|
|
Ðiều Chỉnh | Xếp Bài |
#11
|
||||
|
||||
![]() TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT Phần IV Chương 22 Raxkonikov đi thẳng đến toà nhà lên bờ kênh, nơi Sonya thuê trọ. Đó là một toà nhà ba tầng cũ kỹ sơn mau xanh lá cây. Chàng tìm người gác cổng hỏi thăm và chỉ được những lời chỉ dẫn mơ hồ về chỗ ở ông thợ may Kapernaumov. Chàng tìm lối vào cửa ở góc sân dẫn vào một cầu thang chật và tối, leo lên gác ba và bước vào dãy hành lang chạy dọc theo tầng gác, phía trông ra sân. Chàng đang sờ sẫm đi trong bóng tối, ngỡ ngàng không biết đâu là lối vào nhà ông Kapernaumov, thì bỗng cách chàng ba bước có một cánh cửa mở ra; chàng bất giác nắm lấy cánh cửa. - Ai đấy? - một giọng đàn bà lo lắng hỏi. - Tôi… tôi đến cô, - Raxkonikov đáp, đoạn bước vào một gian phòng mắc áo nhỏ xíu. Trên một chiếc ghế gãy có đặt một cây nến cắm vào một cái chân bằng đồng móp méo. - Ông đấy ư! Trời ơi? - Sonya kêu lên khe khẽ và đứng sững ra. - Vào cô đi lối nào? Lối nầy à? Và Raxkonikov, cố tránh nhìn Sonya, bước vội vào phòng. Một phút sau, Sonya cũng cầm nến bước vào, đặt nến xuống và đứng trước mặt chàng, bàng hoàng đến cực độ xúc động không sao tả xiết và có vẻ hoảng hốt vì cuộc đến thăm đột ngột nầy. Bỗng gương mặt xanh xao của nàng đỏ bừng lên, thậm chí mắt nàng còn rơm rớm lệ nữa… Nàng nghẹn ngào, lòng hổ thẹn pha lẫn một cảm giác ngọt ngào… Raxkonikov vội ngoảnh đi và ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh bàn. Chàng đã có đủ thì giờ nhìn lướt qua gian phòng một lượt. Đó là một gian phòng lớn nhưng thấp lè tè, gian phòng cho thuê duy nhất của gia đình Kapernaumov: có một cánh cửa đóng kín ăn thông với nhà họ, trổ ở bức tường bên trái. Phía đối diện, ở bức tường bên phải, còn có một cánh cửa nữa bao giờ cũng khoá chặt. Bên kia cửa là một căn nhà khác, mang số khác. Phòng của Sonya giống một nơi chứa đồ cũ hình bốn góc xiên xẹo trông rất chướng mắt, bức tường có trổ ba khung cửa sổ nhìn ra bờ kênh cắt gian phòng thành một đường chéo, thành thử một góc phòng nhọn hoắt thụt vào tận đâu đâu nên khi thiếu ánh sáng không thể nhìn thấy gì trong cái xó sâu hoắm ấy được; còn góc kia thì lại tù một cách kỳ quái. Trong cả gian phòng thênh thang hầu như không bày biện gì cả. Trong góc bên phải kê một cái giường; cạnh giường, về phía cửa ra vào, có một chiếc ghế. Cũng sát bức vách có kê giường, ngay bên cánh cửa ăn thông sang buồng bên, đặt một cái bàn gỗ mộc, trên trải một chiếc khăn bàn màu xanh xanh; bên bàn có hai chiếc ghế đan. Sát bức tường đối diện, gần cái góc nhọn, có kê một chiếc tủ ngăn nhỏ bằng gỗ mộc trông như chơ vơ giữa khoáng không. Đồ đạc trong phòng chỉ có thế. Giấy dán tường màu vàng vàng, xơ xác và ám khói, đen xỉn lại ở các góc; chắc mùa đông ở đây ấm thấp và rét mướt lắm. Cảnh nghèo túng đập ngay vào mắt; ngay ở giường ngủ cũng không có rèm che. Sonya lặng lẽ nhìn người khách đang tự tiện chăm chú xem xét phờng nàng, và cuối cùng bắt đầu sợ run lên như đứng trước một vị quan toà, trước kẻ định đoạt số phận mình. - Tôi đến muộn… mười một giờ rồi phải không? - chàng hỏi, mất vẫn không ngước lên nhìn nàng. - Vâng ạ, - Sonya lẩm bẩm. - À phải: đúng đấy ạ! nàng bỗng rối rít lên như đã tìm thấy lối thoát - đồng hồ bên ông chủ nhà mới đánh đấy… tôi có nghe… đúng đấy ạ … - Tôi đến thăm cô lầnn cuối cùng đây - Raxkonikov nói tiếp lầm lì, mặc dầu chàng đến lần nầy mới là lần thứ nhất - có lẽ tôi không gặp cô nữa. - Ông… đi xa? - Tôi chưa biết… mai sẽ rõ. - Thế mai ông không đến nhà Katerina Ivanovna nữa à? - giọng Sonya run run. - Chưa biết… Sáng mai sẽ rõ cả… Nhưng tôi đến đây không phải vì việc ấy. Tôi muốn nói với cô một điều… - Chàng ngước đôi mắt đăm chiêu lên nhìn nàng và chợt nhật ra rằng trong khi mình ngồi, nàng vẫn đứng trước mặt. - Sao cô lại đứng thế… Cô ngồi xuống đi. - chàng nói, giọng bỗng thay đổi hẳn, dịu dàng, ôn tồn. Nàng ngồi xuống. Chàng nhìn nàng một lát, vẻ ân cần và gần như thương xót. - Cô gầy quá! Tay cô kìa, cứ trong suốt đi! Ngón tay như ngón tay người chết. Chàng cầm lấy tay nàng, Sonya mỉm cười yếu ớt. - Tôi xưa nay vẫn thế, - nàng nói. - Hồi còn ở nhà cũng thế à? - Vâng. - Tất nhiên thôi? - chàng dằn giọng nói, và vẻ mặt, giọng nói của chàng bỗng lại thay đổi hẳn. Chàng đưa mắt nhìn quanh lần nữa. - Cô thuê phòng nầy của nhà Kapernaumov à? - Vâng ạ… - Họ ở bên kia, sau cánh cửa nầy à? - Vâng… họ cũng ở một căn buồng như thể nầy. - Cả nhà ở một buồng à? - Vâng ạ - Tôi mà ở buồng nầy thì ban đêm sợ lắm, - chàng nhận xét, vẻ mặt lầm lầm. - Gia đình ông chủ rất tốt, họ đối xử tử tế lắm, - Sonya đáp, vẫn có vẻ như chưa trấn tỉnh lại được và chưa hiểu rõ lắm. - Bàn ghế đồ đạc… đều của nhà chủ cả. Họ tốt lắm, trẻ con cũng hay sang tôi chơi… - Nhà họ nói lắp phải không? - Vâng ạ… Ông ta vừa nói lắp vừa thọt. Cả bà vợ cũng thế. Không hẳn là nói lắp, nhưng cứ câu được câu mất. Bà ấy tốt lắm. Ông ấy trước kia làm gia nô cho người ta. Con đến bảy đứa… chỉ có đứa đầu nói lắp, còn mấy đứa kia chỉ đau ốm thường thôi… chứ không nói lắp… Thế sao ông biết nhà ấy ạ? - nàng nói thêm, hơi ngạc nhiên. - Dạo trước ông thân sinh cô có kể hết cho tôi nghe. Về cô ông ta cũng đã kể hết… Cả chuyện cô ra đi lúc sáu giờ rồi gần chín giờ cô trở về, cả chuyện Katerina Ivanovna quỳ bên giường cô. Sonya luống cuống. - Hôm nay tôi dường như có gặp, - nàng thì thầm, giọng rụt rè. - Gặp ai? - Cha tôi. Tôi đang đi dọc phố gần đây thôi, ở đầu góc phố nầy ấy, khoảng gần mười giờ, chợt thấy ai như cha tôi đi ở phía trước. Có lẽ đúng là cha tôi. Tôi đã định ghé vào Katerina Ivanovna. - Cô đi dạo à? - Vâng, - Sonya thì thầm nói ngắc ngứ rồi luống cuống cúi mặt xuống. - Khi cô còn ở nhà, Katerina Ivanovna đã nhiều lần suýt đánh cô phải không? - Ồ không, ông nói gì thế, không phải đâu! - Sonya nhìn chàng, vẻ hơi hoảng sợ. - Thế cô yêu bà ấy à? - Dì tôi? Sao lại không! - Sonya rên rỉ, giọng đau đớn, hai tay bỗng chắp lại. - Ồ! Ông không… Giá ông biết rõ dì tôi. Dì ấy thật như trẻ con ấy… Dì ấy buồn phiền quá… đâm ra như người loạn óc. Trước kia dì ấy thông minh biết mấy… dì ấy cao thượng quá… tốt quá! Ông không biết gì cả, không biết gì cả… trời ơi? Sonya nói như tuyệt vọng, lòng xúc động và đau đớn, hai tay vặn vào nhau. Đôi má nhợt nhạt của nàng lại đỏ ửng lên, mặt nàng lộ vẻ đau khổ. Có thể thấy rõ rằng người ta vừa chạm vào một chỗ rất đau trong tâm hồn nàng, và nàng tha thiết muốn bày tỏ, muốn nói lên điều gì đề bênh vực Katerina Ivanovna. Một niềm thương xót không thể nào nguôi được, nếu có thể nói như thế, bỗng hiện rõ trên từng nét mặt của nàng. - Đánh ư! Sao ông lại nói thế? Trời ơi, dì ấy mà lại đánh tôi! Mà dì ấy có đánh chăng nữa thì đã sao! Thì sao nào? Ông không biết. Ông không biết gì hết… Khổ thân dì ấy quá. Ôi, khổ thân quá! Lại đau ốm… dì ấy tìm công bằng… Dì ấy trong sạch. Dì ấy tin rằng đâu đâu cũng phải có sự công bằng, và đòi hỏi nhu thế… Và dù có bị tra tấn nhục hình dì ấy cũng không đời nào làm một việc không công bằng. Dì ấy không thấy rằng ở đời nầy không thể có công bằng được, nên cứ uất ức… Thật như đứa trẻ, như đứa trẻ. Dì tôi công bằng lắm, công bằng lắm. - Rồi đây cô sẽ ra sao? Sonya nhìn chàng có ý hỏi. - Bây giờ cả nhà trông vào cô. Mà trước kia thì cũng thế, cha cô trong khi say rượu cũng đến xin tiền cô thôi. Nhưng bây giờ cô liệu sao? - Tôi không biết, - Sonya buồn rầu đáp. - Họ vẫn ở đằng ấy à? - Tôi không biết, dì tôi đang nợ tiền thuê nhà. Nghe nói hôm nay bà chủ nhà báo sẽ đuổi đi, và Katerina Ivanovna nói là không thèm ở lại một phút nào nữa. - Sao bà ấy gan thế? Trông mong vào cô à? - Ồ không phải. Ông đừng nói thế… Tôi với dì ấy chỉ là một thôi, - Sonya bỗng lại sôi nổi lên, thậm chí còn bực tức nữa, trông hệt như một con chim bạch yến hay một loài chim nhỏ nào đang nổi giận. - Thì dì tôi còn biết làm thế nào nữa? Làm thế nào, làm thế nào? - Nàng hỏi, giọng nóng nảy và xúc động. - Hôm nay dì đã khóc hết cả nước mắt! Dì ấy loạn trí óc, ông không để ý hay sao? Dì ấy loạn óc đấy, khi thì dì ấy lo cuống lên như đứa trẻ, không biết, ngày mai làm thế nào cho tươm tất, có đủ đồ nhắm và các thứ… Khi thì vặn hai cánh tay vào nhau, khạc ra máu, khóc lóc, rồi bỗng dưng cứ nện đầu vào tường như tuyệt vọng làm liều. Rồi sau đó lại nguôi nguôi. Dì vẫn hy vọng ở ông, dì ấy nói bây giờ ông là người cứu giúp dì ấy, dì ấy sẽ tìm được chỗ vay ít tiền và đem tôi trở về thành phố cũ của dì ấy lập một trường ký túc cho con gái nhà quý tộc, sẽ cho tôi làm giám thị, và sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống tươi đẹp, dì ấy ôm chầm lấy tôi, hôn tôi, an ủi tôi, dì ấy tin như thế? Tin vào những chuyện hoang đường như thế! Làm sao có thể cãi lại dì ấy được? Thế mà suốt ngày hôm nay dì lau chùi, sửa sang, yếu như thế mà bê cả một thùng nước lớn lên phòng, thở dốc ra ngồi ngã xuống giường; hồi sáng tôi với dì ấy ra chợ mua giầy cho Polenka và Lena, vì giầy chúng rách cả rồi, nhưng không đủ tiền trả, còn thiếu nhiều lắm, thế mà dì ấy đã chọn được hai đôi giầy thật xinh, vì dì ấy có khiếu thẩm mỹ lắm, ông không biết đấy… Thế là dì ấy khóc oà lên trong cửa hiệu, trước mặt những người bán hàng, vì thiếu tiền. Trông dì ấy thương quá! - Thế thì cô… sống như thế nầy chẳng có gì là lạ. - Raxkonikov nói, môi nở một nụ cười chua chát. - Thế ông không thấy thương hay sao? Ông không thương à? - Sonya lại bùng lên, - tôi biết ông có bao nhiêu đã đem cho hết dì tôi, tuy chưa thấy dì. Giá ông thấy hết, trời ơi? Và đã bao lần, bao nhiêu lần tôi làm cho dì tôi phải khóc! Mới tuần trước đây thôi! Ôi, tôi thật tệ quá! Chỉ một tuần trước khi cha tôi chết. Tôi tàn nhẫn quá! Mà đã bao nhiêu lần như thế rồi. Suốt ngày hôm nay tôi nhớ lại mà đau lòng quá! Sonya vặn hai cánh tay trong khi nói, xót xa với những kỷ niệm ấy. - Thế ra chính cô tàn nhẫn à? - Phải, chính tôi, chính tôi? Hôm ấy tôi đến nhà, - nàng vừa nói tiếp vừa khóc - cha tôi nói: "Con đọc cho bố nghe một chút. Sonya. Bố nhức đầu lắm, con đọc đi… sách đây" - đó là một quyển sách nhỏ mượn của ông Lebeziatnikov, ông Andrey Xeminovich ấy. Ông ta ở bên cạnh, lúc nào cùng kiếm được những quyển sách thật ngộ nghĩnh. Tôi nói: "Con phải đi đây", tôi không muốn đọc, tôi đến cốt để cho Katerina Ivanovna xem cái cổ áo; số là bà Lizaveta làm nghề buôn đồ cũ có mang lại cho tôi mấy chiếc cổ áo và măng-sét rẻ tiền, nhưng xinh xắn và còn mới, có thêu hoa. Katerina Ivanovna thích lắm, dì ấy đeo vào áo và đứng soi gương, dì ấy thích lắm, thích lắm; dì bảo: "Cho dì, Sonya nhé, dì van Sonya đấy". Dì ấy "van" tôi, vì dì ấy thích quá. Thế nhưng dì ấy có đeo vào đâu? Xin là xin thế thôi, chẳng qua dì ấy sực nhớ lại những ngày vui thuở trước Dì ấy mê mải ngắm nhìn mình trong gương, thế nhưng có còn chiếc áo nào nữa đâu, không còn lấy một chiếc, không còn gì hết, đã mấy năm nay rồi Katerina Ivanovna không bao giờ xin gì ai hết, chính dì ấy có gì cũng đem cho người ta thì có, thế mà lúc ấy dì đã hỏi xin tôi, đủ biết dì ấy thích đến nhường nào! Thế mà tôi tiếc không muốn cho, tôi nói: "Di Katerina Ivanovna, dì đeo vào đâu? Tôi nói thế đấy "đeo vào đâu". Đáng lẽ tôi không được nói như thế! Dì ấy cứ nhìn tôi, dì ấy buồn vì tôi đã từ chối, dì ấy khổ tâm đến nỗi trông tội nghiệp quá chừng… Không phải dì ấy buồn vì mấy chiếc cổ áo đâu, mà vì tôi đã từ chối dì, tôi biết. Ôi! Giá có cách nào chữa lại, xoá bỏ những lời ấy đi… Tôi thật tệ quá! Nhưng nói làm gì… Ông thì ông có cần gì biết! - Cô có biết bà Lizaveta buôn đồ cũ đấy à? - Ông cũng biết sao? - Sonya hỏi lại, hơi ngạc nhiên. - Katerina Ivanovna ho lao rất nặng, chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu, - Raxkonikov nói sau một phút im lặng, không trả lời vào câu hỏi. - Ồ không đâu, không phải đâu! - Và Sonya bất giác nắm lấy hai tay chàng như van xin chàng đừng để cho dì nàng chết. - Bà ấy chết đi còn hơn. - Không, sao lại hơn? Không phải thế, hoàn toàn không phải như thế! - nàng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại vẻ như không biết mình nói gì. - Còn các em thì sao? Cô cho chúng đi đâu, nếu không đem về ở với cô? - Ồ, tôi cũng không biết nữa!… - Sonya kêu lên vẻ hầu như tuyệt vọng, hai tay ôm lấy đầu. Có thể thấy rõ rằng chính nàng cũng đã nghĩ đến điều đó nhiều lần lắm rồi, Raxkonikov chị nhắc lại khiến nàng hoảng sợ một lần nữa thôi. - Thế nếu trong khi Katerina Ivanovna còn sống, cô sinh bệnh phải vào nhà thương thì sao? - chàng hỏi một cách phũ phàng. - Ồ, sao ông lại nói thế! Không thể nào như thế được! - Và khuôn mặt Sonya nhăn nhúm lại vì một nỗi kinh hoàng ghê gớm. - sao lại không thể được? - Raxkonikov cười gằn nói tiếp - Cô có được bảo hiểm đâu! Đến lúc ấy họ sẽ ra sao? Cả nhà sẽ kéo nhau đi lang thang ở ngoài đường, bà ấy sẽ vừa ho vừa xin bố thí và sẽ đập đầu vào tường như hôm ấy, lũ trẻ sẽ khóc. Bà ta sẽ gục xuống, họ sẽ đưa vào đồn cảnh sát, vào nhà thương, bà ta sẽ chết, còn lũ trẻ… - Ồ không! Chúa không để như vậy? - cuối cùng Sonya thốt ra từ lồng ngực nghẹn ngào. Nàng lắng nghe, nhìn chàng với đôi mắt van lơn, hai tay chắp lại thành một lời cầu khẩn im lặng, như thế mọi sự đều tuỳ thuộc ở chàng. Raxkonikov đứng dậy đi đi lại lại trong phòng. Một phút trôi qua. Sonya đứng im, đầu cúi gầm, hai tay buông thõng, dáng rũ rượi. - Không dành dụm được à? Không để dành được ít nhiều phòng khi bất trắc hay sao? - Chàng bỗng dừng lại trước mặt Sonya, hỏi. - Không, - Sonya nói thì thầm. -Dĩ nhiên là không - Cô đã thử chưa? - chàng nói thêm, giọng gần như ngạo nghễ. - Thử rồi! - Và thất bại! Thì dĩ nhiên phải thế! Còn hỏi làm gì? Chàng lại đi bách bộ trong phòng. Một phút nữa trôi qua. - Thế không phải ngày nào cô cũng có khách à? Sonya càng bối rối thêm, mặt nàng lại đỏ bừng lên. - Không, - nàng gượng gạo trả lời. - Hẳn Polenka rồi cũng phải thế, - chàng nói đột ngột. - Không! Không. Không thể được, không! - Sonya thét lên như người tuyệt vọng, tường chừng có ai vừa lấy dao đâm vào người nàng. - Chúa không đời nào để cho một việc ghê tởm như thế xảy ra được. - Vẫn để xảy ra khối việc như vậy đấy! - Không? Không! Chúa sẽ che chở cho Polenka, Chúa! - nàng nhắc đi nhắc lại, như người mất hồn. - Mà có lẽ cũng chẳng làm gì có Chúa hết, - Raxkonikov đáp, vẻ dường như hả hê, rồi nhìn nàng cười phá lên. Mặt Sonya chợt biến sắc đi một cách khủng khiếp, các thớ thịt trên mặt giật lên từng đợt. Nàng nhìn Raxkonikov với một vẻ oán trách không sao tả nổi, nàng muốn nói điều gì, nhưng không sao nói ra được, chỉ bưng mặt khóc nức nở. - Cô nói Katerina Ivanovna loạn óc; chính cô cũng loạn óc đấy, - chàng nói sau một lát im lặng. Khoảng năm phút trôi qua. Chàng vẫn lặng thinh đi đi lại lại không nhìn nàng. Cuối cùng chàng đến cạnh nàng, mắt sáng quắc. Chàng nắm lấy hai vai Sonya và nhìn thẳng vào gương mặt ướt đám nước mắt của nàng. Luồng mắt của chàng khô, sắc, nóng như một tia lửa, môi chàng rung mạnh… bỗng chàng quỳ sụp xuống sàn nhà và hôn lên chân nàng. Sonya hoảng hốt lùi lại như tránh một người điên. Vả quả nhiên trông chàng chẳng khác một người điên thật. - Ông làm gì thế? Với tôi mà ông lại… thế ư? - Nàng nói lắp bắp, mặt tái đi, và tim nàng bỗng thắt lại đau nhói. Chàng vụt đứng dậy. - Không phải tôi cúi lạy em, tôi cúi lạy trước sự thống khổ của loài người. - chàng nói, giọng quái gở, và bỏ ra cửa sổ. - Em nghe đây, - một phút sau chàng quay lại nói thêm - lúc nầy tôi vừa nói với một kẻ kiêu căng là hắn không bằng ngón tay út của em… và hôm nay tôi để em ngồi bên cạnh em gái tôi như vậy là một điều vinh dự đối với nó. - Ồ sao ông lại nói thế? Lại nói trước mặt em ông? - Sonya hoảng hốt kêu lên, - ngồi với tôi mà là một vinh dự! Nhưng tôi làm gì còn… danh tiết. Trời ơi, sao ông lại nói thế? - Tôi nói về em như thế, không phải vì em mất danh tiết, vì tội lỗi của em, mà vì nỗi đau khổ vô hạn của em. Em là một người tội lỗi, đầy tội lỗi, đúng như thế, - chàng nói thêm, giọng gần như phấn khởi, - và tội lỗi của em càng nặng hơn nữa là vì em hy sinh, đày doạ mình một cách vô ích. Còn gì khủng khiếp hơn phải sống trong đống bùn nhơ mà em ghê tởm, và đồng thời chính em cũng biết (chỉ cần mở mắt ra thôi) rằng làm như vậy chẳng cứu được ai và chẳng có ích gì cho ai chút nào hết! Em thử nói tôi nghe - chàng nói như nỗi khùng lên - làm sao trong tâm hồn em lại có thể pha lẫn những điều nhơ nhuốc, hèn hạ như vậy với những tình cảm thiêng liêng, trái ngược hẳn lại? Thà đâm đầu xuống sông mà chết cho xong có phải là công bằng hơn, công bằng hơn không biết bao nhiêu mà kể, mà lại khôn ngoan hơn nữa không? - Thế rồi họ sẽ ra sao? - Sonya hỏi, giọng yếu ớt, mắt nhìn chàng chua xót, nhưng hình như không hề ngạc nhiên về cái ý chàng vừa gợi lên. Raxkonikov nhìn nàng với đôi mắt kỳ dị. Chàng đã đọc thấy tất cả qua mỗi một cái nhìn của nàng. Thế ra chính nàng cũng đã có ý nghĩ đó. Có lẽ đã nhiều lần trong cơn tuyệt vọng nàng suy nghĩ thật sự đến việc kết liễu ngay một lúc cho xong hết mọi sự, và nàng đã nghĩ một cách chín chắn đến nỗi bây giờ nàng hầu như không lấy làm lạ nữa. Thậm chí nàng cũng không để ý thấy lời lê của chàng tàn nhẫn như vậy, và dĩ nhiên cũng không để ý đến ý nghĩa những lời trách móc và nhất là cách chàng nhìn nỗi ô nhục của nàng, và Raxkonikov cũng thấy rõ như vậy. Nhưng chàng cũng hoàn toàn hiểu nàng bị giầy vò đau đớn khủng khiếp đến nhường nào khi nghĩ đến tình canh ô nhục của mình. Vậy thì cái gì cho đến nay, cái gì đã có thể ngăn chặn quyết tâm tự vẫn của nàng? Nghĩ đến đây chàng mới hiểu hết được mấy đứa trẻ mồ côi khốn khổ và người đàn bà ho lao dở điên dở dại cứ đập đầu vào tường kia có ý nghĩa như thế nào đối với nàng. Tuy vậy chàng cũng lại thấy rõ rằng nhân cách của Sonya cũng như nếp giáo dục của nàng không thể nào cho phép nàng sống mãi như vậy. Song chàng vẫn băn khoãn không hiểu tại sao nàng lại có thể sống trong tình trong đó lâu như vậy mà không phải điên, nếu không đủ can đảm tự tử" Dĩ nhiên chàng hiểu rằng tình cảnh của Sonya là một hiện tượng ngẫu nhiên trong xã hội, tuy tiếc thay tuyệt nhiên không phải là một hiện tượng cá biệt và ngoại lệ. Nhưng chính tính chất, ngẫu nhiên ấy, nếp giáo dục ấy và cả quãng đời về trước nữa lẽ ra có thể giết chết nàng ngay từ khi bước những bước đầu trên con đường nhơ nhuốc nầy. Vậy thì cái gì đã nâng đỡ nàng? Hẳn không phải là thói dâm ô truỵ lạc. Rõ ràng cuộc sống ô nhục nầy chỉ chạm đến nàng một cách cơ học; sự truỵ lạc thật sự vẫn chưa thấm chút nào vào lòng nàng: chàng thấy rõ như vậy; nàng đang đứng trước mặt chàng như một cảnh thực… "Nàng có ba con đường. - chàng thầm nghĩ: - nhảy xuống sông, vào nhà thương điên, hay… hay rốt cục lao mình vào truỵ lạc, trí tuệ u mê đi, tâm hồn sắt lại". Ý nghĩ sau cùng nầy khiến chàng ghê tởm hơn cả, nhưng chàng là một kẻ hoài nghi, chàng còn trẻ tuổi, chàng xa rời cuộc sống, vì vậy chàng tàn nhẫn, cho nên không thể không tin rằng lối thoát sau cùng, tức sự truỵ lạc, là lối thoát dễ có cơ thực hiện hơn cả. "Nhưng chẳng lẽ lại như thế thật, - chàng ngạc nhiên thầm nghĩ, - chẳng lẽ ngay cả con người vẫn còn giữ được một tâm hồn trong sạch nầy rốt cục cũng sẽ tự giác vươn tới cái hố nhơ bẩn, thối tha ấy? Phải chăng xu thế ấy đã bắt đầu, và sở dĩ nàng còn chịu đựng được cho đến nay chỉ vì dâm ô truỵ lạc đối với nàng không còn ghê tởm mấy nữa? Không, không thể như thế được! - chàng nhẩm kêu lên, như Sonya lúc nãy, - không, sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa tự tử là vì sợ có tội (1) vì nghĩ đến họ, đến những người ấy. Sở dĩ cho đến nay nàng vẫn chưa điên… Nhưng ai bảo nàng chưa điên? Có thật nàng vẫn tỉnh trí hay không? Có thể nào lại nói năng như nàng? Lẽ nào người tỉnh trí lại suy luận như nàng. Lẽ nào có thể ngồi ngay trên miệng hố thối tha của sự truỵ lạc đang hút mình xuống, mà lại xua tay, bịt tai khi người ta nói đến nguy cơ của mình? Nàng làm sao thế, hay là nàng chờ đợi một phép thần thông? Chắc hắn là như thế. Tất cả những điều đó chẳng phải là những dấu hiệu điên rồ sao?". Chàng kiên trì giữ lấy ý nghĩ nầy. Lối thoát ấy còn làm chàng hài lòng hơn bất cứ lối thoát nào khác. Chàng bắt đầu nhìn nàng chăm chú hơn. - Thế cô hay cầu nguyện Chúa lắm phải không Sonya? - chàng hỏi. Sonya lặng thinh. Chàng đứng cạnh, đợi nàng trả lời. - Ví thử không có Chúa, tôi sẽ ra sao? - nàng thì thầm rất nhanh, vẻ cương quyết mắt bỗng sáng lên, nhìn chàng một thoáng, tay xiết mạnh tay chàng. "Đấy đúng như thế!" - chàng nhĩ. - Thế Chúa làm gì cho em? - chàng tiếp tục dò xét Sonya. Im lặng hồi lâu, như không trả lời được, lồng ngực yếu đuối của nàng phập phồng vì xúc động. - Ông im đi! Đừng hỏi nữa ông không xứng đáng! - nàng bỗng kêu lên, nghiêm nghị và giận dữ nhìn chàng. "Đúng thế thật! Đúng thế thật!" - chàng đinh ninh tự nhủ. - Chúa làm tất cả! - nàng thì thầlm nói nhanh, mắt lại nhìn xuống. "Lối thoát đây rồi! Đây chính là cách giải thích lối thoát" - chàng tự nhủ, mắt tò mò nhìn nàng hau háu. Với một cảm xúc mới mẻ, kỳ lạ, gần như đau đớn, chàng nhìn chăm chăm khuôn mặt xanh xao, gầy gò, với những nét sắc và không đều đặn ấy, đôi mắt xanh dịiu hiền có thể ném ra những tia lửa ấy sáng lên vì một cảm xúc mãnh liệt và khắc khổ, cái thân hình nhỏ bé đang run lên vì uất ức và căm giận, và càng thấy tất cả những cái đó thật kỳ lạ, hầu như vô lý. "Đúng là một kẻ ngây dại, một kẻ dại" (2) - chàng nhẩm đi nhẩm lại. Trên tủ ngăn có một quyển sách. Trong khi đi đi lại lại trong phòng, mỗi lần đi ngang chàng vẫn đé thấy nó. Bây giờ chàng cầm nó lên xem. Đó là pho Tân ước bằng tiếng Nga. Quyển sách đóng bìa da, đã cũ kỹ, nhàu nát. - Sách ở đâu thế nầy? - Chàng hỏi Sonya đang đứng ở chỗ cũ, cách bàn ba hước. - Có người đem đến cho tôi. - nàng đáp, vẻ như miễn cưỡng, mắt nhìn phía khác. - Ai đem đến? - Bà Lizaveta. Tôi nhờ bà ấy kiếm hộ. "Lizaveta! Lạ thật!" - chàng nghĩ thầm. Mỗi lúc chàng lại càng có cảm giác là tất cả những gì có liên quan đến Sonya cũng đều lạ lùng, kỳ diệu. Chàng đem sách đến gần ngọn nên và bắt đầu giở xem. - Đoạn nào có chuyện Lazaro? - chàng hỏi đột ngột. Sonya vẫn nhìn mãi xuống đất, không đáp. Nàng đứng hơi nghiêng người về phía bàn. - Chuyện Lazaro sống lại ở chỗ nào? Cô tìm hộ tôi đi, Sonya. Nàng liếc mắt nhìn chàng. - Không phải ở đấy đâu, trong thiên Phúc âm thứ tư kia… - nàng thì thầm, vẻ nghiêm nghị, vẫn đứng yên. - Cô tìm hộ và đọc cho tôi nghe đi, - chàng nói đoạn ngồi xuống, khuỷu chống lên bàn, hai tay nâng cằm, mắt trân trân nhìn sang một bên, lắng tai chờ đợi "Nội ba tuần nữa xin mời cô đến một nơi cách đây bảy dặm(3). Chính ta hình như cũng sẽ đến đấy, nếu không phải là một cái gì còn tệ hơn nữa" - chàng lẩm bẩm một mình. Sonya ngần ngừ bước lại gần bàn… Nàng chưa tin lắm vào cái ý muốn kỳ quặc của Raxkonikov. Song nàng vẫn cầm lấy sách. - Chả nhẽ ông chưa đọc à? - nàng hỏi, mắt ngước nhìn chàng qua bàn. Giọng nàng mỗi lúc một thêm nghiêm nghị. - Đã lâu rồi… Hồi tôi còn đi học. Cô đọc đi. - Thế ông không nghe đọc ở nhà thờ à? - Tôi… không đi nhà thờ. Còn cô có hay đi không? - Kh - không, - Sonya thì thầm, Raxkonikov cười nhạt. - Tôi hiểu… Thế mai cô cũng không đi làm lễ an táng cha cô à? - Tôi sẽ đi. Tuần trước tôi cũng có đến… làm lễ cầu hồn. - Cho ai? - Cho Lizaveta. Bà ấy bị giết bằng rìu. Cân não chàng mỗi lúc một thêm khích động. Chàng bắt đầu thấy choáng váng. - Cô thân với bà Lizaveta à? - Vâng… Bà ấy tốt lắm… bà ấy đến đây… thỉnh thoảng thôi… đến luôn không tiện. Bà ấy với tôi cùng đọc và nói chuyện. Bây giờ bà ấy đang được chiêm ngưỡng thượng đế. Âm hưởng những từ như rút trong sách ra nầy gợi lên trong lòng chàng một ấn tượng kỳ lạ. Lại thêm những câu chuyện trò bí mật gì giữa hai người… giữa hai người ngây dại ấy. "Rồi mình cũng dâm ra ngây dại nốt mất thôi! Một chứng hay hay đấy?" - chàng nghĩ. - Đọc đi! - chàng bỗng quát lên, giọng hạch sách và cáu kỉnh. Sonya vẫn do dự. Tim nàng đập nạnh. Nàng không dám đọc. Raxkonikov nhìn "người điên khốn nạn" với đôi mắt hầu như đau xót. - Ông nghe làm gì? Ông có tin đạo đâu? - nàng thì thầm rất khẽ, như nghẹt thở. - Đọc đi tôi muốn thế! - chàng dằn giọng, - cô đọc cho Lizaveta nghe thì được kia mà? Sonya giở sách ra và tìm đoạn ấy. Tay nàng run lập cập giọng nàng khần đi. Nàng hai lần toan đọc mà vẫn không phát âm ra được chữ đầu. "Vậy có một người đau, tên gọi Lazaro, vốn người Béthani(4)…" - cuối cùng nàng đọc lên một cách khó nhọc, nhưng từ chữ thứ năm trở đi, giọng nàng vỡ ra đứt ra như sợi dây đàn quá căng. Hơi thở nàng nghẽn 1ại, ngực nàng tức tối. Raxkonikov hiểu được một phần tại sao Sonya phân vân không muốn đọc cho chàng nghe, và càng hiểu ra, chàng lại càng gắt gỏng và nằng nặc đòi nàng đọc một cách thô bạo. Chàng hiểu quá rõ rằng bây giờ nàng rất khổ tâm khi phải bộc lộ những cảm xúc của mình. Chàng đã hiểu rằng những cảm xúc ấy quả nhiên làm thành điều bí ẩn thật sự của nàng, có lẽ đã từ lâu có lẽ từ hồi nàng mới lớn lên, khi còn ở với gia đình, bên cạnh người cha khốn nạn và người dì ghẻ điên rồ vì đau khổ, bên cạnh mấy đứa trẻ đói khát, giữa những tiếng quát tháo và mắng mỏ tục tằn. Nhưng đồng thời giờ đây chàng đã biết, và biết chắc chắn, rằng tuy nàng thấy bồn chồn và vô cùng sợ hãi trước một điều gì khi bắt đầu đọc, nhưng vẫn háo hức muốn đọc lạ lùng, và đọc cho chàng nghe nhất là bây giờ rồi, "sau nầy dù có thể nào cũng mặc!"… Chàng đọc thấy điều đó trong mắt nàng, chàng hiểu nỗi xúc động hưng phấn của nảng… Nàng cố tự chủ cố nuốt cơn nghẹn ngào dâng lên ngang cổ ngay từ câu đầu, và đọc tiếp chương thứ mười một trong thiên Phúc âm của Thánh Joan. Nàng đọc đến câu thứ 19: "Có nhiều người Judé đã đến để đặng an ủi Martha và Maria về sự anh chết. Martha nghe Đức Chúa Jésus đến, bèn đi đón Người, nhưng Martha thì ngồi tại nhà. Martha thưa cùng Đức Chúa Jésus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có lại đây, thì anh con đã chẳng chết. Mà bây giờ con cũng biết mọi điều Người sẽ xin Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ắt ban cho". Đến đây nàng lại ngừng đọc, hổ thẹn cảm thấy trước rằng mình sẽ run, giọng mình lại sẽ vỡ. "Đức Chúa Jésus phán rằng: anh người sẽ sống lại. Martha thưa rằng: Con vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh con sẽ sống lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: ta là sự sống lại, và là sự sống. Kẻ nào tin ta thì dẫu chết đi rồi, cũng sống lại. Còn ai sống và tin ta thì muốn đời chẳng hề chết. Người tin điều đó chăng? Người thưa rằng…" Sonya khó nhọc thở lại cho đều, rồi cao giọng đọc tách bạch từng chữ, như đang truyền giảng trước một đám đông tín đồ. "Đức Chúa, phải, tôi tin chúa là Đấng Christo, con Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ đến thế gian". Nàng toan dừng lại ngước mắt lên nhìn chàng, nhưng lại hối hả ghìm mình lại và đọc tiếp, Raxkonikov ngồi nghe không nhúc nhích, không ngoảnh lại, khuỷu tay vẫn chống lên bàn, mắt nhìn sang một bên, Sonya đã đọc đến câu 32: "Nhưng Maria, lúc đã tới nơi Đức chúa Jésus đứng, vừa thấy Ngài thì sấp mình xuống chân Ngài mà rằng: Lạy Chúa! Nếu chúa có tại đây, thì anh tôi đã không chết! Đức Chúa Jésus thấy người khóc, và những người Judé đi cùng người cũng khóc, bèn đau lòng cảm động mà phán rằng: các người đã chôn người ở đâu? Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin hãy lại coi. Đức Chúa Jésus khóc. Người Judé bèn nói rằng: kìa, Người yêu Lazaro là dường nào! Có một vài người trong chúng nói: Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có thể cũng làm cho người nầy không chết sao?" Raxkonikov bồi hồi quay lại nhìn nàng. Phải, đúng như thế! Nàng đã run lên cầm cập trong một cơn sốt thật sự. Chàng đã biết trước như thế. Nàng đã sắp đọc đến những lời nói về cái phép lạ lớn lao, kỳ diệu nhất và một cảm giác hân hoan cao cả tràn ngập lòng nàng. Giọng nàng sang sảng như tiếng chuông, chan chứa một niềm hân hoan đắc thắng, lại càng vang lên mạnh mẽ. Những giòng chữ cứ nhoà đi trước mắt nàng, mắt nàng tốt sầm lại, nhưng nàng đã thuộc lòng những câu đang đọc. Đến câu cuối cùng: "Người đã mở mắt kẻ mù được…" nàng hạ thấp giọng xuống, nhiệt thành diễn đạt ý ngờ vực trách móc và chê bai của những người Judé mù quáng, thiếu lòng tin, mà chỉ một phút nữa, như bị sét đánh sẽ phủ phục xuống khóc và tin… "Cả chàng nữa, chàng cũng là một kẻ mù quáng và thiếu lòng tin, chỉ lát nữa chàng cùng sẽ được nghe và cũng sẽ tin. Phải, phải! Lát nữa thôi, ngay bây giờ" - nàng mơ ước, lòng khấp khởi chờ đợi. "Bấy giờ, Đức Chúa Jesus lại đau lòng nữa, bèn đến phần mộ: một là một cái hang, trước cửa hang nầy có một phiến đá chặn lại. Đức Chúa Jésus phán rằng: hãy cất phiến đá đi. Martha là em gái ké chết thưa rằng: Lạy Chúa đã có mùi, vì chưng người nằm đó đã bốn ngày rồi". Nàng nhân thật mạnh hai chữ "bốn ngày". "Đức Chúa Jésus lại phán: ta há chẳng từng nói với người rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao? Ấy vậy, họ lăn hòn đá đi khỏi hang kẻ chết đương nằm. Đứa Chúa Jésus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: thưa cha, tôi tạ ơn Cha đã nhận lời tôi. Tôi cũng biết Cha vẫn hằng nhận lời tôi, nhưng tôi nói vậy là vì có đoàn dân nầy đứng quanh đây, ngõ hầu họ tin rằng ấy chính Cha là Đấng đã sai tôi đến. Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: "Lazaro! hãy ra". Và kẻ chết đi ra…". Nàng đọc to lên, giọng trang trọng, nàng run lên và lạnh toát đi, như thể chính mắt nàng trông thấy. "… chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jésus phán cùng chúng rằng; hãy mở cho người, và để người đi. Bấy giờ có nhiều người Judé đã đến cùng Maria và thấy sự Đức Chúa Jésus làm, bèn tin Ngài". Nàng không đọc tiếp, và không thể đọc tiếp nữa; nàng gấp sách lại và nhanh nhẹn rời ghế đứng dậy. - Tích Lazaro sống lại đến đây là hết, - nàng nói thì thầm, giọng nghiêm khắc, đoạn đứng yên, người quay sang một bên, không dám ngước mắt lên nhìn chàng, dường như có ý e thẹn. Nàng vẫn run như đang cơn sốt. Mẩu nến đã lụi xuống rất lâu trong chiếc đế đèn mó méo, hắt một ánh sáng lù mù lên kẻ sát nhân và cô gái điếm tụ họp một cách kỳ lạ trong gian phòng khốn khổ, trước pho sách vĩnh hằng. Hơn năm phút trôi qua. - Tôi đến đây để bàn một việc. - Raxkonikov bỗng cau mày nói to lên. Đoạn đứng vậy lại gần Sonya. Nàng lặng lẽ ngước mắt lên nhìn chàng. Anh mắt chàng khắc khổ lạ thường, phản chiếu một quyết tâm dữ dội. - Hôm nay tôi đã ruồng bỏ những người thân, - chàng nói - ruồng bó mẹ và em tôi. Bây giờ tôi sẽ không đến với họ nữa. Tôi đã cắt đứt hết mọi liên hệ. - Tại sao? - Sonya sửng sốt hỏi. Cuộc gặp gỡ ban sáng với mẹ và em chàng đã để lại trong lòng nàng một ấn tượng phi thường, tuy chính nàng cũng không sao định rõ. Nàng hầu như kinh hãi khi nghe tin chàng đoạn tuyệt với họ. - Bây giờ tôi chỉ còn có em nữa mà thôi - chàng nói tiếp - Ta cùng đi… rồi đã đến đây. (chúng ta đều là những kẻ bị nguyền rủa, chúng ta hãy cùng đi khỏi nơi nầy. - Mắt chàng sáng long lanh. "Như người dở điên dở dại!" - đến lượt Sonya thầm nghĩ. - Đi đâu? - nàng hỏi, giọng khiếp sợ, và bất giác lùi lại. - Nào tôi có biết? Tôi chỉ biết là ta sẽ cùng đi một đường, tôi biết chắc, thế thôi. Cũng một mục đích! Nàng nhìn chàng, không hiểu. Nàng chỉ hiểu rằng chàng đau khổ ghê gớm, vô hạn. - Nếu em nói với họ, sẽ chẳng có ai hiểu gì hết. Chàng nói tiếp. - Còn tôi, tôi đã hiểu, tôi cần có em, cho nên tôi đã đến em. - Em không hiểu. - Sonya thì thầm. - Sau nầy em sẽ hiểu. Chẳng phải em cùng đã làm như tôi sao? Em cũng đã vượt qua… em cũng đã cam tâm vượt qua. Em đã tự đầy đoạ thân mình, em đã hãm hại đời… mình (cũng thế thôi), lẽ ra em có thể sống bằng trí tuệ, bằng lương tri, nhưng em lại kết liễu trên khu chợ… Nhưng em không chịu đựng được đâu và nếu em ở một mình em phát điên như tôi. Ngay giờ đây em cũng đã hoàn toàn như người điên; thế thì ta hãy cùng đi trên một con đường! Ta đi đi! - Tại sao? Tại sao ông lại nói thế! - Sonya nói, lòng xúc động lạ lùng trước những lời lẽ của Raxkonikov. - Tại sao ư? Tại vì không thể sống mãi như thế nầy tại vì thế đấy! Rốt cục cũng phải suy nghĩ nghiêm túc: và thẳng thắn, chứ không thể kêu khóc như trẻ con rằng Chúa sẽ không để như thế. Nếu mai đây người ta đưa em vào nhà thương thật thì sẽ ra sao? Bà ấy, vừa điên rồ vừa ho lao, chẳng mấy lâu nữa sẽ chết, còn lũ trẻ? Polenka có thể nào không hư hỏng? Chả nhẽ em không trông thấy những đứa trẻ bị mẹ sai đi ăn xin ở cac góc phố? Tôi đã tìm biết những bà mẹ ấy sống ở đâu va hoàn cảnh như thế nào. Ở đây trẻ con không còn là trẻ con được nữa. Có đứa lên bảy đã truỵ lạc, trộm cắp. Thế mà trẻ con là hình ảnh của Chúa Cơ-đốc, vương quốc của Đức Chúa trời là của chúng". Chúa đã phán cho chúng hằng được kính, được yêu, chúng là nhân loại tương lai… - Thế thì biết làm thế nào, làm thế nào? - Sonya khóc nức nở từng cơn, hai tay vặn vào nhau, nhắc đi nhắc lại. - Làm thế nào ư? Cắt đứt vĩnh viễn tất cả những gì cần cắt đứt, chỉ có thể thôi; và gánh lấy nỗi khổ? - Sao? Em không hiểu? Sau nầy em sẽ hiểu… Tự do và quyền lực nhất là quyền lực! Phải có quyền lực đối với lũ sâu bọ run rẩy, đối với cả cái tổ kiến ấy! Đấy là mục đích! Em nhớ lấy! Đó là lời trăn trối của tôi! Có lẽ tôi nói chuyện với em lần nầy là lần cuối cùng. Nếu ngày mai tôi không đến nữa, em sẽ nghe người ta nói hết mọi chuyện. Đến lúc ấy em hãy nhớ những lời nầy. Rồi về sau, qua năm tháng, đến một lúc nào đấy em sẽ hiểu ý nghĩa những lời nầy. Nếu mai tôi còn đến đây, tôi sẽ nói cho em biết ai đã giết Lizaveta. Từ biệt em! Toàn thân Sonya run lên vì hoảng sợ. - Thế ra ông biết ai giết? - nàng hỏi, người lạnh toát đi vì sợ hãi, mắt ngơ ngác nhìn chàng. - Tôi biết và tôi sẽ nói… cho em biết, chỉ mình em thôi! Tôi đã chọn em. Tôi đến em không phải để xin em tha thứ, mà chỉ để nói cho em biết thôi. Tôi đã chọn em từ lâu, ngay từ khi cha em nói chuyện em cho tôi nghe, và khi Lizaveta hãy còn sống, tôi đã nghĩ đến việc nầy. Thôi chào em. Em đừng đưa tay ra. Mai? Chàng đi ra, Sonya nhìn theo chàng như nhìn một người điên: nhưng chính nàng cũng như điên như dại, và nàng cũng cảm thấy thế. Đầu nàng choáng váng. "Trời ơi! làm sao người ấy lại biết ai đã giết Lizaveta? Những câu nói ấy nghĩa là gì? Lạ quá! Nhưng đồng thời ý nghĩ ấy vẫn không đến với nàng. Không hế. Không hề…". Ồ, chắc người phải khổ sở vô cùng! Người ấy đã ruồng bỏ mẹ và em, lại sao. Việc gì đã xảy ra? Người ấy định làm gì? Người ấy đã nói với nàng những gì thế? Người ấy hôn chân nàng và nói, nói… phải, người ấy đã nói rõ như thế, là thiếu nàng người ấy không thể sống được… Trời ơi!". Suốt đêm hôm ấy Sonya sốt và mê sảng. Đôi khi nàng giật mình choàng dậy, khóc, tay vặn vào nhau, có khi lại chìm vào một giấc ngủ li bì của người sốt, và nàng mơ thấy Polenka, Katerina Ivanovna, Lizaveta, buổi đọc Phúc âm và người ấy… chàng, với khuôn mặt xanh xao, đôi mắt nẩy lứa… Chàng hôn chân nàng, khóc… Trời ơi! Sau cánh cửa bên phải, cánh cửa ngăn phòng Sonya với các phòng ở của bà Gertruda Karlovna Resslich, có một căn buồng trung gian từ lâu bỏ trống mà bà Resslich có ý định cho thuê, trên cổng vào có một tấm biển và trên các tấm kính cửa sổ trông ra bờ kênh có dán những mảnh giấy cho biết rõ ý định đó. Lâu nay Sonya đã quen coi đó là một gian phòng không có người ở. Thế nhưng suốt tối hôm ấy ông Xvidrigailov đã đứng trong phòng ấy ghé sát vào cánh cửa nghe trộm. Khi Raxkonikov đi ra, ông ta đứng ngẫm nghĩ một lát, rón rén trở về buồng mình giáp gian phòng bỏ trống, lấy một chiếc ghế dựa và lặng lẽ đặt vào sát cánh cửa thông sang buồng Sonya. Ông ta thấy cuộc nói chuyện vừa qua rất lý thú và đáng chú ý, nó làm cho ông ta rất hài lòng, hài lòng đến nỗi ông ta đưa chiếc ghế sang để sau nầy, ngay như ngày mai chăng hạn, khỏi phải chồn chân đứng suốt một tiếng đồng hồ; từ rày phải có chỗ ngồi cho thật thoải mái để hưởng một khoái cảm trọn vẹn về đủ mọi phương diện. Chú thích: (1) Đối với những người Cơ đốc giáo, tự tử là "trọng tội" (2) Nguyên văn "jurodivaia" ở Nga có những người ngây dại được những người mê tín coi là "người của Chúa", bản thân họ cũng thường mộ đạo đến mức cuồng si (3) Cách Petersburg bảy dặm có một nhà thương điên (4) Những đoạn trích Phúc âm ở đây đều sao theo bản Kinh thánh bằng tiếng Việt của Société biblique britannique et étrangère( Thượng Hải 1925, có sửa lại đôi chút hơi khác với các bản La tinh, Nga và Pháp. TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT Phần IV Chương 23 Sáng hôm sau, đúng mười giờ, khi Raxkonikov bước vào đồn cảnh sát, đến phòng viên dự thẩm và nhờ vào báo với Porfiri Petrovich là mình đã đến, chàng phải lấy làm lạ không hiểu sao mãi người ta vẫn chưa tiếp chàng: ít nhất đến mười phút sau mới có lệnh mời chàng vào. Thế mà chàng cứ dự tính là lẽ ra chàng vừa đến họ đã vồ ngay lấy chàng mới phải. Trong khi đó chàng vẫn đứng trong phòng khách, quanh chàng có nhiều người đi lại, toàn là những người chẳng có vẻ gì chú ý đến chàng cả. Ở phòng sát bên trông giống như một phòng giấy, có mấy viên thư lại đang ngồi viết và có thể thấy rõ là trong bọn họ không hề có ai hay biết gì về cái tên Raxkonikov. Chàng đưa mắt lo lắng và ngờ vực dò xét quanh mình, xem thử đâu đây có một tên lính áp giải nào, một đôi mắt bí mật nào theo dôi chàng, để chàng khỏi lén đi đâu chăng? Nhưng không hề có một dấu hiệu nào tương tự: chỉ thấy những viên thư ký quen đang bận bịu với những công việc lặt vặt và những người không hề để ý đến chàng: bây giờ chàng có muốn đi khắp các phương trời cũng chẳng ai biết. Mỗi lúc chàng một thêm vững tâm nghĩ rằng nếu con người bí mật hôm qua, cái bóng ma từ dưới đất trồi lên ấy biết hết và trông thấy hết, thì lẽ nào người ta lại để cho chàng ung dung đứng đợi như thế nầy? Và chẳng lẽ người ta lại ngồi yên cho đến mười một giờ đợi đến khi chàng tự nguyện dẫn xác đến? Thế nghĩa là người ấy chưa tố giác gì, hay… hay chẳng qua chính hắn cũng chẳng biết gì, chẳng trông thấy gì nốt (mà trông thấy làm sao được kia chứ!), vậy thì tất cả những việc xảy ra hôm qua chỉ là một ảo ảnh, bị trạng thái kích động và trí tưởng tượng bệnh tật của chàng phóng đại ra. Giờ đây ôn lại tất cả những việc ấy và chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu sắp tới, chàng bỗng cảm thấy mình run, và thậm chí còn thấy giận sôi lên khi nghĩ rằng mình run sợ trước tên Porfiri Petrovich khả ố. Đối với chàng, điều khủng khiếp nhất là phải gặp lại con người ấy: chàng căm thù hắn vô cùng, vô hạn, thậm chí còn sợ lòng căm thù ấy làm cho mình hở miệng mà tiết lộ. Chàng tức giận đến nỗi lập tức thôi run; chàng sửa soạn bước vào với một vẻ lạnh lùng xấc xược và tự hứa với mình là sẽ cố lặng thinh, có chú ý nhìn và lăng nghe càng nhiều càng tốt, ít nhất lần nầy phải thắng cho kỳ được cái bản năng dễ khích động một cách bệnh tật của mình. Ngay lúc ấy họ gọi chàng vào phòng giấy Porfiri Petrovich. Porfiri Petrovich đang ngồi một mình trong phòng làm việc. Đó là một gian phòng không lớn mà cũng không nhỏ: trong phòng có một cái bàn viết đặt trước một chiếc đi-văng bọc vải sơn, một cái bàn đựng giấy tờ; một cái tủ đặt trong góc và mấy cái ghế dựa - toàn là những đồ đạc của công sở, bằng gỗ vàng đánh bóng. Trong một góc, trên bức tường phía sau, hay nói cho đúng hơn là trên tấm gỗ ngăn ở phía sau, có một cánh cửa đóng kín: sau tấm gỗ ấy chắc phải còn những gian khác nữa. Khi Raxkonikov vào, Porfiri Petrovich lập tức khép cánh cửa chàng vừa bước qua, và trong phòng chỉ còn lại hai người. Porfiri Petrovich đón khách một cách hết sức vui vẻ và niềm nở, và chỉ mấy phút sau, Raxkonikov mới nhận thấy một vài dấu hiệu tỏ ra ông ta hơi lúng túng, cứ như thể có ai vừa làm cho ông ta ngạc nhiên một cách đột ngột hay bất chợt thấy ông ta đang làm một việc gì vụng trộm. - A, anh bạn rất đáng kính! Anh đến sào huyệt chúng tôi rồi… - Porfiri chìa cả hai tay ra nói. - Nào, cậu ngồi đây! Hay có lẽ, anh không thích tôi gọi "anh bạn" hay… "cậu" tout court? (1). Xin anh đừng cho là tôi quá suồng sã… Đây ạ, mời anh ngồi lên chiếc đi-văng nầy. Raxkonikov ngồi xuống, mắt vẫn chăm chú nhìn Porfiri. Mấy chữ "đến sào huyệt chúng tôi rồi", cậu xin lỗi về cách xưng hô, hai chữ Pháp "tout court", v.v… đều là những dấu hiệu tiêu biểu. "Chà, hắn chìa cả hai tay ra cho mình, nhưng không đưa tay nào cho mình bắt cả, hắn rụt lại rất đúng lúc" - chàng thoáng nghĩ, lòng nghi ngại. Hai người theo dõi nhau, nhưng hễ hai luồng mắt gặp nhau một cái là nhanh như chớp, họ nhìn ngay sang phía khác. - Tôi đem mảnh giấy nầy đến… về cái đồng hồ… ấy ạ Viết thế nầy được chưa ạ, hay phải viết lại? - Cái gì? Giấy à? Được, được… anh đừng bận tâm, thế nầy được rồi, - Porfiri Petrovich nói liến thoắng như đang vội đi đâu, đoạn cầm giấy xem. - Phải đúng thế nầy đây. Không cần gì hơn nữa. - Ông ta vẫn nói liến thoắng, đoạn đặt tờ giấy xuống bàn. Rồi một phút sau, trong khi đã nói sang chuyện khác, ông ta lại cầm lên và đem cất vào bàn đựng giấy. - Hôm qua hình như ông có nói rằng ông muốn hỏi tôi… chính thức… về quan hệ giữa tôi với người… bị giết? - Raxkonikov mở đầu, - "Sao mình lại nói hình như - ý nghĩ ấy vụt qua óc như một tia chớp. - Mà sao mình lại lo ngại vì đã nói hình như - một ý nghĩ khác lập tức kế theo, nhanh như luồng điện. Và chàng chợt cảm thấy rằng trong chốc lát, chỉ cần tiếp xúc với Porfiri Petrovich một cái, chỉ cần hai câu nói, hai tia mắt, là tính đa nghi của chàng đã tăng lên đến mức quái dị… và như vậy hết sức nguy hiểm: thần kinh bị khích động, càng thêm hồi hộp. "Nguy to! Nguy to! Ta lại sẽ lỡ lời". - Vâng - vâng - vâng. Xin anh đừng ngại! Ta còn đủ thì giờ, còn đủ thì giờ, - Porfiri Petrovich lắp bắp. Ông đi đi lại lại bên bàn viết, nhưng hình như chẳng có mục đích gì cả, khi bước ra cửa sổ, khi lại gần bàn đựng giấy, khi lại đến bàn viết, khi thì cố tránh khóe nhìn ngờ vực của Raxkonikov, khi thì lại dừng phắt tại chỗ nhìn trừng trừng vào mắt chàng. Những lúc ấy trông cái bóng dáng thấp bé, mập mạp và tròn trình của ông ta thật là kỳ quái, cứ như một quả bóng lăn lông lốc khắp phòng, hễ gặp phải tường là bật trở lại. - Ta còn nhiều thì giờ, còn nhiều thì giờ! Anh có hút thuốc không? Anh có thuốc đấy chứ! Đây, thuốc lá đây - ông vừa nói vừa đưa cho khách một điếu - Anh ạ, tôi tiếp anh ở đây, còn chỗ ở của tôi thì ở ngay bên kia vách… phòng của sở cắt cho tôi đây, còn bây giờ thì tôi tạm thời ở chỗ khác, vì đây đang còn phải sửa sang lại đôi chút. Cũng gần xong rồi… Được Nhà nước cắt cho chỗ ở cùng là một chuyện thú vị, anh nhỉ? Anh nghĩ sao? - Phải, thú vị lắm, - Raxkonikov đáp, mắt nhìn Porfiri gần như ngạo nghễ. - Thú vị lắm, thú vị lắm… - Porfiri Petrovich nhắc đi nhắc lại, như chợt nghĩ đến một điều gì khác hẳn, - Phải thú vị lắm! - cuối cùng ông nói to gần như reo lên, dừng phắt lại cách Raxkonikov hai bước và nhìn thẳng vào mặt chàng. Cái lối nhắc đi nhắc lại một cách ngốc ngếch rằng được Nhà nước cắt chỗ ở cho là một chuyện thú vị ấy thật quá tương phàn với cái nhìn nghiêm trang, thâm trầm và bí ẩn của ông ta lúc bấy giờ. Nhưng điều đó lại càng làm cho cơn giận của Raxkonikov sôi sục lên, chàng không sao nén nổi một lời khiêu khích ngạo nghễ và khá liều lĩnh: - Ông nầy, - chàng bỗng hỏi, mắt nhìn Porfiri gần như xấc xược và tựa hồ cảm thấy khoái lạc với cái vẻ xấc xược ấy hình như có một quy tắc tư pháp, một biện pháp mà các vị dự thẩm đều dùng, là thoạt tiên nói những chuyện xa xôi, những chuyện vặt vãnh không đâu hay thậm chí nói đến một việc nghiêm trang nào ngoài rìa để làm cho người bị hỏi cung vững tâm hay nói cho đúng hơn, xao lãng đi, để ru ngủ sự đề phòng của người rồi đột nhiên giáng lên đỉnh đầu người ta một câu hỏi hết sức bất ngờ và nguy hiểm; có phải thế không? Hình như xưa nay trong cái tập điều lệ, quy chế nhất nhất đều có nhắc đến biện pháp nầy thì phải? - À thế ra… Ông cho rằng tôi nói đến chuyện phòng phiếc là để thế đấy phỏng? - Nói đoạn Porfiri Petrovich nháy mắt một cái; một vẻ cười cợt ranh mãnh thoáng lướt qua mặt ông ta, những nếp nhăn trên trán lặn đi, hai con mắt ti hí nheo lại, các nét mặt giãn ra rồi ông ta bỗng phá lên cười một thôi dài, rung cả người lên, mắt nhìn thẳng vào mặt Raxkonikov. Raxkonikov cũng gượng gạo cất tiếng cười, nhưng khi Porfiri thấy chàng cười theo, lại càng cười sặc sụa đến nỗi mặt đỏ tía lên, thì Raxkonikov kinh tởm. Cơ chừng không còn giữ gìn gì được nữa: chàng im bặt, cau mày và quắc mắt căm giận, nhìn không chớp vào mặt Porfiri suốt trận cười dường như cố ý kéo dài vô tận của y. Vả chăng, rõ ràng là cả hai bên đều thiếu thận trọng: hoá ra Porfiri Petrovich đã cười vào mặt khách, trong khi khách phát uất lên vì tiếng cười của ông ta, thế mà ông ta cũng không lấy gì làm ngượng cả. Raxkonikov rất chú ý đến điều nầy: chàng đã hiểu rằng vừa qua Porfiri Petrovich chẳng thấy ngượng chút nào, mà ngược lại, chính chàng có lẽ đã rơi vào tròng; chàng hiểu rằng ở đây hiển nhiên có một chứ ý gì mà chàng không biết, rằng có lẽ mọi việc đã bố trí xong xuôi và chỉ lát nữa sẽ lộ rõ ra, phơi trần ra… Chàng lập tức đi thẳng vào đề, đứng dậy cầm lấy mũ: - Porfiri Petrovich, - chàng nói, giọng quả quyết, nhưng cũng để lộ khá rõ sự bực tức. - Hôm qua ông có ngỏ ý muốn tôi đến đây để ông hỏi cung gì đấy. Chàng nhấn mạnh đặc biệt hai tiếng "hỏi cung". Tôi đã đến, và ông cần gì xin cứ hỏi, nếu không xin để tôi về. Tôi đang vội, tôi có tí việc. Tôi cán đến dự lễ an táng người công chức bị ngựa xéo mà ông, cũng có biết … - Chàng nói thêm rồi lập tức phát cáu lên vì đã nói thêm như vậy, rồi sau đó lại càng bực tức hơn nữa vì đã phát cáu lên như thế, - tôi chán ngấy những chuyện nầy rồi. Ông thấy không, ngay từ lâu rồi… và cùng một lần vì thế mà tôi phát ốm, nói tóm lại. - chàng gần như quát lên, vì cảm thấy câu nầy lại càng không đúng chỗ hơn nữa, nói tóm lại: một là ông hỏi tôi đi, hai là để cho tôi về ngay… và nếu có hỏi thì xin hỏi cho đúng thủ tục! Bằng không, tôi sẽ không cho phép; vì vậy, trong khi chờ đợi, xin chào ông, và hiện nay ông với tôi không còn chuyện gì để mà nói nữa… - Trời ơi Anh làm sao thế? Hỏi anh cái gì mới được chứ" - Porfiri Petrovich kêu lên, lập tức đổi giọng, đổi vẻ mặt và thôi cười ngay trong nháy mắt, - Xin anh đừng lo, anh ạ, - Ông ta nói, giọng vồn vã, rồi lại hùng hục đi bách bộ khắp phòng, xong lại đến mời Raxkonikov ngồi xuống, - còn chán thì giờ anh ạ, còn chán thì giờ, với lại những cái đó toàn là chuyện không đâu cả! Trái lại tôi rất mừng là anh đã đến chỗ chúng tôi. Tôi tiếp anh như tiếp một người khách. Còn về trận cười chết tiệt của tôi thì xin anh bỏ qua cho, Rodion Romanovich ạ. Có đúng tên anh là Rodia Romanovich không nhỉ? Tên ông cụ thân sinh anh là Roman phải không? Thần kinh tôi dễ kích thích lắm, lời nhận xét hóm hỉnh của anh làm tôi buồn cười quá; đôi khi tôi cười cứ rung bắn lên như qua bóng cao su suốt nửa giờ liền… Tôi hay cười lắm. Tạng tôi thế nầy, tôi còn sợ bị bại liệt nữa kia. Nhưng anh ngồi xuống chứ, ai lại thế? Ngồi đi, anh bạn ạ, không tôi lại nghĩ là anh giận… Raxkonikov im lặng lắng nghe và quan sát, mặt vẫn cau có giận dữ. Tuy vậy chàng cũng ngồi xuống, nhưng tay vẫn không bò mũ. - Anh bạn Rodion Romanovich ạ, tôi xin nói với anh một điều về bản thân tôi, có thể nói là để anh hiểu rõ đặc tính của tôi, - Porfiri nói tiếp, vẫn đi lại lăng xăng trong phòng và vẫn tránh mắt Raxkonikov như ban nãy. - Anh ạ, tôi là người độc thân, không hay giao thiệp và ít người biết tên, hơn nữa lại là một người hết thời, một người bỏ đi, một người đã mụ mằn đã mốc meo lên rồi và… và… anh có nhận thấy điều nầy không, anh Rodion Romanovich là ở nước ta, nhất là trong các giới Petersbung của chúng ta, nếu hai người thông minh chưa quen lắm nhưng có thể nói là coi trọng nhau, như anh với tôi chẳng hạn, ngồi lại với nhau, thì thường hàng nửa giờ vẫn không tài nào tìm ra một đề tài nói chuyện, - cứ ngồi trơ ra nhìn nhau, ngượng nghịu. Ai ai cũng có đề tài nói chuyện, các bà chẳng hạn… Những giới xã giao thượng đẳng chẳng hạn, bao giờ cũng có chuyện mà nói, cest de rigueur(2), còn hạng người trung lưu như chúng ta thì lại hay ngượng và ít nói… Ấy là tôi nói những người biết nghĩ ấy. Thế thì tại sao, anh thứ nghĩ xem, tại sao lại như thế? Tại chúng ta không quan tâm gì đến các vấn đề xã hội, hay tại chúng ta vốn rất trung thực cho nên không muốn lừa dối nhau, tôi cũng không biết nữa. Hả? Anh nghĩ sao? Kìa, anh để mũ xuống chứ, cứ như anh định đi ngay ấy, quả tình cũng khó coi lắm… Trái lại, tôi rất mừng… Raxkonikov đặt chiếc mũ lưỡi trai xuống và lặng thinh, vẻ nghiêm trang và cau có, lắng nghe câu chuyện rỗng tuếch và đầu Ngô mình Sở của Porfiri. "Phải hắn định nói chuyện nhảm như thế để làm mình xao nhãng sức chú ý thật chăng?". - Tôi sẽ không mời anh xơi cà phê đâu, đây không phải chỗ; nhưng tại sao lại không ngồi giải trí lấy dăm phút với bạn bè, - Porfiri nói không ngớt miệng, - Anh ạ, những thứ công vụ nầy nọ, nhưng tôi cứ đi đi lại lại thế nầy anh đừng phật ý nhé; anh bỏ qua cho, anh bạn ạ, tôi rất sợ làm anh phật ý, nhưng tôi không thể thiếu vận động được. Tôi phải ngồi suốt ngày nên cũng muốn đi lại lấy dăm phút… bệnh trĩ mà… tôi vẫn chữa bằng thể dục; nghe nói có những ông tư vấn, những ông tư vấn quốc gia hắn hỏi, và ngay cả những ông tư vấn cơ mật nữa cũng vui lòng nhảy dây; thời buổi khoa học là thế đấy… thế đấy… Còn về những công vụ ở đây, những việc hỏi cung và những thủ tục nầy nọ… ấy, anh vừa có nhã ý nhắc đến chuyện hỏi cung… quả nhiên, anh Rodion Romanovich ạ, xin anh biết cho rằng những cuộc hỏi cung ấy đôi khi còn làm cho người hỏi rối trí hơn cả người bị hỏi nữa kia… Về điều nầy, vừa rồi anh bạn vừa có một nhận xét hoàn toàn đúng đắn, mà lại dí dỏm nữa (thật ra Raxkonikov không hề nhận xét gì như thế cả). Cứ rối tung lên? Phải, rối tung lên! Và trở đi trở lại vẫn chỉ có thế, như cái trống ếch ấy! Sắp cải cách đến nơi, ít nhất cũng mong họ đổi cách gọi cho, hê hê hê! Còn như về cái biện pháp tư pháp của chúng tôi - như anh đã gọi một cách dí dỏm - thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Thì anh bảo người bị cáo nào, ngay cả tên mu-gích dần độn nhảt cũng thế, người bị cáo nào mà không biết rằng thoạt tiên người ta bắt đầu hỏi những câu vu vơ để ru ngủ mình (theo cách nói rất tài tình của anh) rồi bỗng nhiên bổ thắng vào sọ, bổ thẳng sống rìu, hê hê hê, vào chính giữa sọ, theo cách ẩn dụ rất tài tình của anh hê - hê! Thế ra anh nghĩ rằng tôi nói đến chuyện chỗ ở là muốn… hê - hê? Anh có khiếu châm biếm đấy. Ấy, tôi không làm như thế đâu? À phải, nhân nói đến chuyện nầy lại nhớ đến chuyện kia, vừa rồi anh cũng có nhã ý nhắc đến thủ tục, ấy, thủ tục hỏi cung ấy mà… Nhưng thủ tục là cái gì? Anh ạ, trong nhiều trường hợp thủ tục chỉ là chuyện nhảm. Đôi khi nói chuyện thân mặt như chỗ bạn bè lại có lợi hơn. Thủ tục không mất đi đâu, xin anh cứ yên tâm; nhưng xin hỏi thủ tục thực ra là cái gì? Trong bất cứ trường hợp nào thủ tục cũng không có quyền làm vướng chân người hỏi cung. Công việc của người dự thẩm có thể nói là một thứ nghệ thuật tự do hay một cái gì như thế… hê - hê - hê! Porfiri Petrovich dừng lại một phút đề thở. Ông ta cứ thế tuôn ra từng tràng những câu rỗng tuếch, vô nghĩa lý, nhưng thỉnh thoảng lại đột ngột chen vào những chữ đầy ần ý rỏi lại lập tức quay ra nói chuyện phiếm. Bây giờ ông ta gần như chạy khắp phòng, hai cẳng chân béo phị bước mỗi lúc một nhanh, mắt nhìn xuống đất, tay phải để sau lưng, tay trái khua lia lịa, làm đủ các thứ cử chỉ không ăn khớp tí nào với lời nói của ông ta. Raxkonikov chợt nhận thay rằng trong khi chạy qua chạy lại trong phòng, có đôi lần hình như ông ta dừng chân bên cánh cửa một khoảnh khắc, có vẻ như nghe ngóng… "Hắn chờ đợi cái gì hay sao thế?". - Ấy quả nhiên anh nói đúng hoàn toàn đấy, - Porfiri nói tiếp, mắt nhìn Raxkonikov một cách vui vẻ và hồn nhiên lạ thường đến nỗi chàng phải giật mình đề phòng, - Đúng thật đấy, anh có nhã ý chê điều các thủ tục tư pháp một cách thật dí dỏm mà lại rất đúng đắn, hê - hê! Những biện pháp tâm lý học thâm thuỷ của chúng tôi (dĩ nhiên cũng chỉ một số nào thôi) qua nhiên cũng hết sức buồn cười, mà có lẽ lại còn vô ích nữa, nếu nói bị hình thức cản trở. Phải, tôi lại xin nói đến thủ tục: ấy, nếu tôi được giao cho điều tra một vụ nào đấy, và biết rằng, hay nói cho đúng hơn, nghi ngờ rằng người nầy người nọ là thủ phạm… Hình như anh học luật thì phải? - Vâng, trước kia tôi học luật. - Ấy thế thì đây là một thí dụ có thể có ích cho anh về sau, nghĩa là anh đừng nghĩ rằng tôi dám lên mặt dạy anh: đã viết được một bài báo về tội ác như thế còn khiến ai dạy! Không đâu; chẳng qua tôi chỉ đánh bạo trình bày một sự kiện, một dẫn chứng nhỏ đấy, chẳng hạn tôi cho rằng người nầy, người kia, người nọ là thủ phạm, thì xin hỏi việc gì tôi lại làm phiền đến họ quá sớm, mặc dầu cứ cho là tôi có bằng chứng dế buộc tội họ đi nữa? Chẳng hạn có người thì phải bắt ngay, nhưng có người thì tính chất lại khác, đúng thế đấy, thế thì việc gì không để cho hắn trong chơi trong thành phố ít lâu? Hê - hê! Ấy, tôi thấy hình như anh chưa thật hiểu, vậy tôi xin nói rõ hơn: chẳng hạn tôi bắt đầu sớm quá, thì như vậy có lẽ tôi đã cho hắn một chỗ dựa tinh thần, có thể nói như thế, hê - hê! Anh cười à? (Raxkonikov không hề có ý muốn cười: chàng mím môi ngồi im, đôi mắt nảy lửa không rời mắt Porfiri Petrovich). Nhưng thật ra nó như thế đấy, nhất là đối với một số người nào đó, vì người ta mỗi người một tính, và chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh nghiệm thực tế mà thôi! Vừa rồi anh có nhã ý nhắc đến bằng chứng; thì ta cứ cho là phải có bằng chứng đi, nhưng anh ạ, bằng chứng phần nhiều đều to hai mặt; tôi là một người dự thẩm, nghĩa là một con người yếu đuối, xin nhận như vậy: trong bụng cũng muốn tiến hành điều tra một cách rõ ràng như toán học, cùng muốn kiểm được một bằng chứng hiển nhiên như hai lần hai là bốn! Một bằng chứng trực tiếp, không chối cãi vào đâu được! Nhưng nếu bắt người không đúng lúc, tuy biết đích xác đó chính là thủ phạm, thì như vậy là tự tước bỏ mất phương tiện tiếp tục buộc tội, tại sao? Tại vì làm như vậy tức là đã cho hắn một tình thế xác định, có thể nói như thế, làm cho hắn yên chí và vững tâm, thế là hắn sẽ rụt sâu vào vỏ: hắn sẽ hiểu rằng hắn là một tù nhân. Nghe nói ở Sevaxtopol ngay sau trận Alma, những người có trí tuệ rất lo quân địch đánh vào không biết lúc nào và chiếm ngay Sevaxtopol; nhưng khi thấy quân địch muốn tiến hành một cuộc vây hãm chính quy và bắt đầu xây công sự, thì họ yên tâm và vui mừng không biết bao nhiêu mà kể: như thế nghĩa là ít nhất hai tháng nữa cuộc vây hãm chính quy kia mới kết thúc bằng trận đánh chiếm thành phố? Anh lại cười rồi, lại không tin à? Dĩ nhiên anh cũng đúng. Đúng, đúng! Đó vẫn là những trường hợp cá biệt, tôi cũng nghĩ thế; trường hợp vừa nêu lên là một trường hợp cá biệt đấy! Nhưng anh Rodion Romanvôvich thân mến ạ, trong khi đó cần phải nhận rõ điều nầy: cái trường hợp chung chung mà các, thủ tục và quy tắc tư pháp ghi trong sách vở nhằm giải quyết và vẫn được ứng dụng để giải quyết, lại là một trường hợp không hề có, chính là vì bất cứ vụ án nào cũng là một vụ án mạng chẳng hạn, hễ đã xảy ra trong thực tế thì lập tức chuyển thành một trường hợp hoàn toàn cá biệt và đôi khi không có chút gì giống các vụ trước. Đôi khi có những trường hợp hết sức khôi hài. Ấy, tôi cứ để cho một vị nào đó hoàn toàn tự do: không bắt bớ, không quấy rầy gì cả, nhưng làm thế nào để cho ông ta từng giờ từng phút biết rằng - hay ít nhất cùng nghi ngờ rằng tôi biết hết từ đầu chí cuối, rằng tôi suốt đêm ngày theo dõi ông ta, rình mò ông ta không lơi một phút, tôi cứ để cho ông ta nghi ngờ và lo sợ thường xuyên như thế, xin cam đoan là thế nào ông ta cũng cuống lên, tự dẫn xác đến và có lẽ lại còn hớ hênh để lộ ra một cái gì giống như hai lần hai là bốn, một cái gì có vẻ toán học, ấy thế mới thú chứ. Điều đó có thể xảy ra với một anh mu-gích quê kệch mà cũng có thể xảy ra với một anh em của chúng ta, một con người hiện đại, mà lại có nhiều sở trường về một mặt nào đó nữa, đã từng có trường hợp như thế đấy! Bởi vì, anh bạn thân mến ạ, một điều rất quan trọng là phải hiểu người kia sở trường mặt nào. Lại còn thần kinh nữa, thần kinh nữa chứ, anh quên mất cái nầy! Chả là bây giờ những con người như thế đều đau ốm, dễ khích động! Lại thêm cái chứng sưng mặt nữa, sưng mặt nặng ấy. Và cũng xin nói rằng nhiều khi đó là thứ nguồn quặng đấy. Việc gì tôi lại phải lo vì hắn đi lại tự do trong thành phố? Cứ để cho hắn dạo chơi, tạm thời cứ để cho hắn dạo chơi đã; vì dù sao tôi cũng biết là con mồi của tôi không bao giờ bỏ tôi mà lẩn đi đâu cả kia mà! Vả lại lẩn đi đâu mới được chứ? Hê - hê! Ra nước ngoài à? Một người Hà Lan thì trốn ra nước ngoài, chứ hắn thì không đâu. huống chi tôi vẫn theo dòi và hơn nữa đã có cách đề phòng. Trốn vào những nơi thâm sơn cùng cốc của tổ quốc chăng? Nhưng ở đấy toàn những gã mu-gich Nga chân chính, những gã mu-gích thâm căn cố đế: một người có học như ngày nay thì thà vào ngục còn thích hơn là sống với bọn mu-gích của chúng ta, hề - hề! Vì đối với họ, bọn mu-gích cùng chẳng khác gì người ngoại quốc! Nhưng những cái đó toàn là chuyện vặt, chuyện bề ngoài. Trốn là thế nào! chỉ là chuyện hình thức, cái chính không phải ở chỗ đó; hắn không trốn không phải chỉ vì không biết trốn đi đâu: hắn không trốn thoát tôi vì những nguyên do tâm lý học kia. Nghe cùng hay đấy chứ nhỉ! Vì một định luật của tự nhiên, hắn không trốn dù có chỗ để mà trốn cũng vậy. Anh đã trông thấy một con bướm trước ngọn nến chưa? Ấy, hắn cứ thế mà luấn quẩn mãi xung quanh tôi như con bướm quay cuồng xung quanh ngọn nến; tự do đối với hắn không còn có gì thú vị nữa, hắn sẽ nghĩ ngợi, rối trí, quằn quại, làm cho mình mắc míu thêm như vưóng vào lưới, tự dày vò mình đến chết đi được! Chưa đủ: chính hắn sẽ chuẩn bị cho tôi một tấn trò toán học gì như kiểu hai lần hai là bốn, miễn là tôi cho hắn một thời gian giải lao cho lâu lâu. Và hắn sẽ quay tròn, quay tròn mãi xung quanh tôi mỗi lúc một gần lại và… hớp! Hắn sẽ chui tọt vác mồm tôi, tôi sẽ nuốt chửng, thú vị thật, hê - hê - hê! Anh không tin à? Raxkonikov không đáp, chàng ngồi yên, không cử động, mặt tái mét, mắt vẫn chăm chăm nhìn vào mặt Porfiri. "Bài học hay đấy - chàng nghĩ, người lạnh toát ra. - Bây giờ không còn là cái kiểu mèo vờn chuột như hôm qua nữa. Hắn không dại gì phô trương sức mạnh của hắn ra và… mách nước cho mình một cách vô ích: hắn thông minh hơn thế nhiều… Đây có một mục đích khác. Mục đích gì? A, đừng hòng, ông bạn ạ. Ông doạ dẫm tôi. Ông mưu mẹo với tôi à? Ông không có bằng chứng, và con người hôm qua không hề có. Chẳng qua ông muốn làm tôi rối trí, muốn trêu cho tôi tức lên trước, rồi khi tôi đã khùng lên thì chộp chứ gì? Đừng hòng, hớ rồi! Nhưng sao hắn lại mách nước cho mình đến mức ấy để làm gì? Hắn trông mong vào bộ dây thần kinh ốm yêu của mình chắc. Không đâu, ông bạn ạ đừng hòng, hớ rồi đấy, mặc dầu ông đã có sửa soạn một cái gì đây… Nào, thử xem ông sửa soạn cái gì?" Và chàng lấy hết sức bình sinh ra chuẩn bị đón lấy cái tai hoạ khủng khiếp và chưa hề hay biết kia. Nhiều lúc chàng muốn chồm lên bóp cổ Porfiri chết tươi ngay tại chỗ. Từ khi bước vào đây, chàng đã sợ cơn giận đó. Chà ng cảm thấy môi khô lại, tim đậ p thình thình, nước bọt sùi ra mép. Nhưng chàng vẫn quyết im lặng không nói một câu nào khi chưa đến lúc. Chàng hiểu rằng đó là chiến thuật tất nhất ở tình thế chàng, vì làm như vậy không những chàng sẽ không lỡ lời mà trái lại còn làm cho kẻ thù tức tối khi thấy mình lặng thinh, và có lẽ chính hắn còn lỡ lời ra với mình nữa. Ít nhất chàng cũng hy vọng như vậy. - Không, anh không tin, tôi biết, anh vẫn nghĩ rằng tôi đùa nhảm, - Porfiri nói tiếp, mỗi lúc một vui lên, thích chí cười hềnh hệch luôn mồm và lại bắt đầu chạy loanh quanh trong phòng. - Dĩ nhiên anh nghĩ phải; trời sinh tôi ra người ngợm như thế nầy, thành thứ chỉ gợi lên cho người ta những ý nghĩ hài hước mà thôi; tôi là một thằng hề; nhưng tôi đã nói và xin nhắc lại với anh một lần nữa rằng anh nên bỏ qua cho tôi, một người già cả. Anh Rôđỉôn Romanvôvich ạ. anh hãy còn trẻ, có thể nó; là đang tuổi hoa niên cho nên cũng như toàn thể lớp thanh niên, anh trọng trí tuệ con người hơn cả. Sự sắc sảo nhạy bén của trí tuệ và những sự suy diễn trừu tượng của lý trí quyến rũ anh rất mạnh. Và như vậy là giống hệt như cái Hofkriegsrat của Áo ngày trước chẳng hạn, trong chừng mực tôi có thể xét đoán qua các biến cố quân sự, trên giấy thì họ đánh tan quân Pháp và bắt Napleon làm tù binh, và trong khi họ ngồi trong phòng giấy mà tính toán với suy diễn một cách vô cùng sắc bén, thì tưởng Mark đã đầu hàng cùng với cả quân đoàn ông ta, hê - hê - hê! Tôi biết, tôi biết anh Rodion Romanovich ạ, anh đang cười tôi, vì tôi là công chức mà cứ thích lấy dẫn chứng trong lịch sử quân sự. Biết làm thế nào được, tôi có cái tật là thích việc quân sự và thích đọc các bản thông báo quân sự chắc hẳn tôi đã chọn sai nghề. Lẽ ra tôi phải đeo đuổi nghiệp quân sự mới phải. Có lẽ cũng chẳng thành một Napoleon đâu, nhưng cũng phải lên đến chức thiếu tá hê - hê - hê? Ấy đấy còn bây giờ, anh bạn thân mến ạ tôi sẽ nói cho anh biết chi tiết việc kia, nghĩa là cái trường hợp cá biệt ấy: thực tế và nhân tính là điều quan trọng, anh ạ, và đôi khi nó làm điên đảo sự tinh toán sáng suốt nhất? Ấy, anh nên tin lời một người già cả tôi nói thật đấy, Rodion Romannovich (trong khi nói nhưvậy, Porfiri Petrovich tuy chỉ vẻn vẹn ba mươi lăm tuổi, nhưng quả nhiên cùng trông như già hẳn đi: ngay cả giọng nói của ông ta cùng thay đổi, người khọm rọm lại), - hơn nữa tôi là người ngay thật… Tôi có phải là người ngay thật không nào? Theo anh thì sao? Hình như ngay thật hẳn hoi chứ còn gì nữa: những chuyện như thế mà tôi cứ nói toang ra cho anh biết, lại không đòi đên bù gì cả. hê - hê ấy thế đấy, tôi xin nói tiếp: trí tuệ sắc sảo là một điều rất quý; đó có thể nói là một sự tô điểm của thiên nhiên và là một nguồn an ủi của cuộc sống, và nó có thể bày ra đủ các trò quỷ thuật đến nỗi một anh dự thẩm tội nghiệp nhiều khi không biết đằng nào mà lần nữa; vả lại hắn ta còn bị trí tưởng tượng của hắn mê hoặc nữa, vì hắn ta cũng là người thôi! Nhưng nhân tính lại cứu trợ cho anh dự thẩm tội nghiệp kia, thế mới chết chứ! Và chính đó là điều mà lớp thanh niên say mê trí tuệ không nghĩ đến, trong khi "bước qua mọi trở lực" (như anh đã nói một cách hết sức sắc sảo và tinh tế). Cứ thử cho rằng hắn lừa dối, - hắn đây tức là con người ấy, cái trường hợp cá biệt, incognito(3) ấy, - mà lừa dối một cách tài tình, khôn ngoan hết sức: có vẻ như sắp đắc thắng đến nơi rồi, hắn bắt đầu khoái trá thưởng thức những kết quả của cái trí tuệ sắc sảo của hắn, thế nhưng đùng một cái đúng vào chỗ thú vị nhất, đúng vào chỗ giật gân nhất, hắn lăn ra bất tỉnh. Thì cứ cho là hắn đang ốm, không khí trong phòng có khi cũng ngột ngạt thật, nhưng dù sao cũng lạ? Dù sao cũng gợi lên một ý! Hắn lừa dối một cách ưu việt, nhưng lại không biết trù liệu đến nhân tính. Hiểm nhất là chỗ ấy đấy. Một lần khác, mải say sưa với cái trí tuệ sắc bén của mình, hắn bắt đầu lòe người đang nghi ngờ hắn, hắn làm như cố ý tái mặt đi để đùa chơi, nhưng hắn tái mặt một cách quá tự nhiên, quá giống nhự thật, thế là lại gợi thêm một ý nữa? Tuy thoạt tiên người kia mắc lỡm thật, nhưng đêm về nghĩ lại, không biết mình có lầm lẫn hớ hênh gì chăng. Ấy cứ mỗi bước lại như thế mãi: Gì nhỉ; hắn bắt đầu đi quá bước, hắn đến những nơi không ai hỏi. hắn, hắn luôn mồm nói đến những chuyện lẽ ra phải im đi, hở ra những câu bóng gió nầy nọ, hề - hề… rồi lại tự dẫn xác đến hỏi: tại sao chưa bắt tôi đi… hề - hê - hê. Điều đó có thể xảy ra với một con người hết sức sắc sảo một nhà tâm lý học và là một nhà văn. Nhân tính là một tấm gương, một tấm gương trong suốt nhất! Hãy nhìn vào gương mà thưởng ngoạn, thế đấy! Kìa sao anh tái mặt đi thế, Rodion Romanovich, anh ngạt thở à, hay tôi mở cửa sổ ra nhé? - Ồ xin ông đừng bận tâm, - Raxkonikov nói to lên, rồi bỗng cười ha hả, - Xin ông đừng bận tâm! Porfiri dừng lại trước mặt chàng, đợi một lát rồi bỗng cười theo. Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy, trận cười như lên cơn của chàng đột nhiên ngừng bặt. - Porfiri Petrovich? - chàng nói to, tách bạch từng tiếng, tuy chân chàng run rấy chỉ chực khuỵu xuống, - bây giờ tôi đã thấy rõ ông nghi tôi giết hai chị em mụ già. Về phần tôi, tôi xin tuyên bố với ông rằng chuyện nầy đã làm tôi phát ngấy lên từ lâu rồi. Nếu ông thấy mình có quyền truy tố tôi trước pháp luật thì cứ truy tố đi; nếu ông thấy cần bắt, thì bắt đi. Nhưng cười vào mặt tôi và hành hạ tôi thì không được đâu, tôi không cho phép ông làm như vậy… Môi chàng bỗng run lên, mắt chàng lóe lên một ánh căm giận điên cuồng, và giọng nói của chàng, nãy giờ bị kìm hãm, vang lên lanh lảnh. = Tôi không cho phép ông làm như vậy! - chàng bỗng quát lên, lấy hết sức lực giáng mạnh quả đấm xuống bàn, - Ông nghe ra chưa. Porfiri Petrovich? Tôi không cho phép? - Ối trời ơi, lại làm sao rồi! - Porfiri Petrovich kêu lên, vẻ hoảng hốt đến cùng cực. - anh! Rodion Romanovich! Kìa cậu! cậu làm sao thế? - Tôi không cho phép! - Raxkonikov lại quát lên một lần nữa. - Khẽ chứ anh bạn ạ! Không người ta nghe thấy mất. họ sẽ đến đây! Biết nói với họ ra sao. Anh thử nghĩ xem! - Porfiri Petrovich thì thầm, vẻ hoảng hốt, mặt ghé sát vào mặt Raxkonikov. - Tôi không cho phép, tôi không cho phép! - Raxkonikov lắp đi lắp lại như cái máy, nhưng bất giác cũng thì thầm rất khẽ. Porfiri quay phắt đi và chạy ra mở cửa sổ. - Phải mở ra cho thoáng! Anh uống tí nước, anh bạn ạ, anh vừa lên cơn đấy! - y toan chạy ra cửa sai bưng nước, nhưng vừa may trong góc phòng có một cái bình thuỷ tinh đựng nước lã. - Anh ạ, uống đi - y vồn vã đem nước lại cho Raxkonikov, nói thì thầm, - may ra sẽ đỡ… - vẻ sợ hãi và ngay cả vẻ thương cảm của Porfiri nữa trông tự nhiên đến nỗi Raxkonikov im bặt và bắt đầu nhìn ông ta với một trí tò mò man dại. Tuy vậy, chàng cũng không uống nưức. Rodion Romanovich! Anh ạ, anh mà cứ thế thì rồi đến phát điên lên mất, tôi cam đoan như vậy, chà! Kìa anh uống đi! Ít nhất cùng uống lấy một ngụm! Hắn ép chàng cầm cốc nước lên. Như cái máy, chàng nâng cốc đưa lên môi, nhưng chợt trấn tĩnh lại, chàng lại ghê tởm đặt cốc xuống bàn, phải, anh vừa lên cơn một chút đây! Cứ như nầy thì bệnh cũ của anh lại tái phát mất đấy anh bạn ạ, - Porfiri Petrovich nói, ân cần như một người bạn: song vẫn có vẻ hơi hoang mang. - Trời ơi! Anh chẳng biết nương nhẹ mình tí nào cả? Ngay như Dmitri Prokofich hôm qua có đến tôi. - đã đành tính tình tôi cay độc, khó chịu thật đấy, nhưng ai lại vì thế mà suy diễn quá đáng như vậy bao giờ! Trời ơi, hôm qua anh về rồi, Dmitri Prokofich dặn trong khi chúng tôi đang ăn bữa trưa, cậu ấy nói huyên thiên, tôi không chen được một câu nào, chỉ đớ người ra mà nghe; ấy, tôi nghĩ… chà, rõ thật! Có phải anh bảo cậu ấy đến không? Kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh, anh ngồi xuống chứ! - Không, tôi không bảo? Nnưng tôi biết Razumikhin có đến ông, và đến để làm gì, - Raxkonikov đáp xẵng. - Anh biết à? - Biết. Thế thì sao nào? - Thì thế nầy, anh Rodion Romanovich ạ, số là tôi còn biết nhiều kỳ công của anh nữa kia; tôi biết hết! Tôi biết chuyện anh đi thuê nhà ra sao, giữa lúc đêm hôm, trời đã tối mịt, anh lại giật chuông, lại nói đến vũng máu, làm cho mấy người thợ và mấy người gác cổng không còn hiểu ra làm sao nữa. Tôi cùng hiểu tâm trạng của anh lắm, tâm trạng lúc bấy giờ ấy… dù sao cứ như thế rồi anh đến phát điên lên mất, thật đấy! Anh loạn óc mất! Lòng căm phẫn của anh sôi sục lên mãnh liệt, một lòng căm phẫn cao quý vì thấy mình bị xúc phạm, lúc đầu là số phận xúc phạm đến anh, kể đến là bọn cảnh sát, thế là anh đâm đầu đến nơi nầy nơi nọ để… có thể nói là để bắt mọi người nói rõ ra và chấm dứt ngay mọi sự, vì những mối nghi ngờ ngu xuẩn ấy đã làm anh phát ngấy lên rồi. Có phải thế không nào? Tôi đoán đúng tâm trạng anh đấy chứ? Nhưng cứ cái lối ấy, anh không những làm cho mình loạn óc lên mà ngay cả Razumikhin nhà ta nữa. Anh cũng làm hắn loạn óc nốt; vì cậu ấy tốt lắm, không thể hiểu được chuyện ấy đâu, chính anh cũng biết đấy. Anh thì có bệnh, cậu ấy thì có đức, và bệnh của anh rốt cục sẽ lây sang cậu ấy… Anh ạ, lúc nào anh bình tâm lại, tôi sẽ kể… kìa anh ngồi xuống chứ, tôi van anh. Anh nghĩ đi một chút, anh trông nhợt hẳn đi; kìa anh ngồi xuống đi. Raxkonikov ngồi xuống, cơn run đã qua, khắp người chàng nóng hâm hấp. Chàng sững sờ lắng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich đang hoảng hốt và ân cần săn sóc chàng. Nhưng chàng không mảy may tin lời ông ta nói, tuy cảm thấy có một xu hướng kỳ lạ muốn tin những lời đó. Những câu nói bất ngờ của Porfiri về chuyện đi thuê nhà làm cho chàng choáng hẳn người đi. "Thế ra hắn biết chuyện ấy rồi ư?" - chàng chợt nghĩ - mà lại đem ra kể với mình!". - Vâng, trong kinh nghiệm thực tế của chúng tôi đã từng có một trường hợp gần đúng như thế, một trường hợp tâm lý học, bệnh lý học như thế, - Porfiri nói liến thoắng. - Có một người tự gán cho mình tội sát nhân, mà lại gán thế nầy nữa kia: hắn ta dựng ra cả một cảnh tượng hoang đường, đưa ra những bằng chứng, kể lại cặn kẽ từng chi tiết, làm mọi người không biết đằng nào mà lần nữa, để làm gì? Quả tình hắn cũng có can dự vào vụ án mạng nhưng một phần nào thôi, và hoàn toàn không có chủ tâm, đến khi hắn biết là mình vô tình nối giáo cho bọn sát nhân, hắn đâm ra buồn phiền, lo sợ đến nói loạn óc lên, tưởng tượng đủ thứ, rốt cục phát điên hắn hỏi và đinh ninh rằng mình chính là kẻ giết người! Nhưng về sau toà thượng thẩm khám phá ra vụ nầy, người khốn nạn kia được xử trắng án và gửi vào nhà tế bần. May mà có toà thượng thẩm. May thậ - ật, chậc - chậc - chậc! nhưng như thế rồi sẽ ra sao hở anh bạn? Cứ thế có thể lên cơn sốt nóng khi thần kinh đã quá khích động, rồi đang đêm đi giật chuông và hỏi những thuyện máu me! Qua kinh nghiệm tôi đã biết tường tận cái tâm lý đó. Đôi khi nó cứ xui người ta nhảy, từ trên cửa sổ hay trên gác chuông xuống, và cảm giác ấy có một cái gì quyến rũ lạ thường… Chuyện giật chuông cũng thế thôi… Do bệnh tật đấy Rodion Romanovich ạ, do bệnh tật mà ra cả! Anh coi thường bệnh tình của anh quá đấy. Lẽ ra anh phải hỏi ý kiến một ông thầy thuốc có kinh nghiệm, chứ đừng có bám lấy anh chàng béo ấy… Anh mê sảng đấy! Những việc anh làm đều do mê sảng mà ra cả đấy? Trong phút chốc mọi vật như quay cuồng lên xung quanh Raxkonikov. "Phải chăng, phải chăng bây giờ hắn vẫn nói dối? - Chàng thoáng nghĩ - Không thể được, không thể được!, - chàng gạt ý nghĩ ấy đi, cảm thấy trước rằng nó sẽ làm mình giận sôi lên, nổi khùng lên, và cơn giận có thể làm mình phát điên được. - Không phải tôi mê sảng mà làm như vậy đâu, tôi tinh đấy! - chàng quát lên, trong khi cô vận dụng hết sức xét đoán để nhìn sâu vào thủ đoạn của Porfiri - Tôi vẫn tỉnh đấy, vẫn tỉnh đấy! Ông nghe ra chưa? Vâng, tôi nghe, tôi hiểu? Ngay hôm qua anh cũng nói là không mê sảng. Thậm chí còn nhấn mạnh đặc biệt là không mê sảng! Anh nói gì tôi cũng hiểu hết! Chà!… Anh nghe tôi, anh Rodion Romanovich kính mến của tôi ạ, đây cứ lấy một việc nầy chẳng hạn. Ví thử anh quả là thủ phạm hay có can dự vào cái vụ án chết tiệt nầy thật, thì đời nào anh lại nhấn mạnh rằng mình làm những việc ấy trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, chứ không phải trong cơn mê sảng? Mà lại cứ khăng khăng một mực nhấn mạnh đặc biệt vào chỗ đó nữa, - anh thử nghĩ xem, có thể nào như thế được không? Theo tôi thì hoàn toàn ngược lại mới phải. Ví thử anh có ẩn ý gì thì lẽ ra phải quả quyết rằng mình đang mê sảng mới đúng! Có phải thế không nào? Thế chứ gì? Trong câu hỏi nầy nghe như có một cái gì tinh quái, Raxkonikov né người lùi sát lưng tựa vào chiếc đi-văng để tránh Porfiri Petrovich đang chồm vào chàng, và ngỡ ngàng nhìn trân trân vào mặt hắn. - Hay như về việc Ruzumikhin chẳng hạn, hôm qua cậu ta đến là tự ý mình hay do anh dặn thế lẽ ra anh phải nói là cậu ta tự ý đến, và giấu chuyện mình có dặn dò đi! Thế nhưng chính anh có giấu đâu! Anh lại còn nhấn mạnh rằng chính mình dặn cậu ta đến! Raxkonikov không hề nhấn mạnh như thế. Chàng thấy lạnh buốt ở sống lưng. - Ông cứ dối trá mãi, - chàng nói chạm rãi: giọng u uất môi rúm lại thành một nụ cười đau đớn - Ông lại muốn cho tôi thấy rằng ông biết hết hành tung của tôi, biết trước tất cả những câu trả lời của tôi, - chàng cảm thấy mình không còn đủ sức cân nhắc lời lẽ cho kỹ lưỡng được nữa, - Ông muốn doạ tôi… hay chẳng qua ông nhạo báng tôi… Chàng vẫn nhìn trừng trừng vào Porfiri trong khi nói, rồi bỗng một cơn giận điên cuồng, vô hạn lại lóe lên trong mắt chàng. - Chỉ dối trá! - chàng quát lên. - Chính ông cũng biết rất rõ rằng thủ đoạn lợi hại nhất của kẻ phạm tội là cố sức không giấu giếm những điều không giấu giếm được Tôi không tin ông đâu! - Cái anh nầy ngộ nghĩnh thật! - Porfiri cười hì hì, - không biết đằng nào mà lần nữa; anh có một định kiến gì ăn sâu vào óc ấy. Thế anh không tin tôi à? Tôi thì tôi xin nói với anh rằng anh tin tôi đấy, anh đã tin được một phần tư, nhưng tôi sẽ làm cho anh tin tôi cả bốn phần, vì tôi thành thật mến anh và thành tâm mong điều lành điều tốt cho anh. Môi Raxkonikov run lên. - Vâng, tôi mong thế, tôi sẽ nói dứt khoát cho anh biết, - hắn nói tiếp, khẽ cầm lấy cánh tay Raxkonikov ở phía trên khuỷu tay một chút, - tôi xin nói rằng: anh phải coi chừng cơn bệnh. Hơn nữa gia đình anh lại vừa mới đến đây; anh phải nhớ đến họ. Anh nên âu yếm vỗ về cho họ yên lòng mới phải, đằng nầy anh chỉ làm họ lo sợ… - Việc gì đến ông? Sao ông lại biết? Việc gì ông phải quan tâm đến thế? Thế ra ông theo dòi tôi, và ông muốn cho tôi biết như thế? - Kìa! Thì chính anh cho tôi biết cả, chứ còn ai! Anh không để ý rằng trong khi nóng nảy anh đã nói cho tôi và cho nhiều người khác biết trước mọi chuyện rồi sao? Dmitri Prokofich Razumikhin hôm qua cũng cho tôi biết nhiều chi tiết rất thú vị. A, vừa rồi anh ngắt lời tôi, chứ tôi muốn nói rằng mặc dầu anh thông minh sắc sảo như thế, nhưng cứ cái tính đa nghi ảy, anh không còn nhìn sự việc một cách tỉnh táo được nữa đâu. Đấy cứ trở lại chuyện cái chuông chẳng hạn, một của quý như thế, một sự kiện như thế (vì đó là cả một sự kiện) mà tôi lại cứ đem ra nói bô bô lên với anh, tôi, một viên dự thẩm! Thế mà anh không thấy gì à? Nếu tôi có ý nghi ngờ anh một mảy may, đời nào tôi lại làm như thế! Trái lại, lúc đầu tôi phải ru ngủ ý đề phòng của anh và giả vờ như không biết việc nầy, để đánh lạc hướng anh rồi đột nhiên, như bổ sống rìu xuống đỉnh sọ (theo lối nói của anh), hỏi đốp vào mặt: "Thưa ngài, thế ngài có nhã ý đến làm gì trong phòng người bị giết lúc mười một giờ tối? Tại sao ngài lại giật chuông? Tại sao ngài lại hỏi đến vũng máu? Tại sao ngài lại lừa mấy người gác cổng và rủ họ lên gặp quận trưởng?". Lẽ ra tôi phải làm như thế mới phải, nếu tôi có chút nào nghi ngờ anh. Lẽ ra phải lấy khẩu cung anh theo đúng thủ tục, ra lệnh khám nhà và có lẽ giam anh nữa… Đằng nầy tôi lại không làm như thế, nghĩa là tôi không nghi ngờ gì anh! Nhưng anh chẳng thấy gì cả, vì anh mất khả năng nhìn sự việc một cách tinh táo rồi, xin nhắc lại như vậy. Raxkonikov run bắn cả người lên, thành thử Porfiri Petrovich trông thấy quá rõ. - Chỉ dối trá! - Chàng quát lên, - tôi không biết chủ ý của ông, nhưng biết là ông nói dối… Lúc nãy ông nói khác hẳn, tôi không nhầm được đâu. Ông nói dối! - Tôi mà nói dối ư? - Porfiri đáp, hình như đã nổi nóng lên, nhưng vẫn giữ vẻ hết sức tươi cười ngạo nghễ và như thế không hề chấp đến ý kiến của Raxkonikov đối với mình. - Tôi nói dối ư… Thế vừa rồi tôi xử lý với anh như thế nào (tôi, một viên dự thẩm), chính tôi mách rõ cho anh tất cả các phương tiện bào chữa, tôi phân tích cho anh thấy hết cái tâm lý ấy: "Tôi ốm đau tôi mê sảng, lại bị xúc phạm trong một tâm trạng u uất như vậy, lại bọn cảnh binh nhũng nhiễu và vẫn vẫn… Hê - hê - hê! Tuy nhân thể cũng xin nói rằng tất cả những phương tiện bào chữa tâm lý học ấy, những lý do và những lối chống chế ấy hết sức bấp bênh, mà lại có hai mặt; ừ thì nói là "bệnh hoạn, mê sảng, chiêm bao, mơ màng, mất trí nhớ", được cả, nhưng xin hỏi anh, tại sao trong cơn bệnh, trong khi mê sảng anh chỉ mơ thấy những chuyện ấy thôi, chứ không mơ thấy cái gì khác. Có thể mơ thấy nhiều chuyện khác lắm chứ? Có phải không nào? Hê - hê - hê. Raxkonikov kiêu hãnh và khinh bỉ nhìn hắn. - Tóm lại, - Chàng nói to và dằn giọng, vừa nói vừa khẽ ẩy Porfiri ra, đứng dậy. - tóm lại, tôi muốn biết ông có công nhận tôi hoàn toàn ở ngoài vòng tình nghi hay không, ông nói đi, ông Porfiri Petrovich, ông hãy nói cho chắc chắn và dứt khoát, và nói nhanh lên, ngay bây giờ! - Chà, thật là gay go? Chơi với anh gay go thật đấy, - Porfiri kêu lên, vẻ hết sức tươi cười, ranh mãnh, không mảy may bối rối. - Nhưng tại sao anh lại phải biết, anh muốn biết nhiều như thế để làm gì, trong khi người ta chưa hề quấy rầy đến anh. Anh thật như đứa trẻ con: đưa lửa đến đây, nào nào? Tại sao anh lại phải lo lắng đến thế? Tại sao anh lại hỏi chúng tôi những câu như thế? Vì lý do gì? Ha hê - hê - hê? Một lần nữa. - Raxkonikov như điên như dại quát lên: - Xin nhắc lại rằng tôi không thể nào chịu được nữa cái… - Cái tình trạng mập mờ nầy chứ gì? - Porfiri tiếp luôn. - Đừng có trêu gan tôi! Tôi không chịu đâu… Tôi bảo với ông ta là tôi không chịu! Tôi không thể và không muốn! Ông nghe chưa, nghe chưa? - Chàng lại nện quả đấm lên bàn lần nữa. - Kìa khẽ chứ, khẽ chứ! Người ta nghe thấy đấy? Tôi xin nói thật cho anh biết, anh liệu hồn. Tôi không đùa đâu! - Porfiri nói thì thầm, nhưng lần nầy trên gương mặt ông ta không còn cái vẻ hốt hoảng và chất phác hơi đàn bà như lúc nãy nữa; trái lại, bây giờ ông ta ra lệnh hẳn hỏi, giọng nghiêm khắc, mày cau lại và dường như gạt phăng một lúc tất cả những thái độ mập mờ bí ẩn trước đây. Nhưng điều đó chỉ thoáng qua trong chóc lát. Đang bàng hoàng, Raxkonikov điên tiết hẳn lên; nhưng lạ thay, chàng lại một lần nữa tuân theo mệnh lệnh nói khẽ, tuy cơn giận điên cuồng của chàng đã lên đến cực điểm. - Tôi không để cho ông giầy vò tôi đâu! - Chàng thì thào như lúc nãy, trong giây lát đau xót và căm hờn nhận rõ rằng mình không thể không phục tùng mệnh lệnh của hắn, và nghĩ như vậy lại càng điên tiết thêm, - Ông bắt tôi đi, khám xét đi, nhưng xin ông làm đúng thủ tục chứ không được đùa với tôi! Ông không được… - Thôi anh đừng lo đến thủ tục làm gì - Porfiri ngắt lời với nụ cười ranh mãnh như trước và dường như khoái trá ngắm nghía Raxkonikov, - anh ạ, tôi mời anh đến đây như chỗ người nhà, hoàn toàn đứng trên tình bạn… - Tôi không thèm cái tình bạn của ông, tôi nhổ toẹt vào! Ông nghe ra chưa? Bây giờ tôi lấy mũ đi về đây. Ấy bây giờ ông nói sao, nếu ông có ý định bắt. Chàng cầm lấy mũ và đi ra cửa. - Thế anh không muốn xem trò vui bất ngờ à? - Porfiri cười hềnh hệch, đoạn lại nắm lấy cánh tay chàng ở phía trên khuỷu một chút và giữ chàng lại ở ngưỡng cửa. Hắn mỗi lúc một thêm vui và thêm vẻ cợt nhả ra mặt, khiến Raxkonikov không sao tự chủ được nữa. - Trò vui gì? Cái gì thế - Chàng dừng phắt lại hỏi và sợ hãi nhìn Porfiri. - Ấy cái trò vui bất ngờ của tôi nó đang ngồi sau cánh cửa kia, hê - hê - hê! - Hắn giơ ngón tay chỉ cánh cửa đóng kín trên tấm ván ngăn gian phòng ở của hắn. - Tôi lại còn khoá cửa lại cho nó khỏi trốn đi kia. - Cái gì thế ở đâu? Cái gì? - Raxkonikov lại gần cánh cửa, toan mở ra, nhưng cửa đã khoá chặt. - Khoá rồi anh ạ, chìa khoá đây! Quả nhiên y rút trong túi ra một cái chìa khoá, đưa ra cho chàng xem. - Mày vẫn nói láo! - Raxkonikov thét lên, không sao ghìm mình được nữa, - mày nói láo, quân xỏ lá! Chàng lao vào Porfiri. Ông ta lùi ra phía cửa ngoài, nhưng không chút sợ sệt. - Tao hiểu hết rồi! - Chàng chồm vào người y. - Mày nói láo, mày có trêu tức tao, để tao tiết lộ ra… - Nhưng còn có cách nào tiết lộ nhiều hơn thế được nữa hả anh bạn, Rodion Romanovich. Anh mất tự chủ rồi còn gì. Đừng có quát tháo! Tôi gọi người vào đây. - Mày nói láo, chẳng có trò gì đâu! Mày cứ gọi người vào đây! Mày biết tau đau ốm nên muốn khích cho tao điên tiết lên, để tao tiết lộ ra, mưu mô của mày là như thế đấy! Không được, mày cứ thử đưa bằng chứng ra đây xem! Tao hiểu hết rồi! Mày không có bằng chứng nào hết, mày chỉ đoán mò một cách bẩn thỉu, vô lý, như kiểu thằng Zamiotov! Mày biết tính tao, cho nên mày muốn khích cho tao nổi khùng lên, rồi đưa một lũ cố đạo, một lũ nhân chứng ra để làm cho tao hết vía đi chứ gì… Mày đang đợi chúng phỏng? Mày đợi cái gì? Ở đâu? Đưa vào đây xem nào! - Nhân chứng gì hở anh bạn! Con người ta thật khéo tưởng tượng! Dù có theo thủ tục như anh nói nữa thì làm như thế cũng không được, anh bạn ạ, anh chẳng hiểu công việc tí nào… Nhưng thủ tục không mất đi đâu tự anh sẽ thấy… - Porfiri vừa lẩm bẩm vừa lắng nghe những tiếng động ngoài cửa. Quả nhiên lúc bây giờ ngay trước cửa vào, ở phòng bên nghe như có tiếng ồn ào. - À chúng đến đấy phỏng! - Raxkonikov quát lên. - mày cho đi gọi chúng đến chứ gì! Mày đợi chúng chứ gì! Mày trù tính… Nào, thì cho cả lũ vào đây: nhân chứng, đại biểu, mày muốn thứ gì cũng được, nào? Tao sẵn sàng! Sẵn sàng… Nhưng đến đây xảy ra một biến cố kỳ dị, bất ngờ so với quá trình diễn biến bình thường của sự việc đến nỗi cả Raxkonikov lẫn Porfiri Petrovich đều không sao lường trước được một cách kết thúc như vậy. Chú thích: (1) Gọn lỏn (tiếng Pháp) (2) Nhất thiết phải như thế (tiếng Pháp) (3) Ấn danh (tiếng Ý) TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT Phần IV Chương 24 Về sau, khi hồi tưởng lại giây phút đó, Raxkonikov hình dung sự việc xảy ra như sau: Tiếng ồn ào bên kia cửa ra vào bỗng tăng lên rất nhanh, và cánh cửa mở hé ra. - Cái gì thế? - Porfiri Petrovich bực tức quát lên. - Ta đã dặn… Thoạt tiên không có tiếng trả lời, nhưng cũng có thể đoán được là sau cánh cửa có một tốp người, hình như đang cố xô một người ra. - Kìa, cái gì thế hả? - Porfiri Petrovich hỏi lại, giọng lo lắng. - Chúng tôi giải tên tù đến, tên Mikolai đấy ạ, - Có tiếng ai đáp. - Khoan hẵng! Dẫn đi! Đợi đã… Sao lại cho hắn vào đây? Lộn xộn quá chừng! - Porfiri chồm ra cửa quát lên. - Nhưng hắn… - giọng nói lúc nầy cất lên nhưng rồi bỗng ngừng bặt. Khoảng hai giây sau nghe có tiếng vật nhau huỳnh huỵch, rồi như có ai đẩy mạnh một người khác ra, rồi một người mặt tái mét bước thẳng vào phòng giấy Porfiri Petrovich. Thoạt trông, dáng vẻ người ấy rất lạ. Hắn nhìn trân trân phía trước, nhưng tựa như không trông thấy gì cả. Mắt hắn ánh lên một quyết tâm dứt khoát nhưng mặt hắn lại nhợt nhạt như người chết, tưởng chừng như hắn đang bị đưa đi hành hình. Đôi môi trắng bệch của hắn khẽ run run. Hắn còn rất trẻ, ăn mặc như hạng bình dân, tầm vóc trung bình, người gầy, tóc cắt thành hình cái gáo, nét mặt thanh tú và trông như khô khan. Người bị hắn xô lao vào phòng theo hắn trước tiên và nắm được vai hắn: đó là người lính đi áp giải, nhưng Mikolai quẫy tay một cái khiến hắn phải thả ra một lần nữa. Một đám người hiếu kỳ xúm xít ngoài cửa. Có mấy người chực len vào. Tất cả những việc kể trên đều diễn ra trong một khoảnh khắc. - Ra đi đã, chưa đến lúc! Đợi ta gọi hẵng vào chứ? Sao lại dẫn hắn đến sớm thế? - Porfiri Petrovich làu bàu, vẻ bực bội hết sức và dường như cuống quít lên. Nhưng Mikolai bỗng quỳ xuống. - Làm cái gì thế? - Porfiri quát, vẻ sửng sốt. - Tôi có tội! Tôi xin thú! Tôi là kẻ giết người - Mikolai nói, giọng như hơi ngắc ngứ, nhưng khá to. Mọi người lặng đi trong khoảng mười giây, như thể đều bị cấm khẩu; thậm chí người lính áp giải còn né người ra xa Mikolai, lùi dần về phía cửa và đứng sững ra đấy. - Cái gì thế? - Porfiri Petrovich trấn tĩnh lại quát Tôi… là kẻ giết người… - Mikolai nhắc lại sau một phút im lặng. - Sao… mày… Sao… Mày giết ai? Porfiri Petrovich bối rối ra mặt. Mikolai lại im lặng một giây. - Tôi giết Aliona Ivanovna và em gái bà ta, Lizaveta Ivanovna, tôi… giết… bằng rìu. Tôi bị quẫn trí… - vẫn quỳ như cũ, hắn nói thêm, rồi lại im bặt. Porfiri Petrovich đứng yên một lát như suy nghĩ điều gì, nhưng rồi bỗng vùng vằng xua tay đuổi mấy người nhân chứng bất ngờ kia đi. Họ lui ra ngay, và cánh cửa khép lại. Porfiri đưa mắt về phía Raxkonikov đang đứng trong góc phòng ngây dại nhìn Mikolai, toan đi về phía chàng nhưng bỗng dừng lại nhìn chàng một lát rồi lập tức đưa mắt sang phía Mikolai, rồi lại nhìn sang Raxkonikov, rồi lại nhìn Mikolai, rồi đột nhiên như nổi xung lên, lại xông vào hắn. - Mày đã vội nói chuyện quẫn trí với tao làm gì? - Porfiri quát lên, giọng gần như hằn học. - Tao đã hỏi mày có mù quáng hay không đâu, nói đi: mày giết người hả? - Tôi là kẻ giết người… tôi xin cũng khai… - Mikolai nói. - Chà? Mày giết bằng gì? - Bằng rìu ạ. Tôi đã giấu sẵn. - Chà! Vội thế! Một mình mày à? Mikolai không hiểu câu hỏi. - Một mình mày giết à? - Một mình tôi. Còn Mitka không có tội tình gì, nó không can dự vào việc nầy. - Nầy đừng có vội nói chuyện Mitka! Chà!… Thế lúc ấy mày làm thế nào chạy xuống thang gác? Mấy người gác cổng trông thấy cả hai đứa chúng mày kia mà? - Đó là tôi muốn đánh lạc hướng… cho nên… mới chạy với Mitka, - Mikolai đáp vội, vẻ như đã nhằm sẵn từ trước. - Thôi, đúng thật rồi! - Porfiri căm giận quát lên, - người ta mớm cho nó cái gì là nó tuôn ra y như thế! - y lẩm bẩm nói một mình: và chợt trông thấy Raxkonikov. Hình như ông ta mải chú ý đến Mikolai đến nỗi trong chốc lát quên bẵng cả Raxkonikov đi. Bây giờ sực nhớ ra và thậm chí còn lộ vẻ bối rối… - Rodion Romanovich, anh ơi! Xin lỗi anh nhé, - y bước vội về phía chàng, - thế nầy không ổn đâu; xin anh… anh ở đây chẳng có ích lợi gì cả… chính tôi cũng… anh thấy đấy, thật là những chuyện bất ngờ! Xin mời anh… Rồi cầm tay chàng, Porfiri chỉ ra cửa. - Hình như ông không ngờ thì phải? - Raxkonikov nói, dĩ nhiên chàng cùng chưa hiểu gì lắm, nhưng đã có đủ thời giờ vững tâm hẳn trở lại. - Thì anh cũng có ngờ đâu, anh bạn! Kìa tay anh vẫn còn run bắn lên kia kìa, hê hê… Nhưng anh cũng run đấy thôi, ông Porfiri Petrovich ạ? - Tôi cũng run. Tôi cũng không ngờ! Hai người đã ra đến cửa. Porfiri sốt ruột đợi Raxkonikov ra. - Thế ông không cho tôi xem cái trò bất ngờ kia nữa à? - Raxkonikov hỏi. - Nói thì ra dáng thế, nhưng răng cứ đánh vào nhau côm cốp, hề hề. Anh có khiếu châm biếm lắm. Thôi, xin chào anh. - Theo tôi thì xin vĩnh biệt mới đúng. - Cái đó còn tuỳ ý Chúa, còn tuỳ ý Chúa! - Porfiri lẩm bẩm: môi có rúm lại thành một thứ nụ cười. Khi đi qua vẫn phòng sở cảnh sát, Raxkonikov nhận thấy có nhiều người chăm chú nhìn chàng. Ở phòng mắc áo trong đám đông chàng kịp nhận ra hai người gác cổng ở nhà ấy. Hai người mà tối hôm kia chàng đã rủ lên quận cảnh sát. Họ đang đứng đợi cái gì không rõ. Nhưng vừa ra đến đầu thang gác, chàng bỗng nghe giọng nói của Porfiri Petrovich léo nhéo ở sau lưng. Ngoảnh lại, chàng thấy y đang chạy theo, thở hổn hển. - Xin thưa một câu nữa, anh Rodion Romanovich ạ, về tất cả những việc nầy thì xin tùy ý Chúa, nhưng dù sao theo thủ tục sau nầy cùng cần hỏi thêm anh dăm câu… cho nên chúng ta sẽ còn gặp nhau đấy, thế đấy! Và Porfiri tươi cười dừng lại trước mặt chàng. - Thế đấy - Y nhắc lại. Có thế phỏng đoán rằng y còn muốn nói gì nữa, nhưng chẳng hiểu sao không nói ra được. - Còn tôi thì tôi xin ông bỏ qua cho những chuyện ban nãy, ông Porfiri Petrovich ạ… tôi hơi nóng, - Raxkonikov nói; bấy giờ chàng đã hoàn toàn vững tâm trở lại, đến nỗi cứ muốn lên mặt khiêu khích hắn chơi, một ý muốn không sao cưỡng nổi. - Không sao, không sao, - Porfiri đáp, vẻ hầu như mừng rỡ… - Chính tôi cũng thế… Tính tôi thật độc địa, rất ân hận, rất ân hận. Đấy, chung ta sẽ còn gặp nhau. Nếu Chúa thuận tình, ta sẽ còn gặp nhau nhiều, còn gặp nhau nhiều? - Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn? - Raxkonikov đệm thêm. - Và sẽ biết nhau đến nơi đến chốn, - Porfiri Petrovich tán đồng, và nheo mắt nhìn chàng, vẻ rất nghiêm trang. - Bây giờ anh đi dự lễ thánh? - Lễ an táng. - À quên, lễ an táng! Anh chú ý giữ gìn sức khỏe nhé, sức khỏe ấy… - Còn về phần tôi thì không biết chúc ông thế nào đây! - Raxkonikov đáp, chàng đã bước xuống cầu thang nhưng lại ngoảnh về phía Porfiri, - tôi cũng muốn chúc ông thành công, nhưng ông cũng thấy đấy, chức vụ của ông nó khôi hài quá. - Sao lại khôi hài? - Porfiri Petrovich lúc bấy giờ đã quay đi, cùng lại lập tức vểnh tai lên. - Còn sao nữa, đấy như cái thằng Mikolai khốn khổ kia chắc đã bị ông hành hạ giầy vò theo cái kiểu tâm lý học của ông mãi cho đến khi nó chịu nhận mới thôi; chắc suốt đêm suốt ngày ỏng cứ nhắc đi nhắc lại với hắn: "Mày là kẻ giết người, mày là kẻ giết người…" Thế rồi đến bấy giờ hắn chịu nhận, ông lại bắt đầu nhồi vào sọ hắn một bài khác: "Mày nói láo không phải mày là kẻ giết người! Mày không thể là kẻ giết người được. Người ta mớm cho cái gì cũng nói ra y như thế?". Đấy, như thế mà còn bảo cái nghề của ông không khôi hài nữa hay sao? - Hê - hê - hê? Thế ra anh cũng để ý vừa rồi tôi có nói với Mikolai là "mớm cho cái gì hắn cũng nói" à? - Sao lại không để ý? - Hê - hê! Anh sắc sảo lắm, sắc sảo lắm. Cái gì anh cũng nhận thấy hết. Thật là một bộ óc có khiếu châm biếm! Anh đã bấm đúng vào phím hài hước… hê - hê! Nghe nói trong số các nhà văn thì Gogol là người có khiếu ấy nhiều hơn cả phải không? - Phải, Gogol. - Phải, Gogol… xin chào, rất mong được gặp ông lại - Xin chào, rất mong được gặp ông lại… Raxkonikov đi thẳng về nhà. Chàng mệt mỏi và hoang mang đến nỗi về đến nhà, chàng thả mình rơi phịch xuống đi-văng và ngồi thừ ra như thế trong mười lăm phút, chi để cho đỡ mệt và sắp xếp lại được phần nào những ý nghĩ đang rối tung lên trong đầu. Về Mikolai chàng cũng không buồn tìm cách cắt nghĩa xem sao nữa: chàng cảm thấy mình sửng sốt quá chừng, chàng thấy rằng trong những lời thú nhận của Mikolai có một cái gì vô lý, kỳ lạ mà hiện nay chàng không tài nào hiểu nổi. Nhưng những lời thú nhận đó là một việc có thật. Chàng thấy rõ ngay những hiệu quả của việc ấy trước sau rồi người ta cũng phát hiện ra hắn nói dối, và lại sẽ quay sang chàng. Nhưng ít nhất từ giờ cho đến khi ấy chàng cũng được tự do và nhất thiết phải làm một cái gì để tự vệ, vì nguy cơ nầy không sao tránh khỏi. Nhưng nguy đến mức nào? Tình hình bắt đầu rõ nét ra; khi nhớ lại đại khái cuộc nói chuyện với Porfiri, chàng không khỏi một lần nữa rùng mình khiếp sợ. Dĩ nhiên chàng chưa biết hết chủ tâm của Porfiri, chưa thể hiểu thấu được tất cả những mưu mô của y lúc bấy giờ. Nhưng thủ đoạn của y cũng đã lộ rõ một phần, và dĩ nhiên, hơn ai hết. Raxkonikov hiểu rõ "nước cờ" của Porfiri đáng sợ đến nhường nào. Chí một chút nữa thôi là chàng đã có thể tiết lộ hoàn toàn, lần nầy có bằng chứng hẳn hỏi. Biết rõ cái tâm lý bệnh tật của chàng và ngay từ đầu đã nắm vững và soi thấu vào tim gan chàng. Porfiri đã hành động một cách tuy quá mạnh dạn, nhưng hầu như chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa, lúc nãy Raxkonikov đã sơ hở quá nhiều, nhưng vẫn chưa đến nỗi tiết lộ những sự việc cụ thể; tất cả vẫn còn là tương đối. Nhưng dù sao, liệu bây giờ chàng có quan niệm được sự việc vừa xảy ra một cách đúng đắn hay không? Liệu chàng có lầm không? Hôm nay Porfiri muốn đưa đến kết quả nào? Cụ thể hắn muốn gì? Có thật là hắn đang chờ đợi một cái gì không? Ví thử không có Mikolai xuất hiện bất thình lình làm cho cơ sự hỏng bét ra, hai người sẽ chia tay nhau như thế nào? Porfiri đã để lộ gần hết các nước cờ của ông ta; dĩ nhiên như vậy cũng liều lĩnh, nhưng quả ông ta đã cố để lộ ra; và Raxkonikov có cảm tưởng rằng nếu Porfiri còn biết gì hơn, y cũng sẽ để lộ ra nốt. Cái "trò bất ngờ" ấy là cái gì? Một trò đùa dai chăng? Nó có nghĩa gì không? Nó có thể che giấu một cái gì giổng như một sự kiện, một lời buộc tội có căn cứ không? Con người hôm qua chăng? Hắn biến đi đàng nào? Hôm nay hắn ở đâu? Vì nếu Porfiri có nắm được một cái gì chắc chắn, thì dĩ nhiên cái đó phải có liên quan đến người hôm qua… Chàng ngồi trên đi-văng, đầu gục xuống, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, hai bàn tay bưng lấy mặt. Khắp người chàng vẫn còn run lên từng cơn. Cuối cùng chàng đứng dậy, lấy mũ, nghĩ ngợi một lát và bước ra cửa. Không hiểu sao chàng cứ có cảm giác là ít nhất ngày hôm nay chàng có thể coi như mình ở ngoài vòng nguy biến. Chàng chợt thấy vui vui trong lòng: chàng muốn đi cho nhanh đến nhà Katerina Ivanovna. Đến dự lễ an táng thì dĩ nhiên là muộn mất rồi, nhưng dự tiệc tang thì còn kịp, và ở đây, chỉ lát nữa, chàng sẽ được gặp Sonya. Chàng dừng lại suy nghĩ, và một nụ cười yếu ớt hiện lên trên môi chàng. - Hôm nay! Ngay hôm nay! - Chàng nhẩm đi nhẩm lại một mình, - phải, ngay hôm nay: Phải thế mới được… Chàng toan mở cửa thì đột nhiên cánh cửa tự nó mở ra. Chàng giật mình nhảy lùi lại. Cánh cửa mở từ từ và nhè nhẹ, và một bóng người bỗng hiện ra: con người hôm qua, con người từ dưới đất trồi lên. Hắn dừng lại trên ngưỡng cửa, im lặng nhìn Raxkonikov và bước một bước vào phòng. Hắn vẫn y như hôm qua, cũng cái dáng dấp ấy, cũng ăn mặc như thế, nhưng vẻ mặt và khóe mắt của hắn đã thay đổi hắn: hôm nay trông hắn buồn rười rượi; hắn đứng yên một lát rồi buông một tiếng thở dài nặng trĩu. Chỉ thiếu đường hắn áp lòng bàn tay lên má, ngả đầu sang một bên nữa là sẽ trông hệt như một mụ đàn bà. - Ông muốn gì? - Raxkonikov lặng người đi, hỏi. Người kia im lặng một lát rồi bỗng cúi xuống gần sát đất chào chàng, ngón đeo nhẫn trên bàn tay phải chạm xuống sàn nhà. - Ông làm gì thế - Raxkonikov kêu lên. - Tôi có tội, - hắn đáp khẽ. - Tội gì? - Tội đã có ác ý với ông. Hai người nhìn nhau một lát. - Hôm ấy tôi bực quá. Hôm ấy ông đến đằng kia, có lẽ là đang say, bảo hai người gác cổng lên quận vả lại hỏi đến vũng máu, tôi rất bực mình khi thấy họ cứ để mặc ông, cho ông là người say rượu. Tôi giận đến nỗi đêm ấy không ngủ được nữa. Chúng tôi nhớ lại địa chỉ của ông, và hôm qua chúng tôi đã đến đây hỏi… - Ai đến? - Raxkonikov ngắt lời, trong giây lát chàng đã bắt đầu nhớ ra. - Tức là tôi ấy, tôi đã xúc phạm đến ông. - Thế ông là người ở trong nhà ấy à? - Vâng, tôi cùng ở đấy, lúc ấy tôi cùng đứng ở cổng với họ, ông quên rồi sao? Tôi cũng có một cửa hiệu ở đằng ấy, đã lâu. Chúng tôi làm nghề thuộc da lông thú, lĩnh việc về nhà làm… hôm ấy tôi bực nhất… Và Raxkonikov bỗng nhớ lại rõ mồn một cả cái cảnh ngày hôm kia dưới cổng; chàng nhớ rằng ngoài hai người gác cổng còn có mấy người nữa đứng đấy, trong số đó có cả những người đàn bà. Chàng nhớ lại một giọng nói bảo cứ dẫn thẳng chàng lên quận. Diện mạo người nói câu ấy thì chàng không nhớ và ngay bây giờ chàng cũng không nhận ra, nhưng chàng vẫn còn nhớ là hôm ấy chàng có quay lại trả lời hắn… Té ra cả cái cơn khiếp sợ ngày hôm qua của chàng chỉ vì thế. Khủng khiếp nhất là nghĩ rằng mình suýt chết, suýt làm hại mình chỉ vì một việc vô nghĩa như vậy. Thế nghĩa là ngoài chuyện đi thuê phòng và hỏi đến vũng máu ra, người kia không thể kể gì nữa cả. Thế nghĩa là Porfiri cũng không nắm được gì, không có gì hết, ngoài cái cơn mê sảng ấy, không có lấy một sự kiện nào ngoài cái tâm lý ấy ra, một căn cứ hai mặt, không có gì chắc chăn. Thế nghĩa là nếu không có sự kiện gì xuất hiện thêm nữa (mà nó không thể xuất hiện được, không được xuất hiện, không được) thì… thì chúng liệu có thể làm gì được chàng? Dù cho chúng có bắt chàng đi nữa, thì chúng lấy bằng cớ ở đâu mà kết tội chàng? Vả như thế cũng có nghĩa là mãi đến giờ, mãi vừa rồi Porfiri mới hiểu chuyện chàng đi "thuê phòng", chứ trước đấy hắn không hề hay biết gì. - Chính ông đã nói với Porfiri hôm nay… là tôi có đến đằng ấy? - Chàng kêu lên, chợt nẩy ra một ý đột ngột. - Porfiri nào? viên dự thẩm à? - Tôi nói đấy. Hai người gác cổng không chịu đi, cho nên tôi đi! - Hôm nay? - Tôi đến trước ông có vài phút. Tôi đã nghe họ nói, nghe hết, tôi biết ông ấy hành tội ông như thế nào. - Ở đâu? Thế nào? Lúc nào? - Thì ngay ở đấy, sau cánh cửa ngăn ấy; tôi ngồi suốt ở đấy! - Sao? Thế ra ông là cái "trò vui bất ngờ" ấy đấy phải không? Sao lại có thể như thế được nhỉ? Ông thử nói rõ ra xem? - Thấy hai người gác cổng không chịu nghe tôi đi lên quận - người kia nói - vì đã muộn rồi, họ nói thế, hơn nữa lại sợ các quan mắng vì không lên báo ngay lúc ấy tôi bực mình quá mất cả ngủ, thế rồi tôi đi dò xem ông ở đâu. Hôm qua tôi đã dò được, thế là sáng hôm nay tôi lên quận. Lần thứ nhất tôi đến thì ông ta đi vắng. Một giờ sau tôi lại đến, thì họ knông tiếp, lần thứ ba họ mới cho vào. Tôi mới kể hết cho ông ta biết, thế là ông ta lồng lộn lên chạy khắp phòng, đấm ngực thùm thụp: "Quân kẻ cướp, chúng mày làm ăn với tao như thế à? Tao mà biết thế thì tao cho lính đến giải hắn về đồn ngay!" Rồi ông ta chạy ra gọi một người nào đến rồi kéo ra một góc nói thầm thì xong lại đến hỏi tôi và chửi vung lên một hồi. Tôi thuật hết lại cho ông ta biết và nói rằng hôm qua, khi tôi nói câu ấy, ông không dám trả lời gì cả và không nhận ra tôi. Ấy thế là ông ta lại chạy lồng lộn, đấm ngực, tức giận điên cuồng, rồi khi có người vào báo là ông đến, ông ta mới bảo tôi ra ngồi sau tấm ván ngăn, ngồi cho yên, có nghe gì cùng không được cựa quạy. Ông ta thân hành ra lấy một chiếc ghế và khoá trái tôi lại, "có lẽ ta sẽ gọi đến anh", ông ấy bảo thế. Và sau khi họ dẫn Mikolai đến. Ông vừa đi được một chút thì ông ấy tha tôi về ngay: "ta sẽ còn gọi anh đến hỏi nữa", ông ấy bảo thế… - Trong khi ông ở đây, hắn có hỏi Mikolai à? Ông vừa ra khỏi thì ông ấy cũng dẫn tôi ra luôn, rồi mới bắt đầu hỏi Mikolai. Người tiểu thương ngừng nói và bỗng lại cúi mình chào, ngón tay chạm xuống sàn. - Xin ông tha thứ cho tôi đã tố giác, làm hại ông. - Cháu sẽ tha tội cho ông, - Raxkonikov đáp, và chàng vừa dứt lời thì người kia lại cúi chào một lần nữa, nhưng lần nầy không chào sát đất mà chỉ nghiêng mình thôi, chậm rãi quay đi và bước ra khỏi phòng. "Toàn những bằng cứ hai mặtt. Bây giờ thì toàn những bằng cứ hai mặt thôi" - Raxkonikov nhẩm đi nhẩm lại, rồi bước ra khỏi phòng, vững tâm hơn bao giờ hết. "Bây giờ ta sẽ con vật lộn với nhau" - Chàng tự nhủ với một nụ cười hằn học trong khi bước xuống thang gác. Nhưng chàng hằn học là hằn học với bản thân mình, chàng khinh bỉ và hổ thẹn nhớ lại cái thái độ "hèn nhát" của mình.
__________________
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|