|
#21
|
||||
|
||||
|
Hồi 9 Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài
Địch Vân lưu lại trong tuyệt cốc thêm nửa tháng nữa, đem đao pháp và nội công ghi trong Huyết Đao kinh luyện đến khi thật thuần thục, ước chừng không thể nào quên được nữa. Sau đó đem quyển sách đốt thành tro, rắc lên mộ phần của Huyết Đao lão tổ. Trong nửa tháng đó chàng vẫn ngủ trên tảng đá lớn ở bên ngoài thạch động, tuy Thủy Sinh đã bỏ đi chàng vẫn không dám vào trong động, ngay cả nệm gối nàng bỏ lại chàng cũng không dám động tới. Ngày hôm đó Địch Vân quyết định rời khỏi cốc, đứng lặng nhìn vào trong cốc, thầm nhủ : “Đã đến lúc phải đi rồi, chiếc áo lông chim này chẳng cần phải mang theo, chờ khi làm xong mọi việc mình sẽ quay về sống ở đây. Thế gian người ta ai ai cũng thông minh, mình không thể hiểu được người ta suy nghĩ những gì, mình dù không tranh danh đoạt lợi với ai nhưng người ta vẫn không để cho mình yên thân. Nơi đây quanh năm không có ai đến, mình sống ở đây là phù hợp nhất.” Thế là chàng ra khỏi cốc nhắm hướng Đông mà tiến. Việc đầu tiên phải làm đó là về thôn Ma Khê xem thử tình hình sư phụ ra sao. Từ nhỏ chàng đã được Thích Trường Phát nuôi nấng, sư phụ cũng là người thân duy nhất trong đời chàng. Từ biên giới Tây Tạng muốn về đất Tương phải đi ngang qua Tứ Xuyên. Chàng nghĩ, nếu gặp phải người trong võ lâm Trung Nguyên nhất định là khó tránh khỏi một trường ác đấu. Thật ra thì mình với họ chẳng có oán cừu gì, tất cả chỉ tại mình nhổ sạch tóc và khoác lên người chiếc tăng bào của Bảo Tượng mà ra. Lúc này võ công của Địch Vân đã cực cao, nhưng bản thân chàng lại không hình dung được điều đó, chỉ sợ gặp các cao thủ Trung Nguyên thì khó tránh khỏi sát kiếp. Thế là chàng mua một bộ áo ngắn theo kiểu của người nhà quê, đốt bỏ chiếc tăng bào của Bảo Tượng, lại lấy lọ nồi thoa lên mặt. Nông dân ở đất Tứ Xuyên và Tương Tây thích dùng vải trắng cột trên đầu, nghe đâu là di tục để tang Gia Cát Lượng còn lưu truyền tới ngày nay. Địch Vân cũng tìm cho mình một miếng vải trắng cũ kỹ quấn lên đầu. Việc hóa trang xong xuôi, chàng yên tâm tiếp tục đi về hướng Đông. Trên đường đi thỉnh thoảng cũng có giáp mặt với người trong giang hồ, nhưng không ai nhận ra chàng nữa. Chàng sợ nhất là gặp lại Thủy Sinh và Uông Tiêu Phong, cả Hoa Thiết Can nữa, may mà không gặp lại ba người này. Địch Vân đi suốt hơn ba mươi ngày mới về tới Ma Khê thôn, lúc này trời đã ấm rồi, mạ non đã lên xanh trên đồng. Càng về đến gần nhà chàng càng cảm thấy nôn nao khó tả, da mặt nghe nóng bừng, tim đập loạn nhịp. Chàng men theo những sơn đạo mình vẫn thường đi thưở nhỏ về đến trước gian nhà ngày cũ, nhìn lại gian nhà bất giác ngạc nhiên ngẩn người, cơ hồ không dám tin vào mắt mình nữa. Căn nhà cỏ ba gian ẩn mình khiêm nhường dưới rặng liễu cạnh dòng suối nhỏ giờ bỗng hóa thành một tòa biệt thự tường trắng ngói đỏ lộng lẫy dị thường. Sau một hồi nhìn kỹ mới thấy gian nhà tuy lộng lẫy nhưng được xây cất có vẻ rất vội vàng. Địch Vân ngơ ngác nhìn quanh, rõ ràng là chỗ này, không thể nhầm lẫn được. Vậy ra mấy năm nay sư phụ đã phát tài to rồi! Thế thì hay quá! Chàng mừng rỡ kêu to : - Sư phụ! Nhưng vừa kêu được một tiếng, chàng bỗng im bặt, nghĩ thầm : “Không biết gian nhà này là của sư phụ hay là của người khác. Bộ dạng mình trông chẳng khác một tên khất cái là mấy, đứng la lối thế này không hay chút nào.” Mấy năm nay gặp không biết bao nhiêu bất trắc, Địch Vân cũng học khôn được rất nhiều điều. Chàng còn đang ngẫm nghĩ xảy thấy một người bước ra, đưa mắt vẻ khinh thị nhìn chàng từ đầu tới chân một cái rồi khinh khỉnh hỏi : - Ngươi làm gì ở đây? Địch Vân nhìn lại đối phương, mũ vải đội lệch, toàn thân lấm lem đầy bùn đất như một thợ nề, có điều bộ dạng lại chẳng tương xứng với thái độ của gã chút nào. Địch Vân nhún nhường hỏi : - Xin hỏi đại ca có Thích sư phụ ở nhà không? Gã hán tử hừ lạnh một tiếng, đáp : - Ở đây không có Thất sư phụ, Bát sư phụ nào cả! “Thích” và “Thất” âm tương tự nhau, gã hán tử tưởng Địch Vân hỏi người họ Thất. Địch Vân ngẩn người hỏi lại : - Vậy ra chủ nhân ở đây chẳng phải họ Thích sao? - Ngươi hỏi điều đó làm gì? Muốn xin cơm cũng chẳng cần phải trèo cao đến gia chủ. Không có! Không có gì hết! Tiểu khiếu hóa, xéo mau! Địch Vân thương nhớ sư phụ từ xa xôi ngàn dặm trở về đây thăm viếng, có khi nào lại chịu bỏ đi dễ dàng như vậy. Bình tĩnh nói : - Ta không đến đây để xin cơm, chỉ hỏi thăm xem, ngày trước có một người họ Thích sống ở đây, không biết hiện giờ có ở nhà hay không? Gã hán tử cười lạnh nói : - Bọn khiếu hóa các ngươi chuyên nghề hỏi dai nhách như vầy, ai mà không biết! Hừ, ta đã nói không có ai họ Thất cũng không có họ Bát, Cửu, Thập gì ở đây cả, nghe rõ chưa? Làm ơn đi khỏi đây cho lão tử ngươi nhờ! Trong khi đó ở trong nhà lại có một người nữa bước ra. Người này đầu đội mũ trái dưa, y phục sáng sủa, trông có vẻ như là một quản gia của nhà tài chủ giàu có. Dừng chân giữa sân, người mới tới cất tiếng hỏi : - A Bình, làm gì mà la ó om sòm vậy? Bộ ngươi lại gây lộn với ai hay sao? Gã hán tử cười cười nói : - Quản gia! Người coi tên ăn mày này có quá đáng không? Đến ăn xin thì ăn xin, đã vậy còn hỏi xem gia chủ họ gì! Quản gia nghe nói thì hơi biến sắc, bước lên mấy bước nhìn Địch Vân từ đầu tới chân mấy lượt, cuối cùng nói : - Tiểu bằng hữu, ngươi hỏi thăm họ của gia chủ có việc gì vậy? Nếu việc này xảy ra cách đây năm sáu năm thì chàng đã cứ theo sự thực mà đáp lời gã quản gia rồi. Nhưng chàng ngày nay đã có kinh nghiệm sống phong phú hơn, thấu hiểu được lòng người gian hiểm khác thường, nhìn thấy vẻ mặt của gã quản gia có điều bất thường thì biết trong gian nhà này có cái gì đó bất thường, liền ấp úng nói : - Cũng chẳng hỏi họ của gia chủ làm gì, chẳng qua là muốn gọi gia chủ để xin ít cơm ăn. Gia chủ mới hay cho cơm còn người ở thì thường keo kiệt. Lão gia, xin người rủ lòng thương cho tiểu nhân ít cơm... Gã quản gia nghe Địch Vân nhận lầm mình là gia chủ thì khoái chí bật cười ha hả, nói : - Ta không phải là lão gia. À mà này, tại sao người lại cho rằng ta là lão gia? Địch Vân ấp úng đáp : - Thì người... cốt cách oai phong... giống như một tài chủ phú quý... Gã quản gia càng khoái, cười lớn nói : - Tiểu tử ngốc nói hay lắm! Lão Cao này ngày sau phát tài lớn nhất định sẽ không quên nhà ngươi! Mà này, trông nhà ngươi khỏe mạnh như vậy tại sao không tìm việc gì làm kiếm cơm ăn mà lại đi xin cơm chứ? Địch Vân lắc đầu đáp : - Chẳng ai thuê mướn chi cả. Lão gia, xin người cho tiểu nhân ăn một bữa cơm có được không? Gã quản gia đập mạnh vào vai gã hán tử tên A Bình, nói : - Ngươi nghe rồi đó! Hắn cứ gọi ta là tài chủ lão gia, không cho hắn ăn một bụng cơm thì không được rồi. Từ nay cho hắn vào gánh đất, tính cho hắn mỗi ngày một phân tiền. Gã hán tử vội gật đầu vâng dạ. Địch Vân nghe khẩu âm của hai người thì nhận ra tên hán tử A Bình này là đầu công, người bản địa; còn gã họ Cao kia là quản gia, người phương Bắc. Càng giả bộ ngu khờ, Địch Vân cung kính nói : - Đa tạ tài chủ lão gia, tài chủ thiếu gia. Gã đầu công bật cười mắng : - Mẹ nó, ngươi nói điên nói khùng cái gì vậy! Gã quản gia vỗ tay cười lớn nói : - Ta là tài chủ lão gia, ngươi là tài chủ thiếu gia. Ha ha ha! Thì ra ta là lão gia tử của ngươi! Gã đầu công véo tai Địch Vân, đá đít chàng một cái, nói : - Theo ta vào trong! Cho ngươi ăn no bụng trước đã, đến tối thì bắt đầu làm việc. Địch Vân lẳng lặng bước theo gã đầu công, ngoài mặt tỉnh như không nhưng trong lòng thì lấy làm lạ, nghĩ thầm : “Tại sao phải làm vào ban đêm?” Vừa vào đến bên trong Địch Vân không khỏi giật mình kinh hãi, cảnh tượng bên trong vượt quá sức tưởng tượng của chàng. Chỉ thấy giữa nhà đào một chiếc hố vừa rộng vừa sâu, chiếc hố hầu như vừa triến với phần trong của căn nhà, cặp bốn bức tường chỉ chừa lại một lối đi hẹp té mà thôi. Bên trong hố còn vứt đầy cuốc xẻng, quang gánh, rõ ràng là công việc đào bới còn chưa kết thúc. Đứng bên ngoài nhìn thì gian nhà trông bề thế lộng lẫy là vậy, ai ngờ được bên trong lại bị đào bới ra nông nỗi thế này. Gã đầu công nhìn Địch Vân nghiêm giọng nói : - Việc ở đây thấy sao hay vậy, không được đi ra ngoài kể bừa bãi, biết không? Địch Vân gật gật đầu nói : - Nơi đây phong thủy tốt, tài chủ lão gia định dùng làm mộ phần cho ngày sau, không được để người ngoài biết được! Gã đầu công cười lạnh nói : - Không sai! Tiểu tử ngốc này coi vậy mà thông minh hơn người! Theo ta đi ăn cơm. Địch Vân đến nhà bếp ăn no một bụng, đầu công dặn chàng nằm nghỉ nơi mé hiên, không được đi lộn xộn. Địch Vân ăn xong ra mé hiên nằm xuống, càng lúc chàng càng cảm thấy việc đang diễn ra ở đây không đơn giản chút nào. Đưa mắt nhìn quanh, trong nhà chỗ nào chỗ nấy đều tỏ ra gia chủ xây cất rất vội vã, bên trong cũng chẳng có đồ đạc gì đáng giá, thậm chí nhà bếp cũng xây chưa hoàn chỉnh, cái gọi là “bếp” thật ra chỉ là mấy hòn đá kê gần lại, bên trên đặt mấy chiếc nồi to tướng. Bàn ghế cũng là loại nhà nghèo thường dùng, trông không tương xứng chút nào với bề ngoài bề thế của can nhà. Đến chạng vạng tối thì có rất nhiều người đến, tất cả đều là những thanh niên khỏe mạnh ở trong làng, mọi người ăn uống cãi vã om sòm. Địch Vân cũng hòa theo đám người ăn uống, giọng nói chàng chuẩn xác là giọng của người vùng này. Bởi vậy đầu công và quản gia chẳng ai nghi ngờ gì, hai người đều tưởng chàng là một thanh niên du thủ du thực ở trong thôn. Cơm nước xong xuôi, đầu công dắt mọi người vào trong đại sảnh, lớn tiếng nói : - Anh em nghe đây, chúng ta cố sức đào tiếp, hy vọng đêm nay gặp may, nếu đào được vật gì có ích tất sẽ được trọng thưởng. Mọi người hô lên một tiếng phấn khởi, ào xuống hố, kẻ cuốc người xẻng thi nhau đào bới. Một người hơi lớn tuổi đang lom khom đào đào cuốc cuốc bên cạnh Địch Vân thấy chàng có vẻ là người mới tới bèn hạ giọng nói nhỏ : - Đào hai tháng nay rồi đó, có cái mẹ gì đâu. Cứ cho rằng chỗ này có báu vật đi, còn phải coi ngươi có phúc khí để tìm thấy nó hay không nữa chớ bộ! Địch Vân nhíu mày nghĩ thầm : “Chúng muốn đào tìm báu vật? Nhưng chỗ này thì có báu vật gì mới được chứ?” Địch Vân chờ cho đầu công quay đi, mới hỏi nhỏ : - Đại thúc à, họ tìm báu vật gì vậy? - Báu vật này ghê gớm lắm. Chủ nhân ngôi nhà này chẳng phải là người bản địa, nhưng lại là người biết nhìn khí tượng, từ ở tận đẩu tận đâu nhìn lại thấy chỗ này phát bảo quang, biết là dưới đất có báu vật. Thế là đến đây mua mảnh đất này, lại sợ người ngoài dòm ngó nên cất vội một căn nhà lớn, thuê chúng ta ban đêm đến đây đào bới. Địch Vân gật đầu nói : - Thì ra là như vậy. Đại thúc biết đó là báu vật gì không? - Nghe đầu công nói đó là một chiếc “Tụ bảo bồn”, chỉ cần bỏ vào đó một đồng tiền, qua một đêm thức dậy lập tức biến thành một bồn tiền đầy; nếu bỏ vào đó một đỉnh bạc, sáng ra sẽ được một bồn đầy bạc. Đó, vật như vậy thử hỏi ngươi có báu không chứ? Địch Vân gật đầu lia lịa nói : - Quả là báu vật! Quả là báu vật! Người kia lại nói tiếp : - Đầu công còn dặn, phải cuốc nhẹ tay thôi, đừng để bể mất Tụ bảo bồn. Lão gia còn nói sau khi đào được bồn rồi sẽ cho chúng ta mỗi người mượn một đêm. Tiểu từ ngốc à, ngươi phải lo tính trước đi, chuẩn bị đến lượt mình có cái mà bỏ vô. Địch Vân làm ra vẻ suy nghĩ một lát rồi nói : - Tiểu nhân thường bị đói, vậy thì bỏ một hột gạo vào đó, sáng ra cho nó thành cả một bồn gạo. Đại thúc thấy thế nào? Người nọ cất tiếng cười lớn, nói : - Như vậy là nhất rồi còn gì! Đầu công nghe tiếng cười nói thì quát : - Đừng cười giỡn nữa! Làm việc đi! Địch Vân quay đi làm việc vừa nghĩ thầm : “Thế gian làm gì có báu vật như vậy? Chủ nhân ngôi nhà này quyết chẳng phải là một đứa ngu, vậy tất phải có mưu đồ khác, việc cái bồn chẳng qua là ngụy tạo để đánh lạc hướng người khác mà thôi.” Nghĩ đến đây Địch Vân, hạ giọng hỏi : - Đại thúc à, chủ nhân ở đây họ gì vậy? Đại thúc nói không phải người bản địa. Người kia chưa vội đáp lời, ngẩn đầu nhìn lên, nói : - Đó, chủ nhân ra rồi đó. Địch Vân theo ánh mắt của người kia nhìn lên, chỉ thấy một người từ hậu đường đi ra, thân hình gầy gò, song mục thần quang sáng rực, y phục cực kỳ hoa lệ, tuổi trên dưới ngũ tuần. Địch Vân vừa nhìn thấy chủ nhân ngôi nhà thì trống ngực đập thình thình, vội vàng quay mặt nhìn xuống cắm cúi làm việc, không dám nhìn lên. Người này có một đặc điểm gì đó trông rất quen thuộc, nhất định là phải gặp ở đâu rồi, có điều nhất thời chàng không nghĩ ra đã gặp người này ở đâu. Xảy nghe chủ nhân cất tiếng oang oang nói : - Đêm nay các ngươi đào ở mé Tây sâu thêm ba thước nữa. Bất kỳ tìm thấy vật gì, từ một mảnh giấy rách cho tới một khúc gỗ mục hay ngói bể cũng không được bỏ qua. Tất cả đều phải trình lên cho ta coi. Địch Vân nghe giọng nói của chủ nhân thì giật nảy người, lập tức nhận ra, trong bụng kêu thầm : “Phải rồi! Thì ra là lão!” Chàng liếc mắt nhìn lên, trông kỹ lại một lần nữa. “Không sai! Chính là lão!” Địch Vân đã nhận ra người này chính là lão khất cái từng dạy cho chàng ba chiêu kiếm pháp trong phủ của Vạn Chấn Sơn năm ấy. Lúc ấy lão ăn mặc rách rưới, đầu tóc rối bời, toàn thân dơ bẩn, ngày hôm nay lại xuất hiện trong vai một đại tài chủ giàu có sang trọng, từ đầu tới chân chỉ còn có ánh mắt là Địch Vân hơi ngờ ngợ nhận ra, nhưng cũng chưa xác định được một cách rõ ràng. Đến khi lão cất tiếng nói thì chàng mới dám khẳng định. Địch Vân rất muốn nhảy lên cùng lão nhận nhau. Nhưng mấy năm nay Địch Vân đã nhận thức ra được một điều, phàm việc gì cũng phải thận trọng hành sự, cẩn tắc vô ưu. Địch Vân đã kềm được lòng mình không ra nhận mặt lão, thế nhưng lòng thì không ngừng nhớ lại chuyện cũ. Ngày ấy chàng mới lần đầu tiên ra thành, cái gì cũng bỡ ngỡ, đến khi cùng đại đạo Lã Thông giao đấu, thấy đã bại đến nơi, may nhờ lão ra tay tương cứu. Sau đó lão lại còn dạy cho chàng ba chiêu kiếm pháp, nhờ đó mới thắng được chúng đệ tử của Vạn môn. Đến giờ nghĩ lại ba chiêu kiếm pháp ấy cũng tầm thường thôi, có điều dùng trong lúc ấy thì lại phát huy được tác dụng, tránh khỏi bị nhục dưới tay của các đệ tử Vạn môn. Qua một lát chàng lại nghĩ, lần này gặp lại lão cái ở đây, theo lý mình phải thù tạ lão cho thật xứng đáng mới phải. Nhưng nơi đây là chỗ ở cũ của sư phụ, lão đến đây đào bới để tìm vật gì? Tại sao lão phải cất một căn nhà lớn để ngụy trang? Ngày trước lão là một khất cái nghèo hèn, tại sao giờ lại trở thành một tài chủ giàu có đến như vậy? Suy tới nghĩ lui một hồi chàng quyết định, chờ xem cho rõ ràng mọi chuyện rồi tính nữa. Lão dù là ân nhân của mình, nhưng chuyện đáp đền cũng chẳng cần phải vội vã. Tại sao lão làm vậy mà không sợ sư phụ trở về? Hay là... hay là... Sư phụ đã chết rồi... Chàng từ nhỏ đã sống với sư phụ, chàng coi sư phụ cũng như cha, nghĩ tới việc sư phụ đã chết, bất giác hai mắt cay xè. Xảy nghe có tiếng keng vang lên nho nhỏ, chủ nhân nhảy phắt xuống hố, nhặt vật mà người lao công vừa đào lên xem. Toàn thể lao công đều dừng tay nhìn về phía lão, thì ra đó là một lưỡi cuốc cùn đã gỉ sét. Chủ nhân lật tới lật lui lưỡi cuốc cùn xem một lát rồi ném lên trên, quát : - Đào tiếp đi! Không phải cái này! Đào tiếp đi! Địch Vân cùng mọi người đào bới suốt đêm, chủ nhân cũng túc trực bên cạnh để giám sát, đến sáng hôm sau mới dừng tay đi nghỉ. Phần lớn lao công đều là người trong thôn, nghỉ tay là lập tức trở về nhà, một số ít nhà ở hơi xa thì nằm lại dưới mái hiên mà ngủ. Địch Vân cũng nằm ngủ nơi mái hiên. Ngủ đến trưa, mọi người mới thức dậy ăn cơm. Địch Vân mình mẩy dơ bẩn, lúc ngủ cũng như lúc ăn cơm, mọi người đều cố tránh xa chàng. Đây chính là điều mà Địch Vân đang trông đợi. Mấy năm nay chàng tuy đã biết phải cẩn trọng, không dễ dàng tin vào những người xung quanh, có điều buộc phải giả cách ngu ngơ mãi với mọi người xung quanh thì chàng thấy khó khăn quá. Sợ rằng sẽ có lúc sơ ý để lộ hình tích thì thật là nguy hiểm. Mọi người đều tránh xa làm chàng yên tâm hơn. Cơm nước xong, Địch Vân rảo bước sang thôn bên cạnh cách đó chừng vài dặm đường, định bụng tìm người hỏi thăm xem sư phụ chàng có trở lại quê nhà không. Dọc đường đi chàng nhìn thấy mấy người quen vẫn thường qua lại với mình ngày trước đang bận rộn với việc đồng áng, nhưng vì không muốn để lộ thân phận, chàng làm lơ đi luôn. Đến khi gặp một thiếu niên chừng mười ba mười bốn tuổi mới kéo lại hỏi thăm. Thiếu niên cho biết, gian nhà lớn ấy mới cất hồi mùa thu năm ngoái, chủ nhân là người giàu có từ phương khác tới, nghe đâu đến để đào tìm Tụ bảo bồn gì gì đó, mà tới bây giờ vẫn chưa tìm thấy. Thiếu niên vừa kể vừa che miệng cười, chứng tỏ việc này từ lâu đã trở thành đầu đề cười nhạo của cư dân trong vùng. Còn chủ nhân trước kia của mảnh đất ấy à? Đã lâu lắm rồi không thấy ai ở đó, lâu nay cũng chẳng thấy ai quay lại. Còn gian nhà cũ thì bị dỡ đi lúc xây nhà mới. Địch Vân cảm ơn gã thiếu niên rồi bỏ đi, lòng cảm thấy buồn bực vô cùng. Lão khất cái bày ra những chuyện quái gở này có dụng ý gì? Chàng vừa suy nghĩ về những chuyện xảy ra ở đây vừa thả bước đi vào trong núi. Qua khỏi một vạt ruộng trồng cải, trước mắt chàng bỗng hiện ra một vùng đất xanh bát ngát, những đám ruộng nối tiếp nhau trồng rau muống. “Không Tâm Thái! Không Tâm Thái!” Bên tai chàng chợt vang lên tiếng gọi trong trẻo và vui nhộn của ngày xưa. Không tâm thái (rau muống) vốn là thứ rau phổ thông nhất ở vùng Tương Tây này, dễ trồng chóng lớn, thân rau to và rỗng ruột. Thích Phương đặt cho chàng ngoại hiệu đó có ý cười nhạo chàng chẳng có chút tâm cơ. Từ ngày rời quê nhà lên Giang Lăng, lưu lạc đến bây giờ chàng mới lại nhìn thấy rau muống. Chàng đứng ngẩn ngơ một lúc lâu rồi cúi xuống ngắt một cọng rau, đưa lên mũi ngửi ngửi cái mùi rau quen thuộc ấy, sau đó mới đi thẳng về hướng Tây. Phía này toàn là hoang sơn, ngổn ngang đá lớn đá nhỏ, đất đai cằn cỗi đến nỗi các loài cây hoang dại cũng khó lòng mà sống được. Trong núi có một sơn động mà người trong làng không một ai biết, đó chính là chỗ mà ngày xưa chàng và Thích Phương thường hay tới để chơi đùa. Chàng bồi hồi nhớ lại chuyện xưa, quyết định đi đến sơn động ấy. Vượt qua hai con dốc, xuyên qua một thạch động, đi vào một vùng cực kỳ hoang lương cuối cùng mới tới được sơn động ấy. Chỉ thấy cỏ dại mọc đầy, che lấp cả cửa động. Chàng lại cảm thấy nỗi buồn trào dâng trong tâm khảm. Khom người chui vào trong động, mọi thứ bên trong đều y như cũ, chỉ có khác là tất cả đều phủ đầy bụi đất. Kia là hình nhân bằng đất sét do Thích Phương đắp, dưới đất là những hòn đá nhỏ mà chàng nhặt vào để làm đạn bắn chim, kia nữa là mấy cái bẫy dùng để bẫy thỏ, cả ống tiêu ngắn mà Thích Phương thường thổi lúc thả trâu cũng còn nằm nguyên trên tảng đá lớn giữa động. Trên đó còn có chiếc làn đựng kim chỉ của Thích Phương, chiếc kéo trong làn đã sét vàng. Ngày trước, vào những lúc nông nhàn, hai người thường vào đây, chàng thì đan giày cỏ còn nàng thì ngồi ngay bên cạnh may giày vải. Nàng lấy vải vụn rồi khéo léo may từng mũi từng mũi, kết chúng lại thành đế giày. Giày của chàng và sư phụ bao giờ cũng là màu xanh, còn giày của nàng thì bên trên đôi khi có thêu hoa hoặc hình chim hình bướm. Giày vải chỉ được mang vào các dịp lễ tết, còn ngày thường thì mang giày cỏ, lúc ra đồng xuống ruộng thì ai cũng như ai, tất cả đều đi chân đất. Địch Vân cúi xuống cầm lấy quyển sách cũ trong giỏ kim chỉ, ngoài bìa sách có đề mấy chữ “Đường Thi tuyển tập”. Chàng và Thích Phương đều không được đi học, chữa nghĩa cũng chỉ biết chút ít, chẳng ai có hứng thú mà ngâm vịnh Đường thị Có điều quyển sách này Thích Phương dùng để ép các mẫu thêu của mình. Chàng lật lật quyển sách lấy ra hai mẫu giấy, đó là mẫu hình một đôi bướm mà Thích Phương cắt sân để làm mẫu thêu. Cầm hai mẫu hình trên tay, kỷ niệm xưa chợt ùa về trong tâm trí. Một đôi bướm lớn bay lạc vào trong động, cánh bướm màu vàng chen lẫn màu đen chập chờn thoắt Đông thoắt Tây, nhưng dù bay đi đâu chúng cũng không rời nhau nửa bước. Thích Phương vỗ tay reo lên : - Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài! Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài! Loại bướm này bao giờ cũng bay thành từng đôi, một trống một mái. Địch Vân đang ngồi đan giày cỏ, thấy đôi bướm bay đến gần, chàng tinh nghịch dùng chiếc giày đập chết một con. Thích Phương thấy vậy thì nổi trận lôi đình, hét lớn : - Ngươi... ngươi làm gì vậy? Địch Vân thấy nàng nổi giận thì ấp úng nói : - Muội... muội thích bướm thì... để ta đi bắt con khác cho... Thích Phương vẫn chưa hết giận, nói : - Ngươi coi đi! Người ta có đôi có bạn, đang sống yên lành như vậy, khi không lại bị ngươi chen ngang phá hoại! Có phải là nghiệp chướng không? Địch Vân giờ mới biết vì sao mà nàng nổi giận, đỏ mặt nói : - Sư muội, ta... ta thật có lỗi với chúng... Sau đó Thích Phương theo hình dáng của con bướm cắt thành hai mẫu thêu, thêu lên đôi giày vải của nàng. Đến mùa xuân thì nàng lại may cho chàng một chiếc túi thơm, cũng thêu hình đôi bướm. Trên đôi cánh rộng của chúng màu vàng xen kẽ những vệt đen, gần sát trong thân lại có điểm xuyết vài đốm màu đỏ và màu lục. Chiếc túi thơm ấy chàng luôn mang trong người, đến khi bị bắt vào huyện Giang Lăng thì bị bọn ngục tốt lấy mất. Địch Vân cầm hai mẫu thêu, bên tai vẫn còn nghe văng vẳng tiếng Thích Phương : “Ngươi coi đi! Người ta có đôi có bạn, đang sống yên lành như vậy, khi không lại bị ngươi chen ngang phá hoại! Có phải là nghiệp chướng không?” Địch Vân ngơ ngẩn một lúc lâu rồi kẹp hai mẫu hình bướm trở vào trong sách, bên trong còn rất nhiều mẫu thêu khác, có cái là một cành hoa, có cái là một con cá, có cái là ba con sơn dương đang gặm cỏ. Mấy cái này là hình thêu lên khăn bàn nhân dịp năm mới. Tất cả đều do chính tay Thích Phương cắt lấy. Địch Vân cầm từng mẫu hình lên xem, mỗi cái gắn liền với một kỷ niệm, kỷ niệm về những ngày ba người sống quay quần trong gian nhà nhỏ, nghèo khó, cực nhọc nhưng luôn đầy ắp tiếng cười. Xảy nghe cách đó mấy chục trượng có tiếng đá va chạm nhau lạch cạch, chứng tỏ có người đang đi tới. Địch Vân nhíu mày nghĩ thầm : “Chỗ này xưa nay không có ai đặt chân tới, hay là tiếng động của thú hoang?” Chàng kẹp vội mấy hình thêu vào trong sách rồi nhét quyển sách vào ngực áo, tiếp đó lại nghe có tiếng người, nói : - Chỗ này trông hoang lương lắm, chắc không có ở đây đâu! Giọng của một lão nhân cười nhẹ, đáp lời : - Chỗ càng hoang lương thì càng có người đến để cất giấu báu vật! Chúng ta cần phải lục tìm cho kỹ mới được! Địch Vân nhíu mày, lại có người mò tới đây để tìm báu vật sao? Chàng chui nhanh ra khỏi động, tìm một nơi kín đáo ẩn thân. Chẳng bao lâu sau quả nhiên có người đi về phía này, nghe tiếng bước chân thì có đâu khoảng bảy tám người. Địch Vân hé mắt nhìn ra, đi đầu là một hán tử cao gầy, ăn mặc hoa lệ, phía sau lại có mấy người nữa tay cầm cuốc xẻng đi tới. Nhìn thấy tên hán tử đi đầu, Địch Vân bỗng cảm thấy mặt nóng bừng, nộ hỏa bốc cao ngùn ngụt, chỉ muốn xông ra bóp chết hắn mới hả dạ. Thì ra đó chính là Vạn Khuê, kẻ đã cướp sư muội chàng, tống chàng vào ngục, bắt chàng phải chịu ngàn vạn khổ ải. Tại sao hắn bỗng dưng xuất hiện ở chỗ này? Người đi tiếp sau lưng Vạn Khuê thân hình nhỏ thó, nét mặt trông rất tinh ranh, chính là Thẩm Thành. Tiếp sau nữa cũng đều là các đồ đệ của Vạn Chấn Sơn : Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Thản, Ngô Khảm và Phùng Thản. Vạn Chấn Sơn có tám tên đệ tử, nhị đệ tử Chu Kỳ đã bị Địch Vân giết chết ở Kinh Châu thành, còn lại bảy người đều xuất hiện ở đây. Địch Vân cảm thấy quái lạ nghĩ thầm : “Bọn chúng tìm báu vật gì ở đây? Chẳng lẽ cũng là chiếc Tụ bảo bồn ấy?” Xảy nghe Thẩm Thành kêu lên : - Sư phụ! Sư phụ! ở đây có một sơn động! Giọng nói của lão nhân khi nãy vang lên : - Vậy sao? Giọng lão nghe rõ ý mừng rỡ. Tiếp đó là một lão nhân cao lớn bước nhanh qua, chính là Ngũ Vân Thủ Vạn Chấn Sơn. Đã mấy năm rồi Địch Vân chưa gặp lại lão, trông lão còn rất tinh nhanh, bước chân vững chãi chưa hề thấy dấu hiệu lão suy.
__________________
|
| Ðiều Chỉnh | |
| Xếp Bài | |
|
|