đạo bảo thủ mở cửa kha khá về kinh tế nhưng lại cố khép chặt về chính trị. Có khóa chặt về chính trị thì họ mới chịu hé mở về kinh tế, vì họ sợ bị mất quyền. Tình hình như thế này đã dẫn họ đến một số kết quả về kinh tế trong mười năm, đặc biệt là trong bốn, năm năm nay, tốc độ phát triển khá, nhưng tình hình chính trị lại bế tắc. Cũng có nhích lên đôi chút như có thảo luận dân chủ trong quốc hội, quốc hội có bác một đề nghị của chính phủ đề bạt bộ trưởng bộ Giao thông và bác một đề nghị của thủ tướng chính phủ về việc tái cử thống đốc Ngân hàng, buộc chính phủ phải đề cử người khác. Có phê phán sự bất lực của chính phủ trong việc chống tham nhũng trong các kì họp quốc hội. Nhung mặt khác, không khí xã hội vẫn còn nghẹt thở, tức là không cho người dân được tự do ăn nói, cấm kị người làm báo trong nước không được viết, trả lời phỏng vấn cho báo chí nước ngoài. Nếu gửi bài cho nước ngoài phải được kiểm duyệt trước. Cấm các báo chí nước ngoài ở trong nước được dùng những người Việt nam theo họ lựa chọn, buộc phải dùng những người phiên dịch, cộng tác do cơ quan an ninh, cơ quan ngoại giao cử đến cho họ.

Tất cả những dự trữ phát triển trong mấy năm qua đã đến lúc cạn kiệt. Đầu tư nước ngoài bắt đầu chững lại, không còn tăng nhiều như trước nữa. Các khách sạn trong nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thừa, từ chỗ trước kia tính toán rằng sẽ đông người vào thăm, nhiều khách lo sẽ bị thiếu khách sạn. Hiện nay trung bình chỉ có ba, bốn chục phần trăm số phòng có khách thường xuyên. Nhất là tình trạng khủng hoảng về tài chính, đồng tiền bị giảm giá. Khủng hoảng tài chính ở Thái Lan, In-đô-nê-xi-a đã tác động đến nền tài chính vốn hết sức ọp ẹp của Việt nam. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước Việt nam có nguy cơ phá sản, những người vay, phần lớn là cơ sở quốc doanh, đến hạn đòi lại, thì không có ai trả. Số tiền này lên tới cả tỉ đô-la.

Đáng nói nhất phải kể đến bất mãn của nông dân trước tình trạng bất công xã hội gia tăng trong mấy năm nay. Vi phạm quyền làm chủ đất đai, bắt dân đóng góp quá nhiều, từ 4 loại thuế lên đến 24 loại thuế đóng góp tiền bạc để xây dựng nhà trường, các trạm xá, đường giao thông liên xã liên huyện v.v.. những biểu hiện khuất tất, tham nhũng trong quản lý các khoản do dân đóng góp, chi tiêu ngân sách của xã lên tới tiền tỉ nhưng không có giấy tờ minh bạch, nên dân bất mãn. Chỉ cần làm cán bộ xã huyện hay tỉnh một, hai năm là nhà cao cửa rộng, khác hẳn với cuộc sống bình thường của nhân dân. Các cơ quan tài chính của cấp thành ủy, tỉnh ủy bây giờ tranh thủ làm ăn một cách kinh khủng, trên đà đó vơ vét tài sản của quốc gia vào túi riêng của các nhà lãnh đạo đảng ở địa phương. Chính những tham nhũng đó làm cho quần chúng bất mãn, bất công tạo nên nỗi uất ức và là thuốc nổ rất nguy hiểm trong xã hội. Đảng phải thực hiện đúng pháp luật, không bênh riêng ai, lúc ấy mới có thể trị được bọn quan lại tham ô, dù chúng ở bất cứ cấp nào, Trung ương hay Bộ Chính trị, thì lòng dân mới yên. Đảng cộng sản đang đứng trước một thử thách lớn là như thế. Hoặc nếu không, sẽ có nguy cơ bùng nổ xã hội và dẫn đến rối loạn. Như vừa rồi ở Thái Bình, báo Nhân dân phải công nhận là có những diễn biến phức tạp ở 128 xã. Chúng ta biết, sự việc xảy ra ở 5 hay 10 xã đã là lớn, mà đây lại cùng một lúc ở hơn 100 xã, gấp đôi địa bàn của một tỉnh trung bình. Bây giờ lại được biết ở cả Hưng Yên, Hải Dương, Sơn Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc ninh và ở cả đồng bằng sông Cửu Long đều như thế cả. Nhận thấy sự bất mãn của nông dân lan ra rộng lớn ở nông thôn có thể mang lại sự bất ổn về chính trị, nên ông Nguyễn Văn Linh, ông Phạm Văn Đồng đều đề nghị trên báo chí là phải mở rộng dân chủ. Đó là một bài học cho đảng lãnh đạo. Nói là xây dựng pháp luật mà không có Nhà nước pháp luật thực sự, nói là dân chủ mà không thực hiện dân chủ thực sự, nói là có công bằng xã hội mà không có công bằng xã hội thực sự. Người dân nghe thấy đảng nói khắp nơi là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhưng nhìn ra xung quanh thì nhà to, đất tốt là thuộc về cấp ủy, ô tô sang trọng cũng vậy. Thanh niên ăn chơi phè phỡn, con ông, cháu cha là con các ông ủy viên Trung ương, bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, huyện ủy ném tiền qua cửa sổ v.v... Cho nên, cái đó làm dân ngứa mắt, không thể nào chịu dược. Họ phản ứng gần như nổi loạn, đốt phá trụ sở xã, phá hủy giấy tờ, đốt nhà, đánh đập cán bộ, có những chủ tịch huyện bị thương nặng...

Đối với chủ trương xây dựng nền kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt nam, ông có ý kiến như thế nào?

Quan điểm của tôi là nên gác vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội sang một bên. Những người lãnh đạo trong nước không nên bảo thủ, vì bây giờ ở Việt nam còn có yếu tố nào là chủ nghĩa xã hội đâu Trước đây trong chiến tranh, đặc trưng nổi bật nhất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở miền Bắc là chế độ giáo dục miễn phí từ mẫu giáo đến đại học, tạo nên nền giáo dục phổ biến, rộng rãi và tương đối có chất lượng. Thứ hai là chế độ chữa bệnh không mất tiền từ nông thôn đến thành thị, vì lúc ấy khá nhiều thuốc men do quốc tế giúp đỡ, việc chữa bệnh và phòng ngừa các bệnh dịch tả, kiết lị, sốt rét... có hiệu quả và kịp thời. ốm đau, mổ xẻ, điều trị, chữa bệnh, nằm viện không phải trả tiền, tuy còn thiếu thốn nhưng nhìn chung là tốt. Hiện nay hai thành tựu đó không còn. Mọi vấn đề giáo dục, đào tạo đều phải trả tiền, hàng triệu trẻ không có điều kiện đến trường, chất lượng giáo dục giảm sút, thầy cô giáo bỏ nghề, hàng năm trong cả nước thiếu hàng chục ngàn giáo viên ở các cấp. Việc khám, chữa bệnh ngày một khó khăn vì phải trả tiền, rất nhiều tiền. Công việc xét nghiệm, mổ xẻ phải chi phí rất tốn kém là tai họa cho các gia đình nghèo khó. Mặc dù khu vực quốc doanh còn nhiều, ngay cả các nước tư bản cũng có khu vực quốc doanh như vận tải đường biển, hàng không, bưu điện, luyện kim..., chứ không riêng gì xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ vẫn mang danh "xã hội chủ nghĩa" là không đúng với thực tế, đôi khi mỉa mai, vì một đất nước tình trạng thất nghiệp lên đến bảy triệu người (thậm chí mười hai triệu kể cả nông thôn). Đã thế lại chưa có phụ cấp thất nghiệp. Những người về hưu được nhận một khoản phụ cấp ít ỏi, mang tính tượng trưng. Trợ cấp cho những đối tượng đặc biệt như thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ chỉ tương đương mấy chục cân gạo. Thật ra, ở các nước tư bản, thành tựu mang tính xã hội, phúc lợi xã hội của họ cao hơn ở những nước mang danh "xã hội chủ nghĩa" rất nhiều. Không nên giữ cái tên "xã hội chủ nghĩa" để giữ sĩ diện. Gần đây, giáo sư Tôn Thất Thiện ở Canada viết báo nói rằng muốn nhìn thấy chủ nghĩa xã hội thì hãy đến Canada mà xem, chứ không phải ở Cuba. Đó là một sự thật. ở Việt nam hiện tại cũng chẳng thấy chủ nghĩa xã hội ở đâu cả!

Cần phải xây dựng thực sự một nền kinh tế thị trường, tôn trọng sở hữu tư nhân. Chính do sự chắp vá tư bản không ra tư bản, xã hội chủ nghĩa không ra xã hội chủ nghĩa mà nhà sử học Ga-bri-en Côn-cô (Gabriel Kolko) đã nhận xét: "Nó là chế độ tư bản rừng rú (savage capitalism), không có sự tôn trọng luật lệ. Vì không tôn trọng luật, nên nó đẻ ra vô vàn mặt trái xấu xí". Ông ta vạch rõ: "Đó là sự cưỡng hôn giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Kết quả là đẻ ra một đứa con quái thai, nó không phát huy được những nét đẹp của cha hay của mẹ, mà chỉ giữ lại những gì khó coi nhất của người cha cộng với cái xấu xí nhất của người mẹ". Ông giải thích: chủ nghĩa tư bản xấu ở chỗ nó cạnh tranh không khoan nhượng, cá lớn nuốt cá bé, cơ sở yếu thế sẽ bị phá sản. Nhưng mặt tốt là có luật pháp công minh dựa trên ba quyền phân lập và cạnh tranh bằng tài năng, chứ không phái bằng quyền lực". Trong chế độ tư bản, hoạt động tổ chức bộ máy nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, không phải người làm luật, người xét xử và người thi hành luật đều bị điều khiển, khống chế từ một nhóm lãnh đạo đảng và nhà nước. Nếu hoạt động của bộ máy quyền lực của nhà nước được kiểm soát chặt chẽ, thì sẽ hạn chế được tình trạng mất cân bằng, sai lầm, phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.

Hiện nay ở Việt nam hình thành một xã hội không tôn trọng luật pháp, cạnh tranh man dại dựa trên quyền lực không dựa theo tài năng và qui luật mà dựa vào thần thế. Điều xấu xa nhất của cái gọi là "chủ nghĩa xã hội hiện thực" tồn tại trong mấy chục năm qua là sự độc đoán, thiếu dân chủ lại đang gia tăng do đảng lộng hành, đứng trên nhà nước. Vì vậy, ông Côn-cô nói: "Chưa bao giờ tình hình Việt nam lại nguy hiểm như hiện nay. Tuy có một bước phát triển nào đó nhưng chứa đầy những mầm mống của sự hỗn loạn, mất ổn định!" Trong khi đó, những người lãnh đạo trong nước luôn khẳng định có sự ổn định, nhưng thực chất là mất ổn định tận gốc, do độc đoán mà sinh ra. Lòng dân không yên do những bất công ngày càng đè nặng, làm cho xã hội đảo điên, tạo nên một kỷ lục tệ nạn xã hội, tội ác, trộm cắp, cướp của, giết người, chiếm đoạt tiền của đất nước, sự phá sản của những cơ sở tư nhân, công ty, ngân hàng, quỹ tín dụng... Hiện tượng phổ biến là biển thủ, chia chác tài sản của quốc gia, hợp thức hóa thành tài sản riêng, chỉ cần có tiền hối lộ là có được các loại giấy tờ có dấu, chữ kí hợp lệ, từ giấy khai sinh, đăng ký kết hôn, giấy ly hôn cho đến hộ chiếu, bằng cấp... Có thể nói tình hình không phải chỉ ở mức rạn nứt, mà nó đang ở thời kì tan rã, nếu không kịp thời chấn chỉnh, xây dựng một xã hội lành mạnh và luật pháp hóa.

Ông thấy trong thời gian qua "đổi mới" đã đạt được kết quả như thế nào ở trong nước?

Từ năm 1986, tức là từ Đại hội đảng cộng sản Việt nam lần thứ 6 cho đến nay, qua hơn mười năm là thời kì thứ nhất của "đổi mới", "mở cửa", thành tựu đạt được trong thời kì này tương đối khá, vì những nguyên nhân khách quan, như xuất phát điểm của nền kinh tế Việt nam rất thấp, từ chế độ bao cấp trì trệ kéo dài nay trả lại cho nhân dán quyền tự do kinh doanh, tạo ra bước phát triển kinh tế năng động, thu nhập tăng lên. Phát triển về công nghiệp đáng kể, về nông nghiệp cũng vậy, xuất khẩu mỗi năm hơn 2 hay 3 triệu tấn gạo, phát triển về dịch vụ khá mạnh. Không khí sôi động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xây dựng, đi lại... và nói chung là "dễ thở" hơn ở cả nông thôn lẫn thành thị. Mức độ lạm phát trước kia từ vài trăm phần trăm trong năm, hiện nay đã chững lại và tương đối ổn định (chỉ còn khoảng 10%). Lượng người du lịch, hoặc làm ăn buôn bán vào Việt nam trên một triệu lượt mỗi năm, kéo theo việc xây dựng khách sạn, phục vụ ăn uống, giải trí, đi lại... có hiệu quả hơn so với trước đây.

Nhưng sau hơn mười năm "đổi mới", vào đầu năm 1998, khi bàn giao giữa những người lãnh đạo nhà nước mới và cũ, đất nước ở vào thời kì hết sức hệ trọng, nguồn dự trữ đảm bảo cho sự tăng trưởng mạnh mẽ đã cạn. Đồng thời đã có dấu hiệu đáng lo ngại hơn trước, đó là nguồn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam từ hai năm nay đã chững lại và đang có xu hướng giảm đi. Do đó, cán cân thanh toán xuất-nhập khẩu mất thăng bằng lớn. Trong năm 1996, số nhập cao hơn xuất lên tới bơn tỉ USD, đặt đất nước trước một khoản nợ rất lớn. Món nợ cũ lưu cữu như nợ mười tỉ USD đối với nước Nga, cộng thêm nợ mới hiện chưa thống kê ước khoảng hơn một chục tỷ USD nữa. Ngoài khoản vay mượn dài hạn hoặc lãi suất thấp, cái đáng lo là khoản vay mượn với lãi suất bình thường và đã đến hạn phải trả đang là một gánh nặng nan giải. Điều đáng lo ngại hơn nữa là thị trường chứng khoán chưa xây dựng xong và toàn bộ hệ thống ngân hàng, cả những ngân hàng lớn của nhà nước đang đến độ ngấp nghé phá sản, các cơ sở quốc doanh được "phóng tay" vay vô tội vạ đến nay không có khả năng chi trả do thua lỗ. Khoản nợ của các ngân hàng không có khả năng thu hồi là rất lớn, cần có sự chi viện của nước ngoài mới có thể phục hồi được. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đang lan ra sâu rộng ở các nước Đông Nam á, bắt đầu từ Thái Lan qua In-dô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, dội đến Hồng Kông... là sự kiện đáng lo ngại cho Việt nam.

Nhìn lại có thể thấy "đổi mới" trong mười năm qua có những kết quả nhất định, nhưng mới chỉ đạt ở mức phát triển với tốc độ khiêm tốn, nghĩa là còn chậm so với yêu cầu thực tế đòi hỏi đối với Việt nam, là một nước vốn còn lạc hậu trong khu vực. Những nhà nghiên cứu xã hội châu á của Thụy Điển đã viết trong một cuốn sách tổng kết: "đổi mới" của Việt nam như "một con hổ cưỡi xe đạp", không có tốc độ nhanh mạnh mà hết sức ì ạch vì tính chất bảo thủ. Cuốn sách phê phán Việt nam đã để phí mất thời gian quý nhất là từ năm 1975 đến năm 1985, mười năm sau khi giành thắng lợi lớn đã đi vào một thời gian khủng hoảng nặng nề, buộc phải đổi mới nhưng lại thực hiện đổi mới nửa vời một cách chập chững. Đây là điều đáng ân hận vì những người lãnh đạo bảo thủ đã phạm sai lầm nghiêm trọng từ năm 1975 đến nay đối với dân tộc, làm cho đất nước mất những cơ hội quý báu, mất đi cái đà phát triển trong thời gian dài.

Trong bối cảnh như vậy, những người lãnh đạo nhà nước mới thay thế bắt buộc phải sớm có những quyết định, dứt khoát bước vào thời kì đổi mới thứ hai. Bà ngoại trưởng Hoa Kỳ On-brai cũng khuyến khích Việt nam nên "bước mạnh hơn nữa vào giai đoạn 2 của đổi mới". Lần đổi mới này, trước hết cần giải quyết gánh nặng của 6 ngàn cơ sở quốc doanh, trong đó chỉ có khoảng 17% cơ sở hoạt động còn có lãi, số còn lại bị lỗ phải cổ phần hóa, tư nhân hóa mới có thể cứu vãn được tình hình. Muốn vậy phải có những bước đi kiên quyết để cổ phần hóa các cơ sở quốc doanh ấy, nhưng việc này làm rất chậm chạp vì đụng phải ý định quyết giữ bằng được 60% giá trị sản lượng trong khu vực quốc doanh. Nếu vẫn muốn giữ những cơ sở quốc doanh làm thành phần kinh tế chủ đạo như nghị quyết Đại hội đảng 8 nêu ra một cách hình thức, thì đó sẽ là một gánh nặng ví như một khối u ác tính, nếu không cắt đi sẽ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế.

Thứ hai là cần phải sớm bắt tay cải tạo gấp hệ thống ngân hàng hiện nay theo hướng hoạt động lành mạnh, chính quy và thực hiện đúng luật. Muốn như vậy phải xây dựng một đội ngũ nhân viên, một lề lối làm việc và một nền tài chính minh bạch. Chỉ có thể giải quyết tốt hệ thống ngân hàng mới có thể tạo điều kiện huy động vốn của tư nhân mà có người đánh giá hiện nay số tiền đó vào khoảng sáu tỷ USD.

Số tiền này được cất giấu dưới dạng vàng, kim cương, ngoại tệ mạnh phân tán, chôn giấu trong nhà. Cần huy động được tất cả số vốn "nhàn rỗi" đó vào hoạt động sản xuất, kinh doanh vì ích lợi chung. Kinh nghiệm từ những nước phát triển trong khu vực cho thấy, kinh tế phát triển thuận lợi nếu tư nhân mạnh dạn hùn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, buôn bán lành mạnh.

Thứ ba là phải xây dựng được một chế độ pháp luật. Hiện nay đã có "Nhà pháp luật" ở Hà Nội, nhưng vẫn chưa xây dựng pháp luật đầy đủ. Quan trọng hơn cả là thực hiện pháp luật không nghiêm. Hiện nay đã cồ hàng chục ngàn người phạm pháp, đã bị tòa án xét xử, nhưng vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, do có thế lực, có tiền hối lộ. Còn những người có công, đáng được trọng dụng, nhưng vì có những ý kiến bất đồng với chủ trương đường lối hiện nay của giới lãnh đạo, thì bị đưa vào tù. Đảng cộng sản vẫn còn đứng trên luật pháp, đứng ngoài luật pháp. Từ đó bộ phận kinh doanh của đảng, gọi là "ban kinh tài" cũng đứng ngoài pháp luật, thả sức lũng đoạn nền kinh tế, là một chủ bất động sản, chủ các ngân khoản tín dụng ngoại tệ, đứng ngoài vòng pháp luật làm giàu bất hợp pháp cho đảng cộng sản.

Thứ tư là phải thực sự công nhận quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh của tư nhân, bình đẳng với các loại hình kinh tế khác. Không được cói thành phần kinh tế tư nhân là "con ghẻ" mà hắt hủi, vùi dập nó, trong khi coi thành phần kinh tế quốc doanh là "con đẻ", được nâng đỡ, ưu tiên. Giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế trong xã hội không được dựa trên tính toán chủ quan, cảm tính, mà phải dựa trên cơ sở luật pháp nghiêm minh. Muốn vậy điều cực kì quan trọng là phải đẩy lùi tệ nạn tham nhũng. Trong mấy chục năm qua, nhà nước càng hô hào chống tham nhũng bao nhiêu thì tham nhũng càng nảy nở bấy nhiêu. Đỉnh cao là vụ buôn ma túy xuyên quốc gia mà kẻ tham nhũng lại chính là những người phụ trách việc chống buôn lậu ma túy trong ngành công an. Bài toán chống tham nhũng có điểm mấu chốt cần giải quyết là nó ở ngay chính nơi quyền lực cao nhất của nhà nước. Muốn giải được bài toán ấy phải khui từ đầu não cao nhất. Chống tham nhũng hiện nay mới chỉ đánh từ vai trở xuống, còn từ vai trở lên thì tránh né. Chẳng hạn như đụng đến Nguyễn Hà Phan[29] là thôi, không dám xử tiếp trong vụ Tamexco-Phạm Huy Phước[30], trong vụ buôn lậu ma túy xuyên quốc gia "Xiêng Phênh-Vũ Xuân Trường"[31] chỉ mới đụng đến cấp thượng tá[32] công an thì dừng lại.

Một điều hỗ trợ đắc lực cho việc chống tham nhũng là tự do báo chí. Hệ thống báo chí của nhà nước, bị nhà nước kiểm duyệt thì không thể đảm nhiệm được vai trò này. Cho nên cần có luật báo chí rõ ràng và tôn trọng tự do báo chí cũng như chấp nhận báo chí tư nhân. Báo chí được tự do hoạt động trong khuôn khổ luật báo chí và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chỉ có như vậy mới làm cho tình hình ổn định, chống được tham nhũng, nền kinh tế đất nước mới phát triển được.

Người ta thường nói báo chí cùng với các cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp, tạo thành "tứ quyền" trong xã hội dân chủ, có khả năng chống tham nhũng và xây dựng công bằng trong xã hội. "Tứ quyền" ấy hiện nay ở Việt nam còn thiếu và chưa thực hiện quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận để tạo nên sức mạnh dư luận xã hội. Trong một nước dân chủ, dư luận xã hội rất quan trọng. ở Việt nam cần sớm thực hiện việc điều tra dư luận, theo dõi dư luận một cách công khai, minh bạch.

Thiếu công khai, minh bạch phải chăng theo ông là lỗ hổng, là thiếu sót lớn của chế độ hiện nay?

Đó là một lỗ hổng, lỗ hổng ấy là những gì những người cộng sản đã nói, nhưng họ không làm, theo tôi được gói gọn ở một chữ là "trong sáng", cố nghĩa là "minh bạch", tiếng Nga là "glasnost", tiếng Pháp là "transparence", trong sáng, ngay thật, thẳng thắn, không mờ ám, không quanh co dối trá, sự việc như thế nào nói đúng như thế, không che giấu, không bịa đặt. Trong thời kỳ ông Nguyễn Văn Linh[33] làm Tổng bí thư đảng cộng sản Việt nam, một số nghị quyết của đảng đã nói đến khẩu hiệu "nói thẳng, nói thật, nói hết" theo ý nghĩa của "transparence", "glasnost". Bây giờ ở Việt nam người ta không dám nói đến những chữ đó nữa, họ sợ bởi vì họ vẫn còn muốn che giấu những sự thật, không dám nói thẳng, không dám nhìn thẳng vào sự thật. Ví dụ như trong vụ "Nhân văn-giai phẩm", giới lãnh đạo cộng sản sai đến như thế mà vẫn không chịu xin lỗi các nạn nhân. Họ không nhận sai cả trong vụ "Xét lại chống đảng", mà ông Nguyễn Trung Thành[34] là người trực tiếp tham gia xử lý vụ này cách đây hơn 30 năm vừa qua đã lên tiếng là "sai hết cả rồi, phải sửa lại đi!" ông Thành thấy rằng không hề có một chứng cớ nào có thể buộc tội những người này là chống đảng, phản đảng, phạm pháp mà lại tùy tiện bỏ tù họ, có người đến chín năm không có án. Những người có trách nhiệm trong đảng và chính phủ không chịu sửa còn quay sang trị ông ta, đuổi ông ta ra khỏi đảng. Chính cái đó là thiếu sòng phẳng, minh bạch, sợ sự thật. Những người lãnh đạo luôn mồm nói là "có sai thì sửa", nhưng thật ra họ có sai nhưng không dám nói là sai và để những cái sai ấy tích tụ, chồng chất thành muôn vàn sai trái. Cho đến nay, chưa một cơ quan có thẩm quyền nào của nhà nước kết luận công khai về vụ "Nhân văn-giai phẩm" và vụ "Xét lại chống đảng". Hiện nay, những người lãnh đạo cộng sản vẫn ngoan cố giải thích là "Đảng từ xưa tới nay vẫn hoàn toàn đúng, tất cả những người trong các vụ đó là sai, đểu đã cúi đầu nhận tội. Bây giờ những người này lợi dụng đổi mới để lật án, đảng không cần phải xin lỗi, không cần kết luận lại gì hết". Đấy là một kiểu nói lấy được. Việc nhà nước coi thường luật pháp là điều không thể chấp nhận được.

Những người lãnh đạo đảng cộng sản, một mặt cấm dân thảo luận những điều mà họ không muốn nghe, một mặt lại đề ra khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đó chỉ là một kiểu mị dân, lừa dối. Bây giờ chúng ta thách họ hãy thực hiện những điều họ đã nói thông qua tự do ngôn luận và tự do báo chí. Không có gì mà pháp luật đã cho phép lại có thể bị ai đó cấm đoán. Tất cả phải minh bạch, chứ không phải như hiện nay, có những vùng cấm, không ai được động chạm tới. Ví như nhà nước cấm không được đưa tin trên báo chí về tình trạng khủng hoảng của hệ thống ngân hàng Việt nam thời gian vừa qua, mọi tin tức có liên quan phải được thống đốc ngân hàng Trung ương thông qua thì mới được đăng. Hay mới đây, việc ông Nguyễn Hoàng Linh[35], vì viết báo về vụ tham nhũng hàng triệu đô-la trong vụ mua bốn chiếc tàu tuần duyên cho ngành Hải quan, nên bị bắt. Điều phi lý ở chỗ, ông Linh bị bắt không phải vì tội "vu khống, đưa tin trên báo chí", mà là vì tội "tiết lộ bí mật quốc gia", chứng tỏ nhà nước muốn che đậy những vụ tham nhũng tài sản quốc gia ở mức độ rất nghiêm trọng. Những nhà báo có tinh thần trách nhiệm như ông Linh, lẽ ra phải được khen thường do gan dạ, công tâm phanh phui vụ bê bối làm tổn hại cho quốc gia đó, thì ngược lại, ông bị trừng phạt. Chế độ hiện nay còn đầy những chuyện mờ ám như vậy.
Trả Lời Với Trích Dẫn
 


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 04:55 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.